LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I 6
KHÁI NIỆM, DẤU HIỆU PHÁP LÝ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC 6
1. Khái niệm 6
1.1. Qui định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội phạm cờ bạc trước Bộ luật hình sự 1985 7
1.2. Các tội cờ bạc theo qui định Bộ luật hình sự 1985 10
2.1. Khách thể của tội tổ chức đánh bạc 13
2.2. Mặt khách quan của tội tổ chức đánh bạc 18
2.2.1. Các hình thức hành vi khách quan của tội tổ chức đánh bạc 18
2.2.2. Quy mô hành vi khách quan của tội tổ chức đánh bạc 25
2.2.3. Biểu hiện thực tế về mặt khách quan của tội tổ chức đánh bạc 29
2.3. Chủ thể của tội tổ chức đánh bạc 32
2.4. Mặt chủ quan tội tổ chức đánh bạc 38
CHƯƠNG II 42
PHÂN BIỆT TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC 42
VỚI MỘT SỐ TỘI PHẠM KHÁC 42
1. Phân biệt tội tổ chức đánh bạc và đánh bạc 42
2. Phân biệt tội tổ chức đánh bạc với tội gá bạc 44
3. Phân biệt tội tổ chức đánh bạc với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 47
4. Phân biệt tội tổ chức đánh bạc với tổ chức đua xe có tổ chức cá cược và một số trường hợp khác 49
CHƯƠNG III 52
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI PHẠM TỘI 52
TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC 52
1. Hình phạt đối với người phạm tội tổ chức đánh bạc 52
1.1. Hình phạt chính 52
1.2. Hình phạt bổ sung 60
2. Biện pháp tư pháp 63
3. Một số tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng tại Điều 46 và 48 Bộ luật hình sự 1999 thường được áp dụng trong đối với người phạm tội tổ chức đánh bạc 64
4. Hợp pháp hóa một số “hình thức tổ chức đánh bạc” 67
KẾT LUẬN 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO 75
78 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2085 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tìm hiểu các qui định của Bộ luật hình sự 1999 về tội tổ chức đánh bạc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tương quan với toàn bộ các khung hình phạt của tội tổ chức đánh bạc), do việc cấu thành này chỉ phản ánh những dấu hiệu tối thiểu của các yếu tố khách quan, chủ quan, vừa đủ để coi một hành vi nào đó là tội phạm. Hành vi của người phạm tội khi chỉ có các dấu hiệu tối thiểu đó được xét xử theo khoản 1. Theo đó, Tòa án có thể lựa chọn một trong hai hình phạt chính là phạt tiền từ mười triệu đến ba trăm triệu đồng hoặc phạt tù có thời hạn từ một năm đến năm năm để tuyên án đối với người phạm tội.
Hình phạt tiền được hiểu là hậu quả pháp lý bất lợi mà theo đó người phạm tội sẽ bị tước đi một khoản tiền nhất định trong những trường hợp pháp luật qui định để sung công quỹ nhà nước. Đây là hình phạt mang tính chất kinh tế, đánh mà mục đích chính nhằm đánh vào cơ sở kinh tế của người phạm tội.
Trong tội phạm tổ chức đánh bạc, hành vi tổ chức đánh bạc là chủ mưu, dụ dỗ, lôi kéo các đối tượng khác đánh bạc. Dường như với các hành vi này, tiền và tài sản không được sử dụng với tư cách là phương tiện hoạt động phạm tội như trong tội đánh bạc. Tuy vậy, thực chất trên thực tế các đối tượng có hành vi tổ chức thường huy động một lượng tiền khá lớn để phục vụ cho việc tổ chức cũng như cho các con bạc sát phạt nhau.
Trong hình thức lô đề, các chủ đề luôn nắm trong tay một lượng vốn đủ lớn cộng với các khoản thu từ người chơi để trả cho người chơi trúng, số tiền này là không hề nhỏ. Trong hình thức cá độ bóng đá, các đối tượng nhận tiền cá độ có khi lên tới 100.000USD một lần. Điều này chứng tỏ lượng tiền chúng nắm trong tay để có thể tổ chức được những đường dây cá độ kiểu này là rất lớn. Hoặc như đối với các sòng bạc bất hợp pháp được một số đối tượng nước ngoài tổ chức tại Việt Nam, khách vào chơi phải đổi tiền mặt ra các vật được sòng qui định, các đối tượng tổ chức cũng luôn sẵn sàng cung ứng cho các con bạc đại gia những khoản vay nóng lớn để tiếp tục ăn thua trên chiếu bạc. Như vậy, có thể thấy trên thực tế, không những dùng tiền và các tài sản khác làm phương tiện hoạt động, mà các đối tượng phạm tội tổ chức đánh bạc còn huy động và sử dụng lượng tiền, tài sản lớn hơn nhiều nếu so với lượng tiền, tài sản những người phạm tội đánh bạc sử dụng.
Một điều cần chú ý khác là hầu hết các đối tượng khi thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc đều hướng tới các lợi ích vật chất mà chúng sẽ có được. Động cơ vụ lợi tuy không là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành cơ bản của tội, nhưng trong phần lớn các trường hợp trên thực tế chúng luôn đóng vai trò thúc đẩy người phạm tội thực hiện tội phạm tổ chức đánh bạc. Chúng ta có thể thấy rõ điều này khi xét tới các đối tượng tổ chức trong một số hình thức cờ bạc phổ biến. Đối với hình thức lô đề, điều mà các chủ đề hướng tới chính là lời lãi sẽ thu được sau khi nhận tiền của người chơi và trả một phần tiền cho những người trúng. Hay như đối với hình thức cá độ bóng đá, các sòng bạc, các đối tượng luôn tìm mọi cách mở rộng quy mô, thực hiện với thủ đoạn tinh vi hơn, luôn hướng tới việc thu hút được nhiều tiền và tài sản vào sới bạc, từ đó mà tăng lợi nhuận thu về.
Sở dĩ chúng ta phân tích những điều này, xuất phát từ lý do hình phạt tiền được nhà làm luật qui định trong Điều 249 chính nhằm tới cơ sở kinh tế của người phạm tội, nhằm xóa bỏ hoặc hạn chế các điều kiện về kinh tế để bị cáo không thể phạm tội tiếp. Nhìn từ góc độ thực tiễn, ta thấy tội tổ chức đánh bạc đa số đều được người phạm tội sử dụng tiền, tài sản làm phương tiện hoạt động với động cơ vụ lợi. Như vậy, hình phạt tiền ở đây nhằm tới mục đích xóa bỏ đi phương tiện hoạt động, hạn chế hoặc xóa bỏ được ý thức thu lợi nhuận từ việc tổ chức đánh bạc (ý nghĩa giáo dục của hình phạt) của người phạm tội.
Đối với hình phạt tiền, Bộ luật hình sự 1999 qui định mức phạt tiền theo hai cách: qui định mức phạt tiền cụ thể với việc chỉ ra giới hạn tối thiểu hoặc giới hạn tối đa hoặc chỉ ra giới hạn tối đa; qui định mức tiền bằng một số lần giá trị hàng phạm pháp hoặc số lợi bất chính. Khoản 1 Điều 249 qui định hình phạt tiền là từ mười triệu đồng đến ba trăm triệu đồng, chỉ ra giới hạn tối thiểu và giới hạn tối đa của hình phạt. Nhưng một điều cần xem xét ở đây là khoảng cách giữa giới hạn tối thiểu và tối đa trong cùng khung hình phạt quá lớn. Điều này rất dễ dẫn tới việc hình phạt tiền được áp dụng tùy tiện, không nhất quán trong các trường hợp mà tính chất nguy hiểm cho xã hội của các hành vi tương đồng. Nghĩa là có thể xảy ra hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất là các hành vi tổ chức đánh bạc được xem là có tính chất và mức độ nguy hiểm tương đồng nhau do cùng được xếp trong khoản 1 và thực chất có tính chất và mức độ nguy hiểm tương đồng, các yếu tố khác tương tự nhau nhưng có thể xử phạt ở hai mức tiền hết sức chênh lệch nhau. Trường hợp thứ hai là các hành vi này tuy thực chất có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không hề tương đồng nhưng hoàn toàn có thể bị xử phạt ở các mức phạt tiền sát nhau, do việc đều nằm chung trong một khoản và chỉ với một khung phạt tiền duy nhất.
Để khắc phục điều này tôi tán đồng quan điểm của một số tác giả trong các công trình nghiên cứu đã đề xuất việc nhà làm luật nên hoặc rút ngắn sự cách biệt giữa hai giới hạn tối đa hoặc tối thiểu (giúp loại bỏ được trường hợp thứ nhất), hoặc phân hóa chúng thành nhiều khung hình phạt khác nhau giống như đối với tù có thời hạn (giúp loại bỏ được trường hợp thứ hai).
Một điều nữa cũng cần quan tâm tới ở đây, hình phạt tiền được đặt tại khoản 1 Điều 249 là không phù hợp với qui định của nhà làm luật tại phần chung. Theo Điều 30 khoản 1, hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính và một số tội phạm khác do Bộ luật qui định. Tuy vậy, tại khoản 1 Điều 249 người phạm tội có thể bị phạt tù từ một năm đến năm năm tù. Đối chiếu với qui định về phân loại của tội phạm tại Điều 8 thì hành vi qui định tại khoản 1 Điều 249 là tội phạm nghiêm trọng, nhưng cũng theo qui định tại khoản này thì hình phạt tiền là hình phạt chính và có thể được áp dụng độc lập đối với người phạm tội. Điều này là trái với qui định của Điều 30 mà ta đã nhắc tới ở trên.
Như đã phân tích ở trên, hình phạt tiền được áp dụng ở đây là hoàn toàn phù hợp. Bên cạnh các mục đích đã kể ra, hình phạt này còn có ưu điểm là không cần cách li người bị kết án khỏi xã hội, họ có thể tự cải tạo dưới sự giúp đỡ của các cơ quan nhà nước, đoàn thể, chính quyền nhân dân. Cùng với đó các phương tiện hoạt động đã bị hạn chế hoặc xóa bỏ nên hình phạt tiền được áp dụng một cách độc lập ở đây vẫn đảm bảo được mục đích trừng trị và giáo dục người phạm tội. Đối với một số tội phạm cụ thể khác cũng tồn tại mâu thuẫn này. Do vậy mà nhà làm luật cần thiết phải sửa đổi, mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền với tư cách là hình phạt chính đối với cả các tội phạm nghiêm trọng.
Hình phạt tù có thời hạn là hình phạt mà người bị kết án bị buộc phải cách li khỏi xã hội trong thời gian nhất định để học tập, lao động, cải tạo. Mục đích trực tiếp của hình phạt này là tách người phạm tội ra môi trường cũ có chứa các điều kiện đã thúc đẩy, hỗ trợ họ phạm tội, đặt họ vào một môi trường riêng biệt, để từ đó có các biện pháp giáo dục ý thức về đúng với các chuẩn mực xã hội. Tuy vậy, chính đặc điểm cách li người phạm tội ra khỏi môi trường thực sự của xã hội lại là nhược điểm của hình phạt này. Người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội đã phủ định lại những yêu cầu của xã hội. Trong khi hoàn toàn có thể lựa chọn những xử sự phù hợp với đòi hỏi của xã hội thì người phạm tội đã lựa chọn xử sự đi ngược lại với các đòi hỏi này. Điều này có thể xuất phát từ nhận thức không đúng đắn về các đòi hỏi của xã hội, hoặc xuất phát từ ý chí của người đó. Vì thế trách nhiệm hình sự và hình phạt trong luật hình sự Việt Nam ngoài ý nghĩa trừng trị người phạm tội, luôn đặt cao hơn yêu cầu giáo dục và đưa họ trở lại cuộc sống bình thường.
Hình phạt tù buộc người phạm tội phải được đưa vào một môi truờng cách li với bên ngoài, cũng đồng nghĩa họ sẽ bị buộc phải cách li với các ứng xử thường nhật của cuộc sống, các qui tắc chuẩn mực thông thường phải tuân theo. Các biện pháp giáo dục trong trại giam tuy hướng tới việc giáo dục ý thức người phạm tội đáp ứng lại các đòi hỏi xã hội mà họ đã không đáp ứng khi thực hiện hành vi phạm tội, nhưng lại đánh mất đi phần lớn các điều kiện sống bình thường góp phần tạo nên các xử sự đáp ứng được tổng thể các đòi hỏi khác của xã hội. Do vậy chỉ nên áp dụng hình phạt này khi hành vi của người phạm tội đã ở tính chất và mức độ nguy hiểm cao, buộc phải cách li họ khỏi xã hội.
Xét đối với tội phạm tổ chức đánh bạc, khi hành vi của người phạm tội chỉ thuộc vào khoản 1 (cấu thành cơ bản), tức ở vào tính chất và mức độ nguy hiểm tối thiểu của tội việc cách li người phạm tội chỉ đối với một số trường hợp là cần thiết, các trường hợp còn lại là không cần thiết, việc áp dụng hình phạt tiền sẽ mang lại hiệu quả cao hơn. Vì vậy, qui định của nhà làm luật cho phép Tòa án được lựa chọn giữa hai hình phạt chính là phạt tiền và phạt tù có thời hạn tại khoản 1 Điều 249 là hết sức phù hợp.
Cấu thành tăng nặng của tội tổ chức đánh bạc chỉ đưa ra một hình phạt chính là tù có thời hạn từ ba năm đến mười năm. Người phạm tội sẽ bị xét xử theo khung hình phạt này (khoản 2 Điều 249) khi thuộc vào một trong các trường hợp:
* Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.
Đây là tình tiết phản ánh hành vi phạm tội có tính chất nghiêm trọng hơn so với hành vi phạm tội trong trường hợp bình thường. Được coi là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp khi bị cáo đã cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm (ở đây là tội tổ chức đánh bạc), và lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống, lấy kết quả từ phạm tội làm nguồn thu nhập chính . Đối với người bình thường, ý định phạm tội hoặc không có sẵn hoặc ý định đó tồn tại một cách không rõ ràng trong ý thức, họ chỉ thực hiện hành vi phạm tội khi có thời cơ thuận lợi hoặc do ý thức bất chợt. Điều này xảy ra ngược lại với những đối tượng phạm tội chuyên nghiệp. Do đã thực hiện tội phạm một cách “có hệ thống” nên các đối tượng này luôn rành rẽ các phương cách, thủ đoạn thực hiện, và còn có thể có ý thức “cải tiến” phương cách và thủ đoạn theo hướng tinh vi, hiệu quả hơn để lẩn tránh các lực lượng công an cũng như thu về được lợi ích cao nhất. Có thể thấy rõ điều này qua thủ đoạn phạm tội của các đối tượng tổ chức đánh bạc. Các đối tượng chuyên nghiệp luôn luôn lựa chọn các địa điểm kín đáo, bố trí canh gác. Các đối tượng mở các chiếu bạc nhỏ tại nhà, địa điểm nhỏ thường xây sẵn tường cao, rào thép gai, chó dữ để chống trả các lực lượng bảo vệ pháp luật. Đối với các sòng bạc lớn, các đối tượng tổ chức thường sắp xếp cả một đội quân bảo vệ, các hệ thống an ninh hiện đại như camera theo dõi, chuông báo động,… Do lấy lợi ích từ phạm tội làm nguồn thu nhập chính, cùng với việc đã nhiều lần phạm tội nên các đối tượng này luôn thường trực ý thức phạm tội. Bọn chúng không phạm tội theo thời cơ bất chợt, do ý thức bột phát mà thường thực hiện với suy nghĩ, tính toán chặt chẽ từ trước, đã có chuẩn bị chu đáo các điều kiện phạm tội. Hành vi phạm tội thuộc vào trường hợp này gây thiệt hại nghiêm trọng cho trật tự xã hội, thể hiện ý thức phạm tội cố hữu của chủ thể, do vậy mà thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn thông thường.
* Thu lợi bất chính lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn.
Theo Nghị quyết số 02/2003/NQ/HĐTP ngày 17.4.2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số qui định của Bộ luật hình sự, tình tiết này được giải thích: thu lợi bất chính từ năm triệu đồng đến dưới mười lăm triệu đồng là lớn, từ mười lăm triệu đồng đến dưới bốn lăm triệu đồng là rất lớn, từ bốn mươi lăm triệu đồng trở lên là đặc biệt lớn. Như đã phân tích ở trên, tội phạm tổ chức đánh bạc trên thực tế hầu hết đều được người phạm tội thực hiện do động cơ vụ lợi thúc đẩy. Tuy nhiên, đây không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm, xuất phát từ nguyên nhân nó không quyết định tới tính nguy hiểm của hành vi phạm tội. Khác với dấu hiệu động cơ vụ lợi, tình tiết thu lợi bất chính lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn tuy phần nào là sự hiện thực hóa của động cơ này, nhưng điều khác biệt căn bản ở đây là tình tiết này thể hiện việc trên thực tế quan hệ xã hội đã bị gây thiệt hại, người phạm tội đã thu về được một khoản lợi ích vật chất nhất định. Khoản lợi ích vật chất này là kết quả của hành vi phạm tội. Do vậy, khi khoản lợi ích vật chất ở vào một độ lớn nhất định thì nó cũng thể hiện tính nghiêm trọng cao của hành vi phạm tội. Theo đó, hành vi phạm tội đã biến một lượng của cải không nhỏ của xã hội trở thành nguồn thu lợi bất chính, bị pháp luật cấm. Nguồn của cải này đúng theo qui luật phải quay trở lại phục vụ cuộc sống người lao động hoặc được tái đầu tư sản xuất, nhưng ở đây đã bị tha hóa trở nguồn lợi bất chính, thúc đẩy người phạm tội và những đối tượng khác tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Từ các phân tích này, chúng ta có thể thấy được tình tiết thu lợi bất chính lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn đã làm tăng đáng kể tính nguy hiểm cho xã hôi của hành vi phạm tội tổ chức đánh bạc. Một điều cũng cần chú ý ở đây, tuy xếp chung các mức thu lợi trong cùng một khung hình phạt nhưng nhà làm luật đã phân chia chúng ra ba mức là lớn, rất lớn và đặc biệt lớn. Theo đó hành vi tổ chức đánh bạc thu lợi bất chính ở mức cao hơn đương nhiên sẽ thể hiện mức độ nguy hiểm cao hơn, tương ứng với việc người sẽ phải gánh chịu trách nhiệm hình sự và hình phạt cao hơn. Điều này có nghĩa là nhà làm luật đã phân hóa trách nhiệm hình sự ngay trong một khoản của Điều luật về một tội phạm cụ thể với một khung hình phạt duy nhất, đây chính là điểm phù hợp của Điều luật, định hướng xét xử cho Tòa án trong thực tiễn, hạn chế được tình trạng không nhất quán trong áp dụng pháp luật.
* Tái phạm nguy hiểm.
Tình tiết này phản ánh đặc điểm nhân thân người phạm tội ảnh hưởng đến tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Người phạm tội là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đã đạt độ tuổi luật định, là người có lí trí và ý chí, nên, để có thể đạt được mục đích của hình phạt nhất thiết phải xem xét tới các đặc điểm, đặc tính riêng biệt của người phạm tội.
Theo khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự 1999 được coi là tái phạm nguy hiểm khi thuộc vào một trong hai trường hợp: đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý. Riêng đối với tội tổ chức đánh bạc, mức hình phạt cao nhất mà người phạm tội có thể phải gánh chịu chỉ là mười năm tù, do đó không thể xảy ra trường hợp chủ thể phạm tội tổ chức đánh bạc được xếp vào loại tội đặc biệt nghiêm trọng. Ở đây chúng ta cũng cần nhắc tới khái niệm tái phạm: trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. Tái phạm và tái phạm nguy hiểm đều thể hiện tính lặp lại của hành vi phạm tội có thể cùng hoặc khác loại nhưng ở các mức độ nguy hiểm khác nhau. Chủ thể trước đó đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị kết án và đã được cải tạo, nhưng khi được đặt trong một hoàn cảnh mới, người này vẫn tiếp tục thể hiện sự phủ định các đòi hỏi của xã hội một cách khách quan qua hành vi phạm tội mới và một cách chủ quan qua thái độ cố ý của bản thân đối với hành vi này. Như vậy có thể thấy rằng hình phạt trước đó mà người phạm tội đã chấp hành đã không đạt được mục đích trừng trị, răn đe, cải tạo. Đặc biệt đối với người tái phạm nguy hiểm ở trường hợp thứ hai, không chỉ một mà có thể hai hoặc nhiều hơn hai hình phạt đã được áp dụng đều không đạt được mục đích giáo dục cải tạo người phạm tội. Khi thuộc vào trường hợp tái phạm nguy hiểm, người phạm tội có thể đã phải chấp hành nhiều hình phạt ở các lần phạm tội trước đó, thậm chí có thể phải chấp hành một hoặc nhiều hình phạt tù có thời hạn, nghĩa là người phạm tội có thể đã bị cách li khỏi xã hội một hay nhiều lần nhưng vẫn tiếp tục phạm tội. Điều này cũng chứng tỏ nhân thân người phạm tội đặc biệt xấu, bản chất tội phạm rất rõ ràng, ý thức phạm tội là cố hữu. Xuất phát từ các nguyên nhân trên nên trách nhiệm hình sự, hình phạt mà người phạm tội gánh chịu phải cao hơn các trách nhiệm hình sự và các hình phạt trước đó.
Khi thuộc vào một trong ba trường hợp trên, hành vi phạm tội đều tăng lên đáng kể về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội, và do đó người phạm tội sẽ phải chịu hình phạt ở khung cao hơn, từ ba năm đến mười năm tù.
Bên cạnh các tình tiết tăng nặng trên, trong các vụ án về tổ chức đánh bạc, Tòa án cũng thường áp dụng một số tình tiết giảm nhẹ thuộc hoặc không thuộc Điều 46 như phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Các tình tiết này phản ánh sự giảm bớt về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi so với trường hợp thông thường, do đó mà hình phạt người phạm tội phải gánh chịu sẽ dịch chuyển dần về giới hạn tối thiểu của khung hình phạt tùy theo số lượng và nội dụng của các tình tiết giảm nhẹ được áp dụng.
1.2. Hình phạt bổ sung
Tại khoản 3 Điều 249 nhà làm luật qui định người phạm tội có thể bị Tòa án buộc chấp hành thêm hai hình phạt bổ sung là phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng và tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Hai hình phạt này hoặc có thể được tòa tuyên đồng thời với một bị cáo về một hành vi phạm tội tổ chức đánh bạc hoặc một trong hai, hoặc không tuyên, do đặc điểm của hình phạt bổ sung, có thể hoặc không được tuyên, và khi tuyên chỉ có thể tuyên kèm hình phạt chính đối với mỗi tội phạm.
Cần chú ý ở đây hình phạt tiền chỉ được áp dụng với tư cách là hình phạt bổ sung một khi tòa đã không áp dụng nó với tư cách là hình phạt chính cùng về một tội phạm tổ chức đánh bạc được xét xử.
Một điểm khác nữa khi được áp dụng với tư cách hình phạt bổ sung so với khi áp dụng với tư cách hình phạt chính, phạt tiền là hình phạt bổ sung không được áp dụng với người chưa thành niên phạm tội. Nghĩa là, trong khi phạt tiền là hình phạt chính có thể được áp dụng với người từ đủ 16 tuổi trở lên, thì độ tuổi này là 18 đối với phạt tiền là hình phạt bổ sung. Điều này là hoàn toàn phù hợp, đặt trong tinh thần chung của Bộ luật được qui định tại Điều 69: không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội. Qui định này một mặt thể hiện tính nhân đạo đối với người chưa thành niên, mặt khác vẫn đảm bảo được mục đích của hình phạt (hình phạt bổ sung có mối liên hệ tương hỗ với hình phạt chính, bổ trợ thực hiện hiệu quả ý nghĩa của hình phạt). Điều này xuất phát từ đặc điểm người thành niên là người chưa phát triển đầy đủ cả về thể chất và tinh thần, nhân cách của họ mới đang trong quá trình hình thành và hoàn thiện.
Khi được áp dụng với tư cách hình phạt bổ sung đối với tội phạm tổ chức đánh bạc, phạt tiền có giới hạn tối thiểu là năm triệu đồng va giới hạn tối đa là một trăm triệu đồng. Ở đây chúng ta nhận thấy chỉ có một khung phạt tiền duy nhất được áp dụng chung cho cả tội phạm tổ chức đánh bạc dù được xét xử theo khoản 1 hay 2. Hành vi phạm tội tổ chức đánh bạc được xếp ở khoản 1 hay 2 có tính chất và mức độ nguy hiểm rất khác nhau. Mặt khác, như đã phân tích ở trên, hình phạt tiền do đặc tính tác động vào yếu tố kinh tế của người phạm tội nhằm hạn chế, xóa bỏ phương tiện hoạt động, động cơ vụ lợi của họ, sẽ được Tòa án áp dụng thường xuyên trong thực tiễn. Do vậy, tuy là hình phạt bổ sung, nhưng phạt tiền vẫn cần được phân hóa ra các khung hình khác nhau tại các khoản của Điều luật. Như vậy sẽ đặt tương ứng được phạt tiền bổ sung với các khung hình phạt tù có thời hạn được áp dụng là hình phạt chính, đạt được mục đích tương hỗ của hình phạt bổ sung đối với hình phạt chính. Đồng thời điều này cũng sẽ có tác dụng hạn chế tình trạng áp dụng một cách tùy tiện hình phạt này ở các mức khác nhau, không tương xứng với hình phạt chính, có thể gây ra hiệu ứng ngược làm giảm hiệu quả của tổng thể hình phạt mà người phạm tội phải gánh chịu.
Tịch thu tài sản được hiểu là hình phạt mà người bị kết án bị tước đi một phần tài sản thuộc sở hữu cá nhân. Cũng giống với phạt tiền là hình phạt bổ sung, tịch thu tài sản không được áp dụng đối với người chưa thành niên với cùng lý do. Hình phạt này cũng nhằm tới việc tác động vào cơ sở kinh tế người phạm tội. Việc tước đi một phần hay toàn bộ tài sản của người phạm tội cũng hướng đến mục đích xóa bỏ phương tiện hoạt động, động cơ vụ lợi của người phạm tội. Mặc dù có rất nhiều điểm tương đồng nhưng hai hình phạt này đều được nhà làm luật qui định là chế tài lựa chọn trong cùng một loại tội phạm vẫn hết sức hợp lí. Trên thực tế, phạt tiền sẽ không thể áp dụng trong những trường hợp mà tài sản của người bị kết án không tồn tại ở dạng tiền tệ. Trong những trường hợp này đương nhiên xử sự hợp lí của Tòa án là áp dụng hình phạt tịch thu tài sản, vẫn đảm bảo mục đích của hình phạt, mặt khác hình phạt sẽ mang tính “khả thi” cao.
Một điều cần xét đến, số tiền phạt và giá trị tài sản bị tịch thu đặt trong tương quan cùng với hình phạt chính mà người phạm tội gánh chịu phải đạt được tác dụng hạn chế hoặc xóa bỏ động cơ vụ lợi của người này, ngăn chặn họ phạm tội trở lại. Điều này có thể hình dung một cách dễ hiểu là khi xem xét hai lợi ích, lợi ích thu được từ việc tổ chức đánh bạc và lợi ích bị sẽ mất đi khi phải chấp hành hình phạt, người phạm tội phải thấy rõ được rằng những lợi ích mất đi lớn hơn hẳn so với những gì mà họ có thể thu được khi phạm tội, từ đó loại bỏ lựa chọn bất hợp pháp. Tất nhiên, việc cân nhắc lợi ích mà chúng ta nói tới chỉ mang ý nghĩa tương đối, bởi quyết định phạm tội của chủ thể còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố phức tạp khác cả về chủ quan lẫn khách quan. Tuy nhiên chúng ta có thể coi rằng đó là một trong các tác dụng giúp giáo dục, cải tạo và ngăn ngừa chủ thể phạm tội trở lại.
Như vậy ở đây, các mức phạt tiền và tịch thu tài sản cần phải có được giới hạn tối đa đủ lớn để đạt được tác dụng trên. Điều đó nếu như đối với hình phạt tịch thu tài sản đã đã được thỏa mãn, thì đối với phạt tiền, mức cao nhất của khung vẫn chưa đáp ứng được điều này. Tình hình tội phạm cờ bạc trên thực tế diễn ra theo xu hướng tăng nhanh về quy mô vụ đánh bạc, số tiền trong một lần đặt cược bóng đá đã có trường hợp lên tới trên 1,5 tỷ đồng (vụ án PMU18). Trong khi đó mức cao nhất của khung phạt tiền nếu là hình phạt bổ sung là 100 triệu đồng, nếu là hình phạt chính cũng chỉ là 300 triệu đồng. Từ đây, chúng ta đều có thể dễ dàng suy ra rằng số tiền phạt tối đa mà người bị kết án phải chịu so với lợi ích mà một số đối tượng tổ chức đánh bạc thu được là quá chênh lệch. Nguyên nhân này khiến cho phạt tiền khó có thể đạt được mục đích giáo dục cải tạo đối với người phạm tội. Điều này đòi hỏi nhà làm luật cần tăng hơn mức phạt tiền tối đa có thể áp dụng cho tội phạm tổ chức đánh bạc, thực sự phù hợp với quy mô và diễn biến của chúng trên thực tế, như thế mới tạo khả năng cho các hình phạt áp dụng đạt được hiệu quả tối đa trong việc giáo dục, cải tạo người phạm tội, ngăn ngừa tội phạm mới.
2. Biện pháp tư pháp
Theo giáo trình luật hình sự Việt Nam trường Đại học Luật Hà Nội, biện pháp tư pháp là các biện pháp hình sự được Bộ luật hình sự qui định, do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt.
Trong hầu hết các vụ án về tổ chức đánh bạc trên thực tế, biện pháp tư pháp thường được Tòa án áp dụng là tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm. Các đối tượng khi thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc phần lớn đều nhằm vào mục đích thu lời bất chính. Người phạm tội thường sử dụng một lượng tiền phục vụ việc tổ chức, trang bị các công cụ, phương tiện phục vụ cho hoạt động phạm tội. Đối với hình thức lô đề, các đối tượng luôn nắm giữ một lượng tiền đủ lớn được gồm vốn ban đầu và từ tiền ghi lô đề của người chơi sẵn sàng trả thường cho người trúng, phần chênh lệch là lợi nhuận chúng thu được, các phương tiện phục vụ cho hoạt động này là máy fax, điện thoại, máy tính,… Đối với hình thức cá cược bóng đá, bọn tội phạm tuy chỉ sử dụng phương tiện một dàn máy vi tính hay liên lạc nhận độ qua điện thoại nhưng số tiền đặt cược trong mỗi lần thường rất lớn, lợi nhuận phi pháp bọn chúng thu về có thể lên tới hàng tỷ đồng đối với mỗi trận đấu,… Đây là các phương tiện, nguồn lợi bất chính, tài sản phục vụ cho hoạt động phạm tội sẽ bị tịch thu nhằm xóa bỏ các điều kiện phạm tội của người bị kết án.
Có thể thấy tội phạm tổ chức đánh bạc và các tội phạm về cờ bạc khác đều có liên quan chặt chẽ đến các lợi ích vật chất, tiền bạc, tài sản: động cơ vụ lợi, phương tiện thanh toán, hậu quả tội phạm,… Do vậy đối với các loại tội phạm này nhà làm luật đã hết sức chú ý đến các chế tài có thuộc tính vật chất, hướng đến loại bỏ các điều kiện phạm tội, ngăn ngừa tội phạm về mặt vật chất cũng như về mặt tâm lí hưởng lợi từ tội phạm. Tinh thần này cũng được các Tòa án áp dụng nhất quán trong công tác xét xử thể hiện qua việc tất cả các vụ án tổ chức đánh bạc đều có áp dụng một hay hơn một các chế tài kinh tế đó.
Ngoài ra, đối với những hành vi tổ chức đánh bạc xét về các yếu tố hành vi khách quan, độ tuổi,… đều thỏa mãn nhưng chủ thể đã thực hiện nó trong khi mắc các bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của bản thân, Tòa án sẽ áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh đối với người này. Trên thực tế, trường hợp này hầu như không bắt gặp.
3. Một số tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng tại Điều 46 và 48 Bộ luật hình sự 1999 thường được áp dụng trong đối với người phạm tội tổ chức đánh bạc
Một hành vi nguy hiểm cho xã hội sau khi đã thỏa mãn các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm được Tòa án xem xét tới việc có hay không có các tình tiết tăng nặng định khung, để từ đó đặt hành vi phạm tội vào tương ứng với một khung hình phạt mà Điều luật đã qui định. Tiếp theo đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào các tình tiết tăng nặng (qui định tại Điều 48), giảm nhẹ (qui định tại Điều 46 và các tình tiết khác không qui định trong luật) ấn định một mức hình phạt cụ thể cho bị cáo. Hình phạt này phải thuộc trong khung hình phạt trước đó hành vi phạm tội đã được xếp vào, chỉ trong một số trường hợp đặc biệt Tòa án mới được phép quyết định mức hình phạt thấp hơn mức tối thiểu của khung hình phạt.
Tình tiết tăng nặng trên thực tế thường được áp dụng đối với người phạm tội tổ chức đánh bạc gồm phạm tội nhiều lần, tái phạm, phạm tội có tổ chức.
Phạm tội nhiều lần được hiểu là người phạm tội thực hiện nhiều hành vi phạm tội cùng loại và tất cả các lần phạm tội trước đó đều chưa bị xét xử. Có thể thấy rằng các đối tượng tổ chức đánh bạc thường hình thành ý định thực hiện tội phạm nhiều lần, liên tục nhằm thu về một cách đều đặn các khoản lợi nhuận phi pháp. Có thể minh chứng điều này qua thực trạng diễn biến tội phạm tổ chức đánh bạc dưới hình thức lô đề. Các chủ đề thường thuê một số đối tượng khác ghi thuê. Các đối tượng này có nhiệm vụ ghi đề, lô cho khách chơi, chuyển tiền về cho chủ đề và được hưởng phần trăm tính trên số tiền ghi được trong ngày. Ngay từ cách thức tổ chức “dây đề” ta có thể thấy rõ ý định thực hiện tội phạm nhiều lần (các đối tượng ghi thuê sẽ được hưởng phần trăm theo ngày). Tội phạm tổ chức đánh bạc dưới dạng này được các đối tượng thực hiện liên tục trong tất cả các ngày trong năm, dựa trên kết quả xổ số mở thưởng hàng ngày. Hình thức đánh bạc này đặc biệt cuốn hút được số lượng người tham gia đông, do vậy số tiền đánh bạc ở từng ngày gần như luôn luôn thỏa mãn được dấu hiệu về quy mô của hành vi khách quan. Nghĩa là, trong hầu hết các trường hợp, ở mỗi lần thực hiện, hành vi của các chủ đề đều cấu thành tội tổ chức đánh bạc. Số lần phạm tội này trên thực tế sẽ được các chủ đề thực hiện liên tục cho tới khi bị lực lượng công an phát hiện và bắt giữ. Ở đây, người phạm tội không chỉ lặp lại về hành vi phạm tội, mà các hành vi này đều cùng loại, điều đó thể hiện người này có ý thức phạm tội cao và bản chất phạm tội là rõ ràng. Do vậy, việc phạm tội nhiều lần phản ánh tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn trường hợp phạm tội một lần, số lần phạm tội càng nhiều thì tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội càng cao.
Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. Đây là trường hợp người phạm tội đã được giáo dục cải tạo nhưng sau đó vẫn tiếp tục phạm tội, thể hiện tính nguy hiểm cao hơn trường hợp phạm tội nhiều lần. Trong phạm tội nhiều lần, người phạm tội thực hiện tội phạm lặp lại khi chưa được giáo dục cải tạo, do vậy có tính nguy hiểm cho xã hội thấp hơn. Có thể thấy ở đây, cả phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm đều phản ánh tính lặp lại hành vi phạm tội của chủ thể. Khi hành vi phạm tội không thuộc vào một trong hai tình tiết định khung tăng nặng là thu lợi bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn và có tính chất chuyên nghiệp, chúng ta có thể xếp theo thứ tự tăng dần về mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội tổ chức đánh bạc ở vào ba trường hợp lặp lại đó như sau. Hành vi phạm tội tổ chức đánh bạc thuộc vào trường hợp phạm tội nhiều lần có mức nguy hiểm thấp nhất, trường hợp tái phạm có mức nguy hiểm cao hơn. Khi thuộc vào trường hợp tái phạm nguy hiểm, trường hợp có mức độ nguy hiểm cao nhất, người phạm tội sẽ bị áp dụng khung hình phạt tăng nặng, từ ba đến mười năm tù. Như vậy, ta có thể suy ra rằng, với hai tình tiết phạm tội nhiều lần và tái phạm thấp hơn về mức độ nguy hiểm, người phạm tội sẽ chỉ bị xét xử theo khoản 1 Điều 249 với chế tài là phạt tiền hoặc tù có thời hạn, khung tù từ một đến năm năm. Cũng có nghĩa rằng, hai tình tiết này tuy đã làm tăng lên mức độ nguy hiểm của hành vi tổ chức đánh bạc, nhưng vẫn được nhà làm luật đánh giá là chưa tới mức cần thiết phải chuyển lên khung hình phạt có tính chất nghiêm khắc hơn.
Một điều cũng cần hết sức lưu ý, do tội phạm tổ chức đánh bạc luôn luôn được thực hiện với lỗi cố ý, nên, một người đã phạm tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội tổ chức đánh bạc thì thuộc vào trường hợp tái phạm. Tuy nhiên, nếu ở đây dấu hiệu này đã được xem xét là một dấu hiệu định tội thì sẽ không áp dụng là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Điều này nhằm tránh hiện tượng tính nguy hiểm của hành vi phạm tội bị đẩy lên quá mức so thực tế khách quan, do việc chủ thể tiến hành tố tụng hai lần xem xét cùng một tình tiết.
Trong thực tiễn xét xử các vụ án tổ chức đánh bạc những năm gần đây, số lượng các vụ án trong đó bọn tội phạm hoạt động có sự cấu kết chặt chẽ, có sự phân công vai trò, trách nhiệm của từng đối tượng,… đang có chiều hướng gia tăng. Điển hình cho trường hợp này là một số sòng bạc do các đối tượng nước ngoài tổ chức mới bị lực lượng công an phát hiện và triệt tiêu. Các đối tượng chủ mưu đã xây dựng một sòng bạc lớn, ngụy trang bên ngoài dưới dạng một khách sạn. Bọn chúng có phân công rạch ròi bộ phận bảo vệ, bộ phận nhân viên phục vụ đánh bạc, quản lý qua camera,… thể hiện tính chặt chẽ cao trong hoạt động phạm tội. Phương thức hoạt động này thể hiện tính nguy hại rất cao cho xã hội. Bên cạnh việc tổ chức phạm tội một cách quy mô, bọn tội phạm cũng hướng tới việc mua chuộc một bộ phận các chiến sĩ công an bao che cho hoạt động phạm pháp của mình. Tính nghiêm trọng cao của loại phương thức này tất yếu đòi hỏi mức hình phạt cao và nghiêm khắc mới có thể trừng trị, răn đe và giáo dục các đối tượng này, ngăn chặn tội phạm mới.
4. Hợp pháp hóa một số “hình thức tổ chức đánh bạc”
Trong thời gian gần đây, đặc biệt sau khi vụ án tổ chức đánh bạc và đánh bạc mà một số cầu thủ U23 Việt Nam là bị cáo được đưa ra xét xử, Bộ văn hóa thể thao và du lịch có đề cập tới dự án cá cược bóng đá hợp pháp. Dự án này có thể được trình lên Thủ tướng Chính phủ để xem xét. Cờ bạc là một hiện tượng khách quan, xuất hiện và tồn tại trong lịch sử không chỉ riêng nước ta. Về bản chất, hiện tượng này không hề thay đổi. Vậy ở đây đã đặt ra vấn đề nhận thức chính xác và đầy đủ hơn về hiện tượng này, qua đó có thể lợi dụng các mặt tốt và hạn chế mặt xấu của nó, đưa vào quản lý nhằm thu về các lợi ích cho đất nước.
Các thành phố nổi tiếng trên thế giới về cờ bạc như Ma Cao hay Lasvegas trên thực tế đã thu về cho quốc gia những khoản lợi nhuận khổng lồ. Chính những nguồn lợi ích vật chất này đã giúp Macao biến đổi được bộ mặt, nhanh chóng trở thành một thành phố có sức cuốn hút khách du lịch mạnh, đời sống người dân được được “kéo lên” với nguồn phúc lợi công cộng chứa đựng một lượng của cải lớn, các dịch vụ kèm theo phát triển,… Như vậy có thể thấy ngay ưu điểm đầu tiên ở đây là nguồn lợi thu về cho ngân sách sẽ rất lớn. Tuy vậy, cần thấy ngay rằng, khi hợp pháp hóa một số hình thức tổ chức đánh bạc nhất thiết phải hạn chế được hiện tượng người chơi đưa toàn bộ tài sản vào đặt cược, điều này sẽ gây nguy hại lớn cho xã hội. Bởi thế, cần đưa ra một phương cách quản lý hợp lí đảm bảo luôn đặt hình thức “tổ chức đánh bạc” này trong mục đích phục vụ nhu cầu giải trí của nhân dân. Khi đó, hành vi đánh bạc và tổ chức đánh bạc sẽ mất đi tính nguy hiểm cho xã hội. Cũng đồng nghĩa rằng các chủ thể khi thực hiện những hành vi này sẽ hoàn toàn không phải gánh chịu bất cứ một trách nhiệm pháp lý nào giống với các trách nhiệm pháp lý mà trước đó một người có hành vi đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc có thể phải gánh chịu.
Trong luật pháp các nước, qui định về vấn đề này cũng hết sức khác nhau. Ở các nước Á Đông, cờ bạc trong nếp suy nghĩ truyền thống được coi là một tệ nạn xã hội, bị pháp luật cấm. Có thể dẫn chứng qua hai Bộ luật hình sự của Trung Quốc và Nhật Bản. Điều 303 Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa qui định “người nào lấy việc tụ tập đánh bạc, mở sòng bạc làm mục đích kinh doanh kiếm lời, hoặc lấy việc đánh bạc làm nghiệp, thì bị phạt tù từ ba năm trở xuống, cải tạo, lao động, quản chế và bị phạt tiền”, Điều 185 Bộ luật hình sự Nhật Bản qui định “người nào đánh bạc hoặc cá cược trong đó tài sản được thắng hoặc thua do sự may rủi thì bị phạt tiền đến 500.000 yên hoặc bị phạt tiền về tội hình sự nhỏ” (tuy không chỉ ra một cách trực tiếp, nhưng qua việc qui định đánh bạc là tội phạm nhà làm luật Nhật Bản đã gián tiếp xác định tổ chức đánh bạc là tội phạm). Điều này rất khác biệt so với qui định của Bộ tổng luật Hoa Kì. Theo Bộ luật này “người nào thực hiện, cấp kinh phí, thực hiện việc giám sát, lãnh đạo hoặc quản lý toàn bộ hay một phần công việc bất hợp pháp liên quan đến cờ bạc, thì bị phạt đến 20.000 USD hoặc bị phạt tù đến năm năm, hoặc bị cả hai hình phạt đó”. Có thể thấy ở đây, nhà làm luật Hoa Kì chỉ cấm các hành vi, việc làm bất hợp pháp liên quan tới cờ bạc. Điều này có nghĩa pháp luật Hoa Kì đã coi hành vi đánh bạc và tổ chức đánh bạc là hợp pháp, mang tính chất phục vụ nhu cầu giải trí của các thành viên trong xã hội.
Như vậy, để có hợp thức hóa một số hình thức tổ chức đánh bạc, cần nhắc tới vấn đề nếp suy nghĩ truyền thống trong xã hội. Do ảnh hưởng từ lịch sử, cờ bạc thường chỉ được xem xét là một tệ nạn xã hội, tiêu tốn tài sản, gây hại cho xã hội. Cách nhìn nhận này làm triệt tiêu các mặt ưu của hiện tượng khách quan này. Như đã phân tích ở trên, hành vi tổ chức đánh bạc khi được quản lý tốt sẽ hạn chế, mất đi tính nguy hại cho xã hội. Do vậy cần thay đổi cách nhìn nhận cũ, đánh giá đúng mặt tốt, xấu của hiện tượng cờ bạc. Các qui định của luật hình sự Việt Nam cũng góp một phần quan trọng vào công tác này.
Xuất phát từ đề tài nghiên cứu tội tổ chức đánh bạc trong pháp luật hình sự Việt Nam, khóa luận không đi sâu vào xem xét qui trình, biện pháp hợp pháp hóa một số hình thức tổ chức đánh bạc. Tuy vậy, đứng ở góc độ khoa học pháp lý hình sự, cần nhìn nhận rằng, việc hợp pháp hóa chính là một mặt biện chứng của công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm về cờ bạc. Thực hiện điều đó không chỉ góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước, mà một ý nghĩa quan trọng khác là nó đã tạo ra khả năng giải quyết tối ưu nạn cờ bạc đang diễn ra hết sức phức tạp trên thực tế xã hội nước ta. Trên thực tế, một số tỉnh thành nước ta đã thực hiện và thực hiện tốt một số hình thức tổ chức đánh bạc hợp pháp, là đua chó ở Vũng Tàu hay casino dành cho người nước ngoài ở Hải Phòng. Các hoạt động này đáp ứng tốt nhu cầu giải trí của nhân dân, đồng thời cũng đã được cơ quan chức năng quản lý tốt, không gây nguy hại cho xã hội. Thực tiễn này đã chứng minh, nếu biết cách quản lý thích hợp, thay đổi một vài nếp suy nghĩ chưa thực sự đúng đắn, chúng ta hoàn toàn có thể khai thác những lợi ích có được từ “tổ chức đánh bạc hợp pháp”.
KẾT LUẬN
Cờ bạc là hiện tượng xuất hiện khá sớm trong lịch sử nước ta. Điều này được kiểm chứng qua các qui định của nhà làm luật thời phong kiến. Trong bộ Quốc triều hình luật 1483 có qui định “người nào tụ họp đánh bạc thì bị tội đánh ba trượng…, thưởng cho người cáo giác. Người đứng đầu hay tái phạm tội thì bị tội thêm một bậc. Người a tòng phạm tội giảm một bậc. Những tiền trong sòng bạc và những văn tự vay nợ mua bán vì đánh bạc đều xung công. Đánh bạc trong khi có quốc tang thì bị tội thêm một bậc.” Và sau đó cũng được qui định trong Hoàng Việt hình luật 1933. Ngay từ trong chế độ phong kiến, hành vi tổ chức đánh bạc đã được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội, người thực hiện hành vi phải gánh chịu các hình phạt tăng nặng so với hành vi đánh bạc. Cho đến Bộ luật hình sự 1999, tổ chức đánh bạc với hai khung hình phạt qui định tại điểm 1 và 2, hai mức hình phạt cao nhất là năm và mười năm được xếp vào loại tội phạm nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng.
Tội phạm này xâm phạm trực tiếp tới trật tự xã hội, không tuân theo các qui tắc bắt buộc đảm bảo lợi ích chung của cộng đồng. Đặt trong hoàn cảnh nước ta hiện tại, chúng còn đi ngược lại với chủ trương xây dựng nếp sống văn minh, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của Đảng và Nhà nước, rộng hơn chính là cản trở tiến bộ xã hội. Về hình thức pháp lý, hay nói cách khác là các dấu hiệu pháp lý nhận biết và định tội, cấu thành cơ bản của tội qui định dấu hiệu bắt buộc về hành vi khách quan, hành vi tổ chức đánh bạc được thể hiện dưới các dạng thức như chủ mưu, rủ rê, kích động, lôi kéo. Bên cạnh đó hành vi nguy tổ chức đánh bạc cũng chỉ có thể được coi là tội phạm khi chủ thể phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định (từ 14 tuổi trở lên đối với hành vi theo khoản 2 và từ 16 tuổi trở lên đối với hành vi theo khoản 1) và có lỗi cố ý trực tiếp khi thực hiện hành vi.
Tổ chức đánh bạc là một trong ba tội phạm về cờ bạc được Bộ luật hình sự 1999 qui định, hành vi phạm tội luôn gắn chặt với yếu tố tài sản và lợi ích vật chất. Đặc điểm này dẫn đến các chế tài được áp dụng ngoài tù có thời hạn đều là các hình phạt hoặc biện pháp tư pháp mang thuộc tính vật chất, hướng vào mục đích xóa bỏ các điều kiện vật chất của tội phạm và ngăn ngừa tội phạm mới xảy ra.
Xuất phát từ các dấu hiệu pháp lý định tội trong lý luận hình sự và từ công tác thực tiễn xét xử, khóa luận đã đưa ra một số khác biệt cơ bản giữa tội danh tổ chức đánh bạc và các tội danh khác dễ nhầm lẫn. Điều này trước tiên nhằm làm rõ hơn các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội tổ chức đánh bạc, bên cạnh đó cũng đóng góp những tìm hiểu sơ khai giúp phân biệt những tội danh này trong lý luận và trên thực tiễn công tác xét xử.
Một vấn đề mới cũng được khóa luận đề cập tới là vấn đề hợp pháp hóa một số hình thức tổ chức đánh bạc. Do hạn chế ở mức độ tìm hiểu của sinh viên, khóa luận chưa thể đi sâu vào xem xét vấn đề quan trọng này. Tuy vậy, qua một số nghiên cứu và đánh giá đã thực hiện của các tác giả khác, có thể thấy rằng đây là hướng đi mới quan trọng, đưa các hoạt động giải trí mang tính chất được thua bằng lợi ích vật chất vào sự quản lý của nhà nước. Điều này một mặt góp phần tăng thu cho ngân sách, mặt khác chính là một trong các cách thức tối ưu nhằm đấu tranh và phòng chống với nạn cờ bạc.
Qua các phân tích chi tiết về một số ưu điểm, tiến bộ cũng như những điểm hạn chế, chưa hoàn thiện trong các qui định của nhà làm luật về tội tổ chức đánh bạc, khóa luận có đưa ra một số kiến nghị hoặc thể hiện sự đồng tình với những kiến nghị của các tác giả khác về các vấn đề này.
Cụm từ “tiền và hiện vật” cần được sửa đổi thành “tiền, hiện vật và các tài sản khác”. Qui định như vậy một mặt có thể đáp ứng yêu cầu bao quát hết các phương tiện thanh toán trên thực tế, nhấn mạnh vào tiền và hiện vật là các phương tiện đang được các đối tượng sử dụng phổ biến tại thời điểm hiện tại, mặt khác cũng thể hiện được tính dự báo của Điều luật (trong thời gian tới các sản phẩm của nền kinh tế hiện đại như tiền trên tài khoản, tín dụng,… hoàn toàn có thể được sử dụng để thanh toán cho việc được thua của con bạc).
Tại khoản 1 Điều 249, liên từ “và” trong cụm từ “đã bị xử phạt hành chính về hành vi qui định tại Điều này và Điều 248” không phản ánh được chính xác nội dung nhà làm luật muốn phản ánh trong cấu thành tội phạm. Thực chất ở đây, Điều luật muốn thể hiện dấu hiệu chủ thể đã thực hiện một trong các hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc hay gá bạc, nhưng do sử dụng liên từ “và” nên cụm từ này mang nghĩa là chủ thể phải đã thực hiện đầy đủ cả ba hành vi trên. Cũng do nguyên nhân này mà dù trên thực tiễn xét xử, các Tòa án vẫn áp dụng theo cách hiểu đúng thì xét về bản chất là hợp lý, hợp pháp, phù hợp với ý chí thực của nhà lập pháp, nhưng về hình thức lại là trái với biểu hiện chính thức của luật (về nội dung hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội cao, cần xử lý hình sự nhưng về hình thức nó lại không thỏa mãn tính trái pháp luật hình sự). Mâu thuẫn này cần được nhà làm luật giải quyết, bằng cách thay liên từ “và” bằng liên từ “hoặc”, khi đó cách hiểu và áp dụng được thống nhất, ý định của nhà làm luật được thể hiện chính xác.
Khoản 1 Điều 249 cũng qui định hình phạt tiền là từ mười triệu đồng đến ba trăm triệu đồng, khoảng cách giữa giới hạn tối thiểu và tối đa trong cùng khung hình phạt như vậy là quá lớn. Điều này sẽ rất dễ dẫn tới việc hình phạt tiền được áp dụng tùy tiện, không nhất quán trong các trường hợp mà tính chất nguy hiểm cho xã hội của các hành vi tương đồng. Nghĩa là có thể xảy ra hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất là các hành vi tổ chức đánh bạc được xem là có tính chất và mức độ nguy hiểm tương đồng nhau do cùng được xếp trong khoản 1 và thực chất có tính chất và mức độ nguy hiểm tương đồng, các yếu tố khác tương tự nhau nhưng có thể xử phạt ở hai mức tiền hết sức chênh lệch nhau. Trường hợp thứ hai là các hành vi này tuy thực chất có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không hề tương đồng nhưng hoàn toàn có thể bị xử phạt ở các mức phạt tiền sát nhau, do việc đều nằm chung trong một khoản và chỉ với một khung phạt tiền duy nhất. Để khắc phục điều này tôi tán đồng quan điểm của một số tác giả trong các công trình nghiên cứu đã đề xuất việc nhà làm luật nên hoặc rút ngắn sự cách biệt giữa hai giới hạn tối đa hoặc tối thiểu (giúp loại bỏ được trường hợp thứ nhất), hoặc phân hóa chúng thành nhiều khung hình phạt khác nhau giống như đối với tù có thời hạn (giúp loại bỏ được trường hợp thứ hai).
Một điều khác, hình phạt tiền được đặt tại khoản 1 Điều 249 là không phù hợp với qui định của nhà làm luật tại phần chung. Theo Điều 30 khoản 1, hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính và một số tội phạm khác do Bộ luật qui qui định. Tuy vậy, tại khoản 1 Điều 249 người phạm tội có thể bị phạt tù từ một năm đến năm năm tù. Đối chiếu với qui định về phân loại của tội phạm tại Điều 8 thì hành vi qui định tại khoản 1 Điều 249 là tội phạm nghiêm trọng, nhưng cũng theo qui định tại khoản này thì hình phạt tiền là hình phạt chính và có thể được áp dụng độc lập đối với người phạm tội. Điều này là trái với qui định của Điều 30 mà ta đã nhắc tới ở trên. Như đã phân tích, hình phạt tiền được áp dụng ở đây là hoàn toàn phù hợp. Bên cạnh các mục đích đã nói tới, hình phạt này còn có ưu điểm là không cần cách li người bị kết án khỏi xã hội, họ có thể tự cải tạo dưới sự giúp đỡ của các cơ quan nhà nước, đoàn thể, chính quyền nhân dân. Cùng với đó các phương tiện hoạt động đã bị hạn chế hoặc xóa bỏ nên hình phạt tiền được áp dụng một cách độc lập ở đây vẫn đảm bảo được mục đích trừng trị và giáo dục người phạm tội. Đối với một số tội phạm cụ thể khác cũng tồn tại mâu thuẫn này. Do vậy mà nhà làm luật cần thiết phải sửa đổi, mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền với tư cách là hình phạt chính đối với cả các tội phạm nghiêm trọng.
Bên cạnh đó, phạt tiền được áp dụng với tư cách hình phạt bổ sung đối với tội phạm tổ chức đánh bạc có giới hạn tối thiểu là năm triệu đồng va giới hạn tối đa là một trăm triệu đồng. Ở đây chúng ta nhận thấy chỉ có một khung phạt tiền duy nhất được áp dụng chung cho cả tội phạm tổ chức đánh bạc dù được xét xử theo khoản 1 hay 2. Hành vi phạm tội tổ chức đánh bạc được xếp ở khoản 1 hay 2 có tính chất và mức độ nguy hiểm rất khác nhau. Mặt khác, như đã phân tích ở trên, hình phạt tiền do đặc tính tác động vào yếu tố kinh tế của người phạm tội nhằm hạn chế, xóa bỏ phương tiện hoạt động, động cơ vụ lợi của họ, sẽ được Tòa án áp dụng thường xuyên trong thực tiễn. Do vậy, tuy là hình phạt bổ sung, nhưng phạt tiền vẫn cần được phân hóa ra các khung hình khác nhau tại các khoản của Điều luật. Như vậy sẽ đặt tương ứng được phạt tiền bổ sung với các khung hình phạt tù có thời hạn được áp dụng là hình phạt chính, đạt được mục đích tương hỗ của hình phạt bổ sung đối với hình phạt chính. Đồng thời điều này cũng sẽ có tác dụng hạn chế tình trạng áp dụng một cách tùy tiện hình phạt này ở các mức khác nhau, không tương xứng với hình phạt chính, có thể gây ra hiệu ứng ngược làm giảm hiệu quả của tổng thể hình phạt mà người phạm tội phải gánh chịu.
Cũng trong vấn đề này, các mức phạt tiền và tịch thu tài sản cần có được giới hạn tối đa đủ lớn để đạt được mục đích răn đe, giáo dục người phạm tội và ngăn ngừa tội phạm mới. Điều đó nếu như đối với hình phạt tịch thu tài sản đã đã được thỏa mãn, thì đối với phạt tiền, mức cao nhất của khung vẫn chưa đáp ứng được điều này. Tình hình tội phạm cờ bạc trên thực tế diễn ra theo xu hướng tăng nhanh về quy mô vụ đánh bạc, số tiền trong một lần đặt cược bóng đá đã có trường hợp lên tới trên 1,5 tỷ đồng (vụ án PMU18). Trong khi đó mức cao nhất của khung phạt tiền nếu là hình phạt bổ sung là 100 triệu đồng, nếu là hình phạt chính cũng chỉ là 300 triệu đồng. Từ đây, chúng ta đều có thể dễ dàng suy ra rằng số tiền phạt tối đa mà người bị kết án phải chịu so với lợi ích mà một số đối tượng tổ chức đánh bạc thu được là quá chênh lệch. Nguyên nhân này khiến cho phạt tiền khó có thể đạt được mục đích giáo dục cải tạo đối với người phạm tội. Điều này đòi hỏi nhà làm luật cần tăng hơn mức phạt tiền tối đa có thể áp dụng cho tội phạm tổ chức đánh bạc, thực sự phù hợp với quy mô và diễn biến của chúng trên thực tế, như thế mới tạo khả năng cho các hình phạt áp dụng đạt được hiệu quả tối đa trong việc giáo dục, cải tạo người phạm tội, ngăn ngừa tội phạm mới.
Những kiến nghị vừa trình bày mới chỉ xuẩt phát từ quá trình tham khảo các công trình nghiên cứu trước và từ nhận thức chủ quan trong quá trình tìm hiểu của bản thân, do vậy có thể còn tồn tại nhiều điểm chưa được chính xác và hợp lí. Tôi rất mong nhận được các góp ý từ thầy cô giáo và các bạn sinh viên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1985.
2.Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999.
3.Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17.04.2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số qui định của Bộ luật hình sự.
4.Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12.05.2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số qui định của Bộ luật hình sự.
5.Bản án hình sự số 150/2006/HSPT của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội ngày 14.04.2006.
6.Bản án hình sự số 2553/2007/HSST ngày 01,02,…08.07.2008 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội.
7.Bản án hình sự số 35/2006/HSST ngày 23.01.2006 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội.
8.Bản án hình sự số 364/HSST/2005 ngày 16.12.2005 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
9.Bản án hình sự số 72/2006/HSST ngày 27.02.2006 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng.
10.Bản án số 08/2006/HSST ngày 05,06.01.2006 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội.
11.Giáo trình triết học Mác-Lênin, Trường Đại học Luật Hà Nội.
12.Giáo trình luật Hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội.
13.Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự 1999 - phần các tội phạm, tập IX.
14.Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nguyễn Ngọc Hòa.
15.Từ điển từ và ngữ Tiếng Việt, GS Nguyễn Lân.
16.Từ điển luật học, Bộ tư pháp, Viện khoa học pháp lý.
17.Sổ tay điều tra các tội phạm về trật tự xã hội, TS Nguyễn Như Thuật.
18.Tệ nạn xã hội: căn nguyên, biểu hiện, phương thức khắc phục, Nguyễn Y Na - Viện thông tin Khoa học xã hội.
19.Tăng cường đấu tranh phòng chống các tệ nạn xã hội bằng pháp luật ở Việt Nam hiện nay - luận án tiến sĩ luật học, Phan Đình Khánh.
20.Phạm tội có tổ chức trong luật hình sự Việt Nam và việc đấu tranh phòng chống - luận án tiến sĩ luật học, Nguyễn Trung Thành.
21.Ranh giới giữa tội phạm và không phải là tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam - luận án tiến sĩ, Phạm Quang Huy.
22.Đấu tranh phòng chống các tội cờ bạc trên địa bàn thành phố Hà Nội - luận văn thạc sĩ, Cao Thị Oanh.
23.Các hình phạt chính trong luật hình sự Việt Nam - luận văn thạc sĩ luật học, Lê Văn Hường.
24.Hình phạt tiền trong Bộ luật hình sự 1999 và việc áp dụng hình phạt này của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội - luận văn thạc sĩ Luật học, Đào Anh Dũng.
25.Tội “đánh bạc” và các tội phạm khác liên quan đến hành vi đánh bạc, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, TS Nguyễn Đức Mai - Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương, Tạp chí Kiểm sát số 20 tháng 10.2006.
26.Tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” hay tội “đánh bạc”, Phạm Diệu Huyền - Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đơn Dương, Lâm Đồng, Tạp chí Tòa án nhân dân số 1/2003.
27.Về tội phạm có dấu hiệu “có tổ chức” trong luật hình sự Việt Nam, TS Lê Thị Sơn.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LDOCS (55).doc