LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I 4
TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG CƠ QUAN QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI Ở NƯỚC TA 4
1. Sự cần thiết của việc Nhà nước quản lý đất đai 4
1.1. Vị trí và vai trò của đất đai với con người 4
1.3.1. Khái niệm 7
1.3.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về đất đai 8
2. Khái niệm hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai ở nước ta 9
2.1. Khái niệm hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai 9
2.2. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai ở nước ta 10
2.2.1. Hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước 10
2.2.2. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai có thẩm quyền chung 11
2.2.3. Hệ thống cơ quan chuyên ngành quản lý nhà nước về đất đai 11
2.2.4. Các tổ chức dịch vụ công trong quản lý về SDĐ 12
3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai ở nước ta 14
3.1. Giai đoạn trước năm 2003 14
4. Khái quát về mô hình hệ thống cơ quan quản lý đất đai của một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 17
4.1. Khái quát về mô hình hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở Trung Quốc 17
4.2. Khái quát về mô hình hệ thống cơ quan quản lý đất đai của Cộng hòa liên bang Đức 18
4.3. Khái quát về mô hình hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở Vương quốc Thái Lan 19
4.5. Bài học kinh nghiệm rỳt ra đối với Việt Nam từ việc nghiên cứu mô hình hệ thống cơ quan quản lý đất đai của một số nước trên thế giới 20
CHƯƠNG II 22
PHÁP LUẬT VỀ HỆ THỐNG CƠ QUAN QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI 22
Ở NƯỚC TA 22
1. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu, tổ chức của Bộ tài nguyên và môi trường 22
1.1. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ Tài nguyên và Môi trường 22
1.1.1. Nhiệm vụ và quyền hạn chung 22
1.1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể 23
1.2. Cơ cấu, tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường 27
1.2.1. Các tổ chức giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý Nhà nước 27
1.2.2. Các tổ chức sự nghiệp trực thuộc Bộ 28
1.2.3. Về biên chế của Bộ Tài nguyên và Môi trường 29
2. Chức năng nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Sở tài nguyên và môi trường 29
2.1. Nhiệm vụ và quyền hạn của Sở Tài nguyên và Môi trường 29
2.2.1. Về lãnh đạo Sở 33
2.2.2. Các tổ chức giúp việc Giám đốc Sở 34
2.2.3. Các tổ chức sự nghiệp 34
3. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chuyên môn giúp UBND huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh quản lý hà nước về tài nguyên môi trường 34
3.1. Nhiệm vụ và quyền hạn của Phòng Tài nguyên và Môi trường 35
3.2. Cơ cấu tổ chức của Phòng Tài nguyên và Môi trường 36
3.2.1. Cơ cấu tổ chức 36
3.2.2. Các bộ phận chuyên môn nghiệp vụ 37
4. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cán bộ địa chính cấp xã 37
4.1. Chức năng, nhiệm vụ của cán bộ địa chính xã 37
4.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của cán bộ địa chính xã 38
5. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống cơ quan dịch vụ về đất đai 39
5.1. Văn phòng đăng ký QSDĐ 39
5.1.1. Nhiệm vụ và quyền hạn của Văn phòng đăng ký QSDĐ cấp tỉnh 40
5.1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Văn phòng đăng ký QSDĐ cấp huyện 41
5.2. Tổ chức phát triển quỹ đất 43
5.2.1. Nhiệm vụ của tổ chức phát triển quỹ đất 43
5.2.2. Quyền hạn của Tổ chức phát triển quỹ đất 44
5.3. Tổ chức hoạt động tư vấn trong quản lý và SDĐ 45
5.3.1. Tư vấn về giá đất 46
5.3.2. Tư vấn lập quy hoạch, kế hoạch SDĐ 46
5.3.3. Hoạt động dịch vụ và tư vấn về đo đạc, lập bản đồ địa chính 46
5.3.4. Hoạt động dịch vụ về thông tin đất đai 47
5.3.5. Trách nhiệm quy định điều kiện và thủ tục cấp phép 47
6. Thực trạng hoạt động của hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở nước ta 47
6.1. Những ưu điểm 47
6.2. Những nhược điểm, tồn tại 49
6.3. Sự cần thiết tiếp tục củng cố và hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở nước ta 53
CHƯƠNG III 56
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ 56
HỆ THỐNG CƠ QUAN QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 56
1. Nững định hướng chủ yếu hoàn thiện pháp luật về hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở nước ta hiện nay 56
1.1. Kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý đất đai đặt trong tổng thể quá trình cải cách bộ máy hành chính; xác định rõ chức năng, cơ cấu tổ chức của từng cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai 56
1.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý đất đai dựa trên nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch, đảm bảo sự quản lý tập trung thống nhất của cấp trung ương; đồng thời phân cấp cho địa phương trong quản lý đất đai 58
1.3. Hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý đất đai dựa trên cơ sở nâng cao năng lực, trình độ, chuyên môn nghiệp vụ và thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đất đai 59
1.4. Hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý đất đai phải dựa trên việc đáp ứng các yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế 59
2. Một số giải pháp cụ thể góp phần hoàn thiện pháp luật về hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở nước ta hiện nay 60
2.1. Hoàn thiện cỏc quy định về cơ cấu tổ chức của hệ thống cơ quan quản lý 60
2.1.1. Giải pháp thứ nhất 60
2.1.2. Giải pháp thứ hai 61
2.1.3. Giải pháp thứ ba 61
2.1.4. Giải pháp thứ tư 62
2.1.5. Giải pháp thứ năm 63
2.2. Hoàn thiện cỏc quy định về nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động của cơ quan quản lý đất đai 63
2.2.1 Xây dựng cơ chế “một cửa” 63
2.2.2. Thực hiện công khai, minh bạch trong quản lý đất đai 64
2.2.3. Giải pháp khắc phục tình trạng “quy hoạch treo” và quản lý thị trường bất động sản (BĐS) 64
2.3. Hoàn thiện cỏc quy định về đổi mới và nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành tài nguyờn và mụi trường 66
2.3.1. Giải pháp nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ hiện có 66
2.3.2. Giải pháp thu hút nguồn nhân lực 67
2.4. Hoàn thiện cỏc quy định nhằm huy động nguồn tài chính cho quá trình hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai ở nước ta 68
KẾT LUẬN 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO 71
79 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2398 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Pháp luật về hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được thành lập khi thỏa món cỏc điều kiện do phỏp luật quy định về năng lực, trỡnh độ, đội ngũ cỏn bộ chuyờn mụn cú chứng chỉ hành nghề tư vấn về lập quy hoạch, kế hoạch SDĐ;
5.3.3. Hoạt động dịch vụ và tư vấn về đo đạc, lập bản đồ địa chính
Hoạt động dịch vụ tư vấn về đo đạc, lập bản đồ địa chính được thực hiện cho Sở Tài nguyên và Môi trường, phòng Tài nguyên và Môi trường. Đây là một hoạt động mang tính chất nghiệp vụ và chuyên môn cao đòi hỏi máy móc thiết bị hiện đại, chuẩn xác. Việc ra đời tổ chức tư vấn về lĩnh vực này chính là xã hội hóa công tác đo đạc, lập bản đồ địa chính và đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội.
5.3.4. Hoạt động dịch vụ về thông tin đất đai
Tổ chức hoạt động dịch vụ thông tin đất đai thực hiện các yêu cầu của tổ chức, cá nhân có nhu cầu nắm bắt những thông tin về quy hoạch, kế hoạch SDĐ, về trích lục bản đồ địa chính ...;
Đây là một hình thức dịch vụ nhằm tăng khả năng đáp ứng nhu cầu của người dân trong thực hiện thủ tục hành chính đặc biệt là thủ tục liên quan đến lĩnh vực đất đai.
5.3.5. Trách nhiệm quy định điều kiện và thủ tục cấp phép
Trách nhiệm quy định điều kiện và thủ tục cấp phép hoạt động, đăng ký hoạt động dịch vụ trong quản lý và SDĐ được pháp luật đất đai quy định cụ thể như sau:
(i) Bộ Tài chính quy định điều kiện và thủ tục cấp phép hoạt động, đăng ký hoạt động tư vấn giá đất;
(ii) Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định điều kiện hoạt động, đăng ký hoạt động tư vấn về lập quy hoạch, kế hoạch SDĐ, dịch vụ về thông tin đất đai; điều kiện và thủ tục cấp phép hoạt động, đăng ký hoạt động dịch vụ về đo đạc và bản đồ địa chính;
Tóm lại: Việc thành lập các loại hình tổ chức dịch vụ trong quản lý và SDĐ đai đã làm giảm áp lực cho các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai trong việc giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến việc thực hiện các quyền của người SDĐ theo hướng đơn giản, tiện lợi, dân chủ, công khai và minh bạch. Đây là một điểm “sáng” của Luật Đất đai 2003 và của quá trình cải cách hành chính của nước ta.
6. Thực trạng hoạt động của hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở nước ta
6.1. Những ưu điểm
Hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai ở nước ta không ngừng được củng cố và kiện toàn nhằm đáp ứng đòi hỏi của quá trình quản lý đất đai trong thời kỳ tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
Hệ thống cơ quan quản lý đất đai được thành lập theo một hệ thống thống nhất: ở Trung ương là Bộ Tài nguyên và Môi trường; ở 64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là Sở Tài nguyên và Môi trường; ở cấp huyện thành lập Phòng Tài nguyên và Môi trường, ở cấp xó là cỏn bộ địa chính xã. Bên cạnh đó, Văn phòng đăng ký QSDĐ được thành lập với chức năng là tổ chức dịch vụ công về đất đai nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội liên quan đến việc cải cách các thủ tục hành chính về đất đai. Tiếp đó, Tổ chức phát triển quỹ đất và các tổ chức dịch vụ trong lĩnh vực đất đai ra đời nhằm hỗ trợ các cơ quan công quyền trong việc giải quyết các công việc mang tính chất hành chính cho người dân. Các cơ quan này được thành lập dựa trên nguyên tắc: “Một việc chỉ giao cho một tổ chức, không chia nhỏ một việc cho nhiều tổ chức khác nhau”. Với cách làm như vậy cho tới nay, tất cả các cơ quan quản lý đất đai từ trung ương đến địa phương đã đi vào hoạt động tương đối ổn định. Thụng qua những hoạt động của mình, các cơ quan quản lý đất đai đã gây dựng được lòng tin với nhân dân và đưa công tác quản lý đất đai đi vào nền nếp. Bên cạnh đó, việc thành lập hệ thống cơ quan tài nguyên và môi trường các cấp đã gắn công tác quản lý đất đai với vấn đề bảo vệ môi trường. Đây là tiền đề quan trọng đảm bảo cho việc tăng trưởng kinh tế bền vững. Hoạt động của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai trong thời gian qua đã đóp góp tích cực vào những thành tựu phát triển của đất nước: "... Người sử dụng đất gắn bó nhiều hơn với đất đai. Đất đai được sử dụng có hiệu quả hơn. Đất xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển công nghiệp, dịch vụ và xây dựng đô thị tăng tương đối nhanh, đồng thời diện tích đất sản xuất nông nghiệp vẫn tiếp tục tăng ... Quyền sử dụng đất đã bước đầu trở thành một nguồn vốn để Nhà nước và nhân dân đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh. Thị trường bất động sản tuy còn sơ khai, nhưng đã thu hút được một lượng vốn khá lớn vào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện về mặt bằng cho các ngành sản xuất, kinh doanh phát triển, cải thiện điều kiện về nhà ở cho nhân dân, nhất là tại các đô thị". Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành trung ương, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2003, tr.57 - 58.
6.2. Những nhược điểm, tồn tại
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai còn bộc lộ những tồn tại, bất cấp ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả công tác quản lý nhà nước về đất đai. Những tồn tại, bất cập này được biểu hiện trên các khía cạnh cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về chức năng
(i) Về chức năng quản lý nhà nước đối với tài nguyên thiên nhiên
Điều 1 Nghị định số 91/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xác định: "Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên nước ...". Trong khi đó, Điều 1 của Nghị định số 86/2003/NĐ-CP của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng xác định: "Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thủy lợi và phát triển nông thôn trong phạm vi cả nước ...". Như vậy, qua chức năng của 2 Bộ nêu trên chúng ta thấy rằng Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý nhà nước về các loại tài nguyên thiên nhiên nhưng lại chưa quản lý nhà nước về tài nguyên rừng. Trong khi đó Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là bộ sử dụng tài nguyên đồng thời cũng là bộ quản lý nhà nước về lâm nghiệp. Điều này là chưa hợp lý, chưa tách bạch được cơ quan quản lý tài nguyên và cơ quan sử dụng tài nguyên;
(ii) Về chức năng quản lý nhà nước các dịch vụ công
Việc quy định bộ có chức năng quản lý nhà nước trong các lĩnh vực chuyên ngành hoàn toàn giống như Điều 22 Luật tổ chức Chính phủ và Nghị định số 86/2002/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ. Trên thực tế, nội hàm quy định này chưa thật chính xác vì rất nhiều hoạt động trong một số lĩnh vực chuyên ngành thuộc chức năng của Bộ vốn dĩ chỉ là các hoạt động phục vụ cho chức năng quản lý nhà nước của Bộ như hoạt động quan trắc, phân tích và dự báo khí tượng thủy văn, quan trắc và phân tích môi trường ... Do đó, quy định như vậy nhưng thực ra không có ý nghĩa điều chỉnh nhiều, ngoài việc nhận thức về tầm quan trọng của các hoạt động đó. Với cách thức quy định về chức năng như trong các văn bản hiện hành thì cũng chưa thể hiện được rõ quan điểm tách bạch rõ chức năng chức năng quản lý nhà nước với quản lý các dịch vụ công. Thực chất chức năng quản lý các hoạt động dịch vụ công của Bộ Tài nguyên và Môi trường hiện nay là tổ chức thực hiện công tác điều tra cơ bản, xử lý, cung cấp thông tin, tư liệu, dự báo khí tượng thủy văn, xuất bản và hiệu chỉnh các loại bản đồ địa hình cơ bản, bản đồ nền, bản đồ hành chính v.v.
(iii) Về chức năng đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp
Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện chức năng này đối với 5 doanh nghiệp nhà nước thuộc phạm vi quản lý của Bộ. Số doanh nghiệp này có quy mô nhỏ, không đáng kể và phần lớn là các doanh nghiệp hoạt động thực hiện nhiệm vụ công ích. Về chức năng và các nhiệm vụ cụ thể thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, tuy Nghị định số 91/2002/NĐ-CP chưa quy định cụ thể được vào thời điểm ban hành, song đến nay những nhiệm vụ chung đã rõ theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005, nhưng những nhiệm vụ cụ thể mang tính đặc thù của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì cần phải được bổ sung trong Nghị định của Bộ hoặc trong Quyết định của Bộ trưởng giao nhiệm vụ cho các doanh nghiệp nêu trên;
Thứ hai, về nhiệm vụ, quyền hạn
(i) Về nhiệm vụ, quyền hạn đã được xác định
- Cần làm rõ nội dung, nhiệm vụ chủ trì quản lý tổng hợp tài nguyên nước lưu vực sông, dải ven biển với nhiệm vụ quản lý môi trường theo lưu vực sông và dải ven biển;
- Cần làm rõ nội dung, thẩm quyền, nhiệm vụ quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường với quản lý nhà nước về bảo vệ tài nguyên nước;
- Cần làm rõ nội dung, nhiệm vụ tổ chức, quản lý các hoạt động quan trắc, điều tra cơ bản các số liệu về hiện trạng môi trường (bao gồm cả môi trường biển) với điều tra cơ bản về số lượng và chất lượng tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản;
Kết quả của việc làm rõ các nhiệm vụ này có ảnh hưởng trước hết đến sự phân công giữa các đơn vị tham mưu, thực thi pháp luật và sự nghiệp dịch vụ công thuộc Bộ;
(ii) Về nhiệm vụ cần bổ sung
Cuối năm 2005, Thủ tướng Chính phủ có phân công Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về dự báo, cảnh báo động đất và sóng thần. Như vậy, khi sửa đổi Nghị định số 91/2002/NĐ-CP cũng phải bổ sung thêm các nội dung này. Tuy nhiên, vấn đề này thực chất chỉ mang bản chất của một dịch vụ mà Nhà nước cần gánh vác hơn là một nhiệm vụ quản lý nhà nước và phải được tính đến một cách đầy đủ trong mối quan hệ với các nhiệm vụ về dự báo, cảnh báo các thảm họa khác như cháy rừng, cháy nổ, lũ lụt, sạt lở đất v.v có liên quan đến trách nhiệm của một số bộ như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công nghiệp, Bộ Công an v.v. Như vậy, nếu không xác định rõ nội dung các nhiệm vụ quản lý nhà nước này thì cũng có thể có những nguy cơ tiếp tục chồng chéo khác nếu một bộ muốn đứng ra giữ vai trò chủ trì, phối hợp thực hiện tất cả các nhiệm vụ này;
(iv) Về những nhiệm vụ còn chồng chéo
- Vấn đề xác định nhiệm vụ, quyền hạn chưa rõ về quản lý tài nguyên khoáng sản và quản lý nhà nước về khai thác khoáng sản trong quá trình ban giao từ Bộ Công nghiệp sang Bộ Tài nguyên và Môi trường;
- Vấn đề chồng chéo giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong vấn đề thực hiện nhiệm vụ làm đầu mối chủ trì về quản lý tổng hợp lưu vực sông;
Nghị định số 91/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 quy định: "Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên nước" (Điều 1). Trong khi đó, Luật tài nguyên nước lại quy định: "Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện phê duyệt các quy hoạch khu vực sông, quy hoạch hệ thống công trình thủy lợi theo sự ủy quyền của Chính phủ' (Điều 59). Như vậy, các quy định trên cho thấy nhiệm vụ, quyền hạn chưa rõ giữa 2 Bộ về quản lý tổng hợp lưu vực sông. Điều này gây khó khăn trong quá trình triển khai hoạt động giữa 2 Bộ;
- Có sự chồng chéo trong phân định trách nhiệm quản lý nhà nước với quản lý khai thác về bảo tồn và khai thác bền vững các vùng đất ngập nước;
- Không xác định rõ phạm vi thẩm quyền của thanh tra chuyên ngành tài nguyên và môi trường với các lực lượng thanh tra, kiểm tra ở một số chuyên ngành quản lý khác trong việc thực thi Luật bảo vệ môi trường;
- Chưa xác định cụ thể cơ quan đóng vai trò chủ trì điều phối quản lý tổng hợp theo định hướng phát triển bền vững dải ven biển giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường với các bộ, ngành khác;
Thứ ba, về cơ cấu, tổ chức
(i) Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của nhiều tổ chức, cơ quan trực thuộc Bộ Tài nguyờn và Mụi trường là trùng lập nhau mặc dù nguyên tắc “một việc chỉ giao cho một tổ chức, cơ quan thực hiện” đã được thống nhất áp dụng trong toàn hệ thống, lý do là việc thành lập nhiều tổ chức, cơ quan, đơn vị trong một thời gian ngắn vì vậy việc sắp xếp còn nhiều bất cập, đơn cử chỉ hoạt động thống kê mà có vài cơ quan cùng đồng thời thực hiện. Hơn nữa do các cơ quan quản lý đất đai phải quản lý nhiều ngành, đa lĩnh vực nên cũng gặp khó khăn trong điều hành nội bộ, chỉ đạo, hướng dẫn địa phương;
(ii) Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của nhiều cơ quan sau quá trình hoạt động bộc lộ nhiều nội dung chưa hợp lý, cần được nghiên cứu để sửa đổi và bổ sung. Nguyên nhân là do các cơ quan soạn thảo có quá ít thời gian để nắm rõ tình hình thực tiễn để đề ra những quy định phù hợp cho từng cơ quan ở những vị trí và nhiệm vụ khác nhau;
(iii) Cơ cấu tổ chức từ trung ương đến địa phương chưa thật hoàn chỉnh và ổn định vẫn còn mang dáng dấp “lắp ghép”. Ngay Bộ Tài nguyên và Môi trường được thành lập dựa trên sát nhập của Tổng cục Địa chính, Cục Khoáng sản, Tổng cục Khí tượng thuỷ văn, Cục Môi trường ...;
Thứ tư, trình độ của cán bộ, công chức còn chưa theo kịp công tác quản lý, chưa đáp ứng nhu cầu của công cuộc cải cách hành chính nhà nước. Theo thống kê, ở tất cả các cấp quản lý đều xảy ra hiện tượng thiếu nguồn nhân lực, đặc biệt là lực lượng cán bộ địa chính cấp xã, điều này cần thời gian để khắc phục. Hơn nữa cán bộ, công chức trong các đơn vị này làm nhiều việc, thu nhập lại thấp, tiền lương không đủ sống dễ dẫn đến tiêu cực;
Thứ năm, cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện làm việc của các cơ quan còn thiếu và chưa đồng bộ cũng là một hạn chế đến việc thực hiện nhiệm vụ. Nguồn tài chính để thực hiện việc hiện đại hoá, ứng dụng khoa học kỹ thuật lại đang rất thiếu;
Thứ sáu, do có nhiều tổ chức, cơ quan, đơn vị được thành lập dẫn đến việc lựa chọn lãnh đạo một số đơn vị gặp nhiều khó khăn. Có nhiều lãnh đạo còn thiếu kinh nghiệm, một số bộ phận còn thiếu quyết tâm trong công cuộc cải cách hành chính;
Những nhược điểm này cho thấy, việc củng cố và hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở nước ta vẫn là một vấn đề cấp thiết
6.3. Sự cần thiết tiếp tục củng cố và hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở nước ta
Đất đai luôn là vấn đề nhạy cảm được xã hội quan tâm hàng đầu, do nhu cầu SDĐ ngày càng tăng đặc biệt là đất ở tại khu đô thị và đất sản xuất ở nông thôn, trong khi diện tích đất sử dụng có giới hạn. Vì vậy củng cố và hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý đất đai là thực sự cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả cụng tác quản lý đất đai;
Thực tế cho thấy, sau vài năm đi vào hoạt động với một mô hình tổ chức hoàn toàn mới, với việc tăng cường trách nhiệm, quyền hạn trong công tác quản lý đất đai gắn với vấn đề bảo vệ môi trường; bên cạnh những thành tựu đã đạt được hoạt động của các cơ quan quản lý đất đai cũng bộc lộ nhiều bấp cập, tồn tại, dẫn đến tình trạng tham nhũng, lãng phí về đất đai, tranh chấp và khiếu kiện đất đai kéo dài gây bất bình trong nhân dân điển hình như: Vụ bỏn đất cụng ở Đồ Sơn (Hải Phòng), vụ lừa đảo lập dự án đầu tư "ma" chiếm đoạt hàng chục ha đất của siêu lừa Nguyễn Đức Chi ở Nha Trang (Khánh Hòa) v.v;
Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do các quy định về cơ cấu tổ chức của cơ quan quản lý đất đai còn chồng chéo, bất hợp lý. Ví dụ: Luật tài nguyên nước quy định Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về tài nguyên nước; trong khi đó Nghị định số số 91/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường chức năng này cho Bộ Tài nguyên và Môi trường. Hay việc tồn tại 2 hệ thống cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chủ quyền về nhà đất (cơ quan tài nguyên và môi trường cấp giấy chứng nhận QSDĐ; cơ quan xây dựng cấp giấy sở hữu nhà và các công trình xây dựng) đã gây rất nhiều khó khăn, trở ngại cho người dân khi thực hiện các quyền do pháp luật quy định. Hơn nữa, ở nhiều địa phương công tác quản lý gặp khó khăn, do thiếu cán bộ; trong khi đó năng lực, trình độ chuyên môn và phẩm chất, đạo đức của đội ngũ cán bộ quản lý đất đai ở cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu dẫn đến các hiện tượng tiêu cực, nhũng nhiễu, giải quyết sai pháp luật ... Tình trạng tham nhũng trong lĩnh vực đất đai trở nên khá phổ biến. Theo nghiên cứu về tình trạng tham nhũng của Ban Nội chính Trung ương thì ngành địa chính là ngành đứng đầu trong các ngành có nguy cơ tham nhũng cao; do được giao quản lý và quyết định đối với nguồn tài sản vô cùng quý giá của quốc gia là đất đai có giá trị lên đến hàng tỷ đồng. Ở hầu hết các địa phương đều xảy ra tình trạng bán, chia chác đất công, giao cấp đất trái phép do một bộ phận cán bộ được giao nhiệm vụ quản lý đất đai thực hiện gây giảm sút lòng tin của nhân dân vào chế độ. Để củng cố sự tồn vong của chế độ, khôi phục lòng tin của người dân và lập lại trật tự, kỷ cương, nề nếp trong lĩnh vực quản lý đất đai thì việc củng cố, kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về đất đai là vô cùng cần thiết;
Mặt khác sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới với những cam kết mở cửa thị trường hàng hóa, thương mại, dịch vụ đảm bảo sự công khai, dân chủ, minh bạch và cạnh trạnh bình đẳng, lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng đặt ra yêu cầu cần thiết phải củng cố, hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý đất đai; nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan này nhằm đơn giản hóa các thủ tục hành chính liên quan đến việc tiếp cận, SDĐ của các doanh nghiệp; hỗ trợ tích cực cho hoạt động của doanh nghiệp hướng tới sự phát triển phồn vinh của quốc gia.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
HỆ THỐNG CƠ QUAN QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Nững định hướng chủ yếu hoàn thiện pháp luật về hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở nước ta hiện nay
Cải cách hành chính là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, nhằm từng bước "lành mạnh hoá" các quan hệ xã hội, bảo đảm cho quá trình kinh tế- xã hội của đất nước phát triển vững chắc. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, thời gian qua Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng với các cơ quan quản lý đất đai đã triển khai nhiều chương trình hành động cụ thể, thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về đất đai. Bộ đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị trực thuộc xây dựng kế hoạch để thực hiện; đồng thời rà soát, kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định về thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai, hiện đại hóa công nghệ quản lý, đổi mới thái độ, phương thức quản lý với tinh thần “phục vụ dân, công khai, minh bạch và dân chủ” ... Quá trình hoàn thiện pháp luật về hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai ở nước ta dựa trên những định hướng chủ yếu sau đây:
1.1. Kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý đất đai đặt trong tổng thể quá trình cải cách bộ máy hành chính; xác định rõ chức năng, cơ cấu tổ chức của từng cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai
Thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước cho thấy việc đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới bộ máy cơ quan công quyền chưa theo kịp với tiến trình đổi mới kinh tế - xã hội. Bộ máy nhà nước cồng kềnh, hiệu lực quản lý thấp, các thủ tục hành chính phức tạp, rườm rà ... đang cản trở quá trình phát triển kinh tế. Vì vậy việc đổi mới, cải cách bộ máy hành chính đang là yêu cầu vô cùng cần thiết. Bộ máy cơ quan quản lý đất đai cũng không "nằm ngoài" quá trình này: "Tăng cường trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi thành viên trong xã hội đối với việc quản lý và sử dụng đất ... Bảo đảm sự quản lý nhà nước thống nhất của trung ương, đồng thời phân cấp cho địa phương, có chế tài nghiêm trong thực thi chính sách, pháp luật đất đai" Đảng Công sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành trung ương Khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2003, tr.61 - 62.
;
Việc hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai đặt trong tổng thể của quá trình cải cách hành chính; đồng thời xác lập những giải pháp cụ thể của quá trình hoàn thiện bộ máy các cơ quan này theo hướng: (i)Xây dựng hệ thống cơ quan quản lý đất đai thành một thể thống nhất trên cả nước từ trung ương đến địa phương, có mối quan hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau trong quá trình hoạt động; (ii) Mỗi cơ quan cần được quy định rõ trách nhiệm theo "chiều dọc" và sự phụ thuộc theo "chiều ngang". Việc phân định rõ như vậy mới đảm bảo hiệu quả trong quá trình hoạt động của từng cơ quan, tránh tình trạng các cơ quan không biết mình ở vị trí nào, cần phải làm theo sự chỉ đạo, và kiểm soát của các cơ quan nào trong từng trường hợp cụ thể; (iii) Kiên quyết thực hiện việc giảm sự chồng chéo trong hoạt động giữa các cơ quan, bằng việc thực thi đúng chủ trương “một công việc chỉ giao cho một cơ quan giải quyết”. Bởi lẽ, việc hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý đất đai mà không đặt trong tổng thể quá trình cải cách hành chính thì chất lượng hoạt động của các cơ quan này không cao. Do hệ thống cơ quan quản lý đất đai có mối liên hệ mật thiết và gắn liền với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước. Mặt khác, việc hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý đất đai đặt trong tổng thể quá trình cải cách hành chính sẽ đảm bảo tính định hướng của việc hoàn thiện này. Hơn nữa, thực trạng hiện nay cho thấy chính tình trạng chồng chéo trong quyền hạn và nhiệm vụ của các cơ quan dẫn đến rất nhiều hệ luỵ: Đó là người dân khi thực hiện các thủ tục hành chính về đất đai nhiều khi không thể biết mình phải đến cơ quan nào, hoặc một việc nhưng cần phải tới nhiều cơ quan chức năng mới được giải quyết ổn thoả. Vì vậy, họ mất rất nhiều thêi gian chờ đợi để làm thủ tục và làm giảm niềm tin của nhân dân vào các chủ trương, chính sách, pháp luật đất đai của Đảng và Nhà nước. Em cho rằng nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ quan quản lý đất đai nên đặt trọng tâm vào việc giảm sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan này với nhau.
1.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý đất đai dựa trên nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch, đảm bảo sự quản lý tập trung thống nhất của cấp trung ương; đồng thời phân cấp cho địa phương trong quản lý đất đai
Hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý đất đai phải bảo đảm nâng cao hiệu quả hoạt động quả lý đất đai theo hướng tăng cường tính chủ động của các cơ quan. Hiện nay tình trạng thụ động trong công việc diễn ra khá phổ biến và thường xuyên mà nguyên nhân là do sự thiếu minh bạch trong hoạt động quản lý dẫn đến lo sợ bị liên luỵ về trách nhiệm. Trong những năm tới đây, cải cách hành chính sẽ chú ý tới việc nâng cao tính chủ động của các cơ quan quản lý đất đai mà trước mắt là việc thực hiện cơ chế “một cửa” trong giải quyết thủ tục về đất đai. Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng các cơ quan quản lý các cấp đang quyết tâm xây dựng mô hình này trên toàn quốc sau khi đã thí điểm thành công ở một số tỉnh, thành;
Công khai, minh bạch trong mọi hoạt động của cơ quan quản lý như lập quy hoạch, kế hoạch SDĐ, điều chỉnh quy hoạch; công bố quy hoạch SDĐ; cho thuê đất, giao đất, chuyển mục đích SDĐ, thu hồi và cấp giấy chứng nhận QSDĐ .... Công khai, minh bạch cũn thể hiện ở việc cơ quan quản lý đất đai cụng khai những thông tin đầy đủ về địa chỉ, số điện thoại liên lạc của mình để người dân dễ dàng tiếp cận, phát hiện và tố cáo về những hành vi vi phạm pháp luật đất đai, các hành vi nhũng nhiễu, tham nhũng, tiêu cực về đất đai ...; Ở khía cạnh khác, việc công khai các quy trình, thủ tục hành chính về đất đai sẽ làm giảm các hiện tượng tham nhũng, "chạy chọt", tiêu cực nảy sinh;
Để nâng cao hiệu lực và hiệu quả công tác quản lý nhà nước về đất đai cần quán triệt sâu sắc định hướng phân cấp nội dung quản lý đất đai cho cấp địa phương để địa phương chủ động và đề cao trách nhiệm trong quản lý đất đai; đồng thời, tạo điều kiện cho các cơ quan quản lý đất đai ở cấp trung ương giảm sức ép từ phía các đối tượng chịu sự quản lý đất đai. Mặt khác, để tránh hiện tượng hoạt động quản lý đất đai ở các địa phương nằm ngoài quỹ đạo quản lý của Nhà nước phải tăng cường sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước trong quản lý đất đai.
1.3. Hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý đất đai dựa trên cơ sở nâng cao năng lực, trình độ, chuyên môn nghiệp vụ và thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đất đai
Hiệu quả của hệ thống cơ quan quản lý đất đai phụ thuộc chủ yếu vào ý thức, thái độ, năng lực, trình độ, chuyên môn nghiệp vụ của ®éi ngò c¸n bé, c«ng chøc làm công tác quản lý đất đai. Vì vậy để nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ quan quản lý đất đai cần nâng cao năng lực, trình độ, chuyên môn nghiệp vụ và xác định ý thức, thái độ đúng đắn của đội ngũ cán bộ này theo hướng:
- Xây dựng chiến lược dài hạn, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đất đai;
- Xây dựng ý thức, thái độ đúng đắn vì nhân dân phục vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đất đai;
- Cần có chế độ đãi ngộ xứng đáng cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đất đai để họ yên tâm công tác;
- Cung cấp đầy đủ các điều kiện vật chất đáng ứng yêu cầu công việc của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đất đai;
- Thường xuyên đánh giá về năng lực, trình độ, chuyên môn nghiệp vụ và ý thức, thái độ của đội ngũ cán bộ, công chức quản lý đất đai dựa vào tiêu chí sự hài lòng của dân khi sử dụng các dịch vụ công về đất đai;
1.4. Hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý đất đai phải dựa trên việc đáp ứng các yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đòi hỏi phải xác lập cơ chế quản lý thích hợp nhằm biến đất đai trở thành tư bản, thành nguồn vốn to lớn để phát triển đất nước. Đây là mục tiêu chủ đạo xuyên suốt quá trình đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao hiệu quả hoạt động và kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai ở nước ta trong giai đoạn hiện nay;
Khi nước ta đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới, bên cạnh những cơ hội do sự kiện này mang lại chúng ta phải đứng trước không ít những thách thức. Một trong những thách thức đó là nước ta phải tuân thủ nghiêm chỉnh những quy tắc, luật lệ do Tổ chức Thương mại thế giới đề ra. Vì vậy, các doanh nghiệp nước ta phải hiểu và thực hiện tốt những yêu cầu này. Vấn đề đất đai cũng tác động mạnh mẽ đến hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp. Hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý đất đai dựa trên các yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nhằm hỗ trợ đắc lực các doanh nghiệp trong cuộc canh tranh gay gắt khi hội nhập vào "sân chơi" chung của thế giới.
2. Một số giải pháp cụ thể góp phần hoàn thiện pháp luật về hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở nước ta hiện nay
Trên cơ sở những định hướng chủ yếu được đề cập trên đây, chúng tôi cho rằng việc hoàn thiện pháp luật về hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở nước ta trong giai đoạn hiện nay cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau đây:
2.1. Hoàn thiện cỏc quy định về cơ cấu tổ chức của hệ thống cơ quan quản lý
Những nghiên cứu ở trên cho thấy, vấn đề đối với cơ cấu tổ chức của hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở nước ta hiện nay chính là sự chồng chéo, trùng lặp về nhiệm vụ quyền hạn giữa các tổ chức cơ quan trong hệ thống. Điều này cú nguyờn nhõn từ cỏc quy định về vấn đề này khụng cụ thể, rừ ràng. Để khắc phục những tồn tại này, cần sửa đổi, bổ sung cỏc quy định hiện hành theo cỏc giải phỏp cụ thể sau:
2.1.1. Giải pháp thứ nhất
Thực hiện nguyên tắc: “ Một việc chỉ giao cho một tổ chức”. Nhưng thực tế cho thấy nguyên tắc này chưa được thực hiện triệt để, mà rõ nhất là còn rất nhiều những công việc được chia nhỏ ra giao cho nhiều cơ quan khác nhau: như việc lập các bản quy hoạch SDĐ, thống kê đất đai,.... Để thực hiện triệt để nguyên tắc này cần phải có những giải pháp phụ đi kèm đó là:
Thứ nhất, đối với những cơ quan, tổ chức đã được thành lập và đang đi vào hoạt động thì cần phải rà soát lại quyền hạn và nhiệm vụ của cỏc cơ quan này; từ đó khắc phục những điểm còn chồng chéo, trùng lặp. Quá trình rà soát ở đây không chỉ đơn thuần là rà soát đối với các cơ quan quản lý đất đai mà đồng thời còn ra soát, so sánh đối với một số các cơ quan liên quan đặc biệt đến hoạt động quản lý đất đó là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giao thông vận tải,….; không chỉ rà soát đối với các cơ quan ở trung ương mà phải tiến hành đồng bộ ở mỗi địa phương;
Thứ hai, trong suốt quá trình soạn thảo và ban hành quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan, đơn vị trực thuộc thì những cơ quan ra quyết định phải rà soát liên tục việc thực hiện nguyên tắc trên.
2.1.2. Giải pháp thứ hai
Hiện nay, chỉ sau gần 5 năm, kể từ khi Bộ Tài nguyên và Môi trường được thành lập và gần 3 năm Luật Đất đai 2003 có hiệu lực, hệ thống cơ quan quản lý đất đai đã được hình thành khá đồ sộ. Tuy nhiên do được thành lập chỉ trong thời gian ngắn nên còn mang tính chắp vá và nhiều cơ quan, trách nhiệm, quyền hạn được quy định không rõ ràng;
Giải pháp được đưa ra ở đây là cần thu nhỏ hệ thống cơ quan quản lý đất đai, thông qua hình thức sát nhập một số cơ quan, tổ chức có quyền hạn và nhiệm vụ gần giống nhau. Việc sát nhập sẽ tạo ra những khó khăn nhất định khi đụng chạm đến quyền và lợi ích nhất định của đội ngũ cán bộ và đặt ra một nhiệm vụ nặng nề hơn rất nhiều cho tổ chức, cơ quan được sát nhập. Tuy nhiên ưu điểm lớn của giải pháp này là tinh giản hệ thống cơ quan, tổ chức; người dân và nhà quản lý đều dễ dàng khi thực hiện công việc của mình; không còn sự chồng chéo trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức nữa, hoạt động quản lý sẽ diễn ra trôi chảy và suôn sẻ hơn.
2.1.3. Giải pháp thứ ba
Cơ quan quản lý đất đai luôn có xu hướng xây dựng một hệ thống cơ quan thống nhất trong cả nước và bước đầu đã có kết quả. ở trung ương, là Bộ, Vụ, Cục và các phòng giúp việc; ở địa phương là Sở, Phòng Tài nguyên và Môi trường kèm theo đó các các phòng ban chuyên môn giúp việc. Có thể thấy về mặt hình thức là khá thống nhất nhưng nội dung bên trong còn nhiều bất ổn. Cụ thể ở trung ương từng Vụ, từng Cục lại có những cơ cấu tổ chức khác nhau; ở địa phương thì các phòng, ban chuyên môn được quy định khá tuỳ tiện.
Giải pháp được đặt ra đó là xây dựng các cơ quan, tổ chức theo cơ cấu “cứng” và cơ cấu “mềm”. Trong hoạt động thực tiễn các cơ quan thường có điểm chung gần giống nhau đó là thực hiện các nhiệm vụ hành chính, quản trị, kế hoạch, đầu tư, tổ chức, cán bộ,... Vì vậy cơ cấu “cứng” quy định cụ thể những phòng, ban cần phải có trong một tổ chức, cơ quan quản lý; quy định này được thống nhất áp dụng trên cả nước. Thực tiễn cũng cho thấy không thể áp dụng một mô hình cơ cấu tổ chức cho tất các cơ quan quản lý vì mỗi cơ quan lại có những đặc điểm riêng, nhiệm vụ và quyền hạn riêng. Cơ cấu “mềm” sẽ giải quyết vấn đề này, đó là các các tổ chức sẽ thành lập các cơ quan, tổ chức chuyên ngành mà chỉ tổ chức đó mới có. Ví dụ như Cục Địa chất và khoáng sản Việt Nam thành lập Phòng Khoáng sản, Phòng Địa chất; Cục Bảo vệ môi trường thành lập Phòng Bảo tồn thiên nhiên, Phòng Quản lý chất thải và Hoá chất độc hại,...;
2.1.4. Giải pháp thứ tư
Vấn đề thông tin liên lạc giữa các cơ quan, tổ chức quản lý đất đai hiện nay còn rất yếu kém, mặc dù mạng Internet đã được lắp ở hầu hết các cơ quan, tuy nhiên một kênh thông tin riêng của ngành là chưa có. Từ năm 2005, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã lên kế hoạch hoàn thiện, nâng cấp và triển khai áp dụng phần mềm ViLIS trong lĩnh vực quản lý đất đai. Sau thời gian triển khai ở một vài địa phương, phần mềm ViLIS đang ngày càng hoàn thiện và đáp ứng được nhu cầu của công tác quản lý và chứng tỏ là một công cụ thực sự hiệu quả trong quá trình xây dựng dữ liệu đất đai và tạo ra một môi trường mới, hiện đại cho các hoạt động của công tác quản lý. Để giải pháp này nhanh chóng được áp dụng trên cả nước, cơ quan quản lý đất đai cần có sự đầu tư thích đáng về cơ sở vật chất, mà ở đây cụ thể là hệ thống máy vi tính văn phòng, hệ thống mạng liên kết trên cả nước
2.1.5. Giải pháp thứ năm
Khả năng liên kết trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của hệ thống cơ quan quản lý là một vấn đề phức tạp mà nguyên nhân đến từ nhiều phía, do hệ thống thông tin liên lạc còn kém, do mỗi cơ quan lại có phương thức hoạt động khác nhau, hay vì chính tính thụ động của đội ngũ cán bộ,….
Giải pháp được đưa ra để tạo được một mối liên kết bền chặt giữa cơ quan cấp trên và cơ quan cấp dưới, giữa các cơ quan cùng cấp đó là phối kết hợp giải pháp thứ 3 và giải pháp thứ 4, đồng thời thường xuyên định kỳ báo cáo công tác hoạt động của cơ quan mình. Giải pháp thứ 3 và giải pháp thứ 4 sẽ khắc phục những khó khăn khách quan cản trở liên kết của hệ thống; hoạt động báo cáo tạo nên một luồng thông tin liên tục trên toàn hệ thống cơ quan quản lý đất đai.
2.2. Hoàn thiện cỏc quy định về nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động của cơ quan quản lý đất đai
Hoạt động của cơ quan quản lý đất đai trong thời gian gần đây đã có nhiều chuyển biến tích cực; tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề vướng mắc, đó là các thủ tục hành chính còn rườm rà gây khó khăn cho người dân khi phải thực hiện các hoạt động pháp lý liên quan đến đất đai. Nguyên nhân là rất rõ ràng nhưng khó khăn là đưa ra những giải pháp để khắc phục những nguyên nhân đó. Nâng cao được hiệu quả hoạt động chính là hoàn thiện hơn nữa hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở nước ta. Để thực hiện mục tiờu này, việc sửa đổi, bổ sung cỏc quy định về nõng cao tớnh hiệu quả trong hoạt động quản lý đất đai cần dựa trờn cỏc giải phỏp sau:
2.2.1 Xây dựng cơ chế “một cửa”
Một giải pháp được Chính phủ đưa ra trong công cuộc cải cách hành chính đó là thực hiện cơ chế “một cửa”. Cơ chế này được thực hiện thí điểm trong lĩnh vực đất đai ở nhiều địa phương và thu được những kết quả hết sức khả quan. Chính Phủ đang yêu cầu Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng các cơ quan hữu quan tiếp tục đẩy mạnh, phổ biến việc thực hiện cơ chế “một cửa” đến từng địa phương. Để nâng cao hiệu quả của cơ chế “một cửa”, nhiều địa phương đang thí điểm mô hình liên thông 2 chiều trên cơ sở của cơ chế “một cửa”. Mô hình liên thông hai chiều từ xã, thị trấn đến huyện đã mang lại sự thuận tiện cho người dân. Như vậy người dân có nhu cầu giải quyết các thủ tục liên quan đến đất đai tại huyện chỉ cần liên hệ tại một nơi là UBND xã hoặc UBND thị trấn. Mô hình này đã thành công ở cấp huyện, nếu được nhân rộng ra trên cả nước và tạo một hệ thống liên thông từ cấp xã đến cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì đó thực sự là một bước cải cách đột phá của cơ quan quản lý đất đai. Tuy nhiên để thực hiện được mô hình này, các cơ quan hữu quan cần nghiên cứu kỹ lưỡng các phương án, cũng như giá trị đầu tư khi xây dựng mô hình. Trước mắt, cơ quan quản lý chỉ thực hiện kết hợp cơ chế “một cửa” và mô hình liên thông hai chiều đến cấp huyện mà thôi.
2.2.2. Thực hiện công khai, minh bạch trong quản lý đất đai
Nhiều năm sống và làm việc trong chế độ bao cấp, một thế hệ người dân Việt Nam đã bị ảnh hưởng phần nào lối làm việc và tư duy khép kín mà ở đó cơ chế "Xin- Cho" rất phổ biến. Chính điều này đã làm ảnh hưởng đến công tác quản lý đất đai trong một thời gian dài.;
Giải pháp đề ra là công khai, minh bạch mọi hoạt động quản lý đất đai mà quan trọng nhất là quy hoạch, kế hoạch SDĐ, hoạt động giao đất, cho thuê đất, chuyển QSDĐ, thu hồi đất. Đây là những hoạt động ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người dân. Bên cạnh đó cơ quan quản lý nên xây dựng một mối liên hệ thông tin hai chiều với người dân, thông qua mối liên hệ này cơ quan quản lý sẽ kịp thời phát hiện những yếu kém trong công tác quản lý, những trường hợp cán bộ nhũng nhiễu dân để kịp thời xử lý, đồng thời cũng tạo điều kiện cho người dân giải toả được vướng mắc và bức xúc.
2.2.3. Giải pháp khắc phục tình trạng “quy hoạch treo” và quản lý thị trường bất động sản (BĐS)
a. Giải pháp khắc phục tình trạng “quy hoạch treo”
Vấn đề bức xúc trong quản lý đất đai hiện nay là quy hoạch. Theo Bộ Tài nguyờn và Mụi trường hiện cũn khoảng 38% số huyện và 34% số xã chưa có quy hoạch, kế hoạch SDĐ sử dụng đất cụ thể. Trong khi đó chất lượng quy hoạch SDĐ còn thấp, thiếu đồng bộ, chưa hợp lý, tính khả thi thấp và nhất là thiếu tính bền vững. Quy hoạch còn mang nặng tính chủ quan duy ý chí, áp đặt, nhiều trường hợp quy hoạch theo phong trào. Không ít trường hợp vì muốn có nhiều công trình, dự án cho địa phương, muốn chỉnh trang, mở rộng đô thị mà đã nôn nóng chỉ đạo lập và xét duyệt quy hoạch không cân nhắc. Cũng không ít trường, quy hoạch đảm bảo nhưng lại không có lộ trình thực hiện dẫn đến thiếu ngân sách không thể thực hiện được;
Có thể thấy rõ công tác quy hoạch SDĐ là một công tác phức tạp, vì vậy giải pháp đưa ra khi tiến hành quy hoạch SDĐ đó là: các cơ quan quản lý đất đai khi xây dựng quy hoạch SDĐ phải mở kênh thông tin tiếp thu ý kiến của nhân dân. Bên cạnh đó cần phải xây dựng một bản quy hoạch chi tiết với sự tham gia của các cơ quan quản lý cấp trên và đặc biệt là các chuyên gia quy hoạch, đồng thời phải học hỏi và rút kinh nghiệm từ những địa phương đi trước. Đội ngũ chuyên gia phải đa ngành đa lĩnh vực bởi công tác quy hoạch không chỉ liên quan đến hoạt động quản lý, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và sinh hoạt của người dân.
b. Giải pháp quản lý tốt thị trường BĐS
Thị trường BĐS là một loại thị trường quan trọng, luôn nhận được sự chú ý quan tâm của toàn xã hội. Thực trạng hiện nay của thị trường BĐS đang khiến nhiều nhà quản lý đau đầu.
Giải pháp để giải quyết tình trạng “đóng băng” hiện nay hay tình trạng giá đất ảo đó là: phải xây dựng và phát triển thị trường BĐS dựa trên quy định của pháp luật hiện hành như Luật đất đai 2003, Luật Nhà ở 2005, Luật kinh doanh BĐS 2006 ....;
Bên cạnh đó là nâng cao tính chuyên nghiệp của các doanh nghiệp kinh doanh BĐS. Các nhà đầu tư cần phải đi vào những thị phần chuyên biệt, đầu tư nghiêm túc vào lĩnh vực nghiên cứu, phát triển để nắm bắt xu hướng khách hàng và liên minh lại để tạo thế giao dịch bình đẳng với các đối tác quốc tế. Để thực hiện điều này các doanh nghiệp cần cập nhật kỹ năng mới, chuyên sâu trong từng công đoạn: quy hoạch, thiết kế, xây dựng, quản lý dự án, tiếp thị , … nhằm tạo ra những sản phẩm đảm bảo được các tiện ích cho cuộc sống.
Về giá đất: “Giá bất động sản được hình thành theo nguyên tắc thị trường. Nhà nước tác động đến giá đất trên thị trường bằng các chính sách kinh tế vĩ mô trên cơ sở quan hệ cung- cầu về đất đai. Tăng cường các biện pháp chống đầu cơ, hạn chế giao dịch không theo quy định của Pháp luật” [tr80. 1]
2.3. Hoàn thiện cỏc quy định về đổi mới và nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành tài nguyờn và mụi trường
Sau hơn 4 năm đi vào hoạt động, vấn đề nguồn nhân lực vẫn làm cho các nhà quản lý trong lĩnh vực đất đai phải đau đầu. Đội ngũ cán bộ vừa thiếu lại yếu, không ít cán bộ tha hoá biến chất dẫn đến việc nhiều chủ trương chính sách đúng đắn không thể thực thi do không có đủ người để triển khai. Nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực cũng là một hình thức hữu hiệu nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ quan quản lý đất đai;
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có hai hướng đi. Thứ nhất, là nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ hiện có; thứ hai, tạo ra những chính sách cơ chế mới nhằm thu hút đội ngũ lao động có trình độ. Cỏc quy định liờn quan về vấn đề này cần được sửa đổi, bổ sung theo cỏc giải phỏp sau:
2.3.1. Giải pháp nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ hiện có
Theo thống kê hiện trạng nguồn nhân lực gần đây của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì số lượng cán bộ có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ là rất ít ỏi và chủ yếu tập trung ở các tỉnh, thành trọng yếu trong cả nước như Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh. Đa số cán bộ công chức có trình độ Cao đẳng, Trung cấp, Sơ cấp.Không những thế ở nhiều địa phương do thiếu cán bộ hoạt động trong lĩnh vực đất đai nên đã chuyển cán bộ ở các lĩnh vực khác sang làm. Điều này cho thấy được chất lượng cán bộ quản lý đất đai hiện nay chưa đỏp ứng được yờu cầu của cụng tỏc quản lý đất đai trong tỡnh hỡnh mới;
Giải pháp đưa ra là cần phải lập tức mở các khoá đào tạo, huấn luyện công tác nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, cụng chức ngành tài nguyờn và mụi trường. Công tác này không chỉ thực hiện một vài lần mà cần phải trở thành một hoạt động thường xuyên, liên tục và định kỳ. Các cơ quan quản lý phải trích một khoản tài chính nhất định trong năm để cử cán bộ đi học, nâng cao trình độ; thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ trao đổi, học hỏi kinh nghiệm để từ đó tìm ra phương pháp làm việc hiệu quả nhất cho mình;
Vấn đề tham nhũng trong đội ngũ cán bộ quản lý đất đai cũng rất nhức nhối, để giải quyết tình trạng này các cơ quan phải có giải pháp hợp lý. Đầu tiên là nâng mức thu nhập cho cán bộ, thường xuyên giáo dục về đạo đức cách mạng, chỉ ra những trường hợp, những nguy cơ mà cán bộ có thể rơi vào vòng xoáy tham nhũng. Đồng thời cơ quan quản lý cùng với nhân dân tiến hành hoạt động thanh tra, giám sát và xử lý thật nghiêm những trường hợp vi phạm
2.3.2. Giải pháp thu hút nguồn nhân lực
Hàng năm ở Việt Nam có hàng triệu sinh viên ra trường và trong một quốc gia với dân số hơn 80 triệu người, thật khó tin là hệ thống cơ quan quản lý đất đai vẫn đang rơi vào tình trạng thiếu trầm trọng đội ngũ cán bộ. Nguyên nhân của vấn đề này chính là chế độ chính sách dành cho cán bộ quá thấp, lương bổng ít, khối lượng công việc nhiều, đa số muốn ở lại làm việc tại các thành phố lớn. Hơn nữa, hoạt động quản lý đất đai luôn tạo một áp lực không nhỏ lên cán bộ, công chức bởi ranh giới giữa tham nhũng và không tham nhũng là rất mong manh;
Giải pháp đưa ra là: cơ quan quản lý phải xây dựng một chế độ, chính sách mới dành cho cán bộ, công chức mà phương châm đặt ra là “ Người lao động phải đủ sống bằng đồng lương của mình”. Không nên cào bằng mức lương, mà ở mỗi một công việc, một nhiệm vụ khác nhau thì người lao động được hưởng mức lương khác nhau tương xứng với công sức và hiệu quả trong quá trình làm việc. Tạo cho họ một môi trường làm việc lành mạnh mà ở đó họ có thể phát huy tốt nhất khả năng, đồng thời có một chế độ khen thưởng, kỷ luật phù hợp;
Mỗi địa phương cần đề ra một chiến lược thu hút nguồn nhân lực, không ít bạn trẻ muốn trở về để xây dựng quê hương nhưng lại không nhận được sự hỗ trợ khuyến khích từ địa phương. Điều này đôi khi làm họ nản lòng. Nhiều bạn trẻ cố bám trụ ở những thành phố lớn. Điều này sẽ thay đổi nếu mỗi địa phương có một chính sách thu hút phù hợp mà Bình Dương là một ví dụ điển hình. Lónh đạo tỉnh Bỡnh Dương đó ban hành và thực hiện chế độ lương bổng đối với từng loại cỏn bộ: cán bộ có bằng tiến sĩ, bằng thạc sĩ, bằng đại học sẽ có những mức lương khác nhau nhưng nhìn chung đều cao và đảm bảo một cuộc sống đầy đủ
2.4. Hoàn thiện cỏc quy định nhằm huy động nguồn tài chính cho quá trình hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai ở nước ta
Hoàn thiện các quy định nhằm huy động nguồn tài chớnh cần thiết đáp ứng yêu cầu của quá trình xây dựng, kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai dựa trên giải pháp cụ thể sau:
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý đất đai, một vấn đề mà những nhà quản lý sẽ gặp phải đó là vấn đề tài chính. Nếu không có một nguồn tài chính đảm bảo thì việc xây dựng và hoàn thiện sẽ gặp nhiều khó khăn. Hiện nay nguồn tài chính chủ yếu được lấy từ ngân sách Nhà nước và như vậy thì không đủ để cơ quan quản lý có thể xây dựng một chiến lược phát triển đồng bộ của toàn hệ thống;
Tuy nhiên một giải pháp rất hay đang được Bộ Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu, thực hiện đó là huy động nguồn vốn ODA nước ngoài để đầu tư cho hệ thống cơ quan quản lý đất đai. Trong thời gian qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với các cơ quan có liên quan và Ngân hàng thế giới (WB) để xây dựng “Dự án hoàn thiện và hiện đại hoá hệ thống quản lý đất đai Việt Nam”. Nguồn đầu tư này sẽ bổ sung cho những nỗ lực của Chính phủ và hỗ trợ của các nhà tài trợ từ trước đến nay trong lĩnh vực quản lý đất đai. Tháng 1- 2007, Dự án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh mục đề nghị Ngân hàng Thế giới (WB) tài trợ. Với mục tiêu phát triển một hệ thống quản lý đất đai minh bạch nhằm tăng cường sự tiếp cận của mọi thành phần xã hội đối với thông tin đất đai ở các địa phương, Dự án sẽ tập trung đầu tư hoàn thiện hệ thống đăng ký đất đai, xây dựng một môi trường thể chế thống nhất và phù hợp cho việc cung cấp dịch vụ công về đất đai, tăng cường nguồn nhân lực vận hành hệ thống hiện đại, cải thiện việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực đất đai, nâng cao nhận thức của cộng đồng đối với ứng dụng thông tin từ hệ thống quản lý đất đai;
Trong giai đoạn trước mắt, khi nguồn kinh phí còn hạn chế, Dự án này sẽ được thí điểm tại một số tỉnh, thành trong cả nước. Bên cạnh đó cơ quan quản lý đất đai tiếp tục phối hợp với các tổ chức phi chính phủ để xây dựng Báo cáo chuẩn bị dự án trình lên Chính phủ và Ngân hàng thế giới (WB), để Ngân hàng thế giới có cơ sở ra quyết định đầu tư,;
Trong quá trình quản lý đất đai ở nước ta, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường- Mai Ái Trực đã đề ra chủ trương “ba xoá, ba xây”. Ba xoá là xoá bao cấp về giá đất, xoá cơ chế ban phát về đất đai, xoá tiêu cực trong quản lý và SDĐ. Còn ba xây là xây dựng trật tự quản lý đất đai, xây dựng thị trường BĐS lành mạnh và xây dựng lòng tin của nhân dân vào thực thi pháp luật đất đai.
KẾT LUẬN
Hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý đất đai hiện nay là một nhu cầu cấp thiết nhằm đáp ứng các yêu cầu quản lý và SDĐ trong thời kỳ tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Tuy nhiên, hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai dựa trên những định hướng cơ bản nào, theo mô hình nào và cách thức cụ thể như thế nào lại là vấn đề không hề đơn giản và phải có sự đánh giá thực trạng về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống các cơ quan này cũng như tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm về mô hình hệ thống cơ quan quản lý đất đai của các nước trên thế giới để tìm ra những giải pháp hoàn thiện thích hợp;
Để trả lời cho các câu hỏi trên đây, Khóa luận "Pháp luật về hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai" ở Việt Nam đã đi sâu nghiên cứu cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống các cơ quan quản lý đất đai từ trung ương đến địa phương; từ đó chỉ ra những ưu điểm và nhược điểm của hệ thống các cơ quan này và đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện phỏp luật về hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở nước ta;
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài, song do sự hạn chế về năng lực bản thân cũng như sự hạn chế về thời gian, nguồn tài liệu, thông tin ...; nên khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót, tồn tại. Em rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy, cô giáo và các bạn sinh viên để khoá luận ngày càng được hoàn thiện hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Văn kiện Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ X-Nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 2006.
2. Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khoá IX, NXB chính trị quốc gia năm 2003
3. Giáo trình trường Đại học Luật Hà Nôi
3.1. Giáo trình Luật Đất đai, trường Đại học Luật Hà Nôi, Nhà xuất bản Tư pháp- 2005
3.2. Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nôi, Nhà xuất bản Công an nhân dân- 2004
4. Các loại từ điển nghiên cứu
4.1. Từ điển luật học, Viện khoa học pháp lý- Bộ Tư pháp, NXB Từ điển bách khoa và NXB Tư pháp – 2006
4.2. Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nôi. NXB Công an nhân dân – 1999
4.3. Từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội- Trung tâm từ điển học
5. Tạp chí Luật học Số 1- 2007, trường Đại học Luật Hà Nội.
6. Các loại tài liệu khác
6.1. Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật Đất đai (1993- 2003), Bộ Tài nguyên và Môi trường
6.2. Dự thảo báo cáo rà soát chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường (Dự án nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về tài nguyên và môi trường- SEMLA- giữa tổ chức SIDA- Thuỵ Điển- và Bộ Tài nguyên và Môi trường), Hà Nội, tháng 4 năm 2006
6.3. Thống kê hiện trạng nguồn nhân lực của Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành kềm theo công văn số 3448/BTNMT-TCCB, tháng 8 năm 2006
6.4. Chính sách đất đai của các nước trên thế giới, Trung tâm nghiên cứu chính sách Pháp luật đất đai thuộc Viện Nghiên cứu Địa chính, năm 2000
6.5. Tài liệu sử dụng cho bài nói chuyện “ Chính sách, pháp luật đất đai với kinh tế thị trường ở Việt Nam” của GS.TSKH Đặng Hùng Võ tại chương trình giảng dạy Kinh tế Fulbright
6.6. Tài liệu từ trang thông tin của Bộ Tài nguyên và Môi trường Monre.gov.vn
7. Văn bản pháp luật
7.1. Luật Đất đai 2003
7.2. Luật Nhà ở 2005
7.3. Luật Kinh doanh Bất động sản 2006
7.4. Luật Đất đai 1993, Luật sửa đổi bổ sung một số điều Luật đất đai 2001 (đã hết hiệu lực)
8. Văn bản dưới Luật
8.1. Sắc lệnh số 16 ngày 30 tháng 01 năm 1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
8.2. Nghị định số 404- CP ngày 09 tháng 11 năm 1979 của Hội đồng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Tổng cục quản lý ruộng đất
8.3. Nghị định số 12/CP ngày 22 tháng 02 năm 1994 của Chính phủ về việc thành lập Tổng cục địa chính
8.4. Nghị quyết số 02/2002/QH11 ngày 05 tháng 08 năm 2002 của Quốc hội về quy định danh sách các Bộ và cơ quan ngang Bộ của Chính Phủ
8.5. Nghị định số 86/2002/NĐ-CP ngày 05 tháng 11 năm 2002 của Chính Phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ.
8.6. Nghị định 91/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2002 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ Tài nguyên và Môi trường
8.7. Thông tư Liên tịch số 01/2003/TTLT-BTNMT-BNV ngày 15/7/2003 của Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của cơ quan chuyên môn giúp UBND quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường ở địa phương
8.8. Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai.
8.9. Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính Phủ về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực Đất đai
8.10. Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 của Chính phủ về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất
8.11. Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất
8.11. Thông tư liên tịch số 38/2004/TTLT-BTNMT-BNV ngày 31 tháng 12 năm 2004 hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Văn phòng ĐKQSDĐ và tổ chức phát triển quỹ đất
8.12. Thông tư số 36/2006/TT-BTC ngày 28 tháng 04 năm 2006 của Bộ Tài chính về điều kiện và thủ tục cấp phép hoạt động đăng ký hoạt động tư vấn về giá đất
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LDOCS (105).doc