Khóa luận Tranh chấp về lãi suất trong hợp đồng tín dụng – thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC CHƯƠNG 1 LÍ LUẬN CHUNG VỀ TRANH CHẤP LÃI SUẤT TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG 6 1.1 Khái quát về hợp đồng tín dụng. 6 1.1.1 Khái niệm 6 1.1.2 Đặc điểm 7 1.2 Lãi suất 8 1.2.1 Khái niệm 8 1.2.2 Phân loại lãi suất 10 1.2.3 Vai trò của lãi suất 14 1.3 Cơ chế điều hành lãi suất trong hoạt động cho vay của NHNN 14 1.3.1 Thời kì thực thi cơ chế quản lí nền kinh tế theo phương thức quản lí kế hoạch hóa tập trung (từ năm 1982 đến năm 1988). 14 1.3.2 Thời kì nền kinh tế bắt đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lí của Nhà nước (từ năm 1988 đến nay). 15 1.3.3 Tác động của lãi suất cho vay dưới sự điều hành của NHNN đến các TCTD và người đi vay 18 1.4 Tranh chấp về lãi suất trong hợp đồng tín dụng. 20 1.4.1 Khái niệm 20 1.4.2 Đặc điểm của tranh chấp về lãi suất cho vay. 20 1.4.3 Nguyên nhân và nội dung thường xảy ra trong tranh chấp về lãi suất 22 1.4.4 Cơ chế giải quyết tranh chấp trong HĐTD 23 1.4.5 Hậu quả của tranh chấp phát sinh từ HĐTD 24 Tổng kết chương 1. 25 CHƯƠNG 2 NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN VỀ TRANH CHẤP LÃI SUẤT TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC 26 2.1 Những vấn đề thực tiễn về tranh chấp lãi suất trong hợp đồng tín dụng. 26 2.1.1 Thỏa thuận thay đổi lãi suất khi thời hạn chưa kết thúc. 27 2.1.2 Lãi suất trong hạn và cách tính lãi trong hạn. 32 2.1.3 Lãi suất nợ quá hạn và cách tính lãi đối với khoản nợ quá hạn. 37 2.2 Giải pháp khắc phục. 42 2.2.1 Thống nhất quy định về lãi suất đối với khoản nợ quá hạn. 42 2.2.2 Hướng dẫn cụ thể về cách thức xác định tính hợp pháp của thỏa thuận lãi suất 44 2.2.3 Quy định thống nhất về chế tài phạt chậm trả. 45 2.2.4 Quy định về hậu quả pháp lí đối với việc vi phạm pháp luật về thỏa thuận lãi suất 47 2.2.5 Áp dụng luật cạnh tranh về nội dung lãi suất trong hoạt động ngân hàng. 49

pdf65 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1932 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tranh chấp về lãi suất trong hợp đồng tín dụng – thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
từ số nợ gốc ban đầu chỉ hơn 14.000.000 đồng, sau 22 tháng, số nợ cả gốc lẫn lãi đã lên gần đến 40.000.000 đồng. Nhƣ vậy, lãi suất áp dụng theo cách tính này là khoảng 8%/tháng, cao hơn rất nhiều so với quy định pháp luật về cách tính lãi suất theo thỏa thuận giữa TCTD đối với khách hàng (thời điểm một số NHTM áp dụng lãi suất cao nhất sau khi tính cả các chi phí là 23 – 24%/năm nhƣ đã trình bày ở phần 2.1.1.2). Bên cạnh đó, theo hợp đồng thì sau 90 ngày kể từ ngày lập bản thông báo giao dịch, nếu chủ thẻ không thanh toán, thanh toán không đủ số tiền tối thiểu thì toàn bộ số dƣ nợ của chủ thẻ là nợ quá hạn và áp dụng lãi suất nợ quá hạn theo quy định của ngân hàng. Tính từ cuối tháng 5/2009 là đã quá 90 ngày ông H. không thanh toán đủ số tiền tối thiểu nên ngân hàng phải có trách nhiệm chuyển toàn bộ số dƣ nợ sang nợ quá hạn, nhƣng ngân hàng vẫn tiếp tục tính lãi suất theo cách cộng dồn lãi, phí vào nợ gốc. Tòa xác định lại tiền lãi và các khoản phí phát sinh theo hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng giữa hai bên chỉ là 21.000.000 đồng. Rõ ràng việc tính lãi cộng dồn là hoàn toàn sai so với quy định của pháp luật, xâm phạm đến lợi ích của ngƣời đi vay. Khác với vụ việc này, trƣờng hợp dƣới đây có nội dung lãi suất xảy ra tranh chấp nhƣng nguyên nhân lại không phải lỗi trong cách tính lãi từ phía TCTD. Vụ việc Ngân hàng Công thƣơng Việt Nam (sau đây gọi là VietinBank) kiện Công ty TNHH thƣơng mại Đại Hỷ (sau đây gọi là công ty) có nội dung nhƣ sau:  Chi nhánh Ngân hàng Công thƣơng tỉnh Sóc trăng và công ty TNHH thƣơng mại Đại Hỷ kí HĐTD số 32/HĐTD ngày 03/02/2004.  Số vốn vay 2.000.000.000 đồng.  Lãi suất vay là 0,85%/tháng. Đến này 03/02/2006 hai bên kí phụ kiện hợp đồng điều chỉnh lãi suất là 0,95%/tháng, đến ngày 18/7/2006 tiếp tục kí phụ kiện hợp đồng điều chỉnh lãi suất là 1,1%/tháng.  Thời hạn vay là 60 tháng.  Tiền nợ gốc chia làm 10 kì (6 tháng trả một kì vào ngày 04 tây, kì thứ nhất bắt đầu vào ngày 04/8/2004, kì cuối ngày 04/02/2009).  Công ty trả vốn đúng kì trả nợ và tiền lãi, đến kì thứ 6 thì công ty không thực hiện đúng thỏa thuận và tính đến ngày 03/6/2007 công ty còn nợ vốn gốc của ngân hàng là 1.000.000.000 đồng, ngày 14/6/2007 và 29/5/2008 36 công ty có trả tiền nợ gốc lần lƣợt là 147.530.000 đồng và 150.000.000 đồng. Tính đến ngày 30/5/2008 công ty còn nợ lại ngân hàng tiền gốc là 502.470.000 đồng và tiền lãi từ ngày 03/6/2007 đến thời điểm tòa đƣa vụ việc ra xét xử. VietinBank yêu cầu công ty trả tiền nợ gốc và tiền lãi chƣa trả. Phía công ty Đại Hỷ cho rằng phải tính lãi theo lãi suất cơ bản của NHNN quy định, đồng thời yêu cầu tính lại phần lãi suất mà công ty đã trả vƣợt quá mức lãi suất cơ bản của NHNN quy định và khấu trừ vào số tiền vốn vay. TAND tỉnh Sóc Trăng xem xét vào thời điểm công ty vi phạm hợp đồng là ngày 03/6/2007, căn cứ theo Quyết định số 1143/QĐ-NHNN ngày 29/5/2007 thì vào thời điểm vi phạm hợp đồng mức lãi suất cho vay không đƣợc vƣợt quá 1,03%/tháng. Xét thời điểm thỏa thuận của hợp đồng mức lãi suất 0,85%/tháng, sau đó điều chỉnh là 1,1%/tháng, nhƣng tính bình quân mức lãi suất bị đơn đã trả cho nguyên đơn không vƣợt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố nên không chấp nhận yêu cầu của bị đơn. Căn cứ vào Khoản 5 Điều 474 và Khoản 1 Điều 476 BLDS 2005, tòa xác định mức lãi suất là 1,03%/tháng. Từ tranh chấp trên có thể thấy rằng khi giải quyết vụ việc này, tòa sơ thẩm không xem xét thỏa thuận lãi suất trên từng thời điểm so với quy định của pháp luật mà lại chia bình quân lãi suất trong toàn thời gian thực hiện để xác định tính hợp pháp của thỏa thuận lãi suất. Với cách xác định bằng lãi suất bình quân nhƣ vậy, phía bị đơn phải chịu thiệt. Rõ ràng đây là một cách xác định lãi suất không đúng với quy định của pháp luật. Tóm lại, tranh chấp về lãi suất trong hạn và cách tính lãi trong hạn tập trung ở ba vấn đề: Một là, cơ quan xét xử không nhất quán khi vừa áp dụng trần lãi suất cho vay bằng 150% lãi suất cơ bản cho cả giai đoạn đƣợc phép thỏa thuận lãi suất trƣớc ngày 19/5/2008; vừa không áp dụng mức trần với thỏa thuận lãi suất trong giai đoạn từ 19/5/2008 về sau. Hai là, tranh chấp lãi suất do TCTD tính lãi cộng dồn gây thiệt hại cho khách hàng. Ba là, cơ quan xét xử chia bình quân lãi suất trong thời gian vay để xác định tính hợp pháp của thỏa thuận lãi suất trong từng giai đoạn tƣơng ứng với từng cơ chế điều hành lãi suất của NHNN. 37 Từ các vấn đề này, tác giả sẽ đề xuất những giải pháp nhằm hạn chế và khắc phục ở phần 2.2. 2.1.3 Lãi suất nợ quá hạn và cách tính lãi đối với khoản nợ quá hạn Lãi suất nợ (gốc) quá hạn là một trong những nội dung thƣờng xảy ra tranh chấp nhiều nhất trong hoạt động tín dụng. Trên thực tế việc áp dụng cách tính lãi suất nợ quá hạn còn nhiều vấn đề chƣa đƣợc rõ ràng. Nhƣ đã trình bày ở phần 1.2.2.2, hiện nay trong pháp luật Việt Nam có hai quy định không thống nhất về cách thức tính lãi suất quá hạn. Theo đó, có nhiều tranh chấp xảy ra về cách tính lãi suất nợ quá hạn mà nhiều bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị vì lí do này. Trên thực tế, cơ quan tài phán không hoàn toàn cũng nhất quán trong quá trình giải quyết. Việc áp dụng quy định của pháp luật chuyên ngành hay quy định của BLDS cũng chứng tỏ không ít sự lúng túng của cơ quan có thẩm quyền. Một số vụ việc cụ thể nhƣ sau có thể chứng minh rằng việc áp dụng pháp luật vẫn còn nhiều bất cập khiến quyền lợi của các bên tranh chấp bị ảnh hƣởng. Trở lại với vụ việc VietBank và bà Phan Ngọc H. ở trên. Về lãi suất nợ quá hạn, TAND tỉnh Sóc Trăng tuyên từ 28/11/2008 đến 28/9/2009 áp dụng Quyết định số 2024/QĐ-NHNN ngày 26/8/2009 lãi suất cơ bản là 7%/năm, lãi suất quá hạn là 10,5%/năm, bằng 0,875%/tháng. Do đó lãi quá hạn là 250.000.000 x 11 tháng x 0,875% = 24.062.500 đồng. Tƣơng tự, bản án số 07/2009/DS-ST ngày 06/10/2009 giữa VietBank với bà A. và ông T., TAND tỉnh Sóc Trăng cũng tuyên áp dụng lãi suất nợ quá hạn là 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố vào thời điểm xét xử sơ thẩm là 7%/năm (theo Quyết định số 2232/QĐ-NHNN ngày 24/9/2009). Ở cả hai vụ việc này, VietBank đều kháng cáo về việc áp dụng lãi suất nợ quá hạn. VietBank cho rằng theo Khoản 2 Điều 11 của Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN, lãi suất quá hạn phải đƣợc xác định bằng 150% lãi suất trong hạn trong hợp đồng là 150% x 1,75%/tháng. Tòa phúc thẩm TANDTC tại TPHCM xét xử phúc thẩm cho rằng việc áp dụng quy định của BLDS 2005 là hợp pháp và không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn tại bản án số 56/2010/KDTM-PT và 57/2010/KDTM-PT cùng ngày 08/4/2010. Khác với hai vụ việc trên, trong vụ “Ly hôn và tranh chấp tài sản” sau đây, cơ quan chức năng lại đƣa ra cách giải quyết ngƣợc lại. Ông Trịnh Xuân B. và bà Lê Thị Thanh N. kí với NHTMCP Á Châu (sau đây gọi là ACB) hai HĐTD. 38  Hợp đồng thứ nhất PHT.CN.01080907 ngày 10/9/2007 và HĐTD trung, dài hạn số 29900799 ngày 10/9/2007, nợ vốn 1.744.447.000 đồng nợ gốc và lãi 146.533.546 đồng.  Hợp đồng thứ hai PHT.CN.01171107 ngày 19/11/2007 và HĐTD trung, dài hạn số 32276929 ngày 20/11/2007, tổng số tiền 633.326.000 đồng nợ vốn và 34.075.314 đồng nợ lãi. Bản án sơ thẩm số 61/2009/HNST ngày 31/12/2009 của TAND quận 10 (TPHCM) tuyên tiền lãi của ACB sẽ đƣợc tính tiếp tục kể từ ngày 01/01/2010 với mức lãi suất cơ bản theo quy định của NHNN trên tổng số dƣ nợ gốc thực tế cho đến khi trả hết nợ gốc căn cứ vào BLDS 2005. Sau đó ACB kháng cáo cho rằng ông B., bà N. phải chịu lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn từ 01/01/2010 đến ngày trả dứt nợ. Tòa phúc thẩm TANDTC tại TPHCM chấp nhận kháng cáo của ACB. Có thể thấy rằng cùng một tình tiết và cùng Tòa phúc thẩm TANDTC nhƣng cách thức giải quyết vụ việc lại khác nhau, tƣơng ứng với hai cách tính lãi suất quá hạn. Cách thứ nhất theo quy định tại Khoản 5 Điều 474 BLDS 2005 thì lãi suất quá hạn đƣợc tính không vƣợt quá 150% lãi suất cơ bản. Trong khi đó cách tính thứ hai căn cứ vào pháp luật chuyên ngành là Khoản 2 Điều 11 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN lãi suất quá hạn không vƣợt quá 150% lãi suất trong hạn. Khi áp dụng quy định về lãi suất nợ quá hạn của BLDS, ngƣời bị thiệt hại sẽ là TCTD, vì lãi suất cho vay trong hạn luôn cao hơn so với lãi suất cơ bản của NHNN quy định. Ngoài ra, tranh chấp không chỉ xảy ra ở việc tính lãi suất nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản hay lãi suất trong hạn, mà còn tranh chấp ở việc xác định thời điểm bắt đầu áp dụng lãi suất nợ quá hạn lẫn thời điểm kết thúc. Trong tranh chấp giữa VietBank và bà A., ông T. nhƣ đã trình bày ở trên, TAND tỉnh Sóc Trăng tuyên tuyên lãi suất quá hạn đƣợc tính đến ngày thi hành án xong. Tuy nhiên, cũng do TAND tỉnh Sóc Trăng xét xử bản bán số 06/2009/DS- ST ngày 28/9/2009 giữa nguyên đơn cũng là VietBank và bà Phan Ngọc H., TAND tỉnh Sóc Trăng lại áp dụng lãi suất nợ quá hạn từ ngày phát sinh nợ quá hạn cho đến ngày ra bản án. Trong khi đó tại khoản 3, phần I Thông tƣ liên tịch số 01/TTLT giữa Tòa án nhân dân tối cao – Viện Kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ tƣ pháp – Bộ tài chính về việc xét xử và thi hành án về tài sản ngày 19/6/1997 quy định tòa án phải ra quyết định buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán 39 khoản tiền lãi kể từ ngày giao dịch cho đến khi thi hành án xong. Do đó, nội dung này bị ngân hàng kháng cáo lãi suất nợ quá hạn với khoản nợ gốc của bà H. phải đƣợc áp dụng từ thời điểm phát sinh nợ quá hạn cho đến khi thi hành án xong mới đảm bảo quyền lợi của nguyên đơn. Kháng cáo đƣợc Tòa phúc thẩm TANDTC tại TPHCM chấp nhận và sửa bản án sơ thẩm. Trong vấn đề này không phải do pháp luật quy định không chặt chẽ mà do việc áp dụng pháp luật của TAND tỉnh Sóc Trăng không nhất quán. Không chỉ TAND tỉnh Sóc Trăng có quyết định trái với quy định của pháp luật mà TAND quận 12 (TPHCM) cũng ra quyết định trái luật, nhƣng nội dung có sự khác biệt. Bản án số 162/2009/DS-ST ngày 16/7/2009 của TAND quận 12 về tranh chấp giữa nguyên đơn là ACB và ông Nguyễn Tuyển Q. tuyên kể từ ngày nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị đơn chƣa giao đủ số tiền còn nợ thì hàng tháng bị đơn còn phải trả thêm cho nguyên đơn số tiền lãi theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố tƣơng ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán. Nhƣ vậy thời gian phát sinh lãi suất nợ quá hạn tính từ ngày nguyên đơn có yêu cầu thi hành án. Thêm vào đó trong vụ việc này TAND quận 12, TPHCM đã áp dụng Khoản 2 Điều 305 BLDS 2005 về trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ là không phù hợp, lẽ ra TAND quận 12 phải áp dụng Khoản 5 Điều 474 BLDS 2005 hoặc Khoản 2 Điều 11 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN. Hầu hết các quyết định không phù hợp với quy định về thời điểm áp dụng lãi suất nợ quá hạn của tòa án cấp sơ thẩm đều bị kháng cáo lên tòa cấp phúc thẩm và bản án sơ thẩm đều bị sửa. Thực trạng áp dụng quy định pháp luật tại cơ quan xét xử vẫn còn nhiều thiếu sót mặc dù quy định đã rất rõ ràng, cụ thể. Từ đây đặt ra vấn đề về chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ Tòa án. Tuy nhiên, đó không phải vấn đề pháp lý nên trong phạm vi khóa luận này, tác giả không nghiên cứu sâu hơn. Bên cạnh đó, tranh chấp còn có thể phát sinh từ sự bất đồng quan điểm giữa hai bên đƣơng sự về thời điểm bắt đầu tính lãi quá hạn. Trong phần 1.2.2.2, tác giả đã trình bày về thời điểm chuyển khoản nợ từ nợ trong hạn sang nợ quá hạn theo pháp luật hiện hành chính là khi khoản nợ vay không đƣợc trả đúng hạn, đƣợc TCTD đánh giá là không có khả năng trả nợ đúng hạn và không chấp thuận cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ thì số dƣ nợ gốc của HĐTD đó là nợ quá hạn. Tuy vậy, không phải lúc nào pháp luật cũng đƣợc các bên nhận thức đầy đủ. 40 Điển hình cho vấn đề này là vụ án giữa VietinBank và công ty TNHH thƣơng mại Đại Hỷ. Công ty này kháng rằng trong số tiền lãi 633.268.927 đồng mà công ty đã trả đến tháng 6/2007 ngân hàng có tính lãi suất quá hạn không đúng. Theo HĐTD kí ngày 02/4/2004 thời hạn vay là 60 tháng (04/02/2004 đến 04/02/2009) do đó phải tính lãi trong hạn đối với số dƣ nợ từ tháng 02/2004 đến 02/2009, nhƣng từ tháng 02/2004 đến tháng 6/2007, ngân hàng đã tính nhiều khoản lãi theo lãi suất quá hạn. Tòa phúc thẩm TANDTC tại TPHCM xét xử phúc thẩm. VietinBank cho rằng tất cả các khoản tính lãi nguyên đơn đã tính theo chính xác cam kết trong HĐTD, cụ thể có thỏa thuận “khi đến thời hạn hoặc kì hạn trả nợ (gốc và lãi) mà bên B không trả được nợ và không được bên A chấp thuận gia hạn hoặc điều chỉnh thời hạn, kì hạn nợ (gốc và lãi) thì bên A được quyền trích từ tài khoản bên B để thu nợ, nếu tài khoản tiền gửi tại thời điểm đó không còn số dư thì bên A chuyển dư nợ (gốc, lãi) sang nợ quá hạn theo quy định của Ngân hàng Công thương Việt Nam”. Tòa phúc thẩm bác kháng cáo của công ty Đại Hỷ, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Đối với vụ việc giữa VietinBank và công ty TNHH thƣơng mại Đại Hỷ, nếu bị đơn có sự nghiên cứu kĩ lƣỡng hơn về quy định của pháp luật thì sẽ không kháng cáo ở vấn đề này trong khi lại bỏ qua phần có lợi cho mình (tòa sơ thẩm chia bình quân lãi suất trong hạn để xác định tính hợp pháp của thỏa thuận lãi suất) dẫn đến phí phạm thời gian và tiền bạc trong quá trình tố tụng. Vấn đề tiếp theo là trong quy định của pháp luật hiện nay, không đƣợc phép tính lãi quá hạn trên khoản nợ lãi quá hạn, vì nhƣ vậy là “lãi chồng lãi”, hay nói cách khác là “lãi mẹ đẻ lãi con”, sẽ gây bất lợi cho bên đi vay. Mặc dù vậy, pháp luật lại cho phép TCTD phạt chậm trả đối với khoản nợ lãi quá hạn. Theo Khoản 2 Điều 13 Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ- NHNN đã đƣợc sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN thì việc phạt chậm trả đối với khoản nợ quá hạn và nợ lãi vốn vay do hai bên thỏa thuận trên cơ sở quy định của pháp luật. Có quan điểm cho rằng sử dụng chế tài phạt chậm trả là một cách “lách luật” của các TCTD thay vì áp dụng lãi suất quá hạn với khoản nợ lãi quá hạn vốn không đƣợc pháp luật cho phép, vì cách tính phạt chậm trả lãi quá hạn hầu nhƣ không khác gì chế tài lãi suất nợ quá hạn đối với khoản lãi trễ hạn27. Pháp luật đã quy định rất rõ ràng về chế tài phạt chậm trả, 27 Lƣơng Thị Hoàng Phƣơng (2009), Vai trò của pháp luật trong việc giải quyết nợ quá hạn tại NHTM của Việt Nam, Đại học Luật TPHCM, tr.50 41 nghĩa là trao cho các TCTD quyền đƣợc đảm bảo về quyền lợi khi khách hàng chậm thực hiện nghĩa vụ. Do đó, theo quan điểm của tác giả thì các TCTD phạt chậm trả đối với khoản nợ gốc và nợ lãi trễ hạn hoàn toàn không phải là “lách luật”. Không chỉ trong hoạt động tín dụng, mà Điều 306 Luật Thƣơng mại 2005 cũng quy định về quyền yêu cầu tiền lãi do chậm thanh toán. Theo quy định của Luật thƣơng mại thì phải xác định “lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trƣờng tại thời điểm thanh toán” làm cơ sở xác định tiền lãi phạt chậm trả, khác với quy định tại Khoản 2 Điều 305 BLDS 2005 là theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố tƣơng ứng với thời hạn vay tại thời điểm thanh toán. Trở lại vụ việc giữa VietBank và bà A., ông T. ở trên, phía VietBank yêu cầu bị đơn thanh toán lãi trong hạn từ 15/9/2008 đến 14/12/2008 và lãi phạt chậm trả lãi 3 kì (tháng 10, 11, 12/2008) với lãi suất phạt là 150% lãi suất trong hạn nhân với số ngày chậm trả, TAND tỉnh Sóc Trăng đã chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn. Tuy nhiên, trong hợp đồng và bản án đều ghi rõ thỏa thuận là “lãi phạt chậm trả”, cần lƣu ý rằng tiền phạt chậm trả và tiền lãi là hai khoản giá trị hoàn toàn khác nhau. Tiền lãi của TCTD đƣợc hạch toán vào khoản thu từ kinh doanh trong khi tiền phạt chậm trả lại đƣợc hạch toán vào khoản thu khác28. Từ đó cho thấy với cách gọi “phạt chậm trả” đã diễn tả đƣợc bản chất sự vi phạm nghĩa vụ của khách hàng là cơ sở để TCTD phạt khách hàng bằng một tỷ lệ cao hơn so với lãi suất trong hạn, kể cả phần nợ gốc và nợ lãi phát sinh bị quá hạn. Trong trƣờng hợp lãi quá hạn, gốc chƣa đến hạn (mặc dù TCTD phải đƣa toàn bộ dƣ nợ của HĐTD vào nợ quá hạn ngay hoặc trong trƣờng hợp quá hạn một kì trả gốc) nhƣng việc có đƣợc phạt trên toàn bộ dƣ nợ gốc của hợp đồng không lại tùy thuộc vào sự thỏa thuận giữa các bên29. Trƣớc đây, theo hai Công văn 405/NHNN-CSTT và 1140/NHNN-CSTT, thì TCTD không áp dụng lãi suất nợ quá hạn đối với số dƣ nợ gốc chƣa đến hạn trả nợ nhƣng phải chuyển sang nợ quá hạn do khách hàng vay không trả lãi vốn vay đúng hạn. Nhƣng hai văn bản này đã chính thức bị NHNN bãi bỏ năm 2005 tại Quyết định số 127/2005/QĐ- NHNN sửa đổi, bổ sung Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN. Nợ khách hàng phải trả TCTD đƣợc tính bằng hai cách. Cách thứ nhất, nợ khách hàng phải trả bằng nợ gốc cộng nợ lãi trong hạn và tiền phạt trong trƣờng 28 Xem Điều 16 Nghị định 146/2005/NĐ-CP của Thủ tƣớng Chính phủ về chế độ tài chính đối với các TCTD ngày 23/11/2005 29 Xem Khoản 2 Điều 13 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN 42 hợp gốc chƣa đến hạn mà lãi đã quá hạn. Cách thứ hai, nợ phải trả bằng nợ gốc, nợ lãi trong hạn, nợ lãi quá hạn (do nợ gốc quá hạn) và tiền phạt do cả gốc và lãi đều quá hạn. Với cách tính thứ nhất, bên bị thiệt là các TCTD, bởi lẽ khi đến hạn trả lãi mà khách hàng không thanh toán, TCTD khởi kiện hoặc yêu cầu tất toán hợp đồng thì lúc đó chỉ tính đƣợc tiền phạt lãi mà chƣa áp dụng phạt gốc vì chƣa đến hạn. Với cách tính thứ hai, phần thiệt lại thuộc về ngƣời đi vay vì có thể xem nhƣ khách hàng bị tính hai lần lãi trên cùng một phần gốc quá hạn. Nhìn chung, cả hai cách tính lãi này đều có những mặt hạn chế nhất định, việc lựa chọn cách tính nào tùy thuộc vào sự thỏa thuận giữa TCTD và khách hàng đi vay. 2.2 Giải pháp khắc phục Dựa trên cơ sở là các nội dung thực tiễn đã trình bày ở phần 2.1, phần cuối của khóa luận đƣa ra những đề xuất nhằm khắc phục các tranh chấp và hoàn thiện pháp luật hiện nay. 2.2.1 Thống nhất quy định về lãi suất đối với khoản nợ quá hạn Ngày 16/6/2010, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (Luật số 47/2010/QH12). Tại Khoản 2 Điều 91 Luật này quy định trực tiếp về lãi suất thỏa thuận, không điều chỉnh thông qua các văn bản dƣới luật nhƣ trƣớc đây. Điều này chứng tỏ luật chuyên ngành (quy định trực tiếp vấn đề lãi suất) đƣợc áp dụng để cho phép TCTD thỏa thuận lãi suất cho vay lớn hơn 150% lãi suất cơ bản mà không chịu sự chi phối của Khoản 1 Điều 476 BLDS 2005 nữa. Đồng thời cũng đảm bảo về tính giá trị pháp lí tƣơng đƣơng giữa hai văn bản luật, giải quyết vấn đề vƣớng mắc trƣớc đây một số ý kiến cho rằng Quyết định số 16/2008/QĐ- NHNN là cách để “sửa sai” khi NHNN đã bỏ qua quy định của BLDS 2005. Tuy nhiên, Luật Các tổ chức tín dụng 2010 lại không đề cập đến lãi suất đối với khoản nợ quá hạn, nhƣ vậy các bên trong quan hệ tín dụng và cơ quan giải quyết tranh chấp vẫn áp dụng Khoản 5 Điều 474 BLDS 2005 hoặc Khoản 2 Điều 11 Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN. Trở lại với hai căn cứ áp dụng lãi suất nợ quá hạn đối với khoản nợ gốc quá hạn này, lại đặt ra mối quan hệ giữa luật chung và luật chuyên ngành và giá trị pháp lí của các văn bản pháp luật. Tác giả đặt ra tình huống nhƣ sau: Ông M. và TCTD N. kí kết HĐTD vay một số tiền cho mục đích tiêu dùng. Hai bên áp dụng Thông tƣ số 12/2010/TT- NHNN (khi Luật Các tổ chức tín dụng 2010 chƣa có hiệu lực) về thỏa thuận lãi suất cho vay, theo đó lãi suất trong hạn là 1,5%/tháng, lãi suất đối với khoản nợ 43 quá hạn là 150% lãi suất trong hạn. Tại thời điểm hai bên kí HĐTD, lãi suất cơ bản do NHNN công bố là 0,8%/tháng. Khi tranh chấp xảy ra, vụ việc đƣợc đƣa ra xét xử tại tòa án có thẩm quyền. Nếu tòa án dựa theo quy định tại Khoản 2 Điều 11 Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN thì lãi suất nợ quá hạn đƣợc xác định là 2,25%/tháng. Nếu tòa án căn cứ theo quy định của Khoản 5 Điều 474 BLDS 2005 thì lãi suất quá hạn đƣợc tính là 150% x 0,8%/tháng = 1,2%/tháng. Nhƣ vậy, trong tình huống này, nếu áp dụng BLDS 2005 thì lãi suất đối với khoản nợ quá hạn lại nhỏ hơn lãi suất trong hạn. Vấn đề vƣớng mắc ở đây là hiện nay các TCTD và ngƣời đi vay đƣợc phép thỏa thuận lãi suất cho vay, tình trạng lãi suất trong hạn cao hơn 150% lãi suất cơ bản rất dễ xảy ra. Nếu sử dụng mức trần 150% lãi suất cơ bản theo BLDS 2005 để xác định lãi suất quá hạn thì sẽ xảy ra trƣờng hợp lãi suất quá hạn thấp hơn lãi suất trong hạn. Đây là một điều hoàn toàn bất hợp lí vì xuất phát từ ý nghĩa là một cách chế tài đối với việc chậm thực hiện nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay vốn nên lãi suất đối với khoản nợ quá hạn phải luôn cao hơn lãi suất trong hạn. Hiện nay, đối với các HĐTD kí kết và thực hiện trƣớc khi NHNN áp dụng cơ chế lãi suất cho vay thỏa thuận, cơ sở pháp lí mà đa số các tòa án áp dụng để xác định lãi suất nợ quá hạn là Khoản 1 Điều 476 BLDS 2005 trên thực tế các TCTD là ngƣời bị thiệt thòi. Với những HĐTD kí kết và thực hiện sau khi NHNN áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận lại có thể xảy ra tình huống lãi suất trong hạn vƣợt quá 150% lãi suất cơ bản nhƣ đã phân tích ở trên thì việc áp dụng BLDS 2005 lại trở nên không phù hợp. Do đó, theo quan điểm cá nhân của tác giả, nhà làm luật cần quan tâm đến việc thống nhất các quy định pháp luật để đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia vào quan hệ tín dụng và thuận lợi hơn cho cơ quan tài phán khi giải quyết các tranh chấp về lãi suất. Tại thời điểm này, Luật Các tổ chức tín dụng 2010 chƣa phát sinh hiệu lực, TCTD và khách hàng vẫn áp dụng Thông tƣ số 12/2010/TT-NHNN để thỏa thuận lãi suất cho vay theo quy định của pháp luật. Vì thế, tác giả kiến nghị NHNN cần sớm ban hành văn bản hƣớng dẫn cho Luật Các tổ chức tín dụng 2010 và chấm dứt hiệu lực của Thông tƣ số 12/2010/TT-NHNN. Tại văn bản hƣớng dẫn này nên quy định rõ lãi suất đối với khoản nợ quá hạn không vƣợt quá 150% lãi suất trong hạn trong HĐTD. Với hƣớng dẫn cụ thể nhƣ vậy, các vấn đề đƣợc giải quyết là các TCTD sẽ không phải lo lắng về việc tranh chấp xảy ra và cơ quan tài phán đều tuyên điều chỉnh lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cơ bản gây giảm sút lợi nhuận của TCTD. Mặt khác, thực tế trƣớc 44 đây các TCTD vẫn áp dụng Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN để tính lãi suất quá hạn, và chỉ có những HĐTD phát sinh tranh chấp mới bị điều chỉnh lãi suất quá hạn, còn những HĐTD khác thì khách hàng vẫn phải thực hiện nghĩa vụ trả lãi quá hạn với lãi suất bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn. Nghĩa là quy định của BLDS chỉ điều chỉnh đƣợc một bộ phận trong số lƣợng lớn các quan hệ tín dụng giữa TCTD và khách hàng vay vốn, từ đó cho thấy quy định này không thực sự phát sinh hiệu quả trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng. 2.2.2 Hƣớng dẫn cụ thể về cách thức xác định tính hợp pháp của thỏa thuận lãi suất Từ các thực trạng đã phân tích ở phần 2.1.2, tác giả cho rằng trong quá trình giải quyết, tòa án phải chú ý xem xét lãi suất theo từng giai đoạn, không áp dụng hồi tố đối với những thỏa thuận lãi suất trƣớc đó. Trong tất cả các văn bản liên quan đến việc điều chỉnh lãi suất cho vay trong HĐTD đều không đề cập đến việc áp dụng hồi tố. Thời điểm hiện nay NHNN mới áp dụng trở lại cơ chế lãi suất thỏa thuận nên có không ít HĐTD trung – dài hạn kí kết trƣớc ngày 19/5/2008 kéo dài cho đến hiện nay vẫn chƣa kết thúc (với HĐTD có thời hạn 60 tháng kí kết ngày 18/5/2008 thì đến 18/5/2013 mới kết thúc). Với những HĐTD trải qua cả ba giai đoạn áp dụng cơ chế lãi suất nhƣ vậy, cơ quan giải quyết tranh chấp cần xem xét thỏa thuận lãi suất theo từng giai đoạn cụ thể. Không thể áp dụng mức trần 150% lãi suất cơ bản để ấn định mức lãi suất trong hạn tối đa mà khách hàng phải trả cho TCTD ở giai đoạn áp dụng lãi suất thỏa thuận trƣớc đó. Bên cạnh đó, để xác định lãi suất các bên thỏa thuận có vƣợt quá mức trần 150% lãi suất cơ bản hay không, cơ quan chức năng không thể dùng phép chia bình quân các mức lãi suất trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng. Các mức lãi suất mà hai bên thỏa thuận thể hiện ý chí của họ trong từng giai đoạn thực hiện hợp đồng, giai đoạn NHNN khống chế mức trần thì thỏa thuận lãi suất đó vi phạm pháp luật, nhƣng ở giai đoạn NHNN áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận thì lại đúng luật. Nếu chia bình quân có thể lãi suất trung bình hoàn toàn không vƣợt quá mức trần, nên dễ nhầm lẫn rằng thỏa thuận lãi suất giữa hai bên không vi phạm pháp luật. Về mặt lí luận, cơ quan giải quyết phải tính lại mức lãi suất trong giai đoạn bị khống chế mức trần, và với việc tính lại lãi suất nhƣ vậy thì khách hàng vay vốn sẽ đƣợc hoàn trả một giá trị lãi đã bị tính dôi ra. Nhƣ vậy, việc áp dụng quy định của giai đoạn này hồi tố cho giai đoạn trƣớc đó hoặc chia bình quân lãi suất trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng để xác 45 định tính hợp pháp của thỏa thuận lãi suất trong HĐTD (theo từng giai đoạn tƣơng ứng với cơ chế điều hành lãi suất của NHNN) là không phù hợp và không đảm bảo đƣợc quyền lợi của các bên tham gia quan hệ tín dụng. Để giải quyết vấn đề này, tác giả cho rằng TANDTC cần có văn bản hƣớng dẫn cụ thể việc áp dụng quy định của pháp luật khi xem xét những tranh chấp HĐTD nhƣ vậy, cụ thể là đối với những HĐTD kí kết từ trƣớc ngày 19/5/2008 về sau. Trên thực tế, vấn đề nảy sinh không phải do quy định của pháp luật không rõ ràng, mà là cách giải quyết của các cơ quan có thẩm quyền chƣa thống nhất do chƣa có sự hƣớng dẫn cụ thể, dẫn đến quyền lợi của các bên mà đặc biệt là phía ngƣời đi vay bị ảnh hƣởng. Văn bản hƣớng dẫn nên quy định rõ không đƣợc áp dụng hồi tố và không chia bình quân để xác định tính hợp pháp của thỏa thuận lãi suất cho vay trong HĐTD. 2.2.3 Quy định thống nhất về chế tài phạt chậm trả BLDS 2005 và Luật thƣơng mại 2005 đƣa ra hai cơ sở để làm căn cứ tính tiền phạt chậm trả khác nhau. Khoản 2 Điều 305 BLDS quy định: “Trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.” Trong khi đó Điều 306 Luật thƣơng mại 2005 lại quy định: “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lí khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác.” Theo quy định của BLDS và Luật thƣơng mại thì có hai cách tính tiền phạt chậm trả, theo đó căn cứ vào lãi suất cơ bản do NHNN công bố hay căn cứ vào lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trƣờng tại thời điểm thanh toán tƣơng ứng với thời gian chậm trả. Theo quan điểm của tác giả, chỉ nên quy định một cách phạt nhằm tạo sự nhất quán, giúp các bên tham gia giao dịch và cơ quan giải quyết tranh chấp dễ dàng áp dụng pháp luật. Vì thế, tác giả kiến nghị chỉ quy định một cách phạt chậm trả dựa trên cơ sở lãi suất cơ bản của NHNN công bố, bởi lẽ nếu căn cứ vào lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trƣờng nhƣ quy định của Luật thƣơng mại 2005 thì các bên lại phải trải qua giai đoạn xác định lãi suất nợ quá 46 hạn trung bình, sẽ tốn thời gian, cơ quan tài phán cũng gặp khó khăn hơn khi giải quyết vụ việc nếu có tranh chấp xảy ra. Tuy nhiên, sẽ có nhiều ý kiến trái chiều, trong đó nhiều ý kiến cho rằng ý nghĩa của việc phạt chậm trả nhằm hạn chế chủ thể có nghĩa vụ chậm thực hiện nghĩa vụ của mình; mặt khác, đó là hình thức chế tài buộc ngƣời vi phạm nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm vì hành vi vi phạm của mình. Việc quy định chỉ có một cách thức tính tiền phạt sẽ hạn chế quyền của bên bị vi phạm, hơn nữa phạt trên cơ sở lãi suất cơ bản do NHNN công bố sẽ khiến bên bị vi phạm thiệt hại hơn so với dựa trên cơ sở là lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trƣờng (vì lãi suất nợ quá hạn luôn cao hơn lãi suất cơ bản). Vì thế, với quan điểm này, tác giả đƣa ra kiến nghị thứ hai là pháp luật vẫn quy định nhiều cách thức phạt chậm trả, nhƣng khi áp dụng các bên chỉ đƣợc lựa chọn một cách thức phạt đối với một khoản nợ chậm trả để đảm bảo lợi ích của bên vi phạm nghĩa vụ. Tóm lại, trong vấn đề về cách thức phạt chậm trả, tác giả đã đƣa ra hai kiến nghị nhƣ sau: Một là, pháp luật chỉ quy định thống nhất một cách thức phạt chậm trả, dựa trên cơ sở là lãi suất cơ bản do NHNN công bố tƣơng ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán. Hai là, pháp luật quy định nhiều cách thức và cơ sở phạt chậm trả, nhƣng chỉ cho phép các bên áp dụng một cách thức đối với một khoản nợ chậm trả. Vấn đề thứ hai, về thuật ngữ đƣợc sử dụng trong chế tài phạt chậm trả, theo tác giả cần có sự rạch ròi trong việc sử dụng thuật ngữ “tiền phạt chậm trả” hay “lãi phạt chậm trả”. Cả BLDS 2005 và Luật thƣơng mại 2005 đều sử dụng “tiền lãi” để chỉ khoản tiền phạt trong chế tài phạt chậm trả. Với cách gọi nhƣ vậy, khi áp dụng trong quan hệ tín dụng ngân hàng thì dễ gây ra nhầm lẫn. Pháp luật ngân hàng đã cho phép TCTD tính lãi suất quá hạn đối với khoản nợ gốc quá hạn, nên giá trị lãi khi đó bao gồm tiền lãi trong hạn (tính bằng lãi suất trong hạn) và tiền lãi đối với khoản nợ quá hạn (tính bằng lãi suất nợ quá hạn). Do đó, nếu cả hai khoản tiền lãi này đều bị quá hạn và phải chịu tiếp một khoản “lãi phạt chậm trả” nữa thì sẽ trở thành “lãi mẹ đẻ lãi con”. Nhƣng với cách gọi “tiền phạt chậm trả” sẽ thể hiện đƣợc bản chất của nó là hình thức phạt vi phạm đối với hành vi chậm trả nợ gốc và nợ lãi của ngƣời có nghĩa vụ và không đƣợc xem là một khoản lãi. 47 2.2.4 Quy định về hậu quả pháp lí đối với việc vi phạm pháp luật về thỏa thuận lãi suất Tuy hiện nay các bên đƣợc thỏa thuận lãi suất trong HĐTD nhƣng với những tranh chấp có thể diễn ra liên quan đến giai đoạn NHNN áp dụng trần lãi suất thì lại đặt ra vấn đề về hậu quả pháp lí của việc vi phạm quy định về lãi suất. Khoản 1 Điều 476 BLDS 2005 chƣa quy định cụ thể hậu quả pháp lí của việc vi phạm quy định của pháp luật về lãi suất trong HĐTD nói riêng và hợp đồng dân sự nói chung. Điều khoản này không xác định rõ chế tài khi các bên thỏa thuận mức lãi suất trong hợp đồng vay vƣợt quá lãi suất quy định theo từng giai đoạn cụ thể. Chính vì thế, hiện nay có nhiều quan điểm vận dụng khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng nếu thỏa thuận về điều khoản lãi suất trong hợp đồng là vi phạm pháp luật, thì nội dung của thỏa thuận này bị xem là vô hiệu tuyệt đối. Do đó, hợp đồng vay trở thành hợp đồng vay không có lãi. Quan điểm thứ hai đƣợc đa số cơ quan tài phán chấp nhận trong quá trình giải quyết vụ việc. Nếu thỏa thuận trong hợp đồng vƣợt quá mức trần 150% lãi suất cơ bản, nội dung của điều khoản lãi suất bị vô hiệu một phần theo Điều 135 BLDS 2005, phần vƣợt quá mức lãi suất quy định và phần vô hiệu này không ảnh hƣởng đến toàn bộ điều khoản lãi suất của hợp đồng. Vì thế, lãi suất đƣợc tính lại bằng 150% lãi suất cơ bản mà NHNN công bố tƣơng ứng với từng thời điểm. Theo quan điểm thứ ba, nếu các bên thỏa thuận vƣợt quá mức lãi suất quy định, khi có tranh chấp về nội dung lãi suất, thì phải áp dụng khoản 2 Điều 476 BLDS 2005 xác định lại lãi suất cho vay theo lãi suất cơ bản chứ không phải tính lại bằng với 150% lãi suất cơ bản. Do đó, để đảm bảo sự chặt chẽ của pháp luật, theo quan điểm cá nhân, tác giả cho rằng pháp luật cần có quy định rõ ràng trong vấn đề này. Cụ thể trong các văn bản hƣớng dẫn với hoạt động cho vay trong giao dịch dân sự nói chung và thống nhất với pháp luật ngân hàng nói riêng, cần quy định trong trƣờng hợp các bên thỏa thuận mức lãi suất vƣợt quá 150% lãi suất cơ bản thì lãi suất cho vay đƣợc tính bằng 150% lãi suất cơ bản. Nhƣ vậy, nếu thực tế các cơ quan giải quyết có thể linh động xem xét trong trƣờng hợp bên vay đã trả tiền lãi, thì số tiền lãi đã trả dôi ra sẽ đƣợc trừ vào khoản nợ gốc và lãi vay. Nếu sau khi khoản tiền lãi đã trả đƣợc trừ vào toàn bộ vốn gốc và lãi mà vẫn còn thừa, thì bên cho vay phải hoàn trả lại cho bên cho vay. Đồng thời bên cho vay còn chịu lãi suất đối với số tiền lãi còn thừa sau khi đã trừ đi vốn gốc và lãi vay. 48 Quy định theo quan điểm thứ hai sẽ khắc phục đƣợc những hạn chế trong hai quan điểm còn lại. Ở quan điểm thứ nhất, nếu hợp đồng vay trở thành không có lãi thì bên cho vay sẽ bị thiệt hại, bởi lẽ không phải mọi thỏa thuận lãi suất vƣợt quá mức trần cho vay đều hoàn toàn do ý chí chủ quan của các bên khi giao kết hợp đồng mà có thể do sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay của NHNN. Tƣơng tự, tuy quan điểm thứ ba cho rằng vẫn phải tính lãi trong hợp đồng vay nhƣng việc tính lãi cho vay theo lãi suất cơ bản cũng gây bất lợi đối với phía cho vay vì thông thƣờng lãi suất cho vay luôn cao hơn lãi suất cơ bản. Khi quy định nhƣ kiến nghị của tác giả, vấn đề chƣa giải quyết triệt để đƣợc là trong quan hệ tín dụng, bên soạn thảo hợp đồng và đề xuất lãi suất cho vay hầu hết là các TCTD. Với lợi thế này, các TCTD có thể gây bất lợi cho khách hàng. Cụ thể, với những HĐTD đã kí kết trƣớc khi NHNN áp dụng mức trần lãi suất bằng 150% lãi suất cơ bản, có những thỏa thuận lãi suất cao hơn mức trần và trở nên vi phạm pháp luật, nhƣng TCTD vẫn không điều chỉnh giảm lãi suất cho vay cho phù hợp (vì nếu có tranh chấp thì cơ quan tài phán cũng điều chỉnh lãi suất cho vay bằng 150% lãi suất cơ bản, còn nếu không có tranh chấp thì TCTD đƣợc hƣởng một phần lợi từ sự chênh lệch lãi suất trong HĐTD với mức trần lãi suất đó). Thêm vào đó, kiến nghị này chỉ có ý nghĩa trong việc giải quyết các tranh chấp về lãi suất trong hợp đồng cho vay trong giao dịch dân sự nói chung và những HĐTD kí kết trƣớc 19/5/2008 nói riêng. Để mang tính dự liệu cao hơn (trong trƣờng hợp lại có những biến động trên thị trƣờng khiến NHNN phải áp dụng cơ chế lãi suất trần một lần nữa), có thể quy định “Trong trƣờng hợp lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng vƣợt quá mức trần lãi suất cho vay do NHNN công bố thì lãi suất cho vay đƣợc tính lại bằng mức lãi suất trần. Trong trƣờng hợp bên vay đã trả tiền lãi, thì số tiền lãi đã trả dôi ra sẽ đƣợc trừ vào khoản nợ gốc và lãi vay. Nếu sau khi khoản tiền lãi đã trả đƣợc trừ vào toàn bộ nợ gốc và lãi mà vẫn còn thừa, thì bên cho vay phải hoàn trả lại cho bên vay số tiền thừa này. Đồng thời bên cho vay còn chịu lãi suất đối với số tiền lãi còn thừa sau khi đã trừ đi vốn gốc và lãi vay.” Việc quy định bên cho vay phải chịu lãi suất đối với số tiền lãi còn thừa nhƣ trên có thể hạn chế đƣợc tình trạng bên cho vay (đặc biệt là các TCTD với lợi thế soạn thảo hợp đồng mẫu) cố tình yêu cầu lãi suất cao hơn mức trần lãi suất cho vay. 49 2.2.5 Áp dụng luật cạnh tranh về nội dung lãi suất trong hoạt động ngân hàng Trƣớc khi Luật cạnh tranh năm 2004 đƣợc thông qua ngày 03/12/2004 và có hiệu lực thi hành tại Việt Nam từ ngày 01/7/2005, cuộc cạnh tranh giữa các TCTD đã diễn ra ngày càng gay gắt. Song song với quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, số lƣợng các TCTD nƣớc ngoài tham gia vào thị trƣờng Việt Nam ngày càng tăng, sự tham gia của các TCTD này tạo ra một cuộc cạnh tranh giữa các TCTD trong nƣớc với những TCTD nƣớc ngoài. Các TCTD nƣớc ngoài này đem vào thị trƣờng Việt Nam nhiều điểm mạnh về vốn, công nghệ, trình độ quản lí, chiến lƣợc khách hàng, phong cách phục vụ và hệ thống dịch vụ ngân hàng. Bên cạnh đó, ngay trong mối quan hệ giữa các TCTD trong nƣớc cũng vẫn tồn tại môi trƣờng cạnh tranh không minh bạch và tình trạng bất bình đẳng. Việc áp dụng Luật cạnh tranh vào hoạt động kinh doanh nói chung ở Việt Nam vốn không đơn giản nhƣng thực thi Luật cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng lại càng khó hơn. Hiện nay, Luật cạnh tranh và pháp luật ngân hàng trong cách tiếp cận vấn đề cạnh tranh không có sự thống nhất hoàn toàn. Cụ thể là: Luật cạnh tranh năm 2004 đã dự liệu hai nhóm hành vi liên quan đến cạnh tranh cần đƣợc kiểm soát chặt chẽ, bao gồm các hành vi hạn chế cạnh tranh và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh30 (mục tiêu kiểm soát cả hai xu hƣớng tiêu cực trong nền kinh tế thị trƣờng liên quan đến lĩnh vực cạnh tranh, đó là xu hƣớng hạn chế cạnh tranh và xu hƣớng cạnh tranh không lành mạnh). Trong khi đó, vấn đề cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng lại đƣợc tiếp cận bằng khái niệm cạnh tranh hợp pháp và cạnh tranh bất hợp pháp31. Pháp luật ngân hàng hoàn toàn không đề cập những hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm thực hiện mà chỉ liệt kê một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh điển hình trong lĩnh vực ngân hàng, dƣới một cách gọi khác là “hành vi cạnh tranh bất hợp pháp”. “Hiện tƣợng này tuy không thể ngăn cản việc áp dụng trực tiếp các quy định của Luật cạnh tranh về những hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm nhƣng lại có thể tạo 30 Xem chƣơng 2 và chƣơng 3 Luật cạnh tranh năm 2004 31 Xem Điều 16 Luật Các tổ chức tín dụng 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004) 50 nguyên cớ cho một số TCTD tìm cách liên kết với nhau thông qua hình thức “độc quyền nhóm” để gây thiệt hại cho các TCTD khác và cho khách hàng.”32 Để khắc phục tình trạng quy định không ăn khớp này, Luật Các tổ chức tín dụng 2010 đã quy định rõ tại Điều 9 về hợp tác và cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng, theo đó nghiêm cấm hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc hành vi cạnh tranh không lành mạnh và giao cho Chính phủ quy định cụ thể các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng và hình thức xử lí các hành vi này. Trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng, xu hƣớng hợp tác giữa các TCTD với nhau để cùng tồn tại và phát triển là không tránh khỏi. Thị trƣờng dịch vụ ngân hàng là một loại thị trƣờng có tính liên kết chặt chẽ, không một TCTD nào có thể hoạt động một cách hoàn toàn biệt lập. Do đó, với quy định về lãi suất cho vay thỏa thuận nhƣ hiện nay, các TCTD hoàn toàn có thể hợp tác với nhau để đẩy mức lãi suất cho vay lên cao, gây bất lợi cho khách hàng. Ở một khía cạnh khác, một số TCTD có thể hợp tác thỏa thuận mức lãi suất cho vay thấp hơn nhằm cạnh tranh với các TCTD khác. Cho dù thỏa thuận ấn định lãi suất cho vay nhằm cạnh tranh với khách hàng hay cạnh tranh với các TCTD khác thì hành vi đó cũng vi phạm pháp luật cạnh tranh. Từ các vấn đề đặt ra, tác giả cho rằng cần có những quy định cụ thể hơn về cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng, xuất phát từ tầm quan trọng và tính đặc thù của hoạt động này. Trong đó, cần lƣu ý đến việc quy định về hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động cho vay, đặc biệt về lãi suất cho vay trong HĐTD. Bên cạnh những giải pháp về quy định của pháp luật, bản thân các TCTD và ngƣời đi vay cần chú ý tìm hiểu và tuân thủ quy định của pháp luật, đồng thời nâng cao tinh thần trách nhiệm trong giao kết, thực hiện hợp đồng thì mới hạn chế đƣợc tranh chấp xảy ra. Thêm vào đó, trong quan hệ tín dụng, TCTD luôn là bên am hiểu pháp luật chuyên ngành hơn nên chủ thể đi vay cần tích cực tìm hiểu, cập nhật kịp thời quy định pháp luật để bảo vệ quyền lợi của mình. Mặt khác, vấn đề bồi dƣỡng năng lực chuyên môn của cán bộ tòa án cũng cần đƣợc quan tâm, năng lực chuyên môn tốt thì sẽ giảm đƣợc một số lƣợng lớn án bị kháng cáo, kháng 32 TS. Nguyễn Văn Tuyến (2006), Áp dụng luật cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng, Tạp chí Luật học (6), tr.56 51 nghị ở những nội dung phổ biến, đơn giản hoặc chỉ là những sai sót nhỏ nhặt nhƣng lại gây thiệt thòi cho đƣơng sự. Trên đây tác giả đã trình bày một số kiến nghị nhằm giải quyết những vƣớng mắc của pháp luật dẫn đến tranh chấp về lãi suất cho vay trong HĐTD. Những kiến nghị của tác giả dựa trên cơ sở thực trạng tại chƣơng 2, do đó vẫn chƣa hoàn toàn mang tính bao quát và có giá trị thực tiễn sâu sắc. Tuy nhiên, đó là những nỗ lực của tác giả trong quá trình tiếp cận với những vấn đề thực tiễn và đề xuất những kiến nghị nêu trên. Tổng kết chƣơng 2 Dựa trên cơ sở lí luận ở chƣơng 1, chƣơng 2 khóa luận đã tập trung trình bày những thực trạng về tranh chấp lãi suất trong HĐTD, từ đó đề ra những kiến nghị nhằm giải quyết các vấn đề này. Thực trạng tranh chấp về lãi suất trong HĐTD đƣợc trình bày ở ba khía cạnh sau: Thứ nhất, trong HĐTD thỏa thuận lãi suất cố định và thời hạn vay chƣa kết thúc mà bên vay yêu cầu giảm lãi suất hoặc TCTD yêu cầu điều chỉnh tăng lãi suất cho vay khiến tranh chấp nảy sinh. Thứ hai, có sự bất đồng quan điểm trong việc xác định mức lãi suất trong hạn và cách tính lãi suất trong hạn giữa các bên giao kết HĐTD và cả cơ quan chức năng khi xét xử. Thứ ba, những tranh chấp trong việc xác định lãi suất nợ quá hạn và cách tính lãi đối với khoản nợ quá hạn. Để minh họa cho các tranh chấp, tác giả đã trình bày và phân tích một số vụ việc cụ thể, đồng thời đƣa ra một số bản án tiêu biểu trong đó tranh chấp và vƣớng mắc ở nhiều khía cạnh. Phục vụ cho việc phân tích theo tiêu chí khía cạnh tranh chấp, tác giả đã tách từng vụ việc thành nhiều phần tƣơng ứng để phân tích. Trên cơ sở đó, phần tiếp theo tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm khắc phục và hạn chế các tranh chấp về lãi suất ở năm nội dung: Một là, thống nhất quy định về lãi suất đối với khoản nợ quá hạn. Hai là, hƣớng dẫn cụ thể về cách thức xác định tính hợp pháp của thỏa thuận lãi suất cho vay (không áp dụng hồi tố và chia bình quân lãi suất khi giải quyết tranh chấp về lãi suất cho vay). Ba là, quy định thống nhất về chế tài phạt chậm trả. 52 Bốn là, quy định về hậu quả pháp lí đối với việc vi phạm pháp luật về thỏa thuận lãi suất. Năm là, áp dụng luật cạnh tranh về nội dung lãi suất trong hoạt động ngân hàng. Những thực trạng và kiến nghị đƣợc trình bày tại chƣơng 2 tuy không hoàn toàn đầy đủ nhƣng tác giả đã cố gắng thể hiện tƣơng đối các khía cạnh trong tranh chấp về lãi suất trong HĐTD. 53 KẾT LUẬN Thông qua quá trình nghiên cứu về mặt lí luận và tìm hiểu thực tiễn tranh chấp về lãi suất trong HĐTD, khóa luận đã đạt đƣợc những kết quả chủ yếu nhƣ sau: Thứ nhất, khóa luận đã trình bày một cách khái quát về HĐTD, chi tiết hơn về nội dung lãi suất và cơ chế điều hành lãi suất cho vay của NHNN qua các thời kì cùng với tác động của lãi suất cho vay đối với các bên trong quan hệ tín dụng. Qua đó, những lí luận này là nền tảng cho việc nghiên cứu về tranh chấp lãi suất trong HĐTD. Thứ hai, trên cơ sở lí luận đã trình bày ở chƣơng 1, chƣơng 2 khóa luận tập trung phân tích và bình luận một số bản án thực tế, từ đó chỉ ra những vấn đề còn vƣớng mắc trong các quy định của pháp luật và cách thức áp dụng pháp luật trong thực tiễn tại một số cơ quan giải quyết tranh chấp. Thứ ba, từ những thực trạng đƣợc trình bày tại phần đầu chƣơng 2, phần cuối của khóa luận nêu những kiến nghị và giải pháp của tác giả nhằm giải quyết các vấn đề còn vƣớng mắc trên thực tế, cụ thể là: thống nhất quy định về lãi suất đối với khoản nợ quá hạn, quy định không áp dụng hồi tố và chia bình quân lãi suất cho vay khi giải quyết tranh chấp, quy định về chế tài phạt chậm trả và hậu quả pháp lí đối với việc vi phạm pháp luật về thỏa thuận lãi suất, cuối cùng là áp dụng luật cạnh tranh về nội dung lãi suất trong hoạt động ngân hàng. Vì thời gian nghiên cứu có hạn, khả năng nắm bắt thực tế và kinh nghiệm của bản thân tác giả còn hạn chế, nên việc tìm hiểu phân tích và các biện pháp đƣa ra còn nhiều vƣớng mắc và thiếu sót. Vì thế, rất mong nhận đƣợc ý kiến đóng góp của quý thầy cô để đề tài đƣợc hoàn thiện hơn. v DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO A. Văn bản quy phạm pháp luật 1. Bộ luật Dân sự – Quốc hội khóa X thông qua ngày 28/10/1995 2. Luật Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam – Luật số 06/1997/QHX của Quốc hội khóa X thông qua ngày 12/12/1997 3. Luật Các tổ chức tín dụng – Luật số 07/1997/QHX của Quốc hội khóa X thông qua ngày 12/12/1997 4. Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam – Luật số 10/2003/QH11 của Quốc hội khóa XI ngày 17/6/2003 5. Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng – Luật số 20/2004/QH11 của Quốc hội khóa XI thông qua ngày 15/6/2004 6. Bộ luật Tố tụng dân sự – Luật số 24/2004/QH11 của Quốc hội khóa XI thông qua ngày 15/6/2004 7. Bộ luật Dân sự – Luật số 33/2005/QH11 của Quốc hội khóa XI thông qua ngày 14/6/2005 8. Luật Các tổ chức tín dụng – Luật số 47/2010/QH12 của Quốc hội khóa XII ngày 16/6/2010 9. Nghị định số 165/HĐBT ngày 23/9/1982 của Hội đồng Bộ trƣởng ban hành biểu lãi suất tiền gửi và cho vay của NHNN và Hợp tác xã tín dụng 10. Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Thủ tƣớng Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính 11. Nghị định số 146/2005/NĐ-CP ngày 23/11/2005 của Thủ tƣớng Chính phủ về chế độ tài chính đối với các TCTD 12. Quyết định số 39/HĐBT ngày 10/4/1989 của Hội đồng Bộ trƣởng về chính sách lãi suất tiền gửi và cho vay của NHNN 13. Quyết định số 381/QĐ-NH1 ngày 28/12/1995 của Thống đốc NHNN về việc điều chỉnh lãi suất tiền gửi và tiền vay đối với tổ chức kinh tế và dân cƣ 14. Quyết định số 241/2000/QĐ-NHNN1 ngày 02/8/2000 của Thống đốc NHNN về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay của TCTD đối với khách hàng 15. Quyết định số 652/2001/QĐ-NHNN ngày 17/5/2001 của Thống đốc NHNN ban hành Quy định phƣơng pháp tính và hoạch toán thu, trả lãi của NHNN Việt Nam và các TCTD vi 16. Quyết định số 718/2001/QĐ-NHNN ngày 29/5/2001 của Thống đốc NHNN về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay bằng Đô la Mỹ của các TCTD đối với khách hàng 17. Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN về việc ban hành Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng 18. Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/5/2002 của Thống đốc NHNN về việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thƣơng mại bằng Đồng Việt Nam của TCTD đối với khách hàng 19. Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/02/2005 của Thống đốc NHNN về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ- NHNN 20. Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lí rủi ro trong hoạt động ngân hàng của TCTD 21. Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/4/2007 của Thống đốc NHNN sửa đổi, bổ sung Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN 22. Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008 của Thống đốc NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam 23. Công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 của Thống đốc NHNN về việc chốt trần lãi suất huy động VNĐ 24. Thông tƣ liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 giữa Tòa án nhân dân tối cao – Viện Kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ tƣ pháp – Bộ tài chính về việc xét xử và thi hành án về tài sản 25. Thông tƣ số 07/2010/TT-NHNN ngày 26/02/2010 của NHNN quy định về cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận của TCTD đối với khách hàng 26. Thông tƣ số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 của NHNN hƣớng dẫn TCTD cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận B. Sách tham khảo, công trình khoa học 1. Các Mác (1986), Tư bản, tập thứ 3, phần 1, NXB Sự Thật, Hà Nội 2. Bộ Tƣ pháp, Viện Khoa học pháp lí (2006), Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách Khoa và NXB Tƣ pháp, Hà Nội 3. Đại học Luật TPHCM (2010), Giáo trình Luật ngân hàng, NXB Đại học quốc gia TPHCM vii 4. PGS.TS Lê Văn Tƣ (2004), Tiền tệ, ngân hàng, thị trường tài chính, NXB Tài chính, Hà Nội 5. Lƣơng Thị Hoàng Phƣơng (2009), Vai trò của pháp luật trong việc giải quyết nợ quá hạn tại NHTM của Việt Nam, Đại học Luật TPHCM 6. Nguyễn Thị Loan (2003), Giải pháp hoàn thiện quản trị lãi suất tại NHTM Việt Nam, Đại học Ngân hàng TPHCM. C. Tài liệu tham khảo khác 1. Ái Phƣơng (2008), Ngân hàng có quyền tự ý tăng lãi suất cho vay, Báo Pháp luật TPHCM, xem thêm tại doc/view.aspx?news_id=221904 2. TS. Đỗ Thị Thúy (2009), Tác động của lãi suất cho vay tới hoạt động sản xuất, Ngân hàng Công thƣơng Việt Nam, xem thêm tại bank.vn/web/home/vn/research/09/090410.html 3. Đỗ Thiên Anh Tuấn (2009), Đảo nợ - rủi ro đạo đức và hàm ý chính sách, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, xem thêm tại /Home/taichinh/ nganhang/17362 4. Khi ngân hàng ép buộc ngƣời vay điều chỉnh lãi suất (2008), Báo điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam, xem thêm tại hang-ep-buoc-nguoi-vay-dieu-chinh-lai-suat/20087/91745.vov 5. Hoàng Yến (2009), Tính lãi suất “trên trời”, Báo Pháp luật TPHCM, xem thêm tại lai-suat-tren-troi.htm 6. Nguyễn Văn Chính (2008), Một số vấn đề đƣợc cử tri, đại biểu quan tâm trƣớc kì họp lần thứ 14 Hội đồng nhân dân tỉnh, Trang thông tin kinh tế - xã hội Ủy ban Nhân dân tỉnh Bến Tre, xem thêm tại bentre.gov.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=3689&Item id=178 7. TS. Nguyễn Văn Tuyến (2006), Áp dụng luật cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng, Tạp chí Luật học, (06) 8. Phƣớc Hà – Trịnh Ngọc Lan (2008), Không đƣợc điều chỉnh lãi suất cho vay quá 21%/năm, Báo VietNamNet, xem thêm tại /kinhte/2008/07/793761 9. Vân Giang (2009), Tranh chấp HĐTD gia tăng - Có nguyên nhân từ suy thoái kinh tế, Báo Điện tử Bắc Ninh – Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh, xem thêm tại detail&category_id=12602&id=63834&portal=baobacninh viii D. Các website ix PHỤ LỤC Phụ lục 1: Bản án phúc thẩm số 57/2010/KDTM-PT ngày 08/4/2010 của TANDTC tại TPHCM về “tranh chấp HĐTD” giữa nguyên đơn: NHTMCP Việt Nam Thƣơng Tín và bị đơn: hộ bà Phan Ngọc H. Phụ lục 2: Bản án phúc thẩm số 56/2010/KDTM-PT ngày 08/4/2010 của TANDTC tại TPHCM về “tranh chấp HĐTD” giữa nguyên đơn: NHTMCP Việt Nam Thƣơng Tín và bị đơn: bà Trần Thị Hoàng A. và ông Võ Minh T.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftranh chap hop dong ve lai suat.pdf
Tài liệu liên quan