MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Người Phương Đông chúng ta từ lâu rất coi trọng nghĩa vợ chồng và được xem là “nghĩa trăm năm”. Chính vì vậy mà nhiều cặp vợ chồng đã sống với nhau hạnh phúc đến trọn đời. Tuy nhiên trong những năm trở lại đây do nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ, nhận thức của con người về vấn đề này cũng thay đổi, cái nghĩa vợ chồng mỗi ngày lại được nhìn nhận có khác đi. Hiện nay không coi trọng vấn đề này như nghĩa xưa, nên khi hai bên (vợ, chồng) đặt bút ký vào đơn ly hôn không còn nặng nề nữa để giải phóng cho nhau. Nếu tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn trầm trọng, cuộc sống chung không thể duy trì được thì giải phóng cho nhau là điều tốt. Trên thực tế, việc không còn coi trọng và không cố gắng gìn giữ nghĩa vợ chồng mà nhiều cặp vợ chồng đã nhanh đưa ra quyết định chia tay, chấm dứt quan hệ hôn nhân khi chưa cân nhắc kỷ. Do đó tình trạng ly hôn ngày càng tăng dần và nó không còn là vấn đề trọng đại đối với nhiều cặp vợ chồng.
Mỗi gia đình là tế bào của xã hội, là một xã hội thu nhỏ, gia đình tác động đến xã hội và ngược lại xã hội có ảnh hưởng mạnh mẽ đến gia đình. Vì vậy mà khi xã hội thay đổi thì kéo theo mỗi con người, mỗi gia đình cũng thay đổi và trong quan hệ vợ chồng đó là biểu hiện của sự gia tăng các vụ án ly hôn. Điều này đã dẫn đến thực trạng các án HN&GĐ nói chung và án ly hôn nói riêng mà các Tòa án phải thụ lý và giải quyết ngày càng nhiều. Tính chất đa dạng, phức tạp trong quan hệ hôn nhân ngày càng tăng, nên việc giải quyết các án HN&GĐ ngày càng gặp nhiều khó khăn hơn đặc biệt là các án ly hôn.
Tính chất phức tạp trong quan hệ hôn nhân còn được biểu hiện trong các văn bản pháp luật về HN&GĐ với số lượng điều luật và văn bản hướng dẫn ngày càng nhiều. Điều đó cho thấy đã có sự thay đổi, bổ sung hoàn thiện pháp luật để phù hợp với tình hình thực tế nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật. Tuy vậy, trên thực tế vì những lý do khách quan và chủ quan mà việc áp dụng pháp luật này còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc.
Để góp phần nâng cao hiệu quả pháp luật nói chung và luật HN&GĐ nói riêng cụ thể trong lĩnh vực ly hôn, thì việc nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật và tìm ra những giải pháp hoàn thiện là việc làm cần thiết hiện nay. Và để cho việc nghiên cứu được cụ thể hơn, sâu hơn tác giả đã chọn đề tài “Thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn tại Tòa án nhân dân thành phố Huế từ năm 2008 đến tháng 3 năm 2011” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài.
Trong phạm vi đề tài này, tác giả nghiên cứu về thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn tại TAND thành phố Huế từ năm 2008 đến quý I năm 2011, tìm hiểu, phân tích và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn tại TAND thành phố Huế nói riêng và các Tòa án trên cả nước nói chung.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích chủ yếu của đề tài là tìm hiểu thực tiễn xét xử các vụ án ly hôn tại TAND thành phố Huế và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn trong thời gian tới. Để thực hiện mục đích trên khóa luận có những nhiệm vụ sau:
- Đánh giá thực trạng xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn tại TAND thành phố Huế từ năm 2008 đến tháng 3 năm 2011.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn tại TAND thành phố Huế nói riêng và các TAND trên cả nước nói chung.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là sử dụng phép duy vật biện chứng và một số phương pháp nghiên cứu cụ thể khác. Nhưng chủ yếu vẫn là phương pháp tiếp cận hệ thống, tổng kết, thống kê, so sánh, khái quát, phân tích và đánh giá thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn tại TAND thành phố Huế.
5. Cơ cấu đề tài
Trong khóa luận này, ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần chú thích và danh mục tài liệu tham khảo. Phần nội dung gồm có 2 chương:
Chương 1: Thực trạng xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn tại TAND thành phố Huế từ năm 2008 đến tháng 3 năm 2011
Chương 2: Yêu cầu và những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài. 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu. 2
4. Phương pháp nghiên cứu 2
5. Cơ cấu đề tài 3
NỘI DUNG 4
CHƯƠNG 1. THỰC TRẠNG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN LY HÔN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ TỪ NĂM 2008 ĐẾN THÁNG 3 NĂM 2011 4
1.1 Đánh giá chung về các quy định của pháp luật áp dụng xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn 4
1.1.1 Pháp luật nội dung áp dụng xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn 4
1.1.2 Pháp luật tố tụng dân sự áp dụng xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn 8
1.2 Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn của TAND thành phố Huế. 9
1.2.1 Tình hình xét xử các vụ án ly hôn từ năm 2008 đến tháng 3 năm 2011 9
1.2.2 Một số thuận lợi và khó khăn trong quá trình xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn 21
1.3 Những vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của pháp luật HN&GĐ trong xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn 25
1.3.1 Áp dụng căn cứ ly hôn 25
1.3.2. Vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn 31
1.3.3. Vấn đề cấp dưỡng 37
1.4 Những vướng mắc trong việc áp dụng quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn 41
1.4.1 Thụ lý án ly hôn 41
1.4.2 Hòa giải 45
1.4.3 Đương sự trong vụ án ly hôn 47
CHƯƠNG 2. YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN LY HÔN 52
2.1 Yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn 52
2.2 Những giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn 55
2.2.1 Giải pháp mang tính tổng thể 55
2.2.2 Một số giải pháp cụ thể 57
KẾT LUẬN 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO 70
73 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2068 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn tại Tòa án nhân dân thành phố Huế từ năm 2008 đến tháng 3 năm 2011, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng nhận quan hệ vợ chồng (việc HN&GĐ). Tuy nhiên nếu người liên quan đến việc thỏa thuận tài sản có tranh chấp với người có đơn yêu cầu thì phần tranh chấp đó không thể được giải quyết theo thủ tục việc dân sự.
- Nếu người yêu cầu chỉ đề nghị Tòa án không công nhận quan hệ vợ chồng nhưng về tài sản và con cái họ có tranh chấp với nhau. Trong trường hợp này cần xác định hai thủ tục giải quyết : một là, giải quyết theo việc HN&GĐ đối với yêu cầu không công nhận quan hệ vợ chồng; hai là, giải quyết theo vụ án với yêu cầu giải quyết tranh chấp về tài sản và con cái. Như trường hợp cụ thể dưới đây:
Anh Nguyễn Văn H và chị Trịnh Thị L có quen biết nhau năm 2005, sau đó đến cuối năm 2006 thì đồng ý cho tổ chức lễ cưới và hai anh chị về chung sống với nhau tại gia đình anh H, địa chỉ: 123 Ông Ích Khiêm_ Thuận Thành_thành phố Huế, nhưng không đăng ký kết hôn. Do anh H đi làm ăn xa, hơn nữa do anh chị quen nhau và cưới vội vàng nên anh H ngày càng xa lánh chị và không còn tình cảm với chị L nữa. Nhận thấy tình cảm đã hết nên ngày 20/5/2008 anh H đã nộp đơn yêu cầu TAND thành phố Huế không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh và chị Trịnh Thị L. Quá trình chung sống, hai anh chị đã sinh được một đứa con là cháu Nguyễn Văn T, về tài sản chung anh chị có chỉ có chiếc xe máy trị giá 10 triệu đồng. Nếu Tòa án quyết định không công nhận quan hệ vợ chồng chị L yêu cầu được nuôi cháu Nguyễn Văn T và sở hữu chiếc xe máy để đi làm, về phía anh H thì anh đồng ý cho chị L nuôi cháu Nguyễn Văn T nhưng anh cũng muốn được giữ chiếc xe máy để đi làm.
Sau khi xác minh, thu thập chúng cứ và nghiên cứu hồ sơ vụ việc, Tòa án đã đưa ra hai thủ tục giải quyết: một là, giải quyết việc HN&GĐ với việc chấp nhận yêu cầu không công nhận qua hệ vợ chồng giữa anh Nguyễn Văn H và chị Trịnh Thị L; hai là, giải quyết vụ án với tranh chấp của anh H và chị L đối với chiếc xe máy trị giá 10 triệu đồng.
Việc thiếu các quy định cụ thể như đã trình bày trên đã gây ra những khó khăn, lúng túng cho Tòa án khi giải quyết và vì có nhiều cách hiểu khác nhau nên trên thực tế có những cách giải quyết khác nhau về một vấn đề. Vì vậy đòi hỏi phải có những quy định cụ thể, rõ ràng đối với vấn đề thụ lý án ly hôn để các Tòa án có sự áp dụng thống nhất nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự và tính minh bạch, rõ ràng của pháp luật.
1.4.2 Hòa giải
Theo quy định tại Điều 88 Luật HN&GĐ năm 2000, sau khi thụ lý yêu cầu ly hôn Tòa án tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Hòa giải là việc Tòa án dựa trên cơ sở của công tác điều tra, khi đã nắm được nguyên nhân, mức độ mâu thuẩn giữa vợ, chồng, điều kiện công tác, hoàn cảnh cụ thể của gia đình… để đưa ra những lời giải thích, khuyên nhủ, động viên, giáo dục giúp đỡ đương sự hàn gắn những rạn nứt, mâu thuẫn trong quan hệ HN&GĐ.
Thủ tục hòa giải các việc ly hôn ở cơ sở có ý nghĩa rất quan trọng, tuy nhiên theo luật định, thủ tục hòa giải đối với các vụ, việc ly hôn do Tòa án tiến hành là thủ tục pháp lý bắt buộc phải có, không phụ thuộc vào thuận tình ly hôn hay ly hôn do một bên yêu cầu. Cả hai trường hợp này đều xác định là vụ án dân sự và Tòa án phải tiến hành hòa giải để các bên vợ chồng hàn gắn tình cảm với nhau.
Quy định này phù hợp với các quy định về thủ tục giải quyết ly hôn theo pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (chưa có sự tách bạch giữa vụ và việc). Tuy nhiên, theo quy định của BLTTDS 2004, các tranh chấp và yêu cầu về quan hệ HN&GĐ được giải quyết theo hai thủ tục hoàn toàn khác nhau, đó là thủ tục giải quyết vụ án ly hôn và thủ tục giải quyết việc ly hôn. Theo đó, trường hợp ly hôn do một bên yêu cầu được xác định là có tranh chấp và thụ lý giải quyết theo thủ tục giải quyết vụ án ly hôn, còn trường hợp vợ (chồng) yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận về nuôi con và tài sản được xác định là việc dân sự vì không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các bên. Và theo quy định từ Điều 311 đến Điều 318 BLTTDS 2004 về việc dân sự hoàn toàn không đề cập đến thủ tục hòa giải, vì vậy đối với trường hợp thuận tình ly hôn, thỏa thuận về nuôi con và tài sản, sau khi thụ lý việc dân sự, Tòa án không tiến hành mở phiên hòa giải mà mở phiên họp để giải quyết. Trong khi, đối với các trường hợp thuận tình ly hôn, nhưng có tranh chấp về nuôi con và tài sản thì Tòa án lại thụ lý giải quyết theo thủ tục vụ án ly hôn và tiến hành hòa giải tức là mở phiên xét xử sơ thẩm. Như vậy có phải pháp luật tố tụng mâu thuẫn với pháp luật nội dung không? Điều này đã khiến cho thực tiễn xét xử gặp những vướng mắc nhất định khi áp dụng các quy định liên quan đến việc thực hiện “ý chí thuận tình ly hôn”. Yêu cầu thuận tình ly hôn, thỏa thuận về nuôi con, tài sản được Tòa án giải quyết theo thủ tục giải quyết việc dân sự, trong khi đó bản chất của việc dân sự là xác nhận một sự kiện pháp lý nên về nguyên tắc không có thủ tục hòa giải.
Trước đây Luật HN&GĐ 1959 giải quyết trường hợp thuận tình ly hôn ly hôn quy định Tòa án không tiến hành hòa giải nhưng Luật HN&GĐ năm 1986 và Luật HN&GĐ năm 2000 quy định hòa giải là đoàn tụ là thủ tục bắt buộc. Thực tế có những trường hợp vợ chồng do nông nổi, tự ái nhau đã thuận tình ly hôn chứ thực sự chưa muốn ly hôn. Nếu giải quyết cho ly hôn ngay sẽ dẫn đến thực trạng họ lại trở về chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn và việc giải quyết hậu quả lại rất khó khăn. Do đó mà TAND thành phố Huế nói riêng và phần lớn các TAND trên phạm vi cả nước nói chung khi giải quyết trường hợp này vẫn tiến hành hòa giải, thiết nghĩ đây là cách giải quyết hợp lý tạo điều kiện để vợ, chồng hòa hợp trở về đoàn tụ với gia đình, cùng nhau nuôi dưỡng con cái thay vì phải ly hôn khi mà tình trạng hôn nhân chưa đến mức phải tan vỡ.
Đơn cử như việc thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Trần Liên H và anh Tạ Quang H. Theo nội dung đơn yêu cầu thì anh, chị tự nguyện đăng ký kết hôn vào năm 2003, nhưng đến năm 2005 mới tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán. Quá trình chung sống anh,chị sinh được một đứa con trai là cháu Tạ Nguyễn Anh Minh. Về mâu thuẫn vợ chồng, vợ chồng tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, anh H không quan tâm chăm sóc và có đánh chị H. Vì vậy ngày 25/04/2008 anh, chị gửi đơn yêu cầu Tòa án cho thuận tình ly hôn. Tại phiên hòa giải tại TAND thành phố Huế ngày 15/6/2008 nhờ sự phân tích, động viên, khuyên nhủ của thẩm phán anh H đã nhận thấy những thiếu sót của mình và luôn thể hiện thiện chí khắc phục, sửa chữa khuyết điểm, còn chị H cũng cảm thấy vẫn còn tình cảm với anh H và không muốn ly hôn nữa. Vì thế anh chị đã quyết định hàn gắn lại hạnh phúc, về đoàn tụ cùng gia đình nuôi dưỡng, chăm sóc con cái.
Như vậy, vấn đề hòa giải trong trường hợp thuận tình ly hôn là cần thiết, tuy nhiên để có một cách hiểu cụ thể và thống nhất thì giữa luật tố tụng và luật nội dung phải quy định rõ ràng thống nhất tạo điều kiện thuận lợi để Tòa án áp dụng giải quyết hợp tình, hợp lý hơn.
1.4.3 Đương sự trong vụ án ly hôn
Trong hoạt động tố tụng dân sự, đương sự là thành phần không thể thiếu, họ là những người có quyền lợi và nghĩa vụ gắn liền với vụ án. Đương sự được hiểu là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách. Các đương sự trong vụ án ly hôn gồm có: nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với vụ án ly hôn. Trong vụ án ly hôn việc đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình mà pháp luật đã quy định sẽ giúp Tòa án giải quyết công việc một cách dễ dàng hơn, nhanh chóng, kịp thời, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của các bên.
Trong thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn tại TAND thành phố Huế cũng như các TAND trên cả nước đã gặp phải một số vướng mắc trong vấn đề đương sự.
Trước hết, đó là vấn đề một trong các bên đương sự là người đại diện cho vợ (chồng) trong vụ án ly hôn khi vợ (chồng) bị mắc bệnh tâm thần, không có hành vi dân sự, cụ thể là bố (mẹ) của vợ (chồng). Thực tế cho thấy có nhiều người khi kết hôn là người có sức khỏe, năng lực hành vi đầy đủ nhưng trong thời kỳ hôn nhân, do bị tai nạn lao động, hoặc tai nạn trong sinh hoạt hoặc bị mắc các chứng bệnh khác khiến cho họ trở thành người bị bệnh tâm thần, mất năng lực hành vi mọi sinh hoạt hàng ngày đều phải nhờ vào sự giúp đỡ của người thân trong gia đình. Có nhiều trường hợp, vợ (chồng) của người bị mắc bệnh tâm thần, mất năng lực hành vi đó đã có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn nhưng cũng có nhiều trường hợp cha hoặc mẹ của người bị bệnh tâm thần, mất năng lực hành vi dân sự đã chủ động khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn để “giải phóng” cho bị đơn đi lấy vợ (chồng).
Đối với trường hợp này, có Tòa án đã thụ lý vụ án sau khi nguyên đơn cung cấp đầy đủ tài liệu như: bản sao bệnh án của người mắc bệnh tâm thần, xác nhận của cơ quan y tế về tình trạng sức khỏe của người mắc bệnh tâm thần… Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ. Nhưng Tòa án đã gặp lúng túng về thủ tục tố tụng dân sự bởi vì lý do sau:
- Một là, quyền ly hôn là quyền nhân thân của con người, việc ly hôn hay không là do chính người vợ (chồng) quyết định
- Hai là, tại khoản 3 Điều 73 BLTTDS 2004 có quy định là “…Đối với việc ly hôn đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mặt tham gia tố tụng”.
Trong trường hợp này, đã có nhiều cách giải quyết từ phía Tòa án, có Tòa án, thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã giải thích cho nguyên đơn để nguyên đơn tự nguyện rút đơn, có Tòa án , thẩm phán đã đưa vụ kiện ra xét xử với kết quả là: không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì không thỏa mản các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều 89 Luật HN&GĐ 2000. Nhưng ở đây, tuy đưa vụ án ra xét xử nhưng thật sự thẩm phán không yên tâm về việc chấp nhận người đại diện của người mắc bệnh tâm thần, mất năng lực hành vi tham gia tố tụng để giải quyết ly hôn. Vậy có nên chấp nhận người đại diện đối với người mắc bệnh tâm thần, mất năng lực hành vi dân sự tham gia để giải quyết ly hôn không? Đây là vấn đề được nhiều người quan tâm, nhất là đối với những người có trách nhiệm trong việc thực thi, bảo vệ pháp luật, tuy nhiên pháp luật chưa có những quy định hướng dẫn cụ thể.
Bên cạnh khó khăn, vướng mắc đã đề cập ở trên, một vướng mắc nữa mà chúng ta cần quan tâm và tìm ra hướng giải quyết đó là vấn đề bỏ sót đương sự trong vụ án ly hôn.
Đương sự trong vụ án ly hôn là người vợ, người chồng hoặc người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan gửi đơn yêu cầu đến Tòa án nhằm chấm dứt quan hệ hôn nhân hoặc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ khi bị xâm hại. Và sự tham gia đầy đủ của các đương sự sẽ đảm bảo sự khách quan của vụ án giúp cho vụ án được giải quyết một cách chính xác, hợp tình, hợp lý đối với các bên đương sự, vì thế sự tham gia đầy đủ các đương sự trong vụ án ly hôn đóng vai trò rất quan trọng khi Tòa án mở phiên tòa xét xử vụ án. Tuy nhiên, trong hoạt động xét xử tình trạng bỏ sót đương sự vẫn diễn ra khá nhiều, đặc biệt là việc Tòa án xét xử vụ án mà không có sự tham gia đầy đủ của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Trước hết, đó là vấn đề đương sự liên quan đến tài sản chung của vợ chồng. Thực tế hiện nay cho thấy, khi con cái kết hôn với nhau, cha mẹ thường “cho” con đất làm nhà ở, giúp con bước đầu ổn định, xây dựng mái ấm gia đình mới, tuy nhiên việc chuyển nhượng này lại không lập thành văn bản mà thường là nói bằng miệng. Và đến khi cuộc sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, không thể sống chung với nhau được nữa và quyết định ly hôn. Trong khi giải quyết ly hôn các bên có nhu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong đó có cả phần đất mà bố mẹ “cho” trước đây, và bên vợ (chồng) có bố mẹ của mình cho đất thì lại nói là bố mẹ “cho mượn” phải trả lại hoặc bố mẹ cho rằng đất này chỉ cho riêng con đẻ của mình. Trong quá trình Tòa án điều tra, xác minh để thu thập tài liệu, chứng cứ về mảnh đất đó lại gặp khó khăn khi mà các bên nguyên đơn không cung cấp được các tài liệu liên quan đến mảnh đất để chứng minh mảnh đất đó là đất “cho” nên xác định đó là tài sản chung. Khi Tòa án mở phiên tòa xét xử lại không triệu tập cha, mẹ của các bên hoặc có triệu tập nhưng với tư cách là người làm chứng cho quan hệ hôn nhân vợ chồng để làm căn cứ ly hôn chứ không phải với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Đến khi phiên tòa khép lại, bản án có hiệu lực pháp luật thì cha, mẹ của một trong hai bên vợ chồng lại khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Thực tế khi xảy ra vấn đề này đã gây ra nhiều tốn kém, mất thời gian và ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của các bên.
Thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn trong những năm qua tại Tòa án vấn đề bỏ sót đương sự không chỉ dừng đối với trường hợp nêu trên mà một vướng mắc Tòa án gặp phải nữa là là trường hợp giải quyết các vụ án ly hôn mà các bên đương sự không xác định được tài sản mình nợ hoặc vợ, chồng có ý định cố tình che giấu, vì thế đã ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của các chủ nợ khi mà hôn nhân của vợ chồng (con nợ) chấm dứt. Tòa án trước khi đưa vụ án ly hôn ra xét xử phải xác minh, điều tra để thu thập chứng cứ trong một thời gian dài bởi vì đương sự không khai hoặc cố tình che dấu và khai thiếu, khiến cho nhiều vụ án bị tồn đọng. Nếu Tòa án chưa điều tra, thu tập chứng cứ đầy đủ mà đư vụ án ra xét xử thì sẽ gặp khó khăn trong việc gửi giấp triệu tập đến những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (chủ nợ) do các đương sự không nói hoặc có nói về chủ nợ nhưng Tòa án không xác định được địa chỉ hoặc chủ nợ không có ở nơi cư trú (đi làm ăn xa, học tập, công tác xa…) mà không có người thân. Và thực tế xảy ra trường hợp, khi bản án có hiệu lực pháp luật thì chủ nợ lại trở về và nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi cho họ. Vấn đề này đã gây bức xúc cho cơ quan có thẩm quyền khi tham gia xét xử vụ án và được quần chúng đặc biệt quan tâm.
Tóm lại, trên đây là những vấn đề vướng mắc mà TAND thành phố Huế nói riêng và các TAND trên cả nước nói chung thường gặp phải trong quá trình xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn. Việc xác định và tìm ra những bất cập và vướng mắc này giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng có cách giải quyết hợp tình, hợp lý trước khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung và ban hành các văn bản mới để khắc phục những vướng mắc và thiếu sót trên. Góp phần hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong lĩnh vực HN&GĐ tiến tới xây dựng quan hệ hôn nhân gia đình tiến bộ, hạnh phúc.
CHƯƠNG 2
YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN LY HÔN
2.1 Yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn
Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Nghị quyết đã đề ra mục tiêu tổng quát là xây dựng nền tư pháp “Trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc Việt Nam XHCN”. Theo đó, Nghị quyết đã xác đinh cải cách tư pháp là nhiệm vụ quan trong trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Nghị quyết đã chỉ rỏ: “ Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tư pháp ngày càng cao, các cơ quan tư pháp phải thực sự là chổ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế XHCN…”
Nói đến cải cách tư pháp là nói đến cải cách tổ chức và phương thức hoạt động của cơ quan tư pháp bao gồm: Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, Cơ quan Thi hành án, các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp như công chứng, giám định tư pháp, hộ tịch…Tuy nhiên về phương pháp tiến hành, Tòa án được chon là khâu đột phá trong cải cách tư pháp, bởi vì trong hệ thống các cơ quan tư pháp, Tòa án có vai trò đặc biệt quan trọng, phán quyết của Tòa án thể hiện kết quả cuối cùng của tiến trình tố tụng. Tòa án là nơi thể hiện sâu sắc nhất bản chất của Nhà nước và nền công lý của nước ta đồng thời thể hiện chất lượng hoạt động và uy tính của hệ thống tư pháp, trong Nhà nước pháp quyền XHCN. Sứ mạng của Tòa án được thể hiện ở chổ nó là công cụ bảo vệ công lý và sự công bằng của xã hội. Vì thế Nghị quyết 49/TW-NQ đã xác định trong cải cách tư pháp, Tòa án là trung tâm và hoạt động xét xử là trung tâm. Theo đó, Nghi quyết đã đề ra cách thức tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm Tòa án sơ thẩm được tổ chức ở một số đơn vị hành chính cấp huyện, Tòa phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án, tòa thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nghĩa vụ xét xử phúc thẩm, TANDTC có nghĩa vụ tổng kết, rút kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm.
Việc thực hiện thành công cải cách tư pháp đặc biệt là cải cách Tòa án sẽ góp phần xây dựng từng bước và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân và đảm bảo các quyền dân chủ của công dân trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội mà Hiến pháp đã ghi nhận, góp phần nâng cao nhận thức của xã hội, củng cố và tăng cường kỷ cương, kỷ luật, nếu xây dựng một Tòa án gần dân sẽ thuận lợi cho dân đồng thời tiết kiệm cho ngân sách Nhà nước.
Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu phải hoàn thiện pháp luật về tổ chức Tòa án có thẩm quyền. Từ yêu cầu cải cách tư pháp và thực hiện theo nội dung của Nghị quyết 49/TW-NQ. Quốc hội đang xem xét để quyết định thành lập các Tòa án khu vực ở một số đơn vị cấp huyện, đồng thời để đáp ứng yêu cầu thực tiển ngày càng phong phú và da dạng của công tác xét xử, giải quyết các vụ án nhất là trong lĩnh vực dân sự, hiện nay Quốc hội đang bàn bạc, xem xét để thành lập Tòa án chuyên trách trong lĩnh vực dân sự đặc biệt đối với lĩnh vực HN&GĐ sẽ thành lập một Tòa án HN&GĐ.
Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu đặc thù của lĩnh vực HN&GĐ đặc biệt là xuất phát từ đặc điểm của các vụ án ly hôn. Vấn đề ly hôn là vấn đề thuộc lĩnh vực tình cảm của gia đình và nó không chỉ ảnh hưởng đến quan hệ vợ chồng khi ly hôn, quan hệ gia đình, xã hội mà nó còn để lại những hậu quả lâu dài. Đòi hỏi khi giải quyết phải giải quyết hợp tình hợp lý, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên, ổn định đời sống gia đình, tạo môi trường lành mạnh cho gia đình và xã hội phát triển. Nếu vấn đề này giải quyết không đúng đắn, không kịp thời sẽ dẫn đến những hậu quả làm ảnh hưởng sâu sắc đến quan hệ gia đình và phát triển xã hội. Muốn có một bản án, quyết định chính xác đòi hỏi Tòa án, mà trực tiếp là người thẩm phán khi xét xử, giải quyết vụ án ly hôn ngoài hiểu biết những kiến thức pháp luật để áp dụng giải quyết còn phải am hiểu và nắm vững tâm lý của đương sự và phải biết vận dụng thực tế để giải quyết để đưa ra một quyết định đúng đắn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử, thúc đẩy xã hội phát triển tiến bộ.
Thứ tư, xuất phát từ thực tiễn số lượng các vụ, việc thuộc lĩnh vực HN&GĐ nói chung và các vụ án ly hôn nói riêng mà Tòa án phải thụ lý giải quyết ngày càng tăng về số lượng và đa dạng, phức tạp về nội dung. Trong khi đội ngũ thẩm phán, thư ký, cán bộ nghiệp vụ trong lĩnh vực này thiếu, năng lực và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế, chưa đồng đều. Các quy định của pháp luật còn mâu thuẫn nhau gây ra những vướng mắc, khó khăn cho hoạt động thụ lý, giải quyết của Tòa án. Hàng năm lượng án chưa giải quyết xong, án tồn động vẫn còn chiếm số lượng nhiều gây ra những khó khăn nhất định, không đáp ứng được yêu cầu giải quyết kịp thời để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Thứ năm, xuất phát từ việc cũng cố, xây dựng một nền tảng gia đình lành mạnh thúc đẩy xã hội phát triển công bằng, văn minh và tiến bộ. Thực tế cho thấy, hiện nay vấn đề quan hệ gia đình, tình nghĩa vợ chồng không được coi trọng như trước, điều này đã kéo theo hệ quả là hiện tượng ly hôn, tảo hôn, lấy nhiều vợ… xuất hiện nhiều, đặc biệt nhiều người đã lợi dụng sơ hở của pháp luật để kết hôn giả, ly hôn giả…nhằm thực hiện mục đích cá nhân.
Như đã trình bày ở chương I, khi ly hôn thì con cái là người phải gánh chịu nhiều thiệt thòi nhất vì thiếu đi tình cảm yêu thương của bố mẹ, và một thực tế là vấn đề chăm sóc cấp dưỡng nuôi con vẫn còn nhiều bất cập, điều này đã ảnh hưởng đến quyền lợi của các trẻ em, những chủ nhân tương lai của đất nước.
Thực tế cho thấy không phải cặp vợ chồng nào khi có yêu cầu ly hôn thì tình cảm vợ chồng đã hết, mâu thuẫn trầm trọng, tuy nhiên có nhiều cặp vợ chồng vì nông nổi nhất thời đã nộp đơn ly hôn, vì thế ở đây vai trò của người thẩm phán hết sức quan trọng, họ phải là người biết nắm vững tâm lý, phải động viên, giáo dục, thuyết phục để hòa giải đoàn tụ, hàn gắn mối quan hệ vợ chồng và quan hệ gia đình tạo môi trường gia đình xã hội lành mạnh, đưa đất nước ngày càng phát triển văn minh.
2.2 Những giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn
2.2.1 Giải pháp mang tính tổng thể
Gia đình là thiết chế xã hội quan trọng, gia đình là tế bào của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục thể chất, nhân cách, đạo đức con người, nơi bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp. Mọi sự tốt đẹp của xã hội được khởi nguồn từ gia đình. Hiện nay, vấn đề ly hôn ngày càng tăng về số lượng và đa dạng, phức tạp về nội dung, đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển tiến bộ của xã hội, đó là biểu hiện của sự đổ vỡ gia đình. Vì vậy để xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hòa thuận, hạnh phúc và tiến bộ là cơ sở, là nguồn lực để xây dựng và phát triển xã hội, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải đặc biệt chú trọng đến công tác xây dựng gia đình, phải thường xuyên quan tâm, cũng cố gia đình bằng những quyết sách quan trọng.
Đường lối, chính sách của Đảng được coi là ngồn nội dung của pháp luật, bởi vì chúng định ra mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong một giai đoạn nhất định, cũng như những phương pháp, cách thức cơ bản để thể hiện những mục tiêu, phương hướng này. Và Nhà nước thể chế hóa những mục tiêu, phương hướng, phương pháp và cách thức này bằng pháp luật và tổ chức thực hiện trong thực tế. Chính vì lẽ đó, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải luôn luôn quan tâm và đưa ra những đường, lối chính sách đường lối phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, đặc biệt là những chính sách liên quan đến lĩnh vực HN&GĐ. Tuy nhiên để cho những đường lối chính sách đó được tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh thì không có cách nào hiệu quả hơn bằng việc thể chế hóa thành pháp luật, bởi vì pháp luật là công cụ pháp lý, mang tính bắt buộc mọi người phải tuân theo.
Một thực tế đặt ra, muốn cho pháp luật được áp dụng hiệu quả trước tiên đòi hỏi các quy định đó phải phù hợp với thực tiễn xã hội, các nội dung của điều luật phải rõ ràng, cụ thể. Hiện nay, hệ thống pháp của nước ta còn nhiều hạn chế, rất đa dạng về thể loại văn bản và khổng lồ về số lượng văn bản, quy phạm pháp luật, pháp luật thì thường xuyên thay đổi, nhiều văn bản pháp luật có tính chất quy phạm thấp tức là thiếu những quy tắc xử sự cụ thể mà chủ thể phải thực hiện, tính hệ thống pháp luật còn hạn chế đó là sự mâu thuẫn giữa các văn bản luật với nhau và các văn bản luật với các văn bản dưới luật vì vậy chưa thực sự tạo thành một tổng thể với những nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt mang tính chuyên ngành hoặc liên ngành. Vì vậy phải hoàn thiện hệ thống pháp luật trong đó có các quy định về lĩnh vực HN&GĐ. Phải xây dựng pháp luật đảm bảo tính ổn định, phải có chuẩn mực (tính quy phạm của pháp luật), phải có tính nhất quán, tính hệ thống của pháp luật cuối cùng pháp luật phải có tính minh bạch.
Như vậy xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện là đòi hỏi cũng là điều kiện tiên quyết của Nhà nước pháp quyền XHCH _ Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Việc Đảng và Nhà nước quan tâm đến các chính sách và đường lối phát triển xã hội cùng với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật sẽ đảm bảo tốt quyền tự do dân chủ của nhân dân và sẽ tạo thêm lòng tin của nhân dân vào đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và pháp luật.
2.2.2 Một số giải pháp cụ thể
Nếu như những biện pháp tổng thể mang tính chất định hướng chung làm tiền đề, cơ sở cho mọi hoạt động giúp xã hội tiến bộ thì các biện pháp cụ thể mang tính chất định hướng riêng biệt cho sự phát triển của lĩnh vực xã hội nhất định. Cụ thể ở đây là các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn, bao gồm các biện pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật đối với lĩnh vực HN&GĐ nói chung và pháp luật về ly hôn nói riêng.
* Hoàn thiện pháp luật về nội dung để áp dụng xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn.
Trước hết là tiếp tục sửa đổi và hoàn thiện Luật HN&GĐ. Qua thực tiễn xét xử cho thấy, Luật HN&GĐ vẫn còn tồn tại nhiều quy định chưa cụ thể, rõ ràng, gây không ít khó khăn cho công tác áp dụng giải quyết các vụ án ly hôn của Tòa án.
Vấn đề đầu tiên đó là vấn đề ly hôn của vợ chồng. Theo quy định của pháp luật HN&GĐ chỉ quy định căn cứ ly hôn để Tòa án cho ly hôn mà chưa quy định căn cứ cho việc bác đơn xin ly hôn. Vì thế, khi Tòa án ra quyết định bác đơn ly hôn thường với lý do “chưa đủ căn cứ cho ly hôn”, như vậy còn chung chung, chưa rõ ràng, thuyết phục. Ở đây cần quy định thêm về căn cứ bác đơn yêu cầu ly hôn một cách cụ thể trong Luật HN&GĐ, ban hành văn bản hướng dẫn thi hành để làm căn cứ pháp lý cho Tòa án khi áp dụng.
Tiếp theo đó là vấn đề xác định tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Thực tiễn xét xử cho thấy khi giải quyết các vụ án ly hôn, Tòa án gặp khó khăn trong việc xác định tài sản chung của vợ chồng, nhất là khi vợ chồng sống chung với gia đình bố mẹ mà chia các tài sản là nhà và quyền sử dụng đất, hoặc là các trường hợp được bố mẹ tặng cho tài sản là nhà hoặc đất trước khi họ kết hôn với nhau. Luật HN&GĐ cũng như các nghị định hướng dẫn chưa quy định cụ thể trường hợp này, khiến cho việc xét xử gặp khó khăn, có nhiều vụ án kéo dài hoặc đương sự khởi kiện đòi chia lại tài sản… thiết nghĩ để đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của các đương sự và người có nghĩa vụ và quyền lợi liên quan cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xét xử của Tòa án thì nên bổ sung những quy định cụ thể về vấn đề trên như tại Điều 96 Luật HN&GĐ 2000 thì nên bổ sung thêm khoản 3 “Trường hợp mà vợ chồng sống chung với gia đình mà không có quyền sử dụng đất chung với hộ gia đình thì khi ly hôn, người không trực tiếp chung sống với gia đình sẽ được xem xét trích chia giá trị công sức đóng góp từ giá trị quyền sử dụng đất”. Bổ sung thêm vào Điều 98 Luật HN&GĐ 2000 quy định “ Trong trường hợp vợ chồng chung sống với gia đình mà ly hôn, người không tiếp tục chung sống với gia đình sẽ được trích chia giá trị nhà ở dựa vào công sức tôn tạo, xây dựng nhà ở”. Mặt khác, cần phải ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể để có căn cứ áp dụng khi giải quyết việc phân chia tài sản.
Cũng nằm trong vấn đề xác định tài sản chung của vợ chồng, đó là vấn đề hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ chồng có được xem là thuộc khối tài sản chung của vợ chồng hay không hay vẫn là tài sản riêng? Trên thực tế vẫn có nhiều quan điểm và mỗi quan điểm có cách hiểu chính xác và thống nhất khi áp dụng, Luật HN&GĐ của Nhà nước ta cần quy định cụ thể các hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng. Quy định như vậy vì xuất phát từ tính cộng đồng tạo sản của quan hệ hôn nhân vợ chồng cùng chung sức tạo dựng ý chí tạo dụng tài sản chung nhằm đảm bảo nhu cầu đời sống chung của gia đình, phù hợp với truyền thống lập pháp của đất nước trong lĩnh vực HN&GĐ.
Như đã trình bày ở chương I, thực tế còn một bất cập nữa cần phải có biện pháp giải quyết đó là vấn đề liên quan đến việc xác định tài sản chung của vợ chồng đối với trường hợp vợ chồng bị Tòa án tuyên bố là đã chết mà sau này vì ly do nào đó họ lại trở về (chưa chết) thì vấn đề qua hệ tài sản (gồm tài sản chung của vợ chồng) có được khôi phục không? và khôi phục như thế nào? Những tài sản cùng các hoa lợi, lợi tức được vợ chồng tạo dựng sau khi người vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết có thuộc khối tài sản chung của vợ chồng hay thuộc tài sản riêng của người đó? Thực tế vấn đề này rất phức tạp và khó giải quyết bởi vì pháp luật chỉ quy định quan hệ hôn nhân của vợ chồng khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ tuyên bố người vợ, chồng chết, theo quy định của pháp luật thì hôn nhân đó sẽ được đương nhiên khôi phục (nếu người chồng, vợ kia chưa kết hôn với ai). Vì vậy pháp luật cần phải dự liệu và chỉnh sửa, bổ sung. Ở đây, chúng tôi cho rằng, Điều 26 Luật HN&GĐ 2000 và Điều 83 BLDS 2005 của Nhà nước ta chỉnh sửa theo hướng “ không đương nhiên phục hồi quan hệ hôn nhân khi đã có quyết định của Tòa án tuyên bố vợ, chồng đã chết mà sau này lại trở về, dù người chồng , vợ kia chưa kết hôn với người khác”. Như vậy nếu không thể phục hồi quan hệ hôn nhân thì chế độ tài sản giữa vợ và chồng cũng không thể phục hồi, và vấn đề trên dễ giải quyết hơn.
Về vấn đề cấp dưỡng khi vợ chồng ly hôn cũng cần có những quy định cụ thể hơn. Vấn đề cấp dưỡng, mức cấp dưỡng nuôi con như mức cấp dưỡng tối thiểu, như thế nào được xem là không đủ điệu kiện cấp dưỡng nuôi con, các trường hợp mức cấp dưỡng ở nông thôn, thành thị… tất cả các vấn đề này pháp luật cần phải có những quy định, hướng dẫn cụ thể để có sự áp dụng giải quyết thống nhất trên cả nước, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người được cấp dưỡng.
* Quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn
- Đối với vấn đề thụ lý
Thực tế cho thấy, kể từ khi BLTTDS 2004 ra đời, công tác xét xử thuộc lĩnh vực dân sự, trong đó có lĩnh vực HN&GĐ được thuận lợi hơn nhiều, Tòa án có cơ sở pháp lý, đường lối để giải quyết. Đặc biệt xuất phát từ thực tế việc phân biệt và thụ lý các án dân sự, BLTTDS 2004 đã chia án dân sự thành vụ án dân sự và việc dân sự với hai thủ tục giải quyết khác nhau. Theo đó thì các án HN&GĐ cũng chia thành hai thủ tục, thủ tục giải quyết việc HN&GĐ và thủ tục giải quyết vụ án HN&GĐ. Căn cứ để xác định đâu là vụ án dân sự, đâu là việc dân sự được quy định tại Điều 27 và Điều 28 BLTTDS 2004. Tuy nhiên từ thực tiễn giải quyết có một số trường hợp không xác định được là vụ án hay việc dân sự bởi vì pháp luật không có quy định. Như đối với trường hợp không công nhận quan hệ vợ chồng được trình bày tại mục 1.4.1. Tại Điều 27, Điều 28 chỉ quy định thủ tục giải quyết đối với vụ, việc ly hôn mà không quy định về thủ tục thụ lý yêu cầu tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng nên thực tế, Tòa án tùy vào lập luận, cách hiểu của mình để thụ lý vụ án hay việc dân sự. Vì vậy để có cách hiểu và giải quyết thống nhất nên đưa trường hợp này vào nhóm tranh chấp để thụ lý vụ án HN&GĐ tại Điều 27 hoặc yêu cầu để thụ lý việc HN&GĐ tại Điều 28 BLTTDS 2004. Theo quan điểm cá nhân thì nên đưa trường hợp này vào nhóm vụ án HN&GĐ, vì bản chất của vấn đề này là Tòa án quyết định việc chấm dứt một quan hệ trái pháp luật chứ không phải là công nhận một sự kiện pháp lý.
Pháp luật tố tụng cần phải dự liệu các trường hợp thực tế có thể xảy ra để xác định vụ hay việc HN&GĐ như trường hợp vợ (chồng) nộp đơn yêu cầu do một bên yêu cầu, sau khi Toà án thụ lý thì chồng (vợ) gửi đơn yêu cầu ly hôn hoặc trong biên bản tự khai thể hiện đồng ý chí với đơn xin ly hôn của vợ (chồng). Như vậy trường hợp này có xác định được là sự thỏa thuận hay không để nhận đơn thụ lý theo vụ án hay việc HN&GĐ .
- Đối với vấn đề hòa giải
Tác giả đã trình bày tại mục 1.4.2, vấn đề hòa giải đối với án HN&GĐ đang tồn tại bất cập đó là về vấn đề thuận tình ly hôn. Giữa quy định của BLTTDS và Luật HN&GĐ có sự mâu thuẫn nhau. Từ Điều 311 đến Điều 318 không đề cập thủ tục hòa giải đối với việc dân sự (không quy định thủ tục hòa giải đối với việc dân sự). Trong khi Luật HN&GĐ lại quy định thủ tục hòa giải là thủ tục bắt buộc phải có, không phụ thuộc vào thuận tình ly hôn hay ly hôn do một bên yêu cầu. Và thực tế Tòa án vẫn áp dụng thủ tục hòa giải cho trường hợp này, như vậy có làm trái với BLTTDS 2004 hay không? Vì vậy cần phải có sự thống nhất trong quy định của pháp luật tránh tình trạng mỗi Tòa án lại có một cách giải quyết khác nhau. Theo chúng tôi, đối với trường hợp thuận tình ly hôn vẫn quy định thủ tục hòa giải vì thực tế giải quyết đã mang lại hiệu quả cao khi hòa giải thành cho các cặp vợ chồng trở về đoàn tụ với gia đình, bởi khi ly hôn do sự nông nổi, tự ái nhau của hai vợ chồng nên đã yêu cầu thuận tình ly hôn chứ thực sự nhiều cặp vợ chồng chưa muốn ly hôn.
- Đối với vấn đề đương sự
Trong tố tụng dân sự, đương sự là thành phần không thể thiếu. Tuy nhiên, thực tiễn đã gặp một số vướng mắc gây trở ngại cho việc giải quyết xét xử của Tòa án, vì vậy cần phải có những giải pháp khắc phục những vướng mắc này.
Trước hết, đó là vấn đề đại diện trong vụ án ly hôn. Hiện tại pháp luật HN&GĐ cũng như luật TTDS chưa có quy định cụ thể vấn đề này, vì vậy thực tế các Tòa án đã có những cách giải quyết khác nhau, có Tòa án thì giải thích cho nguyên đơn tự rút đơn, có Tòa án thì thẩm phán đưa vụ án ra xét xử với kết quả là không nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì không thỏa mản các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều 89 Luật HN&GĐ. Đây là vấn đề quan trọng và được nhiều người quan tâm, tuy nhiên hiện chưa có quy định của pháp luật về người đại diện cho người mắc bệnh tâm thần, mất năng lực trong vụ án ly hôn. Để đảm bảo cho vấn đề này có cách giải quyết rõ ràng, thống nhất và đáp ứng sự quan tâm của mọi người, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có sự sửa đổi , bổ sung điều luật về người đại diện theo pháp luật.
Vấn đề tiếp theo là cần phải hạn chế tình trạng bỏ sót đương sự trong vụ án ly hôn.
Thực tế có nhiều trường hợp khi bản án có hiệu lực pháp luật thì người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan lại nộp đơn khởi kiện, đòi quyền, lợi ích của mình liên quan đến tài sản vợ, chồng. Về vấn đề này chủ yếu thuộc kỷ năng và cách thức giải quyết của Tòa án, cần xác minh, điều tra, thu thập chứng cứ, đặc biệt là mối quan hệ về tài sản giữa vợ chồng với những người xung quanh, để triệu tập giải quyết đúng đắn hơn.
Thứ hai, Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn cho cán bộ Tòa án. Tòa án là cơ quan thực thi pháp luật, cầm cán cân công lý, những quyết định của Tòa án có ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống xã hội. Vì vậy đòi hỏi người “cầm cân nãy mực” phải là người có trình độ chuyên môn cao và phẩm chất đạo đức tốt.
Trong những năm qua, cán bộ Tòa án ngày càng được được nâng cao về trình độ chuyên môn, đặc biệt là đội ngũ thẩm phán. Tuy vậy, so với tình hình thực tế và thực tiễn xét xử cho thấy, đội ngũ thẩm phán, thư ký, cán bộ nghiệp vụ còn thiếu năng lực và kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế, chưa đồng đều. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả công tác xét xử. Để khắc phục được những hạn chế trên, thực tế cần phải có những biện pháp nâng cao chất lượng của độ ngũ cán bộ ngành Tòa án đặc biệt là những người tham gia vào giải quyết án HN&GĐ như: Phát huy trí tuệ tập thể; nâng cao tinh thần trách nhiệm cá nhân; làm tốt công tác tổng kết thực tiễn xét xử và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. Cần phải đổi mới mạnh mẽ phương thức chỉ đạo, điều hành và thủ tục hành chính tư pháp trong hoạt động Tòa án theo hướng nhanh, gọn, hiệu quả, phân công phân nhiệm và phân cấp rõ ràng trong từng lĩnh vực công tác… Trong đó, đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ , thẩm phán trong công tác xét xử chẳng hạn như: hàng năm phải chú trọng về công tác đào tạo, đào tạo lại, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ như tập huấn các văn bản hướng dẫn mới; kỷ năng xét xử các vụ án; tập huấn các kiến thức liên quan đến công tác xét xử các vụ án HN&GĐ, nâng cao trình độ chính trị cho cán bộ, công chức trong ngành.
Một khía cạnh đáng quan tâm nữa là công tác bổ nhiệm thẩm phán. Trong những năm qua công tác bổ nhiệm thẩm phán còn nhiều bất cập và hạn chế nên đội ngũ thẩm phán hiện nay chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu của tiến trình cải cách Tư pháp. Thẩm phán được hình thành từ nhiều loại nguồn khác nhau nên năng lực, kiến thức chuyên môn chưa vững làm giảm chất lượng của công tác xét xử. Thực tế cho thấy, xét xử là hoạt động mang tính đặc thù, không phải ai có kiến thức chuyên môn về luật và một số điều kiện khác đều có thể làm tốt nhiệm vụ của một người thẩm phán. Người thẩm phán giỏi, ngoài kiến thức chuyên môn vững vàng cần đảm bảo điều kiện về kỷ năng nói và viết. Vì vậy khi tuyển dụng, bổ nhiệm thẩm phán phải có phương pháp khoa học, mang tính cạnh tranh, khách quan để chọn được người có thực tài, bổ nhiệm làm thẩm phán.
Để có được những quyết định đúng đắn, hợp tình, hợp lý. Trong quá trình giải quyết thẩm phán phải điều tra, xác minh thu thập chứng cứ một cách đầy đủ rồi mới đưa đưa vụ án ra xét xử và cho ra bản án, quyết định cuối cùng. Để làm tốt công tác này đòi hỏi người thẩm phán phải nắm được tâm lý, tâm tư, tình cảm của đương sự. Như đã nói ở chương I, lĩnh vực HN&GĐ cụ thể là vấn đề ly hôn, là vấn đề thiên về lĩnh vực tình cảm, vì vậy đối với lĩnh vực này, thẩm phán nữ sẽ dễ dàng tiếp cận sự việc hơn. Nhưng thực tế tại Tòa án, thẩm phán làm trong lĩnh vực này nam nhiều hơn. Thiết nghĩ cần phải có sự đổi mới đội ngũ thẩm phán, tăng cường nhiều hơn số lượng thẩm phán nữ làm trong lĩnh vực này. Song song với vấn đề đó là cần phải có sự phân công, bố trí hợp lý, tránh tình trạng tùy nghi. Hiện tại vẫn chưa có đội ngũ thẩm phán chuyên trách về lĩnh vực này mặc dù đây là lĩnh vực mang tính đặc thù, không phải thẩm phán nào cũng giải quyết được. Vì vậy cần phải tập huấn, đào tạo riêng một đội ngũ thẩm phán làm trong lĩnh vực này thì thực tiễn xét xử sẽ đạt hiệu quả hơn.
Bên cạnh việc nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ Tòa án, để công tác giải quyết các vụ án ly hôn có hiệu quả vai trò của các đoàn thể như Mặt trận Tổ quốc, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên… có tác dụng rất lớn. Thực tiễn cho thấy, mặc dù các vụ án ly hôn ngày càng nhiều, đa dạng và phức tạp nhưng trên thực tế thấy ít có tiếng nói của các đoàn thể trong việc bảo vệ quyền lợi của người mẹ, trẻ em nói riêng và can thiệp cần thiết trong việc hòa giải cơ sở nói chung. Vai trò trong việc hòa giải tại cơ sở rất lớn, nếu giải quyết tốt, nó sẽ giảm thiểu một lượng án mà Tòa án phải thụ lý và các đương sự không phải tốn thời gian, tiền bạc…Với vai trò đó, cần phải có các biện pháp tác động đến đoàn thể như: tổ chức các chương trình, ban hành các chính sách, các quy định để các đoàn thể cùng tham gia tích cực trong việc bảo vệ quan hệ gia đình tại địa phương, góp phần ổn định xã hội mà điều đặc biệt là tạo điều kiện cho hội đồng xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn tại Tòa án đạt hiệu quả cao.
Thứ ba, cần có các văn bản hướng dẫn thi hành cụ thể.
* Đối với Luật HN&GĐ 2000
Luật HN&GĐ 2000 ra đời đã bổ sung và hoàn thiện và thay thế Luật HN&GĐ 1986. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng vẫn còn nhiều vướng mắc và bất cập vì cần phải có những văn bản hướng dẩn cụ thê:
- Đối với vấn đề chia tài sản đây là một vấn đề phức tạp, khó khăn không phải ở việc phân chia mà khó khăn trong việc xác định đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng của vợ chồng với nhau và tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng trong khối tài sản chung khi vợ chồng ở cùng với gia đình. Đặc biệt là các tranh chấp phát sinh từ việc chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, mặc dầu luật có quy định “Nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp…” (khoản 1 Điều 95 Luật HN&GĐ 2000), nhưng thực tiễn xét xử lại gặp nhiều lúng túng, khó khăn trong việc xác định gây ra nhiều tranh cải và xét xử nhiều lần trên một bản án vì vậy cần phải có văn bản hướng dẫn cụ thể cho vấn đề này.
Ở đây theo chúng tôi, để làm đảm bảo chia tài sản được công bằng thì không nên căn cứ vào thời gian mà người vợ về làm dâu nhà chồng hoặc người chồng về ở với gia đình vợ bao lâu để tính công sức chia tài sản mà Tòa án cần điều tra, xác minh tài sản của gia đình bên chồng (bên vợ) có tăng thêm bao nhiêu kể từ khi vợ (chồng) về sống chung cùng gia đình có công sức đóng góp. Từ đó, xác định chia mức bao nhiêu. Nếu tài sản đó không tăng thì căn cứ vào khối tài sản đó được duy trì, nhất là đối với trường hợp vợ chồng là lao động chính của gia đình, đã duy trì khối tài sản đó mà không phải bán đi
Pháp luât cần có hướng dẫn cụ thể đối với trường hợp khi vợ chồng kết hôn với nhau thì cha mẹ cho đất nhưng chỉ nói miệng mà không có thủ tục chuyển nhượng. Bởi vì khi ly hôn thì cha mẹ nói là “cho mượn” hoặc chỉ cho riêng con đẻ của mình. Vấn đề này đã gây khó khăn cho Tòa án trong việc xác định và thông thường đương sự không chứng minh được căn cứ “cho” đất và Tòa án xác định là tài sản chung, để rồi khi chia, các đương sự, người có quyền lợi liên quan lại khởi kiện. Đối với vấn đề này Tòa án thường dựa vào công sức “đóng góp” để trích chia. Nhưng đây chỉ là biện pháp tình thế vì vậy cần phải có văn bản hướng dẩn cụ thể.
- Đối với vấn đề cấp dưỡng, pháp luật cần có các văn bản hướng dẫn cụ thể. Vì thực tế, có những trường hợp đã trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, hoặc là mặc dầu cần sự cấp dưỡng nhưng vì sỷ diện, tự ái hoặc lý do nào đó mà các bên từ chối việc cấp dưỡng làm ảnh hưởng quyền lợi của người được cấp dưỡng, đặc biệt là cấp dưỡng giữa cha mẹ với con. Hiện nay, về mức cấp dưỡng vẫn chưa được quy định cụ thể mức cấp dưỡng bao nhiêu thì có thể chấp nhận được, phù hợp với khả năng thực tế của người cấp dưỡng lại vừa đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng…Như vậy, để các bên thỏa thuận cho phù hợp hoặc Tòa án quyết định mức cấp dưỡng hợp tình, hợp lý thì cần phải có những quy định hướng dẫn cụ thể vấn đề này.
* Đối với hướng dẩn thi hành BLTTDS 2004
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã quy định khá chặt chẽ các thủ tục tiến hành tố tụng dân sự và cũng đã có những văn bản hướng dẫn thi hành, tuy nhiên trên thực tế vẫn còn nhiều quy định chưa được hướng dẫn cụ thể nên đã gây khó khăn, vướng mắc khi Tòa án áp dụng giải quyết.
- Phải có văn bản hướng dẫn về thủ tục giải quyết các tình huống thuận tình ly hôn có hòa giải hay không hòa giải; quy định cụ thể trường hợp không công nhận quan hệ vợ chồng thụ lý theo vụ án hay việc HN&GĐ. Những vấn đề này trên thực tế vẫn còn nhiều cách giải quyết khác nhau giữa các Tòa án.
- Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần phải ban hành văn bản hướng dẫn về việc chuyển hóa, từ vụ án HN&GĐ sang việc HN&GĐ và ngược lại, như các căn cứ để chuyển, quy trình thụ lý…Để các Tòa án áp dụng thống nhất.
- Cần phải ban hành văn bản hướng dẫn trong việc thụ lý và cách giải quyết các trường hợp nguyên đơn là đại diện trong vụ án ly hôn đối với người mắc bệnh tâm thần, người không có năng lực hành vi dân sự. Bởi vì thực tế vấn đề này đã gây lúng túng, băn khoăn nhất định cho Tòa án trong việc gải quyết vì mỗi người có cách lập luận, quan điểm khác nhau.
Thứ tư, tuyên truyền, giáo dục các chính sách, pháp luật về HN&GĐ
Ngày nay, cùng với sự phát triển của đất nước, con người cũng thay đổi về quan niệm sống trong đó có quan hệ hôn nhân. Hôn nhân không được coi trọng, do đó người ta dễ dàng đặt bút ký đơn xin yêu cầu ly hôn, mặt khác do trình độ kiến thức pháp luật trong lĩnh vực hôn nhân của người dân vẩn còn kém nên đã gây ra khó khăn nhất định cho cơ quan trực tiếp giải quyết vụ việc ly hôn, làm ảnh hưởng đến hiệu quả xét xử của Tòa án, khi phải thụ lý một lượng án nhiều và nội dung ngày càng đa dạng, phức tạp. Nguyên nhân dẫn đến ly hôn rất phong phú và đa dạng, điều này đều xuất phát từ nhận thức của mỗi người. Thực tế cuộc sống, ly hôn là lối thoát cho vợ chồng khi quan hệ hôn nhân thực sự trầm trọng tất yếu dẫn đến đổ vỡ, tuy nhiên đôi lúc vì nông nổi, lòng tự ái cao…hay nói cách khác nhận thức còn hạn chế nên đã quyết định ly hôn khi tình cảm vợ chồng vẫn còn chưa đến mức phải ly hôn. Vì vậy cần phải có các biện pháp nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của gia đình cũng như các quy định của pháp luật trong lĩnh vực HN&GĐ đến người dân đặc biệt là các cặp vợ chồng như: tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và sự chỉ đạo của chính quyền các cấp, đẩy mạnh xã hội hóa công tác gia đình, thực hiện các chủ trương của Đảng, Nhà nước và Pháp luật về HN&GĐ, giúp các gia đình có kiến thức pháp luật về HN&GĐ, tuyên truyền các truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc về quan hệ HN&GĐ. Các gia đình, đặc biệt là các cặp vợ chồng cần phải nâng cao nhận thức, sống có trách nhiệm với nhau và với gia đình, tạo điều kiện tốt để duy trì mối quan hệ hôn nhân, góp phần giảm thiểu tình trạng hôn nhân, giúp cho Tòa án tập trung giải quyết các vụ án ly hôn có hiệu quả tốt hơn.
Thứ năm, Nhà nước cần phải có sự quan tâm hơn đến cơ sở, vật chất của TAND. Trong những năm qua, TAND thành phố Huế nói riêng và các TAND trên cả nước nói chung đã được Đảng và Nhà nước quan tâm đến cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc, nhưng so với yêu cầu cải cách tư pháp và nâng cao hơn nữa hiệu quả xét xử thì vẫn chưa đáp ứng được. Vì vậy cần phải có sự quan tâm hơn nữa của Đảng và Nhà nước như là nâng cao cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí công tác…giúp cho cán bộ Tòa án có điều kiện thuận lợi, yên tâm hơn trong việc thực thi áp dụng pháp luật.
KẾT LUẬN
Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay, một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu là xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Muốn xây dựng thành công CNXH ở nước ta cần phải có con người XHCN, đó là đòi hỏi tất yếu khách quan. Và gia đình chính là cái nôi để sản sinh ra những con người đó. Để có một xã hội phát triển và lành mạnh thì cần phải có gia đình tốt (tế bào tốt) đó là những gia đình văn hóa mới, vì vậy Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua luôn quan tâm tới vấn đề gia đình. Luật HN&GĐ có vai trò góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ HN&GĐ tiến bộ, nhằm xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc.
Trong hoạt động tư pháp thì hoạt động của Tòa án là trọng tâm, có vai trò quan trọng trong hệ thống cơ quan tư pháp. Tòa án là cơ quan duy nhất nhân danh Nhà nước tiến hành hoạt động xét xử các loại án nói chung và án ly hôn thuộc lĩnh vực HN&GĐ nói riêng.
Do đặc thù của quan hệ HN&GĐ là xuất phát từ yếu tố tình cảm của các thành viên trong quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và nuôi dưỡng đặc biệt là ảnh hưởng đến sự ổn định của gia đình và xã hội. Vì vậy, giải quyết tốt các vụ án sẽ góp phần giải quyết tốt các mâu thuẫn, bất hòa trong hôn nhân. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nhất là quyền lợi của người phụ nữ và trẻ em.
Thông qua việc trình bày, phân tích các quy định của pháp luật liên quan đến lĩnh vực giải quyết các vụ án ly hôn. Tác giả đã liên hệ với thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn tại TAND thành phố Huế. Từ thực tiễn đó, để thấy được hiệu quả áp dụng pháp luật và vận dụng đường lối của Đảng vào cuộc sống, cũng như đưa ra các vướng mắc, thiếu sót thường gặp trong hoạt động xét xử của Tòa án đối với lĩnh vực này. Đồng thời qua nghiên cứu, tác giả đưa ra những biện pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật, từ đó góp phần làm ổn định quan hệ hôn nhân, giữ gìn kỷ cương pháp luật, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, mặt khác thông qua hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án ly hôn, tác giả muốn phổ biến, tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân, từ hiểu biết pháp luật nhân dân sẽ tham gia thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật trong quan hệ hôn nhân, thúc đẩy xã hội ngày càng phát triển, tiến bộ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ( năm 2000), Hiến pháp 1992 đã sửa đổi, bổ sung, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ( năm 2005), Bộ luật dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ( năm 2004), Bộ luật tố tụng dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ( năm 1959), Luật Hôn nhân và Gia đình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ( năm 1986), Luật Hôn nhân và Gia đình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ( năm 2000), Luật Hôn nhân và Gia đình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (năm 2000), Nghị quyết số 35/2000/QH 10 ngày 9/6/2000 về thi hành Luật HN&GĐ 2000, Hà Nội.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ( 1989), Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Hà Nội.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ( 1989), Pháp lệnh thi hành án dân sự, Hà Nội.
Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2001), Nghị định số 70/2001/ND-CP ngày 03/10/2001 quy định chi tiết Luật HN&GĐ 2000, Hà Nội.
Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2001), Nghị định số 87/2001/ND-CP ngày 21/11/2001 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực HN&GĐ 2000, Hà Nội.
Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2005), Nghị định số 158/2005/ND-CP ngày 27/12/2005 về đăng ký, quản lý hộ tịch, Hà Nội.
Bộ chính trị nước CHXHCN Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác cải cách tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
Bộ chính trị nước CHXHCN Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
Hội đồng thẩm phán TANDTC (2000), Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ 2000, Hà Nội.
Tòa án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ tư pháp (2000), Thông tư liên tịch số 01/ 2001/ TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH 10, Hà Nội.
Công văn số 62/ 2001/ KHXH ngày 13/6/2001 của TANDTC trả lời một số trường hợp ly hôn, Hà Nội.
Tòa án nhân dân thành phố Huế (2008), Báo cáo tổng kết năm.
Tòa án nhân dân thành phố Huế (2009), Báo cáo tổng kết năm.
Tòa án nhân dân thành phố Huế (2010), Báo cáo tổng kết năm.
Tòa án nhân dân thành phố Huế (2011), Báo cáo tổng kết 6 tháng.
Đại học luật Hà Nội (2004) Giáo trình Luật HN&GĐ, Nxb Công an nhân dân Hà Nội.
Trường đại học khoa học, Khoa Luật ( 2008,2009), Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật, Huế.
Tạp chí Tòa án nhân dân, tạp chí Viện kiểm sát nhân dân
Báo pháp luật Việt Nam, Báo pháp luật thành phố Hồ Chí Minh
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BI KHA LU7852NV.HAI.doc