Khóa luận Những quy định cơ bản về quy chế pháp lý của ngân hàng liên doanh với nước ngoài tại Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG I 4 NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG VÀ NGÂN HÀNG LIÊN DOANH 4 1. Lịch sử ra đời, phát triển của ngân hàng 4 2. Quá trình ra đời và phát triển của ngân hàng liên doanh 5 2.1. Sự cần thiết của việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng và sự ra đời của ngân hàng liên doanh 5 2.2. Sơ lược về ngân hàng liên doanh ở một số nước 9 3. Sự hình thành của ngân hàng liên doanh và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường tại Việt Nam 10 3.1. Sự hình thành ngân hàng liên doanh ở Việt Nam 10 3.2. Vai trò của ngân hàng liên doanh tại Việt Nam 13 CHƯƠNG II 15 QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA NGÂN HÀNG LIÊN DOANH Ở VIỆT NAM 15 1. Khái niệm về ngân hàng liên doanh 15 1.1. Khái niệm ngân hàng liên doanh 15 1.2. Tính chất pháp lý đặc thù của ngân hàng liên doanh tại Việt Nam 18 1.3. Phân biệt ngân hàng liên doanh với một số loại hình doanh nghiệp khác 18 1.3.1. Ngân hàng liên doanh trong mối tương quan với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khác 18 1.3.2. Sự khác nhau giữa ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài 19 2. Một số nội dung cơ bản về quy chế pháp lý của ngân hàng liên doanh ở Việt Nam 20 2.1. Quy chế pháp lý về thành lập, quản trị điều hành, kiểm soát ngân hàng liên doanh 20 2.1.1. Trình tự, thủ tục thành lập 20 2.1.2. Cơ chế quản trị, điều hành ngân hàng liên doanh 24 2.1.3. Quy chế pháp lý kiểm soát đặc biệt, phá sản ngân hàng liên doanh 27 2.2. Quy chế pháp lý về hoạt động kinh doanh của Ngân hàng liên doanh 29 2.2.1. Hoạt động huy động vốn 29 2.2.2. Hoạt động cấp tín dụng 34 2.2.3. Hoạt động thanh toán qua ngân hàng và ngân quỹ 42 2.2.4 .Hoạt động tài chính khác 46 CHƯƠNG III 48 THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG LIÊN DOANH 48 Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN 48 PHÁP LUẬT VỀ NGÂN HÀNG LIÊN DOANH 48 1. Thực tiễn hoạt động của ngân hàng liên doanh ở Việt Nam 48 2. Kinh nghiệm hoạt động của ngân hàng liên doanh tại một số nước 51 3. Sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về ngân hàng liên doanh ở Việt Nam 53 4. Một số kiến nghị 57 4.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các luật liên quan đến hoạt động của ngân hàng liên doanh 57 4.1.1. Sửa đổi, bổ sung Luật các TCTD 58 4.1.2. Sửa đổi, bổ sung Luật đầu tư năm 2005 59 4.1.3. Sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự năm 2005 60 4.2. Hoàn thiện quy chế của pháp luật về hoạt động kinh doanh của ngân hàng liên doanh 62 4.2.1 Hoạt động huy động vốn 62 4.2.2. Hoạt động cấp tín dụng 63 4.2.3. Hoạt động thanh toán 63 4.2.4. Hoạt động kinh doanh ngoại hối 64 4.3. Các biện pháp hỗ trợ 64 4.4. Cụ thể hoá các quy chế hoạt động của ngân hàng liên doanh theo hướng phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế; trước hết là phù hợp với hiệp định BTA, các cam kết của Việt Nam trong WTO 65 KẾT LUẬN 69 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 70

doc74 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1650 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Những quy định cơ bản về quy chế pháp lý của ngân hàng liên doanh với nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hàng. Tài khoản là công cụ để ghi chép, phản ánh vốn tiền tệ của chủ tài khoản. Thông qua tài khoản ngân hàng, ngân hàng liên doanh cung cấp cho khách hàng một loạt các dịch vụ, tạo ra khả năng to lớn để khách hàng thực hiện các nghiệp vụ có giá trị to lớn, cùng một địa phương một cách nhanh chóng, chính xác, đảm bảo an toàn. Do vậy, qua tài khoản ngân hàng khách hàng không phải tự mình tiến hành các hoạt động nghiệp vụ chi trả của mình. Đồng thời, tài khoản cũng là một công cụ kỳ diệu thực hiện cơ chế tạo tiền cho ngân hàng, làm tăng sức mạnh ngân hàng lên gấp nhiều lần. Đứng về phía ngân hàng liên doanh, mở một tài khoản mới có nghĩa là có những giao dịch mới đối với khách hàng mới. Tài khoản được sử dụng trong thanh toán gọi là tài khoản thanh toán. Tài khoản thanh toán là tài khoản do người sử dụng dịch vụ thanh toán mở tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán để thực hiện giao dịch thanh toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Hiện nay, những quy định của pháp luật về quy chế thanh toán tài khoản được quy định chi tiết tại Nghị định 64/2001/NĐ-CP ngày 20/9/2001 đã nới lỏng những điều kiện, thủ tục nguyên tắc mở và sử dụng tài khoản, các loại tài khoản, tổ chức tài khoản theo hướng mở và trao quyền chủ động cho các ngân hàng cung ứng dịch vụ thanh toán với phương châm thu hút ngày càng nhiều người sử dụng dịch vụ thanh toán. Nhìn chung, hoạt động thanh toán qua ngân hàng và ngân quỹ với những quy chế pháp lý cụ thể quy định tại Nghị định 64 đã thực sự tạo ra được cơ sở pháp lý mới trong hoạt động thanh toán của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. 2.2.4 .Hoạt động tài chính khác Ngoài các nghiệp vụ ngân hàng trên, ngân hàng liên doanh còn thực hiện các hoạt động tài chính khác như hoạt động kinh doanh ngoại hối, thực hiện các dịch vụ tư vấn tài chính và tiền tệ… Theo cách hiểu chung nhất, ngoại hối được hiểu là danh từ dùng để chỉ các phương tiện dùng trong thanh toán quốc tế như ngoại tệ, vàng tiêu chuẩn quốc tế và các giấy tờ có giá ghi bằng ngoại tệ. Theo Pháp lệnh ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH11 ngày 13/12/2005 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội 11, ngoại hối bao gồm: - Đồng tiền của quốc gia khác hoặc Đồng tiền chung Châu Âu và đồng tiền chung khác được sử dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực (sau đây gọi là ngoại tệ); - Phương tiện thanh toán bằng ngoại tệ gồm séc, thẻ thanh toán, hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và các phương tiện thanh toán khác; - Các loại giấy tờ có giá bằng ngoại tệ gồm trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác; - Vàng thuộc dự trữ ngoại hối Nhà nước, trên tài khoản ở nước ngoài của người cư trú, vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng trong trường hợp mang vào và mang ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. - Đồng tiền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được sử dụng trong thanh toán quốc tế. Hoạt động ngoại hối là hoạt động của người cư trú, người không cư trú trong giao dịch vãng lai, giao dịch vốn, sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam, hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối và các giao dịch khác liên quan đến ngoại hối (Điều 4 Khoản 1, 8 Pháp lệnh). Pháp luật điều chỉnh hoạt động ngoại hối là điều chỉnh các hoạt động giao dịch như giao dịch vãng lai, giao dịch vốn, giao dịch cung ứng dịch vụ ngoại hối; giao dịch vay, cho vay ngoại hối; giao dịch mua bán ngoại hối. Đây là những giao dịch phổ biến, trong hoạt động ngoại hối còn bao gồm cả các giao dịch khác về ngoại hối như giao dịch về gửi tiền tiết kiệm bằng ngoại tệ; giao dịch mua bán các chứng khoán ngoại tệ…Do mỗi loại giao dịch có những điểm đặc thù riêng nên việc điều chỉnh pháp luật đối với mỗi giao dịch là khác nhau. Ngoài ra, với lợi thế am hiểu về các nghiệp vụ tài chính, kỹ năng quản trị hiện đại, có số vốn lớn nên các ngân hàng trong đó có ngân hàng liên doanh còn thực hiện hoạt động tư vấn tài chính và tiền tệ. Những phân tích trên đây về thành lập, tổ chức và hoạt động của ngân hàng liên doanh sẽ cho phép xây dựng một khung pháp luật về hoạt động của ngân hàng liên doanh phù hợp với kinh tế thị trường và việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng liên doanh là một đòi hỏi khách quan, tất yếu để phát triển ổn định và bền vững hệ thống ngân hàng Việt Nam. CHƯƠNG III THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG LIÊN DOANH Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ NGÂN HÀNG LIÊN DOANH 1. Thực tiễn hoạt động của ngân hàng liên doanh ở Việt Nam Ngân hàng liên doanh được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở liên doanh giữa một bên là ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam và một bên là ngân hàng nước ngoài. Như vậy, trong ngân hàng liên doanh có sự gắn bó chặt chẽ giữa bên Việt Nam và bên nước ngoài về các nội dung kinh tế như vốn, cùng quản trị điều hành, cùng phân chia lợi nhuận, cùng chịu rủi ro… Đặc điểm này cho thấy, ngân hàng liên doanh có khá nhiều ưu thế so với chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và ngân hàng thương mại trong nước. Do sự có mặt của bên ngân hàng Việt Nam trong liên doanh nên ngân hàng liên doanh có những lợi thế hơn chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam về việc tìm hiểu thị trường và khách hàng Việt Nam. Mặt khác, do có sự tham gia của bên nước ngoài trong liên doanh nên ngân hàng liên doanh cũng có ưu thế hơn các ngân hàng thương mại trong nước trong việc tìm kiếm đối tác kinh doanh ở nước ngoài đồng thời ngân hàng liên doanh được tiếp cận với công nghệ ngân hàng tiên tiến của bên ngân hàng nước ngoài. Từ những ưu thế như trên nên ngay từ khi mới được thành lập và đi vào hoạt động ngân hàng liên doanh đã thu được những kết quả rất quan trọng. Quay trở lại những năm đầu mới được cho phép thành lập ngân hàng liên doanh tại Việt Nam, đến năm 1993 có 3 ngân hàng liên doanh với nước ngoài được thành lập và đi vào hoạt động tại Việt Nam là ngân hàng liên doanh INDOVINA (IVB), ngân hàng liên doanh VIDPUBLIC (VPB), ngân hàng liên doanh FIRSTVINA (FVB) (nay là ngân hàng liên doanh SHINHANVINA). Ngay từ những ngày đầu mới thành lập, trong 6 tháng đầu năm 1994, với sự nỗ lực hoạt động của mình, ba ngân hàng liên doanh trên đã thu được một số kết quả kinh doanh nhất định. Trong hoạt động huy động vốn, các ngân hàng liên doanh đã huy động được một số lượng tiền gửi đáng kể, tính đến 30 tháng 6 năm 1994 tổng số dư vốn huy động từ khách hàng của 3 ngân hàng liên doanh lên tới 81,9 triệu USD, tăng 148 % so với 31 tháng 3 năm 1994 là 55 triệu USD, tăng 220 % so với 31 tháng 12 năm 1993 là 36,9 triệu USD, tăng 564% so với 31 tháng 12 năm 1992 là 14,5 triệu USD. Các ngân hàng liên doanh còn thực hiện nghiệp vụ xúc tiến việc đi vay vốn của các ngân hàng nước ngoài để cho vay lại (ví dụ như ngân hàng FVB trong tháng 11 năm 1993 đã vay được 40 triệu USD từ ngân hàng KOREA FISTBANK để cho vay lại các ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam trong việc thiết lập cân đối vốn năm 1993 có lợi cho hoạt động năm 1994 của ngân hàng FVB). Cùng với các hoạt động về huy động vốn, các ngân hàng liên doanh tích cực xúc tiến các hoạt động cấp tín dụng ( hoạt động cho vay). Kết quả là : dư nợ tới 30 tháng 6 năm 1994 là 54,4 triệu USD tăng 152% so với 31 tháng 12 năm 1993 là 33,5 triệu USD và tăng 725% so với 31 tháng 12 năm 1992 là 7,1 triệu USD. Từ năm 1991 đến 1993, các ngân hàng liên doanh hoạt động tại Việt Nam, so với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, hoạt động tín dụng của các ngân hàng liên doanh rõ ràng được triển khai nhanh hơn và mức độ khá ổn định, trong khi tỷ lệ vốn vay trên tổng nguồn vốn của các ngân hàng cổ phần Việt Nam hầu như không thay đổi, còn với các chi nhánh ngân hàng tăng rất chậm thì tỷ lệ này tăng mạnh đối với các ngân hàng liên doanh. Về lợi nhuận, trong 6 tháng đầu 1994, các ngân hàng liên doanh đã thu được một số lãi đáng kể. Nguồn: Bảng cân đối tài khoản hàng thánh của các ngân hàng liên doanh báo cáo Ngân hàng Nhà nước từ tháng 3 đến tháng 6 (năm 1994). 30/6/1994 % so với cùng kỳ VPB 3,4 Tỷ ĐVN 568% IVB 3,1 155% FVB 3,3 1650% Từ những bước đầu như vậy, đến cuối năm 2006 ngân hàng liên doanh Việt - Nga được thành lập tăng số lượng ngân hàng liên doanh ở Việt Nam lên 5 ngân hàng liên doanh với 15 chi nhánh tại các vùng kinh tế trọng điểm như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Bình Dương, Đồng Nai… Ngân hàng liên doanh đạt mức tăng trưởng trong năm 2005 rất cao với tốc độ huy động vốn tăng 30%. Lợi nhuận trước thuế tăng khoảng 15% so với năm 2004. Tổng tài sản cũng đã tăng 30% so với năm trước. Tính đến 31/10/2006, tổng dư nợ cho vay của các ngân hàng liên doanh đạt gần 8000 tỷ đồng, chiếm 2% thị phần chủ yếu là tín dụng trung và dài hạn với trên 50% dư nợ; nợ quá hạn chỉ chiếm 1,03% vốn huy động đạt trên 11000 tỷ đồng, tăng 10% so cùng kỳ năm trước và chiếm 1,0% thị phần. Cũng tính đến hết năm 2006, tổng dư nợ cho vay và đầu tư vào nền kinh tế Việt Nam của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty cho thuê tài chính có vốn nước ngoài lên tới khoảng 60 000 tỷ đồng, tương đương gần 4,0 tỷ USD, tăng trên 20% so với năm 2005 (Nguồn: Ngân hàng Nhà nước). Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả kinh doanh đã đạt được, hoạt động của ngân hàng liên doanh tại Việt Nam còn gặp rất nhiều thách thức về hệ thống pháp luật, chính sách, chế độ quản lý trong nước còn thiếu đồng bộ, chưa hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế. Hạ tầng công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin phục vụ thị trường dịch vụ tài chính còn lạc hậu, trình độ quản lý kinh tế, tài chính của đội ngũ cán bộ Việt Nam còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu cả về khả năng chuyên môn, luật pháp quốc tế và trình độ ngoại ngữ. Tóm lại, việc các ngân hàng nước ngoài mở rộng hoạt động tại Việt Nam với tốc độ tăng số vốn đầu tư lớn nhất từ trước đến nay, trong đó có việc thành lập các ngân hàng liên doanh mới (ví dụ ngân hàng liên doanh Việt - Nga) đã trở thành một trong những sự kiện nổi bật về tiền tệ - hoạt động ngân hàng năm 2006 (Theo Thời báo kinh tế Việt Nam - Số Xuân 2007). Các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy thị trường dịch vụ ngân hàng phát triển, đưa công nghệ ngân hàng mới vào Việt Nam và bảo đảm sự an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng, đồng thời hỗ trợ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. 2. Kinh nghiệm hoạt động của ngân hàng liên doanh tại một số nước Tại Inđônêxia, vào giai đoạn đầu những năm 1953, Chính phủ Inđônêxia đã thi hành nhiều chính sách khuyến khích loại hình ngân hàng liên doanh được thành lập như không quy định vốn điều lệ tối thiểu, cho phép ngân hàng nước ngoài được liên doanh với mọi loại hình ngân hàng tại Inđônêxia, ngân hàng liên doanh được chuyển 100% lợi nhuận thu được ra nước ngoài mà không phải chịu thuế…Mặc dù khuyến khích việc thành lập các ngân hàng liên doanh song Chính phủ Inđônêxia cũng có chính sách quản lý các ngân hàng liên doanh khá chặt chẽ không quy định mức vốn tối thiểu nhưng Chính phủ Inđônêxia hướng các ngân hàng liên doanh phải có mức vốn điều lệ đủ để bù đắp rủi ro; chỉ cho phép liên doanh với các ngân hàng lớn, tầm cỡ trên thế giới. Để đảm bảo việc quản lý tốt các ngân hàng liên doanh, Chính phủ Inđônêxia chỉ cho phép các ngân hàng liên doanh được thành lập tại Jakata nhằm tăng cường trong việc đáp ứng các dịch vụ ngân hàng tại các trung tâm kinh tế thương mại; chủ yếu hướng các ngân hàng liên doanh vào các hoạt động đối ngoại, tăng cường các dịch vụ thanh toán xuất nhập khẩu, chuyển tiền và đặc biệt là khuyến khích cao dộ việc thu hút vốn từ nước ngoài để đầu tư vào Inđônêxia. Cùng với Inđônêxia, Trung Quốc là nước khá thành công trong việc quản lý và sử dụng các ngân hàng liên doanh vào phát triển kinh tế. Vào thời kỳ đầu, Trung Quốc chỉ cho phép các ngân hàng liên doanh được thành lập tại các khu kinh tế hoặc các tỉnh, thành phố vùng duyên hải với mục đích giúp cho các đặc khu kinh tế và các trung tâm kinh tế lớn có điều kiện thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài cũng như tăng cường các dịch vụ ngân hàng tiên tiến. Chính phủ Trung Quốc quy định mức vốn điều lệ cho các ngân hàng liên doanh khá cao (30 triệu USD) nên ngay sau khi được thành lập các ngân hàng này đều là các ngân hàng có tiềm lực dồi dào, có khả năng tài chính tốt. Các ngân hàng liên doanh tại Trung Quốc được tham gia hoạt động trên các thị trường liên ngân hàng, thị trường hối đoái, được tham gia các hoạt động chiết khấu và tái chiết khấu với Ngân hàng Trung ương Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng có nhiều quy định chi tiết và chặt chẽ đối với các ngân hàng liên doanh như các ngân hàng liên doanh phải ký quỹ dự trữ bắt buộc với một tỷ lệ nhất định trên vốn huy động của mình; không được huy động vốn trong nước vượt quá 40% tổng số vốn huy động… Tóm lại, kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật đối với các ngân hàng liên doanh ở một số nước như Inđônêxia, Trung Quốc có một số vấn đề chủ yếu như: Cả hai nước Inđônêxia và Trung Quốc đều thấy rõ những hạn chế của ngân hàng liên doanh nên đã có một số giải pháp cơ bản giống nhau. Để giảm đi sự phức tạp trong các ngân hàng liên doanh và nhằm tạo ra những kênh an toàn trong việc thu hút vốn từ nước ngoài, hầu hết các ngân hàng liên doanh tại Inđônêxia và Trung Quốc đều là ngân hàng liên doanh giữa hai bên: một bên là các ngân hàng thương mại trong nước có tiềm lực kinh tế với một bên là các ngân hàng thương mại có tầm cỡ trên thế giới. Inđônêxia và Trung Quốc hướng hoạt động của các ngân hàng liên doanh vào các lĩnh vực mà nền kinh tế quốc dân đang cần, trong khi các ngân hàng thương mại trong nước chưa đủ sức thực hiện đặc biệt là các hoạt động mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho nền kinh tế như hoạt động bằng ngoại tệ… Tuy nhiên, chủ trương cho phép thành lập các ngân hàng liên doanh, biện pháp quản lý và sự điều chỉnh các quy định trong quá trình quản lý ở hai nước khác nhau: Inđônêxia với mục tiêu phát triển kinh tế nhanh, chiến lược phát triển kinh tế mở cửa hướng ngoại ngay sau khi giành độc lập nên đã khuyến khích tối đa sự có mặt của các ngân hàng liên doanh. Vào giai đoạn sau, khi các ngân hàng thương mại trong nước dần phát triển đáp ứng được các nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế thì nước này thu hẹp dần sự có mặt và hoạt động của các ngân hàng liên doanh. Khác với Inđônêxia, Trung Quốc luôn đề cao vai trò ngân hàng thương mại nội địa nên việc cho phép thành lập và quản lý chúng có nhiều vấn đề chặt chẽ hơn Inđônêxia. Trung Quốc mở dần mạng lưới hoạt động của các ngân hàng liên doanh tương ứng với sự lớn mạnh của các ngân hàng thương mại trong nước nên nền kinh tế không bị xáo trộn, các luồng vốn đầu tư được hấp thụ dần dần. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và dịch vụ Internet đã dẫn đến sự gia tăng các hoạt động tài chính tiền tệ quốc tế đồng thời định ra xu hướng phát triển thị trường tài chính tiền tệ quốc tế nói chung và các ngân hàng trên thế giới nói riêng. Trong đó đặc điểm nổi bật nhất của xu hướng phát triển này là hiện tượng sáp nhập, hợp nhất, mua bán các ngân hàng ngày càng tăng lên nhằm mục tiêu làm cho các hoạt động ngân hàng có hiệu quả hơn, tăng khả năng tài chính và cạnh tranh giữa các ngân hàng. Trước xu thế đó thì sự liên doanh giữa các ngân hàng là một xu thế tất yếu, phù hợp với xu thế phát triển chung của hệ thống ngân hàng. Xu hướng này tác động mạnh mẽ đến định hướng xây dựng và phát triển hệ thống ngân hàng ở Việt Nam. Theo Đề án phát triển ngành ngân hàng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Việt Nam sẽ xây dựng và phát triển mô hình ngân hàng thương mại đa năng; tăng cường năng lực thể chế của ngân hàng thương mại cụ thể là mở rộng quan hệ đại lý, hợp tác kinh doanh, phát triển sản phẩm, ứng dụng và chuyển giao công nghệ với các tổ chức tài chính nước ngoài. Xúc tiến hiện diện thương mại (chi nhánh, liên doanh, văn phòng đại diện và hình thức pháp nhân khác) của các ngân hàng thương mại Việt Nam tại các thị trường tài chính khu vực và quốc tế. Việc tham khảo, học hỏi các kinh nghiệm của Inđônêxia và Trung Quốc trong việc điều chỉnh pháp luật đối với ngân hàng liên doanh và những tác động của xu thế phát triển của ngân hàng liên doanh trên thế giới tạo ra cơ sở cho Việt Nam xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi cho các ngân hàng liên doanh hoạt động an toàn và hiệu quả. 3. Sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về ngân hàng liên doanh ở Việt Nam Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin: Thế giới khách quan là tổng hoà của các mối quan hệ xã hội. Nhận thức thế giới khách quan là một quá trình tiếp cận các quy luật đi từ hiện tượng đến bản chất, “cái bị phản ánh” quyết định “cái phản ánh”. Nhà lập pháp không phải là người tự mình làm ra luật, họ chỉ nêu ra các quy luật khách quan của đời sống xã hội khái quát hoá thành pháp luật. Các quan hệ này tồn tại khách quan và luôn luôn có sự vận động và chuyển dịch theo sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật theo sự chuyển dịch của các quan hệ xã hội là một quá trình liên tục, là một hiện tượng tất yếu. Mặt khác, Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các TCTD và các văn bản, nghị định hướng dẫn điều chỉnh hoạt động của ngân hàng liên doanh như Nghị định 13; Nghị định 22…đã được ban hành và đi vào áp dụng thực tiễn ở Việt Nam. Sau hơn 16 năm triển khai quy định về ngân hàng liên doanh, những cơ sở pháp lý này đã thực hiện được một số thành tựu cơ bản như: Thứ nhất, pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng liên doanh đã dần thể chế hoá quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta về đổi mới hoạt động ngân hàng trong thời kỳ hội nhập. Xuất phát từ định hướng của Đảng và Nhà nước về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần trong đó có hoạt động ngân hàng, pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng liên doanh đã thể hiện quan điểm chủ đạo của Nhà nước ta là từng bước đa dạng hoá các loại hình tổ chức tín dụng, từng bước đa dạng hoá các hình thức sở hữu, hội nhập kinh tế - quốc tế. Thứ hai, pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng liên doanh đã góp phần hình thành và phát triển thị trường tiền tệ, thúc đẩy hình thành thị trường vốn. Thị trường tiền tệ là một loại hình của thị trường tài chính, phản ánh sự tiếp xúc giữa cung và cầu để hình thành nên các giao dịch và giá cả, là nơi mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn. Thị trường vốn là một loại hình của thị trường tài chính, thông qua đó các hoạt động trao đổi, mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính diễn ra một cách thuận lợi. Ngân hàng liên doanh với những hoạt động của mình đã huy động được một khối lượng vốn đáng kể cả trong nước và quốc tế, thúc đẩy đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh - góp phần cung ứng vốn cho nền kinh tế. Thứ ba, pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng liên doanh đã tạo nền tảng pháp lý thuận lợi cho việc mở rộng, hợp tác và phát triển hoạt động của ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế hiện nay. Các quy định của pháp luật ngân hàng về quy chế pháp lý của ngân hàng liên doanh, những ưu đãi đầu tư đối với hoạt động ngân hàng, hoạt động liên doanh…đã góp phần tạo niềm tin, thu hút sự đầu tư của các nhà đầu tư trong nước và quốc tế. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm khuyến khích và thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam . Bên cạnh những thành tựu nói trên, pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng liên doanh ở Việt Nam vẫn còn những mặt hạn chế cần bổ sung, hoàn thiện. Thứ nhất, pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng liên doanh vẫn còn thiếu tính hệ thống, quy định ở nhiều luật, văn bản khác nhau nên nhiều chỗ còn chồng chéo, mâu thuẫn không đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng. Việc quy định lãi suất cho vay tại ngân hàng liên doanh là một vấn đề nổi cộm thông qua Bộ luật Dân sự năm 2005. Nếu như Ngân hàng Nhà nước thay đổi chính sách lãi xuất từ việc có khống chế mức lãi suất cho vay tối đa sang tự do hoá lãi suất thì Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định lãi suất cho vay cho các tổ chức tín dụng là không hợp lý. Thứ hai, một số nội dung hoạt động của ngân hàng liên doanh chưa được quy định cụ thể, rõ ràng, chưa phù hợp với các cam kết hội nhập, thông lệ quốc tế. Trong dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, mặc dù khả năng thanh toán đã được mở rộng so với trước đây nhưng vẫn có nhiều hạn chế khác. Các quy định về séc du lịch, hối phiếu ngân hàng hoặc tiêu chuẩn an toàn trong thanh toán điện tử chưa được rõ. Các công cụ chuyển nhượng cũng có tình hình tương tự. Gần đây, Quốc hội đã nỗ lực để thông qua Luật các công cụ chuyển nhượng ngày 29/11/2005, trong đó đưa ra một số hình thức hối phiếu và séc nhưng chưa có văn bản hướng dẫn. Từ những nhìn nhận thực tế trên đây về ưu và hạn chế của pháp luật điều chỉnh hoạt động ngân hàng liên doanh đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về ngân hàng liên doanh, đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng. Hơn nữa, hoạt động ngân hàng là hoạt động rủi ro cao trong khi đó ngân hàng liên doanh là một hình thức mới còn non trẻ thì việc tạo ra hành lang pháp lý vững chắc, ổn định cho loại hình này là điều hết sức cần thiết. Ngoài ra, hội nhập quốc tế về ngân hàng đang là xu thế khách quan do quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và sự phát triển của hoạt động ngân hàng. Qúa trình này mang lại nhiều cơ hội và thách thức cho hoạt động ngân hàng. Để chủ động trong quá trình hội nhập, ngành ngân hàng Việt Nam cần nhận thức đầy đủ những lợi thế có thể phát huy và những khó khăn thách thức phải vượt qua. Hội nhập quốc tế sẽ thúc đẩy cải cách thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý tài chính, loại bỏ các hình thức bảo hộ, bao cấp vốn, tài chính đối với các ngân hàng thương mại trong nước, hạn chế tình trạng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ. Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng và nới lỏng hạn chế đối với các tổ chức tài chính nước ngoài là điều kiện để thu hút đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực tài chính - ngân hàng, các ngân hàng thương mại trong nước có điều kiện để tiếp cận sự hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn, đào tạo thông qua các hình thức liên kết, liên doanh với các ngân hàng và tổ chức tài chính quốc tế. Bên cạnh những cơ hội đó, hội nhập quốc tế cũng đặt ra những khó khăn, thách thức đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam như việc mở cửa thị trường tài chính làm tăng số lượng các ngân hàng có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ…áp lực cạnh tranh cũng tăng dần theo lộ trình nới lỏng các quy định đối với các tổ chức tài chính nước ngoài, trong khi khả năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng trong nước còn kém. Do vậy muốn hội nhập quốc tế thành công cần phải xây dựng một môi trường pháp lý ngân hàng trong nước hấp dẫn với các cơ chế, chính sách nhất quán có quy định quyền sở hữu rõ ràng, công tác thanh tra giám sát an toàn với mức độ độc lập cao, chế độ báo cáo và kiểm toán minh bạch, tạo lập một sân chơi bình đẳng và hỗ trợ cho các hoạt động kinh doanh để tất cả các ngân hàng (trong nước và nước ngoài) phát triển. 4. Một số kiến nghị Quan điểm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng liên doanh ở Việt Nam Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X đã xác định: “Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung pháp luật hiện hành phù hợp với yêu cầu thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội và yêu cầu hội nhập kinh tế, quốc tế nhất là các Luật Thương mại, Luật phá sản doanh nghiệp, Bộ luật Dân sự, Luật các Tổ chức tín dụng, Luật ngân sách Nhà nước, Luật Đất đai…”[6, tr 329]. Nền kinh tế Việt Nam đang từng ngày, từng giờ đổi mới với nhịp độ tăng trưởng ổn định. Vì vậy, để đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển kinh tế, các quy định của pháp luật về tài chính - ngân hàng, cụ thể là Luật Ngân hàng Nhà nước mới và Luật các TCTD mới cần được điều chỉnh theo hướng hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn kinh doanh tiền tệ - dịch vụ ngân hàng; tạo lập môi trường pháp lý minh bạch và công bằng trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng nhằm thúc đẩy cạnh tranh và bảo đảm an toàn hệ thống, điều chỉnh mọi hoạt động tiền tệ, ngân hàng không phân biệt đối tượng tiến hành hoạt động ngân hàng . 4.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các luật liên quan đến hoạt động của ngân hàng liên doanh Hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam được xây dựng và thiết kế theo mô hình đa sở hữu (thông qua các ngân hàng thương mại Nhà nước, ngân hàng thương mại hợp tác, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng thương mại cổ phần của Nhà nước và của nhân dân). Do vậy cùng một lúc, ngân hàng liên doanh chịu sự điều chỉnh của Luật các TCTD, Luật Ngân hàng Nhà nước và các Luật tương ứng với hình thức sở hữu của loại hình ngân hàng này như Luật Doanh nghiệp, Luật đầu tư. Đặc trưng này đặt ra yêu cầu thống nhất hoá pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng liên doanh vừa là công việc trước mắt vừa là công việc thường xuyên lâu dài. 4.1.1. Sửa đổi, bổ sung Luật các TCTD - Thứ nhất, cần sửa đổi, bổ sung điều khoản mới, khắc phục mâu thuẫn trong quy định về tư cách pháp nhân của ngân hàng liên doanh trong các Luật. Điều 20 Khoản 4 Luật các TCTD quy định: Tổ chức tín dụng nước ngoài được thành lập theo pháp luật nước ngoài. Theo Điều 105 Khoản 1.a Luật các TCTD thì Tổ chức tín dụng liên doanh với nước ngoài là tổ chức tín dụng nước ngoài. Trong khi đó; Điều 7 khoản 5 nghị định 22/2006/NĐ-CP quy định: “ Ngân hàng liên doanh được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, là pháp nhân Việt Nam”. Quy định tại hai văn bản này sẽ dẫn đến sự chồng chéo, khó khăn trong việc áp dụng quy định về tư cách pháp nhân của ngân hàng liên doanh. Điều đó dẫn tới một hậu quả pháp lý là các quy định pháp luật về ngân hàng liên doanh mâu thuẫn nhau dẫn tới triệt tiêu nhau, làm giảm tính hiệu quả và tính hấp dẫn của pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong đó có ngân hàng liên doanh. Do vậy, Điều 20 khoản 4 Luật các Tổ chức tín dụng cần được sửa đổi cho phù hợp với Điều 7 khoản 5 khắc phục tình trạng mâu thuẫn trong các luật hiện nay. - Thứ hai, tăng vốn điều lệ đối với các ngân hàng liên doanh: Vốn tự có gồm giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ, một số tài sản “ Nợ” khác của tổ chức tín dụng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Như vậy, mặc dù chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số nguồn vốn hoạt động của ngân hàng nhưng vốn điều lệ có vai trò quan trọng, là căn cứ để tính toán các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng như : mức cho vay tối đa với một khách hàng, mức tối đa hùn vốn cổ phần liên doanh của ngân hàng với các đối tác khác. Nó là điều kiện quy định quy mô huy động vốn và quy mô tài sản có. Theo quy định tại Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 về ban hành danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng, Chính phủ quy định mức vốn điều lệ của ngân hàng liên doanh đến năm 2008 phải đạt là 1000 tỷ đồng tương đương với 63 triệu USD, đến năm 2010 tăng lên 3000 tỷ đồng. Mức vốn điều lệ mới nhằm nâng cao hoạt động của ngân hàng liên doanh, tăng sức cạnh tranh của ngân hàng trong điều kiện kinh tế mới nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO. Nếu các ngân hàng liên doanh đến ngày 31/12/2007 không đạt được số vốn điều lệ nêu trên có thể sẽ phải giải thể. Đến năm 2008, những hạn chế cam kết của Việt Nam tại lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong Hiệp định Thương Mại Việt - Mỹ và sự phân biệt đối xử sẽ bị loại bỏ căn bản, khi đó sự đầu tư của các công ty tài chính - ngân hàng của Mỹ và nhiều quốc gia khác sẽ mạnh mẽ hơn nữa, nếu không có sự điều chỉnh cần thiết tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng trong đó có ngân hàng liên doanh sẽ dẫn đến tình trạng các ngân hàng thương mại trong nước mất dần lợi thế cạnh tranh về quy mô, khách hàng và hệ thống kênh phân phối. Như vậy, số vốn điều lệ quy định này còn chưa đáp ứng được các yêu cầu chuẩn mực quốc tế, hạn chế đến khả năng huy động vốn và mở rộng tín dụng. Vì vậy, cần ban hành quy chế tăng vốn điều lệ đối với ngân hàng liên doanh. Vốn điều lệ của ngân hàng liên doanh hiện nay phải tăng lên nhiều nhằm tăng cường khả năng hoạt động, tăng cường các hoạt động vay vốn từ nước ngoài để đầu tư trong nước, tăng cường mức độ an toàn trong hoạt động, mở rộng phạm vi và địa bàn hoạt động. 4.1.2. Sửa đổi, bổ sung Luật đầu tư năm 2005 Luật đầu tư năm 2005 ra đời là sự hợp nhất của hai văn bản luật: Luật khuyến khích đầu tư trong nước và Luật đầu tư nước ngoài năm 2000. Việc hợp nhất hai văn bản đã đánh dấu từng bước hoàn thiện pháp luật với mục tiêu cạnh tranh công bằng, bình đẳng giữa các nhà đầu tư, không phân biệt giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, cần ban hành thêm một số văn bản dưới luật hướng dẫn thực hiện Luật đầu tư 2005 và bổ sung thêm một số điều khoản về nhà đầu tư nước ngoài. Thứ nhất, ban hành quy định cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được phép ban hành trái phiếu, cổ phiếu…Cụ thể, cần có thêm quy định về hình thức chuyển đổi doanh nghiệp (từ ngân hàng liên doanh với tư cách là công ty trách nhiệm hữu hạn sang ngân hàng thương mại cổ phần với tư cách là công ty cổ phần). Cải tiến thủ tục mua bán cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài đối với cổ phiếu ngân hàng. Thứ hai, sửa đổi quy định về cơ chế nhập cư và hành nghề lao động của người nước ngoài ở Việt Nam. Cần đơn giản hoá các thủ tục về xin cấp giấy phép lao động, hợp pháp hoá lãnh sự, công chứng và xác minh lý lịch tư pháp của người lao động nước ngoài, thời hạn lao động tối đa của người lao động nước ngoài ở Việt Nam. 4.1.3. Sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự năm 2005 Một điểm mới quan trọng của Bộ luật Dân sự năm 2005 là điều chỉnh “quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động”. Từ quy định như vậy, từ ngày 01/01/2006 quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng cũng sẽ chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự năm 2005. Một trong những vấn đề của Bộ luật Dân sự năm 2005 liên quan đến hoạt động ngân hàng là quy định về lãi suất. Bộ luật Dân sự quy định mức tối đa đối với lãi suất vay: “ Lãi suất cho vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150 % của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng” (Khoản 1 Điều 476). Nói cách khác, thoả thuận về lãi suất cho vay cao hơn 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định là trái pháp luật. Quy định này còn chưa phù hợp với nhiều quy định pháp luật khác và hạn chế sự chủ động của hoạt động ngân hàng. Thực tế, mức lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng được xác định trên cơ sở lãi suất tiền gửi, chi phí huy động vốn, thời hạn vay, uy tín của khách hàng…và chịu tác động của hoạt động cạnh tranh trên thị trường tín dụng ngân hàng, vì vậy các tổ chức tín dụng xác định mức lãi suất cho vay khác nhau đối với từng loại khách hàng khác nhau. Xuất phát từ nhu cầu của thị trường, việc khống chế mức lãi suất trần cho vay là không cần thiết. Hơn nữa, quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về lãi suất không khả thi. Trong các tháng gần đây, từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2006, Ngân hàng Nhà nước đều công bố mức lãi suất cơ bản là 8,25%/năm. Như vậy, mức lãi suất vay trong các hợp đồng tín dụng vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản nêu trên tức khoảng 12,375%/năm sẽ là vi phạm quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005. Hậu quả, là nếu thực hiện theo đúng quy định này của Bộ luật Dân sự năm 2005 thì hàng loạt các quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng sẽ bị ách tắc vì một quy định thiếu tính khả thi. Để giải quyết vấn đề này, cần sửa đổi Điều 476 Bộ luật Dân sự năm 2005 theo hướng không áp dụng quy định này với các hoạt động cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng. Sau nữa là vấn đề về bảo đảm tiền vay thông qua việc cầm cố tài sản. Theo quy định tại Điều 324 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì một tài sản có thể được dùng để làm bảo đảm thực hiện cho nhiều nghĩa vụ dưới các hình thức như: cầm cố, thế chấp tài sản…Bộ luật Dân sự cũng quy định rõ nguyên tắc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán trong các trường hợp một tài sản được dùng để làm bảo đảm thực hiện cho nhiều nghĩa vụ, theo đó tại khoản 2 Điều 325 quy định trong trường hợp một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự mà có giao dịch bảo đảm có đăng ký, có giao dịch bảo đảm không đăng ký thì giao dịch bảo đảm có đăng ký được ưu tiên thanh toán. Quy định này là bước đổi mới rất lớn của luật pháp, tạo cơ hội thuận lợi cho doanh nghiệp mở rộng khả năng tiếp cận tín dụng, song cũng đặt ra những rủi ro không nhỏ cho hoạt động của các tổ chức tín dụng và có dấu hiệu cho thấy các quy định này chưa hẳn phù hợp với hoạt động của tổ chức tín dụng. Với quy định này, trong trường hợp tổ chức tín dụng nhận cầm cố tài sản mà không thực hiện đăng ký (trên thực tế tổ chức tín dụng khi nhận cầm cố - giữ các tài sản cầm cố, đặc biệt là các tài sản có tính thanh khoản cao như vàng, kim khí quý, đá quý…đều không thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm), tài sản cầm cố đó lại được dùng để thế chấp bảo đảm nghĩa vụ cho một chủ nợ khác và chủ nợ này đã tiến hành việc đăng ký giao dịch bảo đảm thì chủ nợ nhận thế chấp có đăng ký giao dịch bảo đảm này sẽ được ưu tiên thanh toán trước tổ chức tín dụng, cho dù tổ chức tín dụng đã nhận cầm cố tài sản trước. Hơn nữa, trong khi các tổ chức tín dụng không ngừng hoàn thiện, đơn giản hoá thủ tục tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp dễ dàng, nhanh chóng tiếp cận vốn tín dụng, đưa nguồn vốn vào hoạt động kinh doanh phát triển kinh tế thì quy định này sẽ dẫn đến thực tế là các tổ chức tín dụng phải thực hiện đăng ký tất cả giao dịch cầm cố tài sản và như vậy thủ tục cho vay có thể sẽ phải kéo dài hơn, rõ ràng đây là hạn chế cần phải được xem xét. Để khắc phục, hạn chế rủi ro có thể phát sinh đối với các tổ chức tín dụng khi nhận cầm cố tài sản, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng nhanh chóng, Điều 325 Bộ luật Dân sự cần có sự sửa đổi, bổ sung theo đó xác định trong trường hợp tài sản cầm cố (là kim khí quý, đá quý, tín phiếu…) thì bên nhận cầm cố đang giữ tài sản phải có quyền ưu tiên cao nhất. 4.2. Hoàn thiện quy chế của pháp luật về hoạt động kinh doanh của ngân hàng liên doanh 4.2.1 Hoạt động huy động vốn Hoàn thiện pháp luật về huy động vốn thông qua một số quy chế về huy động vốn tiền gửi tiết kiệm. Theo quy định chỉ có các ngân hàng thương mại trong nước mới được quyền huy động tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Hiện nay, chỉ có ngân hàng liên doanh IndoVina được thực hiện nghiệp vụ huy động vốn bằng tiền gửi tiết kiệm theo đơn đề nghị của ngân hàng liên doanh IndoVina. Cần ban hành, quy định các điều kiện cho phép các ngân hàng liên doanh được huy động tiền gửi tiết kiệm với nhiều hình thức, thể loại, kỳ hạn và lãi suất khác nhau, theo đó tạo lập một sân chơi bình đẳng giữa các khối ngân hàng trong nước và ngoài nước, trong đó có ngân hàng liên doanh. Đây cũng là quy định phù hợp với những thoả thuận trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và những cam kết của Việt Nam khi tham gia WTO theo xu hướng tự do hoá tài chính. Sửa đổi, bổ sung quy định về việc phát hành giấy tờ có giá. Theo Điều 46 Luật các TCTD, các tổ chức tín dụng chỉ được phép phát hành giấy tờ có giá khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận. Việc có nhiều hoạt động kinh doanh mà tổ chức tín dụng phải xin phép Ngân hàng Nhà nước đã hạn chế rất nhiều tính chủ động, quyết định của ngân hàng liên doanh, làm bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh. Cần sửa đổi quy định này theo hướng pháp luật nên quy định các điều kiện, theo đó tổ chức tín dụng được quyền phát hành giấy tờ có giá tránh tình trạng phải xin phép như quy định hiện hành. Quy định như vậy vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng trong hoạt động kinh doanh, vừa vẫn bảo đảm vai trò quản lý của Nhà nước, vừa góp phần xoá bỏ cơ chế “ xin - cho”, đẩy mạnh cải cách hành chính trong hoạt động ngân hàng. 4.2.2. Hoạt động cấp tín dụng Cho phép các ngân hàng liên doanh tự quy định mức lãi suất của mình được căn cứ vào lãi suất trên thị trường và phù hợp đối với khách hàng Việt Nam. Cần có chính sách và quy định cho phép, khuyến khích các ngân hàng liên doanh mở rộng các hình thức cho vay, đầu tư tín dụng đặc biệt là các hình thức mới, mở rộng đối tượng cho vay như các tổ chức tài chính nước ngoài hoạt động ở nước ngoài. Sửa đổi, bổ sung quy định về việc cấp tín dụng dưới hình thức cầm cố giấy tờ có giá ngắn hạn. Theo Điều 57 khoản 1,2 Luật các TCTD thì tổ chức tín dụng được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu thương phiếu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Quy định này cần được sửa đổi cho phù hợp với Điều 49 Luật các TCTD (Điều 49 không quy định về việc cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác là một hình thức của việc cấp tín dụng). Cải tiến thủ tục, thời gian chiết khấu, phương thức chiết khấu nhanh chóng và thuận lợi hơn. 4.2.3. Hoạt động thanh toán Định hướng phát triển dịch vụ thanh toán là: “ Phát triển mạnh các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, thanh toán không dùng tiền mặt trên cơ sở hệ thống công nghệ kỹ thuật và hệ thống thanh toán quốc gia hiện đại, an toàn, tin cậy, hiệu quả. Nâng cao các tiện ích thanh toán qua ngân hàng đặc biệt là các cá nhân sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng và giảm mạnh mức độ sử dụng tiền mặt trong thanh toán.”(Chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến 2020). Để thực hiện định hướng này, cần xây dựng các điều kiện pháp lý cho việc cung ứng thuận tiện các dịch vụ thanh toán và tiện ích ngân hàng như: - Quy định khuyến khích các cá nhân mở tài khoản và thanh toán chuyển khoản không dùng tiền mặt qua ngân hàng: trả lương qua tài khoản, thanh toán tiền hàng dịch vụ qua ngân hàng… - Triển khai rộng rãi các dịch vụ thanh toán điện tử và các hệ thống giao dịch điện tử, tự động, ứng dụng rộng rãi các công cụ thanh toán mới theo tiêu chuẩn quốc tế. - Mở rộng các hình thức thanh toán quốc tế (thư tín dụng, bao thanh toán, chuyển tiền quốc tế…) hỗ trợ các hoạt động đầu tư quốc tế và xuất nhập khẩu. 4.2.4. Hoạt động kinh doanh ngoại hối Kinh doanh ngoại hối là một trong những nghiệp vụ phức tạp và quan trọng trong các ngân hàng liên doanh, là một nghiệp vụ cần được quản lý của Ngân hàng Nhà nước. Các quy định cần được xây dựng theo hướng tự do hoá có kiểm soát bằng pháp luật. Cụ thể như: - Tăng cường khả năng và mức độ bao quát của Ngân hàng Nhà nước trong việc quản lý, giám sát các giao dịch ngoại hối trong nước và quốc tế. - Thực hiện tự do hoá các giao dịch vãng lai và từng bước nới lỏng kiểm soát và giao dịch vốn một cách thận trọng, phù hợp với lộ trình mở cửa thị trường tài chính. - Từng bước nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam và tạo nền tảng cho đồng tiền Việt Nam trở thành đồng tiền tự do chuyển đổi. Trước hết là bảo đảm đồng tiền Việt Nam được tự do chuyển đổi trên các giao dịch vãng lai và từng bước được chuyển đổi trên các giao dịch vốn. Thu hẹp dần phạm vi sử dụng đồng ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam và giảm dần tình trạng đô la hóa. 4.3. Các biện pháp hỗ trợ Cần có những quy định cụ thể giám sát chặt chẽ các hoạt động hỗ trợ cho sự phát triển của hoạt động dịch vụ ngân hàng như quy định các biện pháp nhằm ổn định chính sách tiền tệ; quy định các biện pháp nhằm tránh rủi ro; quy định tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng …Điển hình là sự hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về giám sát ngân hàng và hạ tầng cơ sở kỹ thuật phục vụ hoạt động giám sát. Cụ thể, hoạt động quản lý và thanh tra giám sát ngân hàng sẽ được tổ chức lại theo hướng tập trung hoá, hình thành một hệ thống có cấu trúc dọc, độc lập tương đối về hoạt động; phân định rành mạch giữa ba nhiệm vụ điều tiết, cấp phép và giám sát trong khối giám sát ngân hàng; tăng cường khả năng giám sát từ xa và cảnh báo sớm, trên cơ sở đó phân bổ nguồn lực thanh tra theo mức độ rủi ro có trong hệ thống ngân hàng, nhằm hoàn thiện sứ mệnh “ góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng..” 4.4. Cụ thể hoá các quy chế hoạt động của ngân hàng liên doanh theo hướng phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế; trước hết là phù hợp với hiệp định BTA, các cam kết của Việt Nam trong WTO Việt Nam đã ký kết và tham gia các Hiệp định song phương và đa phương về thương mại, tài chính, đầu tư.. đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong hội nhập kinh tế, quốc tế thông qua mở rộng mạnh mẽ quan hệ kinh tế song phương và đa phương; phát triển quan hệ đầu tư với gần 70 nước và lãnh thổ; bình thường hoá quan hệ với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), ký kết Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA), đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và viện trợ phát triển chính thức (ODA)…Trong đó, việc ký kết Hiệp định BTA và gia nhập WTO có những ảnh hưởng mạnh mẽ, trực tiếp đến hoạt động tài chính - ngân hàng của Việt Nam. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ ( BTA ) ký ngày 13-7-2001, có hiệu lực vào ngày 10-12-2001. Các cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực tài chính ngân hàng được đề cập chủ yếu tại Chương III thương mại dịch vụ (cam kết chung). Các cam kết cụ thể về ngành dịch vụ tài chính ngân hàng được thể hiện tại phụ lục F và G, trong đó Phụ lục G đề cập hai hình thức cung ứng dịch vụ cơ bản là “ sử dụng ở nước ngoài” và “ hiện diện thương mại”; còn hai hình thức “ cung cấp qua biên giới” và “ hiện diện thể nhân” thì đang được Việt Nam bảo lưu. Các thoả thuận của Hiệp định BTA đã tác động đến sự thay đổi môi trường kinh doanh ngân hàng và môi trường pháp lý ngân hàng tại Việt Nam. Theo ước tính, khi hiệp định BTA có hiệu lực qua rà soát đối chiếu bước đầu 130 văn bản quy phạm pháp luật hiện hành của Việt Nam, có 24 văn bản (trong đó có 8 bộ luật và luật, 4 pháp lệnh) cần sửa đổi, bổ sung, cần ban hành mới 29 văn bản (trong đó có 4 luật và 11 pháp lệnh), dự kiến huỷ bỏ một quyết định của Thủ tướng Chính Phủ và 5 quyết định cấp Bộ, cần tham gia 5 Điều ước quốc tế mới và sửa đổi, bảo lưu 1 điều ước quốc tế (Báo Nhân Dân số 16931, ngày 24-11-2001). Năm 2006 Việt Nam chính thức là thành viên WTO. Trở thành thành viên của WTO là bước đi tất yếu trên con đường hội nhập kinh tế, quốc tế của Việt Nam. Một trong những cam kết rất quan trọng của Việt Nam khi gia nhập WTO là cam kết trong lĩnh vực ngân hàng. Theo thoả thuận đã được ký với Hoa Kỳ, trong lĩnh vực ngân hàng, các cam kết về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia đối với ngân hàng nước ngoài sẽ được nới lỏng dần, với lộ trình dài nhất là 5 năm kể từ khi gia nhập. Kể từ ngày 1/4/2007 các ngân hàng nước ngoài được phép thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Đồng thời, để thu hút được các ngân hàng lớn vào hoạt động tại thị trường Việt Nam, trong cam kết cũng đã đưa ra yêu cầu về tổng tài sản có đối với tổ chức tín dụng nước ngoài muốn thành lập hiện diện thương mại tại Việt Nam, cụ thể là để mở một chi nhánh của ngân hàng thương mại nước ngoài tại Việt Nam, ngân hàng mẹ phải có tổng tài sản hơn 20 tỷ đô la Mỹ vào cuối năm trước thời điểm xin mở chi nhánh, trong khi đó mức yêu cầu đối với việc thành lập ngân hàng liên doanh hoặc ngân hàng 100% vốn nước ngoài là 10 tỷ đô la Mỹ; đối với mở công ty tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài và công ty cho thuê tài chính liên doanh, tổ chức tín dụng nước ngoài phải có tổng tài sản hơn 10 tỷ đô la Mỹ vào cuối năm trước thời điểm xin phép. Từ cam kết của Việt Nam về lĩnh vực dịch vụ tài chính ngân hàng trong hiệp định BTA và trong WTO đặt ra thách thức phải sửa đổi môi trường pháp lý về hoạt động ngân hàng tạo môi trường kinh doanh thông thoáng. Một là, sửa đổi, bổ sung, xây dựng các văn bản pháp luật mới cho phù hợp với các cam kết quốc tế. Hiệp định BTA khá toàn diện trong các cam kết về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia. Các cam kết về dịch vụ ngân hàng trong Hiệp định là cam kết tương đối mở với hầu hết các phân ngành dịch vụ như sau ba năm sẽ thực hiện đối xử không phân biệt đầy đủ đối với việc tiếp cận các công cụ chiết khấu, hoán đổi và kỳ hạn của Ngân hàng Trung ương, sau năm 2010 các ngân hàng 100% vốn nước ngoài được thành lập... So với cam kết về lĩnh vực ngân hàng trong Hiệp định BTA, lộ trình nới lỏng các hạn chế về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia đối với các tổ chức tín dụng nước ngoài trong các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam đã rút ngắn hơn. Trong khi hệ thống pháp luật ngân hàng hiện nay còn thiếu, chưa đồng bộ và có những điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Hiện nay, do vẫn thực hiện chính sách bảo hộ để các tổ chức tín dụng có điều kiện phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh, nên Ngân hàng Nhà nước đang có nhiều quy định hạn chế về tổ chức và hoạt động đối với các tổ chức tín dụng nước ngoài như điều kiện cấp giấy phép thành lập và hoạt động, thời gian hoạt động, số lượng các chi nhánh nước ngoài, loại hình tổ chức hoạt động…Ngay từ bây giờ, cần phải từng bước nới lỏng quyền tiếp cận thị trường dịch vụ ngân hàng đối với các bên cung cấp và sử dụng dịch vụ ngân hàng. Mở cửa thị trường trong nước trên cơ sở điều chỉnh dần các giới hạn về số lượng đơn vị, loại hình tổ chức, phạm vi hoạt động, tỷ lệ vốn góp của bên nước ngoài, mức huy động vốn VNĐ, các loại hình dịch vụ, bảo đảm quyền kinh doanh của các tổ chức tín dụng nước ngoài theo các cam kết đa phương và song phương. Đối với những vấn đề mà pháp luật Việt Nam chưa quy định, cần nhanh chóng xây dựng mới các chế định. Hai là, tham gia một số các điều ước quốc tế về thương mại theo nghĩa rộng, đặc biệt là thương mại dịch vụ - phần về lĩnh vực ngân hàng tài chính. Việc tham gia một số điều ước quốc tế về thương mại, dịch vụ sẽ tạo tiền đề, điều kiện thuận lợi để Việt Nam thực hiện “ luật chơi chung” của các tổ chức tín dụng trong thương mại quốc tế. Ba là, nghiên cứu khả năng áp dụng án lệ; tập quán quốc tế thông qua việc thừa nhận, công nhận về mặt pháp lý các quy tắc, tập quán quốc tế trong hoạt động ngân hàng như UCP500 về giao dịch tín dụng chứng từ, Quy tắc UNCITRAL… Bốn là, xây dựng và hoàn thiện chế định công khai văn bản pháp luật ngân hàng phù hợp với các yêu cầu về tính minh bạch, công khai. Theo cam kết của Việt Nam, chỉ các văn bản pháp luật được công khai, minh bạch, rộng rãi và dễ tiếp cận đối với các cơ quan Nhà nước và các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động thương mại mới có giá trị bắt buộc thi hành. KẾT LUẬN Là một loại hình ngân hàng còn non trẻ ở Việt Nam, nhưng ngay từ khi đi vào hoạt động của ngân hàng liên doanh đã có những thành tựu đáng khích lệ, góp phần làm phong phú thêm và sôi động hơn thị trường tiền tệ ngân hàng Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay quá trình hoạt động của ngân hàng liên doanh còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Một trong những nguyên nhân quan trọng là quy định của pháp luật về hoạt động của ngân hàng liên doanh còn nhiều hạn chế, bất cập. Do vậy, việc hoàn thiện quy chế pháp lý về ngân hàng liên doanh ở Việt Nam là một nhu cầu bức thiết. Trong khuôn khổ của một khoá luận tốt nghiệp không thể giải quyết một cách thấu đáo, triệt để. Khoá luận mới chỉ tập trung phân tích một số vấn đề như vai trò của ngân hàng liên doanh, tính đặc thù của pháp luật điều chỉnh ngân hàng liên doanh, ngân hàng liên doanh là một loại hình doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đặc thù chứa đựng rủi ro cao, một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng liên doanh. Là một sinh viên năm cuối, lần đầu tiền được nghiên cứu về một đề tài khoa học mang tính chuyên ngành cụ thể, do chưa có kinh nghiệm nên khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Vì vậy, tôi rất mong sự góp ý, nhận xét của Hội đồng, của thầy cô, các bạn và những người có quan tâm về vấn đề này đóng góp ý kiến để tôi có điều kiện hoàn thiện đề tài này một cách tốt hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Công báo số 21& 22 - 07/2006 GS,TS Lê Văn Tư - Tùng Văn - Lê Nam Hải, Ngân hàng thương mại; Nhà xuất bản Thống Kê. Hà Cúc (1999), “Ban hành quy chế bảo lãnh và ký quỹ là cần thiết”, Ngân hàng (10) Jean Preerr Mattout (1991), Luật quốc tế về ngân hàng, Viện tiền tệ, tín dụng và Ngân hàng Nhà nước An Giang xuất bản. Ngân hàng Nhà nước và GTZ, Pháp luật về ngân hàng trung ương và ngân hàng thương mại một số nước; Nhà xuất bản thế giới Nguyễn Đức, Một số sự kiện nổi bật về tiền tệ - hoạt động ngân hàng năm 2006; Thời báo Kinh tế Việt Nam số Xuân 2007 PGS, TS Hoàng Văn Hảo (1996): “ Một số suy nghĩ về môi trường pháp lý trong lĩnh vực ngân hàng ở nước ta”, Ngân hàng (7) Tạp chí ngân hàng - số 21/11/2006 Tạp chí ngân hàng - số 22/11/2006 Tạp chí ngân hàng - số 3/1994 Tạp chí nghiên cứu kinh tế - số 5/10/1994 Tạp chí tài chính - số 3/ 1994 Tạp chí thông tin khoa học ngân hàng - số 4/1993 Tạp chí thông tin khoa học ngân hàng - số 6/6/1994 Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật Ngân hàng, NXB Công an nhân dân Hà Nội. TS Dương Đăng Huệ (1996), “ Cơ sở khoa học và thực tiễn việc xây dựng pháp luật thương mại và kinh tế ở nước ta” , Nhà nước và Pháp luật (1) TS Ngô Quốc Kỳ (2002), “ Khái niệm ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam”, Luật học, (4) TS Ngô Quốc Kỳ (2002), “Tác động của Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đối với hệ thống pháp luật Ngân hàng Việt Nam”; Về việc thực thi Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội TS Ngô Quốc Kỳ (2005), Hoàn thiện pháp luật về hoạt động của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, NXB Tư pháp Hà Nội, 2005. TS Nguyễn Đại La, Giới thiệu những nội dung trọng tâm chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng đến 2010 và tầm nhìn 2020 TS Nguyễn Đại La, Toàn cầu hoá đặt ra những thách thức đối với ngành ngân hàng Việt Nam trong điều kiện hiện nay. XT- VPNHNN, Tiếp tục cải cách ngân hàng để hội nhập VĂN BẢN PHÁP LUẬT Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005 Luật Các Tổ chức tín dụng đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004 Luật Doanh Nghiệp năm 2006 Luật Ngân hàng Nhà nước Luật Phá sản năm 2005 Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006), NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLDOCS (90).DOC
Tài liệu liên quan