Khóa luận Pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG I 4 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THUẾ NHẬP KHẨU VÀ PHÁP LUẬT VỀ THUẾ NHẬP KHẨU TRONG ĐIỀU KIÊN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 4 1. Khái quát chung về thuế nhập khẩu 4 1.1. Khái niệm, đặc điểm của thuế nhập khẩu 4 1.2. Vai trò của thuế nhập khẩu 7 2. Khái quát chung về pháp luật thuế nhập khẩu 9 2.1. Khái niệm pháp luật thuế nhập khẩu 9 2.2. Những yếu tố chi phối pháp luật thuế nhập khẩu trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam 10 3. Những nguyên tắc và quy định của WTO về thuế quan và những vấn đề có liên quan đến thuế quan 15 3.1. Các nguyên tắc chung về thuế quan và thương mại 16 3.2. Các quy định về xác định trị giá hải quan 20 3.3. Các quy định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng 23 3.4.Các quy định về phá giá và thuế chống bán phá giá 25 3.5. Quy định về các biện pháp tự vệ 26 3.6. Các quy định về quy chế xuất xứ 28 CHƯƠNG II 31 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT THUẾ NHẬP KHẨU TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 31 1. Quá trình hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam thời gian qua 31 2. Những cam kết của Việt Nam về thuế nhập khẩu trong quá trình tham gia hội nhập kinh tế quốc tế 35 2.1. Về cam kết chung 36 2.2. Về thuế suất thuế nhập khẩu qua kết quả đàm phán 37 2.3. Về biểu thuế 38 2.4. Trị giá hải quan 39 2.5. Hạn ngạch thuế quan, miễn giảm thuế 40 2.6. Các loại thuế nhập khẩu khác và phụ thu nhập khẩu 41 2.7. Hạn chế định lượng nhập khẩu bao gồm cấm, hạn ngạch và chế độ cấp phép nhập khẩu 42 2.8. Các cam kết về trợ cấp 43 2.9. Chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, các biện pháp tự vệ 43 2.10. Quy tắc xuất xứ 44 2.11. Các thủ tục hải quan khác 44 3. Những điểm tương thích của pháp luật thuế nhập khẩu Việt Nam với các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 44 4. Những quy định của pháp luật thuế nhập khẩu Việt Nam còn chưa tương thích với các cam kết quốc tế của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế 48 5. Thực tiễn thực hiện pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam thời gian qua 52 CHƯƠNG III 56 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THUẾ NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY NHẰM ĐÁP ỨNG 56 YÊU CẦU HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 56 1. Những định hướng cơ bản trong việc hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay 56 2. Những giải pháp cụ thể 57 2.1. Ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật cho phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế 57 2.2. Hoàn thiện các biện pháp tổ chức và bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về thuế nhập khẩu 59 KẾT LUẬN 61 BẢNG GIẢI THÍCH CHỮ VIẾT TẮT 63 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 64

doc68 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1978 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i. Đối với bốn mặt hàng này, mức thuế suất trong hạn ngạch là tương đương mức thuế suất MFN hiện hành là: trứng 40%, đường thô 25%, đường tinh 40-50%, thuốc lá lá 30% và muối ăn 30% [Văn kiện và biểu thuế gia nhập WTO của Việt Nam-Bộ Tài chính] 2.3. Về biểu thuế Một số thành viên WTO cho rằng hệ thống thuế nhập khẩu Việt Nam hiện tại còn thiếu minh bạch, cần làm rõ mức thuế suất trần của khung thuế suất và mối quan hệ giữa mức trần của khung thuế suất với mức thuế nhập khẩu áp dụng thực tế. Ủy ban thường vụ Quốc hội Việt Nam đã ấn định mức thuế suất trần của khung thuế suất áp dụng thực tế ở cấp độ 8 số ( được quy định tại Quyết định số 110/ 2003/QĐ- BTC ngày 25/07/2003). Việc thay đổi thuế suất được quyết định trên cơ sở tham khảo ý kiến của giới doanh nghiệp và các bộ, ngành hữu quan. Khi có quyết định thay đổi đều được đăng trên công báo trước khi áp dụng cũng phù hợp với điều X.2 của hiệp định GATT 1994. Việt Nam không có ý định điều chỉnh mức trần của khung thuế suất nhập khẩu ưu đãi bằng với mức thuế suất ràng buộc trong biểu cam kết hàng hóa. Mức khung thuế suất của Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ tiếp tục được áp dụng để xác định mức thuế suất thuế nhập khẩu. Việt Nam xác nhận những mức thuế suất này sẽ không trái với cam kết và nghĩa vụ của Việt Nam trong WTO. Các thành viên trong WTO mong muốn Việt Nam áp dụng thuế suất % hơn là thuế tuyệt đối với hàng nhập khẩu vì thuế suất % mang tính minh bạch và dễ đoán hơn đối với doanh nghiệp. Họ cho rằng bất kỳ sự chuyển đổi thuế suất % sang thuế suất tuyệt đối hoặc thuế suất kết hợp cũng không được vượt quá thuế suất Việt Nam cam kết ràng buộc. Việt Nam bảo lưu quyền áp dụng thuế suất tuyệt đối với một số mặt hàng nhằm đối phó với tình trạng gian lận hải quan. Việt Nam sẽ cung cấp danh mục các mặt hàng và dòng thuế nhạy cảm có thể được chuyển đổi cho ban công tác nghiên cứu. Nếu một dòng thuế nhập khẩu được chuyển đổi sang thuế tuyệt đối hay hỗn hợp thì Việt Nam sẽ đàm phán rằng mức thuế suất mới này sẽ không vượt quá mức Việt Nam đã cam kết ràng buộc đối với mặt hàng đó. Việt Nam tuyên bố việc vận dụng điều XXVIII có thể bao gồm việc dàn xếp bồi thường liên quan đến các sản phẩm khác. Do đó Chính phủ Việt Nam sẽ cố gắng hạn chế tối đa khả năng phải vận dụng các thủ tục nêu tại điều XXVIII của Hiệp định GATT 1994. Việt Nam cam kết rằng từ khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ áp dụng thuế nhập khẩu trên cơ sở MFN cho tất cả các nước và lãnh thổ hải quan mà Việt Nam có quan hệ WTO và sẽ áp dụng quyền tăng thuế nhập khẩu phù hợp với các quy định và cam kết của WTO[ Các văn kiện gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO của Việt Nam] 2.4. Trị giá hải quan Việt Nam cam kết khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ áp dụng đầy đủ các quy định của WTO liên quan đến việc xác định trị giá hải quan bao gồm hiệp định về thực hiện điều VII hiệp định GATT 1994 và phụ lục I. Việt Nam sẽ bảo đảm rằng bất kỳ một phương thức xác định trị giá hải quan nào cũng sẽ được áp dụng phù hợp với quy định của WTO. Việt Nam xác nhận rằng giá tối thiểu và hệ thống giá tham khảo hay biểu trị giá hải quan cố định áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu thay cho giá trị giao dịch nhằm xác định trị giá hải quan đã được bãi bỏ và sẽ không được áp dụng trở lại và tất cả các phương thức xác định trị giá được áp dụng tuân thủ đúng với hiệp định trị giá hải quan WTO. Bất kỳ sự sửa đổi nào đối với Nghị định 155/2005/NĐ-CP ngày 15/10/2005 và thông tư 113/2005/TT-BTC hướng dẫn thi hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 bao gồm cả các phụ lục diễn giải của hiệp định. Việt Nam sẽ thông báo cho Ủy ban xác định giá trị hải quan của WTO về bất kỳ sự thay đổi nào đối với Nghị định 115 hoặc thông tư 113 bao gồm cả phụ lục của thông tư 113 hoặc bất kỳ Luật, quyết định, nghị định hoặc thông tư nào có liên quan đến hiệp định xác định giá trị hải quan của WTO phù hợp với điều 22 của hiệp định, gồm cả những thay đổi liên quan trong việc quản lý các quy định này. 2.5. Hạn ngạch thuế quan, miễn giảm thuế Chính phủ Việt Nam ban hành quyết định số 91/2003/QĐ-TTg ngày 09/05/2003 về việc áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với việc nhập khẩu bông, thuốc lá nguyên liệu, muối, sản phẩm sữa, trứng và ngô. Cơ chế phân bổ hạn ngạch thuế quan của Việt Nam được quy định tại quyết định 91/2003/QĐ-TTg, thông tư số 10/2004/TT-BTM ngày 27/12/2004; được sửa đổi tại thông tư 04/2005/TT-BTM ngày 24/03/2005 và quyết đinh 46/2005/QĐ-TTg ngày 03/03/2005 và được thay thế bằng nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23/02/2006. Tại các văn bản trên nêu rõ: Việt Nam bãi bỏ hạn ngạch thuế quan đối với sản phẩm từ sữa, bông và ngô từ 01/04/2005; thuốc lá lá thuế nhập khẩu là 30% (15% đối với dòng 24013010) nếu nhập khẩu trong hạn mức hạn ngạch 29.000 tấn và thuế suất 100% và 80% đối với lượng nhập khẩu vượt quá 20.000 tấn. Muối hạn ngạch từ 50-60%, trứng gia cầm mức thuế 40% áp dụng cho 30.000 tá trứng và mức thuế 80% áp dụng cho lượng hàng nhập khẩu vượt qua mức đó. Việt Nam đã cân nhắc hạn chế phạm vi của các sản phẩm quản lý bằng hạn ngạch thuế quan và hạn chế việc áp dụng hạn ngạch thuế quan ở mức tối thiểu.Hạn ngạch thuế quan đối với muối, thuốc lá nguyên liệu và trứng được quản lý theo thông tư 04/2006/TT-BTM ngày 06/04/2006 của Bộ Thương mại hướng dẫn nghị định số 12/2006/NĐ-CP. Thông tư quy định ba phương pháp phân bổ hạn ngạch thuế quan là: Phương pháp A: phân bổ hạn ngạch cho người sử dụng cuối cùng Phương pháp B: Chính phủ sẽ chỉ định nhà nhập khẩu (phương pháp này chỉ áp dụng cho thuốc lá nguyên liệu) Phương pháp C: hạn ngạch được phân bổ trên cơ sở tình hình nhập khẩu thời kỳ trước đó. Ba phương pháp phân bổ hạn ngạch thuế quan mà Việt Nam đề xuất đã được các thành viên nhất trí và được nêu rõ trong biểu cam kết về hàng hóa cuả Việt Nam. Việt Nam xác nhận cơ chế cấp phép được sử dụng để phân bổ hạn ngạch thuế quan sẽ tuân thủ các nguyên tắc của WTO bao gồm hiệp định về thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu. Phân bổ hạn ngạch thuế quan sẽ được thực hiện theo đúng biểu cam kết về hàng hóa của Việt Nam. Việt Nam cho rằng việc phân bổ hạn ngạch thuế quan cho các doanh nghiệp có các hoạt động kinh doanh nhất định là phù hợp với các chính sách quản lý nhập khẩu hiện hành của Việt Nam và không vi phạm nguyên tắc của WTO vì doanh nghiệp được tự do đăng ký các hoạt động và lĩnh vực kinh doanh của mình. Các quy định của Việt Nam về phân bổ và quản lý hạn ngạch thuế quan là phù hợp với các nguyên tắc và quy định của WTO. Việt Nam cũng đã cam kết loại bỏ tất cả các biện pháp hạn chế định lượng với hàng nhập khẩu ngay sau khi gia nhập WTO và đã giới hạn lại diện các mặt hàng áp dụng hạn ngạch thuế quan. Việt Nam cam kết kể từ ngày gia nhập WTO, Việt Nam sẽ áp dụng và quản lý hạn ngạch thuế quan một cách minh bạch và không phân biệt đối xử, phù hợp với hiệp định WTO bao gồm các điều I, II, III, VIII, X, XI, XIII của GATT 1994 và điều 4 hiệp định nông nghiệp, điều 2 hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại và hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu. Việt Nam cam kết kể từ ngày gia nhập WTO, Việt Nam sẽ áp dụng việc miễn giảm thuế nhập khẩu bảo đảm nguyên tắc đối xử tối huệ quốc đối với hàng hoá nhập khẩu. Không có ảnh hưởng đến cam kết Việt Nam tại phần trợ cấp, Việt Nam sẽ không miễn giảm thuế nhập khẩu dựa trên thành tích xuất khẩu, tỷ lệ xuất khẩu, hay các yêu cầu về tỷ lệ nội địa hóa[ Các văn kiện gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO của Việt Nam] 2.6. Các loại thuế nhập khẩu khác và phụ thu nhập khẩu Việt Nam tuyên bố tất cả các khoản phụ thu nhập khẩu được xóa bỏ kể từ tháng 12/2004; mọi loại thuế nhập khẩu khác và phụ thu nhập khẩu áp dụng với hàng nhập khẩu ngoài thuế nhập khẩu thông thường và các khoản phí, lệ phí thu để bù đắp dịch vụ được cung ứng sẽ tuân thủ các quy định của WTO kể từ ngày gia nhập. Việt Nam đồng ý ràng buộc thuế nhập khẩu khác và phụ thu nhập khẩu bằng 0 trong biểu thuế nhân nhượng và cam kết về hàng hóa theo điều II.1(b) của Hiệp định GATT 1994. Việt Nam cam kết các loại phí và lệ phí liên quan nhập khẩu không nhằm mục đích thu ngân sách sẽ được rà soát để điều chỉnh cho phù hợp với quy định của WTO kể từ ngày ra nhập và bảo đảm số phí thực thu không vượt quá chi phí của dịch vụ được cung ứng. Nếu các mức phí đó được xác minh là cao hơn chi phí dịch vụ được cung ứng thì sẽ điều chỉnh giảm xuống theo nguyên tắc là không có mức phí nào được vượt quá chi phí dịch vụ được cung ứng. Việt Nam cam kết sẽ sửa đổi các quy định hiện hành về phí hải quan và phí lưư kho bãi để phù hợp với điều VIII của hiệp định GATT, không có phân biệt đối với hàng nhập khẩu hay hàng xuất khẩu, không có ngoại lệ dựa trên xuất xứ của nước xuất hàng hoặc đích đến. Việt Nam cam kết các khoản phí đặc biệt cao hơn đối với một số mặt hàng nhập khẩu sẽ được bão bỏ từ thời điểm gia nhập. Thông tin liên quan đến việc áp dụng và mức phí, số thu từ phí và việc áp dụng các loại thuế đó sẽ được cung cấp cho các thành viên WTO. 2.7. Hạn chế định lượng nhập khẩu bao gồm cấm, hạn ngạch và chế độ cấp phép nhập khẩu Việt Nam đã và đang nới lỏng các biện pháp hạn chế định lượng đối với hàng nhập khẩu Việt Nam đang áp dụng các biện pháp cấm nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu hạn chế, hạn ngạch và một số biện pháp quản lý chuyên ngành. Việt Nam đã đưa ra danh sách về các biện pháp cấm nhập và lý do áp dụng. Danh sách các loại hóa chất độc bị cấm thuộc diện phê duyệt có điều kiện; danh sách các sản phẩm thuộc diện quản lý bằng các biện pháp chuyên ngành. Việt Nam cam kết việc cấm nhập khẩu thì cũng cấm cả hoạt động kinh doanh trong nước đối với sản phẩm tương ứng, tất cả các biện pháp hạn chế nhập khẩu không phù hợp với WTO đã được bãi bỏ. Một số hàng hóa cấm nhập trước đây sẽ được nhập khẩu khi Việt Nam gia nhập WTO như thuốc lá điếu, xì gà, ô tô đã qua sử dụng…tuy nhiên phải theo số lượng và tiêu chuẩn cụ thể do Việt Nam quy định. Việt Nam cũng sẽ bãi bỏ các biện pháp hạn chế nhập khẩu định lượng dưới hình thức hạn ngạch và giấy phép nhập khẩu mang tính hạn chế tại thời điểm gia nhập và cung cấp lộ trình thực hiện cam kết này. Từ thời điểm gia nhập, tất cả các biện pháp cấp phép nhập khẩu sẽ được áp dụng dưới hình thức cấp phép hạn ngạch thuế quan và cấp phép tự động. Giấy phép nhập khẩu được cấp tự động và có hiệu lực 1năm sau đó có thể gia hạn theo yêu cầu. Các biện pháp quản lý chuyên ngành hiện được áp dụng để bảo vệ môi trường, sức khỏe cho con người, an toàn lao động và an toàn vệ sinh thực phẩm. Việt Nam khẳng định các biện pháp này sẽ không tạo ra những hạn chế định lượng đối với nhập khẩu hoặc được sử dụng để tạo ra bất kỳ tác dụng bóp méo náo hay hạn chế thương mại nào. Việt Nam sẽ tuân thủ thủ tục cấp phép nhập khẩu của WTO. 2.8. Các cam kết về trợ cấp Đối với trợ cấp nông sản, nước xin gia nhập phải cam kết loại bỏ trợ cấp xuất khẩu nông sản.Tuy nhiên, WTO cũng có những ngoại lệ dành cho các nước đang và kém phát triển đối với trợ cấp nông nghiệp và phi nông nghiệp. Việt Nam đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các trợ cấp bị cấm theo quy định của WTO (trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa). Việt Nam bảo lưu 5 năm (trừ ngành dệt may) đối với các ưu đãi đầu tư dành cho sản xuất hàng xuất khẩu đã cấp trước ngày gia nhập WTO. Đối với hỗ trợ trong nước thì nước ta vẫm hỗ trợ là 10% đối với nông nghiệp. 2.9. Chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, các biện pháp tự vệ Việt Nam cam kết Chính phủ sẽ bảo đảm để bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào về việc áp dụng các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá hoặc chống trợ cấp có hiệu lực vào thời điểm Việt Nam gia nhập WTO sẽ phù hợp với các quy định của các hiệp định về tự vệ, chống bán phá giá và về trợ cấp vầ các biện pháp chống trợ cấp của WTO.Việt Nam sau khi gia nhập sẽ không áp dụng các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá hoặc thuế chống trợ cấp cho đến khi các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với các điều khoản của các hiệp định của WTO được thông báo và thực thi. Trong quá trình soạn thảo chi tiết các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp trong tương lai, Việt Nam sẽ bảo đảm để các văm bản này phù hợp hoàn toàn với các quy định liên quan của WTO bao gồm các hiệp định thực hiện điều VI, hiệp định về trợ cấp và các biện pháp chống trợ cấp và hiệp định về tự vệ. 2.10. Quy tắc xuất xứ Hiện nay Việt Nam cam kết kể từ ngày gia nhập WTO, pháp luật và các quy định khác của Việt Nam về quy tắc xuất xứ đối với cả hàng hóa được buôn bán theo thỏa thuận mậu dịch ưu đãi và theo quy chế tối huệ quốc sẽ được áp dụng theo đúng quy định của hiệp định về quy tắc xuất xứ của WTO, bao gồm các quy định tại điều 2(h) và của phụ lục II sẽ được đưa vào các văn bản pháp luật của Việt Nam. 2.11. Các thủ tục hải quan khác Các thủ tục hải quan Việt Nam đã được cải cách để tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư, bảo đảm sự phù hợp với nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam. Các quy định của Luật hải quan nhìn chung là phù hợp với bộ quy tắc và thủ tục tại công ước Kyôtô sửa đổi 1999 về đơn giản hóa và hài hòa thủ tục hải quan. Việt Nam đã đạt 81/148 chuẩn mực của công ước Kyôtô bao gồm các chuẩn mực về thông quan, thủ tục hải quan, thuế quan và kiểm tra hải quan. Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục nỗ lực để bảo đảm cho thương mại công bằng và chấp hành pháp luật. 3. Những điểm tương thích của pháp luật thuế nhập khẩu Việt Nam với các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, Việt Nam cần phải có một hệ thống pháp luật phù hợp, trong đó có chính sách pháp luật thuế nhập khẩu. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 được ban hành đã thể hiện được sự đổi mới, sự thông thoáng hơn trong hệ thống pháp luật để phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam đã xây dựng một hệ thống pháp luật thuế nhập khẩu phù hợp với tình hình hội nhập kinh tế quốc tế. Pháp luật thuế nhập khẩu Việt Nam nhìn chung là hệ thống pháp luật khả thi và minh bạch. Những điểm tương thích của hệ thống pháp luật này thể hiện qua những quy định về thuế suất, cách xác định trị giá hải quan, các loại thuế nhập khẩu bổ sung, không phân biệt ưu đãi giữa các thành phần kinh tế có vốn đầu tư trong và ngoài nước, về khiếu nại và giải quyết khiếu nại… Việt Nam cũng xây dựng một lộ trình thuế quan hội nhập thực hiện theo các cam kết song phương và đa phương phù hợp. Việt Nam đã hoàn thành lộ trình cắt giảm thuế quan giai đoạn 1996-2006 theo hiệp định CEPT và trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) chúng ta sẽ hoàn toàn xóa bỏ thuế nhập khẩu vào năm 2015. Việt Nam cũng ký kết Hiệp đinh thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ năm 2000 và xây dựng chương trình cắt giảm thuế nhập khẩu đối với một số hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ Hoa Kỳ sau ba năm và một số hàng hóa khác sau sáu năm kể từ ngày hiệp định có hiệu lực. Trong khuôn khổ WTO thì trong năm qua, nước ta đã đưa 10.600 dòng thuế vào đàm phán và có tỷ lệ 35% giảm thuế, các mức thuế suất dao động trong khoảng 0 – 60% trong đó có khoảng 52% số dòng thuế có thuế suất khoảng từ 0 – 5%. Như vậy, hệ thống pháp luật thuế nhập khẩu nước ta có những điểm tương thích với các cam kết quốc tế mà chúng ta đã ký kết trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Điều này sẽ giúp cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ngày càng nhanh chóng và hiệu quả hơn. - Tại điều 6 Luật thuế xuất khẩu nhập khẩu quy định : “Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó”. Như vậy trong trường hợp có quy định nào đó của pháp luật thuế nhập khẩu có mâu thuẫn với các điều ước quốc tế liên quan đến thuế nhập khẩu mà chưa kịp sửa đổi, bổ sung thì Việt Nam sẽ áp dụng ngay các quy định trong điều ước quốc tế đó mà chưa cần phải chờ đến việc nội luật hoá quy định trong điều ước quốc tế. - Quy định về nhập khẩu tiểu ngạch biên giới phù hợp các quy định của WTO: Xuất phát từ thực tế quan hệ mua bán, trao đổi hàng hóa của dân biên giới là quan hệ có tính đặc thù, cần quy định áp dụng thuế nhập khẩu đối với hàng hóa mua bán, trao đổi của dân cư biên giới phù hợp với từng thời kỳ, góp phần tích cực và thúc đẩy phát triển sản xuất, giao lưu kinh tế, thương mại của dân cư biên giới nước ta và cư dân biên giới nước ngoài có chung đường biên giới với Việt Nam, điều 7 của Luật quy định: Chính phủ quy định việc áp dụng thuế nhập khẩu đối với hàng hóa mua bán, trao đổi của dân cư biên giới phù hợp với từng thời kỳ. Quy định này không mâu thuẫn với các nguyên tắc của WTO: Theo GATT 1994: “Hàng hoá xuất nhập khẩu tiểu ngạch không phải chịu các quy định của GATT. Điều này có nghĩa là hai nước có chung biên giới có thể áp dụng những ưu đãi đặc biệt như bỏ thuế quan, giảm bớt thủ tục hải quan cho các hàng hoá buôn bán theo phương thức này mà không sợ vi phạm nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc”. Các quy định về căn cứ tính thuế: cơ bản đã phù hợp tương thích với các cam kết quốc tế của Việt Nam. Cụ thể: - Về giá tính thuế đối với hàng nhập khẩu Luật thuế quy định: là giá thực tế phải trả tính đến cửa khẩu nhập đầu tiên theo hợp đồng, phù hợp với cam kết quốc tế. Để cụ thể hoá quy định này chính phủ đã ban hành nghị định số 155/2005/NĐ-CP ngày 15 tháng 12 năm 2005 Quy định về việc xác định trị giá hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Ngày 16 tháng 03 năm 2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định Số: 40/2007/NĐ-CP Quy định về việc xác định trị giá hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thay thế cho nghị định 155/2005/NĐ-CP ngày 15 tháng 12 năm 2005. - Về thuế suất đối với hàng hóa nhập khẩu gồm thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt và thuế suất thông thường: - Thuế suất ưu đãi áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam; Như vậy, hàng nhập của các nước thành viên WTO và các nước không là thành viên WTO nhưng có thực hiện đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam sẽ được áp dụng loại thuế suất này. - Thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với Việt Nam; Loại thuế suất này hiện đang áp cho hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước trong khối ASEAN trong khuôn khổ cam kết theo hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT để thực hiện khu vực mậu dịc h tự do ASEAN (AFTA). Đây là trường hợp một trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc tối huệ quốc (Điều XXIV của GATT). WTO công nhận các nước thuộc một thoả thuận khu vực có thể dành cho nhau những ưu đãi lớn hơn so với ưu đãi dành cho các nước thành viên WTO nằm ngoài sự thoả thuận khu vực đó. Như vậy các nước ASEAN có thể dành cho nhau không chỉ thuế suất ưu đãi thấp hơn mà còn có thể là tiêu chuẩn ký thuật ít ngặc nghèo hơn. - Thuế suất thông thường áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ không thực hiện đối xử tối huệ quốc và không thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với Việt Nam. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 có quy định chung về các biện pháp về thuế để tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hóa. Đây là công cụ thuế cần thiết để tự vệ được WTO quy định trong hiệp định chung về thuế quan và thương mại và được cụ thể trong các hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM) hiệp định bán phá giá và chống bán phá giá, hiệp định tự vệ…, nhằm hạn chế những tác động tiêu cực từ bên ngoài đối với nền sản xuất hàng hóa trong nước. Luật thuế Nhập khẩu quy định rõ: Ngoài nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu theo quy định chung thì loại hàng hóa nhập khẩu trong trường hợp sau còn áp dụng một trong những biện pháp về thuế: Tăng mức thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu quá mức vào Việt Nam theo quy định của pháp luật về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam. Thuế chống bán phá giá đối với hàng hóa bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam theo quy định của pháp luật về chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. Thuế chống trợ cấp đối với hàng hóa được trợ cấp nhập khẩu vào Việt Nam theo quy định của pháp luật về chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. Thuế chống phân biệt đối xử đối với hàng hóa được nhập khẩu vào Việt Nam có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ mà ở đó có sự phân biệt đối xử về thuế nhập khẩu hoặc có biện pháp phân biệt đối xử khác theo quy định của pháp luật về chống phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế. Luật thuế nhập khẩu quy định rõ ràng thẩm quyền quy định về thuế suất thuế nhập khẩu cho các cơ quan nhà nước cụ thể: - Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo danh mục nhóm hàng chịu thuế và khung thuế suất ưu đãi đối với từng nhóm hàng; quy định biện pháp về thuế để tự vệ, thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử. Thủ tướng chính phủ quyết định mặt hàng áp dụng thuế tuyệt đối và mức thuế tuyệt đối trong trường hợp cần thiết. - Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu đối với từng mặt hàng theo thủ tục do Chính phủ quy định, bảo đảm các nguyên tắc: Phù hợp với danh mục nhóm hàng chịu thuế và trong phạm vi khung thuế suất do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành; Góp phần bảo đảm nguồn thu ngân sách nhà nước và bình ổn thị trường; Bảo hộ sản xuất trong nước có chọn lọc, có điều kiện, có thời hạn phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Quy định trên tạo ra sự linh hoạt cần thiết để Việt Nam cùng một lúc phải thực hiện nhiều cam kết về thuế nhập khẩu trong nhiều hiệp định khác nhau với những tiến trình thực hiện từng năm khác nhau. 4. Những quy định của pháp luật thuế nhập khẩu Việt Nam còn chưa tương thích với các cam kết quốc tế của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế Bên cạnh những điểm tương thích của pháp luật thuế nhập khẩu Việt Nam với những cam kết quốc tế của Việt Nam thì bộ phận pháp luật này còn những điểm chưa tương thích với các cam kết đó. Cụ thể: Thứ nhất, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện nay chỉ mang tính chất luật khung, quy định những điểm cơ bản và tổng quát nhất về hoạt động thu, nộp thuế nhập khẩu còn những vấn đề quan trọng và nhạy cảm nhất như thuế suất, giá tính thuế… lại được quy định cụ thể, chi tiết ở những văn bản dưới luật với giá trị pháp lý thấp, tính ổn định không cao. Điều này ảnh hưởng đến tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật và từ đó không đáp ứng được đòi hỏi về tính minh bạch, công khai và dễ dự đoán trước của pháp luật thuế nhập khẩu. Thứ hai, hàng rào thuế quan còn chưa đầy đủ và chưa thực sự phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Thuế suất còn thay đổi liên tục, hệ thống thuế còn thiếu đồng bộ và quản lý thuế còn kém hiệu quả. Mức thuế suất trung bình của Việt Nam hiện nay là 17,4% cao hơn nhiều so với nhiều nước đang phát triển là thành viên của WTO (có mức thuế suất trung bình từ 10-12%). Thứ ba, vấn đề xác định trị giá hải quan trong nhập khẩu hàng hóa theo thông lệ quốc tế vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Tại Nghị định 155/2005/NĐ-CP về trị giá hải quan còn một số quy định chưa phù hợp hiệp định CVA . Cụ thể: - Để hỗ trợ cán bộ hải quan trong việc đánh giá rủi ro tiềm tàng liên quan đến tính chân thực hoặc tính chính xác của trị giá hải quan được khai báo đối với hàng nhập khẩu, Việt Nam đang xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu về giá trị. Cơ sở dữ liệu này chỉ được sử dụng như một công cụ đánh giá rủi ro và không được sử dụng để xác định trị giá hải quan đối với hàng nhập khẩu với vai trò là trị giá thay thế cho hàng nhập khẩu hay một cơ chế để xác lập giá tính thuế tối thiểu. Vì thế điều 6, Nghị định số 155/2005/NĐ- CP cần sửa để làm rõ cơ sở dữ liệu sẽ không được sử dụng để xác định trị giá hải quan đối với hàng nhập khẩu. Bộ Tài chính cần sớm ban hành hướng dẫn về việc sử dụng cơ sở dữ liệu trị giá hải quan phù hợp với “ Hướng dẫn về xây dựng và sử dụng hệ thống cơ sở dữ liệu trị giá cấp quốc gia làm công cụ đánh giá rủi ro” của Uỷ ban kỹ thuật về xác định trị giá hải quan được quy định tại phụ lục D của tài liệu VT0388E3. - Bổ sung thêm quy định: Không được yêu cầu hoặc ép buộc đối tượng không cư trú ở lãnh thổ Việt Nam phải cho kiểm tra hoặc truy cập tới các tài khoản hoặc hồ sơ khác với mục đích xác định trị giá hải quan theo phương thức trị giá tính toán, để việc thực thi phù hợp điều 6.2 của hiệp định CVA. - Pháp luật Việt Nam còn thiếu quy định (theo điều I và phụ lục diễn giải điều I:2) về phương thức tính trị giá hải quan dựa trên “các điều kiện bán hàng” nhằm xác định xem mối quan hệ đặc biệt giữa người mua và người bán có tác động tới giá hay không. - Điều 16 Nghị định 155/20005/NĐ-CP quy định về hệ thống bảo lãnh để thông quan hàng nhập khẩu trong trường hợp chưa có quyết định cuối cùng về trị giá hải quan. Hải quan sẽ chấp nhận thông quan hàng hóa với điều kiện người khai hải quan cung cấp đủ một khoản bảo đảm dưới hình thức một khoản đặt cọc, bảo lãnh hoặc các công cụ thích hợp khác ở mức đủ để thanh toán số tiền thuế hải quan của hàng nhập khẩu đó như quy định tại điều 13 của hiệp định trị giá hải quan WTO (CVA). Tuy nhiên hiện nay Việt Nam chưa có hướng dẫn cụ thể về hệ thống bảo đảm này. Những điểm không tương tương thích kể trên đã được khắc phục thông qua việc Chính phủ vừa mới ban hành Nghị định số 40/2007/NĐ-CP ngày 16 tháng 03 năm 2007 quy định về việc xác định trị giá hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu để thay thế cho nghị định 155/2005/NĐ-CP. Thứ tư, vấn đề chống trợ cấp, chống bán phá giá, tự vệ, chống phân biệt đối xử mặc dù đã được nội luật hoá trong các pháp lệnh và các nghị định hướng dẫn, tuy nhiên còn có những quy định chưa phù hợp với các hiệp định của WTO về những vấn đề trên nên chưa thể áp dụng trên thực tế. Hơn nữa Việt Nam chưa được các quốc gia thành viên WTO công nhận là nước có nền kinh tế thị trường thêm vào đó chúng ta còn có thực hiện một số hình thức trợ cấp cho hàng hoá xuất khẩu nhưng thuộc “nhóm trợ cấp vàng” mặc dù mức độ không lớn nhưng cũng không xác định được một cách chính xác tỷ lệ đó. Bởi lý do như vậy dù Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu có quy định về thuế nhập khẩu bổ sung nhưng trên thực tế không thể thực hiện được những quy định này Xem phần cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO. . Thứ năm, quy trình thủ tục hải quan Việt Nam vẫn là quy trình thủ công, mặc dù có ứng dụng công nghệ thông tin ở một số công đoạn nhưng còn thiếu đồng bộ và chưa đáp ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó, bộ hồ sơ hải quan hiện nay còn nặng nề, nhiều nội dung trùng lặp gây khó khăn cho cả doanh nghiệp và cán bộ hải quan. Bộ hồ sơ hải quan theo quy định hiện hành của của Hải quan Việt Nam nhiều hơn 4 giấy tờ so với Công ước Kyoto, gồm: chứng thư giám định, bản kê khai chi tiết hàng hóa, hợp đồng mua bán hàng hóa và tờ khai trị giá. Thứ sáu, các quy định về miễn, giảm thuế nhập khẩu trước đây còn có sự phân biệt giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước và được quy định trong nhiều luật khác nhau như khuyến khích đầu tư trong nước, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật thuế xuất nhập khẩu và cả trong một số Nghị định, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ... dẫn đến chồng chéo, không rõ ràng, phức tạp và khó theo dõi trong tổ chức thực hiện. Năm 2005 Luật thuế xuất nhập khẩu mới ban hành thì những quy định về miễn giảm thuế nhập khẩu được thực hiện trên cơ sở thống nhất giữa đầu tư trong nước và nước ngoài; tập hợp, hệ thống hóa các quy định hiện hành về miễn thuế, xét miễn thuế, giảm thuế nhập khẩu ở các văn bản quy phạm pháp luật khác vào Luật này, để đảm bảo tính công bằng và minh bạch về chính sách, không phân biệt đối xử theo đúng quy định của WTO. Tại điểm 6, Điểm 15,16 Điều 16, Nghị định số 149/2005/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2005 quy định chi tiết luật thuế xuất khẩu, nhập khu quy định miễn thuế nhập khẩu cho Hàng hoá nhập khẩu để tạo tài sản cố định của dự án khuyến khích đầu tư; Nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để sản xuất của các dự án thuộc Danh mục lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư ...được miễn thuế nhập khẩu trong thời hạn 5 (năm) năm, kể từ ngày bắt đầu sản xuất; Nguyên liệu, vật tư, bán thành phẩm trong nước chưa sản xuất được nhập khẩu để phục vụ sản xuất của dự án thuộc Danh mục lĩnh vực khuyến khích đầu tư, bán thành phẩm trong nước chưa sản xuất được nhập khẩu để phục vụ sản xuất của dự án thuộc Danh mục lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư được miễn thuế nhập khẩu trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày bắt đầu sản xuất... Tại phụ lục ban hành kèm nghị định số 149/2005/NĐ-CP quy định: “Danh mục lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư gồm:... Sản xuất, chế biến xuất khẩu 80% sản phẩm trở lên;... Chế biến nông sản, lâm sản (trừ gỗ), thủy sản từ nguồn nguyên liệu trong nước xuất khẩu 50% sản phẩm trở lên; Danh mục lĩnh vực khuyến khích đầu tư gồm : ..Sản xuất, chế biến xuất khẩu từ 50% sản phẩm trở lên;... Sản xuất, chế biến xuất khẩu, kinh doanh hàng hoá có mức xuất khẩu đạt giá trị trên 30% tổng giá trị hàng hoá sản xuất, kinh doanh của dự án trong năm tài chính;... Chế biến nông sản từ nguồn nguyên liệu trong nước”; Thực chất những quy định trên là miễn thuế nhập khẩu có gắn với thành tích xuất khẩu và sử dụng nguyên liệu trong nước....Quy định này trái với quy định trong WTO cụ thể đã sử dụng hình thức trợ cấp bị cấm và vi phạm nguyên tắc đối xử quốc gia. Chính vì quy định như vậy tại điểm d, khoản 2 Điều 88, Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật đầu tư quy định: “ Nghị định này bãi bỏ danh mục lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư quy định tại Nghị định số 149/2005/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2005 quy định chi tiết thi hành Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu”; Đồng thời nghị định số 108/2006/NĐ-CP đã ban hành danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư và danh mục địa bàn ưu đãi đầu tư mới thống nhất cho tất cả các luật có liên quan khi có quy định về lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư. 5. Thực tiễn thực hiện pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam thời gian qua Kể từ khi Quốc hội ban hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 1991 (sửa đổi bổ sung năm 1993 và năm 1998), Luật đã tạo ra môi trường pháp lý thống nhất, tạo cơ sở cho hoạt động thu, nộp thuế nhập khẩu tiến hành một cách hiệu quả, góp một khoản thu quan trọng cho ngân sách nhà nước, củng cố quan hệ kinh tế quốc tế giữa Việt Nam với các nước qua các thời kỳ. Tuy nhiên, trải qua 14 năm thực hiện, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã bộc lộ nhiều thiếu sót, gây thất thu cho ngân sách nhà nước và ảnh hưởng đến quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong thời kỳ mới, nhất là khi Việt Nam chuẩn bị gia nhập WTO. Để khắc phục những điểm yếu đó, Quốc hội đã thông qua Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ngày 14/06/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2006. Thực tế hơn một năm thực hiện luật mới cho thấy: Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 về cơ bản đã được xây dựng phù hợp với những quy tắc và định chế của pháp luật kinh tế quốc tế, góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế đối ngoại và yêu cầu về thu ngân sách nhà nước. Luật đã có những quy định mới về đối tượng không chịu thuế và miễn thuế, về giá trị hải quan, kiểm tra hải quan, tạo ra môi trường bình đẳng cho các loại hàng hóa nhập khẩu vào nước ta… Tuy nhiên, trong hơn một năm thực thi, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng đã thể hiện một số điểm bất cập như sau: Có nhiều quy định còn chưa thống nhất, nhiều quy định của Luật còn gây khó hiểu như quy định về thuế suất thông thường là không quá 70% thuế suất ưu đãi. Điều này có thể là cho người đọc hiểu là thuế suất thông thường chỉ nhỏ hơn hoặc bằng 70% thuế suất ưu đãi. Quy định này cũng đồng nghĩa là Bộ Tài chính có thể áp dụng mức thuế suất trong khoảng từ 100% đến 170% so với thuế suất ưu đãi của loại hàng hóa tương ứng, nhưng theo Thông tư 113/2005/TT-BTC của Bộ Tài chính thì lại quy định mức thuế suất này là bằng 150% thuế suất ưu đãi.Như vậy việc áp dụng quy định này là chưa linh hoạt, chưa thực sự hợp lý với những loại hàng hóa nhập khẩu khác nhau. Hệ thống văn bản pháp luật chưa đầy đủ, giá trị pháp lý của các văn bản pháp luật cũng chưa tương xứng với các nội dung điều chỉnh. Trong tình hình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, phạm vi của các hoạt động thương mại là rất lớn, có nhiều loại hàng hóa nhập khẩu vào nước ta. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã có những quy định về các biện pháp về thuế bổ sung như thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hóa. Bảo hộ nền sản xuất trong nước là một nội dung quan trọng của pháp luật thuế nhập khẩu nhưng trên thực tế hiện nay Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về thuế tự vệ (năm 2002), Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá và Pháp lệnh về thuế chống trợ cấp, Pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc, đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế. Chính phủ ban hành các nghị định hướng dẫn thi hành nhưng có một số quy định chưa phù hợp các hiệp định của WTO nên trên thực tế thuế chống bán phá giá, thuế đối kháng, thuế chống phân biệt đối xử, thuế tự vệ chỉ mới tồn tại trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chưa thể đưa vào áp dụng trong thực tiễn. Khi Việt Nam đã gia nhập WTO như hiện nay, nếu những quy định trên không được sửa đổi bổ sung thì sẽ là một điều bất lợi lớn cho quá trình bảo hộ một cách hợp lý nền sản xuất trong nước. Những quy định của pháp luật thuế nhập khẩu còn chồng chéo, gây khó khăn cho việc thực hiện và thực tế quản lý. Như quy định tại điều 15 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 đã đề ra những thời hạn nộp thuế rõ ràng trong khi khoản 1 điều 28 Luật Hải quan sửa đổi, bổ sung năm 2005 lại quy định về kiểm tra, đăng ký hồ sơ hải quan lấy tiêu chí ý thức chấp hành tốt luật này là chính. Khi thực hiện việc thu thuế sẽ gây ra những chồng chéo, phức tạp nhất định cho cả chủ thể nộp thuế và cơ qua thu thuế. Ngoài ra, những quy định về bảo lãnh riêng cho hàng nhập khẩu là hàng tiêu dùng so với hàng hóa nhập khẩu khác cũng chưa thống nhất. Trong khi Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 đặt ra những điều kiện đối với những đối tượng hàng hóa nhập khẩu ( điều 15 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005) thì Nghị định 149/2005/NĐ-CP ngày 8/12/2005 (điều 14) và thông tư 113/2005/TT-BTC (mục III, phần C) lại lấy tiêu chí chính là sự tuân thủ pháp luật của chủ thể nộp thuế. Bên cạnh đó còn có những bất cập khác đó là quy định mới về việc không truy thu đối với hàng hóa thuộc diện phải truy thu nếu chuyển nhượng lại cho các tổ chức, cá nhân thuộc diện miễn, xét miễn thuế (khoản 1, điều 21 Nghị định 149/2005/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005). Quy định này có thể dẫn đến việc chủ thể nộp thuế sẽ câu kết với các tổ chức, cá nhân thuộc diện này hoặc các cán bộ hải quan làm hồ sơ giả để không bị truy thu thuế. Điều này sẽ gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Ngoài ra có những quy định về khung pháp lý liên quan đến quy trình thủ hải quan do các Bộ, ngành và Tổng cục Hải quan ban hành còn chồng chéo, mâu thuẫn, gây khó khăn cho việc thực thi quy trình thủ tục tại cửa khẩu. Theo thống kê, tỷ lệ các văn bản do Tổng cục Hải quan ban hành chỉ chiếm 20% tổng số các văn bản pháp quy mà cơ quan Hải quan tại cửa khẩu phải thực hiện. Bên cạnh đó, bộ hồ sơ hải quan hiện nay còn nặng nề, nhiều nội dung trùng lặp gây khó khăn cho cả doanh nghiệp và cán bộ hải quan. Bộ hồ sơ theo quy định hiện hành của Hải quan Việt Nam nhiều hơn 4 giấy tờ so với Công ước Kyôtô, gồm : chứng thư giám thị, bản kê khai chi tiết hàng hóa, hợp đồng mua bán hàng hóa, tờ khai trị giá. Hay như quy định tại khoản 1, điều 15 Luật hải quan sửa đổi, bổ sung năm 2005 thì kiểm tra hải quan được thực hiện trên cơ sở phân tích thông tin, đánh giá việc chấp hành pháp luật của chủ hàng, mức độ rủi ro về vi phạm pháp luật hải quan để bảo đảm quản lý nhà nước về hải quan và không gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Quy định này cho thấy một hạn chế đó là việc kiểm tra hải quan phụ thuộc lớn vào ý chí chủ quan của cơ quan hải quan. CHƯƠNG III PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THUẾ NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY NHẰM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 1. Những định hướng cơ bản trong việc hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay Trước thực tế thực hiện pháp luật thuế nhập khẩu như trên, một yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế nhập khẩu Việt Nam để đáp ứng những đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và việc đó phải dựa trên những định hướng sau đây: Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật thuê nhập khẩu cần phải quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế, phải chủ động, tích cực hội nhập để phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện đầy đủ cam kết của mình trong tiến trình hội nhập, từ đó nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ kinh tế quốc tế. Thứ hai, hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu cần quan tâm đến vấn đề bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Đây là chức năng quan trọng của thuế nói chung và thuế nhập khẩu nói riêng. Hàng năm, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đóng góp một tỷ trọng lớn vào tổng thu ngân sách nhà nước ( khoảng 15%). Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, xu hướng giảm dần thuế nhập khẩu sẽ gây ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách nhà nước, vì vậy việc hoàn thiện pháp luật nhập khẩu phải đảm bảo xác định số thu ngân sách nhà nước giảm tương đối sát thực tế, và thực hiện theo đúng tiến trình giảm thuế theo cam kết, đồng thời tạo ra sự thay đổi cơ cấu nguồn thu từ thuế hợp lý. Thứ ba, hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu phải bảo đảm sự bảo hộ đúng đắn nền sản xuất trong nước.Bảo hộ sản xuất trong nước cũng là một trong những chức năng của thuế nhập khẩu. WTO có những ưu đãi về thuế nhập khẩu và các loại thuế nhập khẩu bổ sung. Việt Nam phải xây dựng lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu phù hợp để bảo hộ một cách hợp lý nền sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh khốc liệt của xu hướng toàn cầu hóa thương mại. Thứ tư, hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu phải hướng tới một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, có tính ổn định cao, minh bạch, thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong nước và quốc tế. 2. Những giải pháp cụ thể 2.1. Ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật cho phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế Dựa trên sự phân tích về cơ sở lý luận, thực tiễn thực hiện và những định hướng trên, chúng ta cần hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế nhập khẩu để tạo ra một hành lang pháp lý đầy đủ và thống nhất cho hoạt động nhâp khẩu nói chung và việc hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam nói riêng. Cụ thể: Tiếp tục hoàn thiện các quy định về thuế nhập khẩu để tự vệ, thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử để đảm bảo lợi ích của Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế. Xuất phát từ kinh nghiệm của một số nước, kinh nghiệm của những sự kiện thương mại gần đây và theo quy định chung của WTO, chúng ta cần ban hành Luật chống bán phá giá, Luật chống trợ cấp, Luật chống phân biệt đối xử và Luật tự vệ trong thương mại quốc tế để thay thế cho Pháp lệnh hiện hành nhằm bảo đảm phù hợp với các các quy định của WTO để các doanh nghiệp Việt Nam không còn chịu thiệt thòi khi tham gia vào thương mại quốc tế. Về thuế suất thì hiện nay thuế suất nước ta còn có nhiều khung với các mức thuế suất khác nhau. đặc biệt quy định về thuế suất thuế nhập khẩu “thuế suất thông thường được quy định không quá 70% so với thuế suất ưu đãi” cũng dễ gây hiểu nhầm cho người đọc. Vì vậy, người viết kiến nghị có những quy định mới giảm bớt sự chênh lệch giữa các mức thuế suất, xây dựng lộ trình giảm thuế suất thuế nhập khẩu hợp lý để phù hợp với tiến trình hội nhập. Đặc biệt, cần sửa đổi cách quy định về tỷ lệ thuế suất thông thường so với thuế suất ưu đãi để tránh những hiểu lầm không đáng có trong quá trình thực hiện hoạt động thu và nộp thuế nhập khẩu. Về thuế suất tuyệt đối trong nhập khẩu hàng hoá nên hạn chế áp dụng và cần quy định rõ trong Luật thuế nhập khẩu danh mục những mặt hàng có thể được đưa vào áp dụng loại thuế suất này. Có như vậy mới bảo đảm tính rõ ràng công khai minh bạch một trong những nguyên tắc của WTO. Khi cần chuyển đổi thuế suất theo tỷ lệ % của một số mặt hàng nào đó sang thuế suất tuyệt đối hoặc thuế suất kết hợp nhằm đối phó với tình trạng gian lận hải quan thì phải chú ý thực hiện cam kết là thuế tuyệt đối hay kết hợp cũng không được vượt quá thuế suất mình đã cam kết ràng buộc. Về miễn giảm thuế nhập khẩu cần rà soát lại toàn bộ các trường hợp miễn giảm thuế nhập khẩu trong luật thuế nhập khẩu và các văn bản hướng dẫn và sửa đổi ngay những quy định không phù hợp với các quy định của WTO và cam kết của Việt nam khi gia nhập, cụ thể: Việt Nam cam kết kể từ khi gia nhập VN sẽ áp dụng việc miễn giảm thuế nhập khẩu bảo đảm nguyên tắc đối xử tối huệ quốc đối với hàng hoá nhập khẩu. Việt Nam sẽ không miễn giảm thuế nhập khẩu dựa trên thành tích xuất khẩu, tỷ lệ xuất khẩu, hay các yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá . Đối với các loại phí và lệ phí liên quan đến nhập khẩu cần được rà soát, điều chỉnh lại cho phù hợp với cam kết số phí, lệ phí thực thu không vượt quá chi phí của dịch vụ được cung ứng, không nhằm mục đích thu ngân sách, không có phân biệt đối với hàng nhập khẩu hay hàng xuất khẩu không có ngoại lệ dựa trên xuất xứ của nước xuất hàng hoặc đích đến.. Các khoản phí dựa theo giá trị hoặc khối lượng nhập khẩu hoặc nhằm mục đích thu ngân sách sẽ được bãi bỏ hoặc được sửa đổi cho phù hợp với quy định của điều VIII GATT. Về thời hạn nộp thuế, cần sửa đổi để có một cách hiểu chính xác và thống nhất về thời hạn nộp thuế. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 có quy định về thời hạn nộp thuế chưa thống nhất với Luật hải quan sửa đổi, bổ sung năm 2005 vì vậy cần có sự điều chỉnh để tạo ra sự đồng bộ trong các quy định. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nên lấy tiêu chí ý thức chấp hành tốt Luật Hải quan để chủ thể nộp thuế nâng cao hơn nữa ý thức tuân thủ pháp luật. Việc truy thu thuế cũng có những quy định của luật tạo nhiều kẽ hở để các chủ thể nộp thuế trốn tránh hoặc gian lận thuế. Vì vậy pháp luật cần có những quy định để tạo ra một cơ chế giám sát phù hợp quá trình chuyển nhượng tài sản của đối tượng bị truy thu thuế nhưng đã thực hiện việc chuyển nhượng cho các đối tượng thuộc diện miễn thuế, xét miễn thuế… 2.2. Hoàn thiện các biện pháp tổ chức và bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về thuế nhập khẩu Về vấn đề đơn giản hóa thủ tục hải quan, Tổng cục Hải quan phải kết hợp với Bộ Tài chính cải cách và phổ biến cách thức quản lý mới. Chúng ta cần đơn giản hóa bộ hồ sơ hải quan, cụ thể là bỏ bớt một số giấy tờ như giấy giới thiệu, tờ khai trị giá, bộ hồ sơ coppy, hợp đồng thương mại. Đặc biệt, nhóm hàng gia công yêu cầu nộp bảng khai nguyên vật liệu do doanh nghiệp tự cung ứng trong nước là không thực tế. Bên cạnh đó, chúng ta cần cải cách mạnh mẽ khung pháp lý quản lý hàng nhập khẩu theo hướng đơn giản, công khai và minh bạch đồng thời tăng cường hiện đại hóa ngành hải quan thông qua việc áp dụng công nghệ thông tin vào thực hiện thủ tục hải quan. Đi đôi với việc cải cách thủ tục hành chính, chúng ta cần đào tạo, rèn luyện đội ngũ công chức thực hiện chính sách thuế nhập khẩu vì nếu như có một hệ thống pháp luật khoa học, đúng đắn nhưng người thực hiện không làm đúng, làm tốt nhiệm vụ của mình thì cũng không thể mang lại hiệu quả cao được. Theo đó, chúng ta cần lựa chọn công chức có đạo đức, trình độ để bố trí vào những bộ phận cụ thể, có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại cán bộ hải quan để nâng cao trình độ nghiệp vụ của họ đồng thời xử lý nghiêm minh công chức vi phạm pháp luật thuế nhập khẩu. Tăng cường công tác tuyên truyền, hướng dẫn và chỉ đạo chính sách thuế nhập khẩu cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước có tham gia vào quan hệ thuế nhập khẩu để nâng cao trình độ hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật thuế nhập khẩu của các doanh nghiệp. Từ đó sẽ đảm bảo cho hoạt động thu, nộp thuế nhập khẩu tiến hành dễ dàng và hiệu quả hơn. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật thuế nhập khẩu vì công tác thanh tra, kiểm tra có tác dụng bảo đảm việc tổ chức thực hiện pháp luật thuế nhập khẩu đúng đắn hơn, phát hiện những sơ hở, hạn chế của chính sách để từ đó có thể khắc phục kịp thời, đồng thời tránh tình trạng quan liêu, cửa quyền hay lợi dụng quyền hạn để làm trái pháp luật của một số cán bộ công chức nhà nước. KẾT LUẬN Toàn cầu hóa là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước tham gia, nó vừa thúc đẩy cạnh tranh vừa tăng cường hợp tác và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Đối với Việt Nam, tiến trình hội nhập gắn liền với việc thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Vì vậy, bên cạnh việc xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng kinh tế thì trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa chúng ta cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật thuế nhập khẩu cho phù hợp với những nguyên tắc pháp lý quốc tế chung. Từ quá trình nghiên cứu toàn bộ hệ thống pháp luật thuế nhập khẩu Việt Nam, có thể rút ra một số kết luận sau: Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 sau khi được ban hành đã tạo ra một môi trường pháp lý cho quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Luật có những quy định phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết. Điều này đã đảm bảo cho hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam được tiến hành một cách thuận lợi. Bên cạnh đó Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã có mối liên hệ chặt chẽ với các luật khác, đặc biệt là luật hải quan sửa đổi, bổ sung năm 2005 như những quy định về cách tính trị giá hải quan, kê khai và thu thuế, các quy định về miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế, truy thu thuế…Mối liên hệ này về cơ bản đã tạo ra sự thống nhất trong việc hành thu thuế nhập khẩu. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 cũng đã thống nhất được những quy định về ưu đãi về thuế trong các văn bản pháp luật khác nhau trước đây và đã có những quy định thống nhất, công bằng trong ưu đãi về thuế đối với các doanh nghiệp cả trong và ngoài nước. Điều này đã khích lệ các doanh nghiệp phát triển sản xuất, tăng cường hoạt động xuất nhập khẩu và nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật thuế nhập khẩu. Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 còn có những quy định chưa hợp lý, có những quy định chưa thống nhất với Luật hải quan sửa đổi, bổ sung năm 2005, Luật còn có những nhược điểm trong các quy định về biểu thuế, thuế suất, thời hạn nộp thuế, truy thu thuế…khiến cho quá trình thực hiện Luật còn nhiều điều bất cập, gây khó khăn cho hoạt động thu, nộp thuế nhập khẩu Với khóa luận này, người viết hy vọng việc nghiên cứu đề tài và những giải pháp được đề xuất trên sẽ góp phần vào quá trình hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu, tạo ra một môi trường pháp lý thống nhất, minh bạch, thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu cũng như cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Khóa luận này không tránh khỏi những khiếm khuyết do kiến thức của người viết còn hạn chế, người viết rất mong được sự phê bình, góp ý của các thầy, cô giáo và các bạn để khóa luận được hoàn thiện. BẢNG GIẢI THÍCH CHỮ VIẾT TẮT - CEPT: Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung. - WTO: Tổ chức thương mại thế giới - GATT: Hiệp định chung về thương mại và thuế quan - ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á - ACV: Hiệp định về trị giá hải quan WTO - SCM: Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng - AFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - ROO: Hiệp định về quy chế xuất xứ hàng hóa - CIF: Tiền hàng, phí bảo hiểm và cước phí - MFN: Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc - NT: Nguyên tắc đối xử quốc gia DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia 2. Các văn kiện gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO của Việt Nam,Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế,Nxb Chính trị quốc gia năm 2006 3. Văn kiện và biểu thuế gia nhập WTO của Việt Nam I,II- Bộ Tài chính,Nxb Tài chính 4. Bộ Tài chính,Giáo trình thuế nhà nước, Nxb Thống kê năm 2002 5. Đại học Luật Hà Nội,Giáo trình Luật thuế Việt Nam, Nxb Tư pháp,năm 2005 6. Đại học Luật Hà Nội,Giáo trình quan hệ kinh tế quốc tế,Nxb Công an nhân dân năm 2005 7. Đại học Luật Hà Nội,Giáo trình Thương mại quốc tế,Nxb Tư pháp năm 2006 8. Kiều Dương, “Pháp luật Việt Nam về thuế xuất khẩu,thuế nhập khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”,Luận văn thạc sỹ luật học,năm 2005 9. Tạp chí nghiên cứu Hải quan,số tháng 3,tháng 6 và tháng 12 năm 2005 10. Tạp chí Tài chính số tháng 4 và tháng 7 năm 2005 11. Luật thuế xuất khẩu,thuế nhập khẩu hàng mậu dịch năm 1987 12. Luật thuế xuất khẩu,thuế nhập khẩu năm 1991 và Luật sửa đổi,bổ sung năm 1993 và năm 1998 13. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 14. Luật hải quan năm 2000 và Luật sửa đổi,bổ sung năm 2005 15. Nghị định số 149/2005/NĐ-CP ngày 08/12/2005 quy định hướng dẫn thi hành luật thuế xuât khẩu,thuế nhập khẩu năm 2005 16. Nghị định 115/2005/NĐ-CP quy định về xác định trị giá hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu,nhập khẩu 17. Nghị định số 40/2007/NĐ-CP ngày 16/06/2007 quy định về việc xác định trị giá hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu,nhập khẩu 18. Nghị định số 154/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 quy định chi tiết một số diều của Luật hải quan về thủ tục hải quan,kiểm tra,giám sát hải quan 19. Thông tư 113/2005/TT-BTC ngày 15/12/2005 hướng dẫn thi hành thuế xuất khẩu,thuế nhập khẩu 20. Pháp lệnh số 42/2002/PL-UBTVQH10 ngày 25/05/2002 vè các biện pháp tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam 21. Pháp lệnh số 20/2004/PL-UBTVQH11 ngày 29/04/2004 về chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam 22. Pháp lệnh số 22/2004/PL-UBTVQH11 ngày 20/08/2004 về chống trợ cấp hàng đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam 23. Báo cáo sơ kết thực hiện Luật hải quan sửa đổi,bổ sung năm 2005 và Luật thuế xuất khẩu,thuế nhập khẩu năm 2005 của Bộ Tài chính ngày 01/03/2006 24. Cổng thông tin Chính phủ điện tử 25. Trang web Bộ Tài chính 26. Trang web Bộ Thương mại 27. Trang web Tổng cục thuế 28. Trang web Tổng cục hải quan MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLDOCS (82).DOC
Tài liệu liên quan