* Để pháp luật được đi vào đời sống đòi hỏi chúng ta phải có được, một đội ngũ cán bộ được trang bị đầy đủ các tri thức pháp luật, có năng lực công tác, hoạt động trong các cơ quan tư pháp. Do đó, chúng ta cần phải tăng cường công tác đào tạo, tổ chức đội ngũ cán bộ toà án. Các thẩm phán phải là những người không những nắm chắc luật mà còn có trình độ nghiệp vụ về các lĩnh vực khác như kinh tế, tài chính kế toán. có như vậy mới có thể xử lý đúng đắn các vụ việc trong đó có vấn đề phá sản. Cụ thể:
- Đào tạo lại các cán bộ toà án chưa có đủ tiêu chuẩn về trình độ khoa học pháp lý, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho các thẩm phán chuyên trách như trình độ khoa học kế toán, kiểm toán, kinh tế.
- Tiến tới thành lập đội ngũ những chuyên gia trong lĩnh vực giải quyết phá sản ở nước ta nhằm tháo gỡ khó khăn trong quá trình giải quyết các vụ việc phá sản, giúp cho cả thẩm phán phụ trách giải quyết phá sản và các doanh nghiệp giải quyết vấn đề này nhanh chóng dễ dàng hơn, góp phần ổn định và phát triển nền kinh tế nước nhà.
54 trang |
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 858 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Trình tự thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyến bố phá sản doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản lý chặt chẽ các khoản chi phí, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Có biện pháp xử lý hàng hoá, sản phẩm, vật tư tồn đọng.
Thu hồi các khoản nợ, tài sản bị chiếm dụng.
Thương lượng với các chủ nợ để hoãn nợ, mua nợ, bảo lãnh nợ, giảm xoá nợ.
Tìm kiếm các khoản tài trợ, các khoản vay để trang trải các khoản nợ đến hạn và đầu tư đổi mới công nghệ.
Như vậy, về thực chất quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản là sự ghi nhận của Toà án sau khi đã điều tra về khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp là doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản và cần được áp dụng thủ tục tố tụng phá sản để giải quyết việc thanh toán giữa doanh nghiệp mắc nợ và các chủ nợ khác.
Trong thực tế kinh doanh, một doanh nghiệp mất khả năng thanh toán thường có những dấu hiệu phụ sau:
- Doanh nghiệp đã không trả được những chi phiếu hay thương phiếu đã ký.
- Doanh nghiêp không thi hành án lệnh trả nợ đã có hiệu lực pháp luật.
Số nợ đến hạn quá cao đối với mức hoạt động của doanh nghiệp, nhất là trong đó số nợ thuế khá nhiều.
Tài sản doanh nghiệp đã bị tịch biên.
Giá bán tài sản của doanh nghiệp có hành vi thanh toán nợ bất hợp pháp.
Doanh nghiệp vay tiền với số lãi suất quá cao.
Doanh nghiệp bán tài sản cầm cố hay tẩu tán tài sản..
Song như vậy không có nghĩa là cứ thấy doanh nghiệp có những dấu hiệu như vậy đã có thể kết luật doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản mà còn phải xem xét các dấu hiệu đó trong mối quan hệ biện chứng với các dấu hiệu khác trước khi ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản.
Quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản phải được đăng báo địa phương nơi doanh nghiệp đặt tru sở chính và báo hàng ngày của Trung ương trong 3 số liên tiếp.
2-2. Thủ tục cử thẩm phán phụ trách việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản và các nhân viên tổ quản lý tài sản.
Điều 15 Luật phá sản doanh nghiệp quy định: Trong quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản phải nêu rõ họ tên của thẩm phản phụ trách việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp và các nhân viên Tổ quản lý tài sản. Tuỳ tính chất của từng việc cụ thể, Chánh án Toà án kinh tế chỉ định một thẩm phán hoặc một tập thể gồm 3 thẩm phá và Tổ quản lý tài sản....
Như vậy việc cử thẩm phán và các nhân viên Tổ quản lý tài sản thuộc về Chánh toà Toà kinh tế. Cụ thể:
* Chánh toà Toà kinh tế có thể chỉ định một hoặc ba thẩm phán phụ trách việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, tuỳ theo từng vụ việc. Trong trường hợp có ba thẩm p0hán thì một người được giao nhiệm vụ phụ trách. Quy chế làm việc của tập thể Thẩm phán do Chánh án Toà án nhân dân tối cao quy định.Thẩm phán phải chịu trách nhiệm trước Chánh án Toà án nhân dân tỉnh về việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình.
Theo điều 17 NĐ 189/CP trước khi mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản Chánh toà Toà kinh tế yêu cầu các cơ quan có liên quan cử người có năng lực, độc lập về kinh tế và pháp lý với các chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ tham gia Tổ quản lý tài sản.
- Thành phần Tổ quản lý tài sản bao gồm:
. Một cán bộ Toà kinh tế Toà án nhân dân cấp tỉnh do Chánh toà Toà kinh tế phân công, làm tổ trưởng.
. Một chấp hành viên Phòng thi hành án do Trưởng phòng thi hành án thuộc Sở Tư pháp cử.
. Chủ nợ có số nợ nhiều nhất hoặc đại diện chủ nợ do Hội nghị chủ nợ cũ.
. Một đại diện của doanh nghiệp mắc nợ do chủ doanh nghiệp hoặc người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp cử.
. Một đại diện công đoàn doanh nghiệp.
. Một đại diện Sở tài chính do Giám đố Sở tài chính cử.
. Một đại diện Ngân hàng Nhà nước cấp tỉnh do Giám đốc Ngân hàng đó cử.
Tuỳ từng trường hợp Chánh toà Toà kinh tế có thể mời thêm một số chuyên gia khác tham gia.
- Tổ quản lý tài sản làm việc theo sự điều hành của Tổ trưởng Tổ quản lý tài sản và chịu sự giám sát của Thẩm phán, Luật phá sản trao cho Thẩm phán và Tổ quản lý tài sản những những nhiệm vụ quyền hạn nhất định. Cụ thể:
- Đối với Thẩm phán: Điều 16 Luật phá sản doanh nghiệp quy định: Trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản thẩm phán có những nhiệm vụ quyền hạn sau:
+ Thu thập tài liệu chứng cứ để lập hồ sơ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
+ Giám sát và kiểm tra hoạt động của các nhân viên Tổ quản lý tài sản.
+ Ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật để bảo toàn tài sản của doanh nghiệp mắc nợ.
+ Tổ chức và chủ trì Hội nghị chủ nợ.
+ Ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản.
+ Tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Thẩm phán là người có quyền triệu tập và chủ trì Hội nghị chủ nợ. Vai trò của Thẩm phán có ý nghĩa quyết định tại Hội nghị chủ nợ. Biên bản hoà giải thành cũng như biên bản Hội nghị đều phải có chữ ký của Thẩm phán. Thẩm phán có quyền ra các quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản trong giai đoạn tiến hành Hội nghị chủ nợ. Tại Hội nghị chủ nợ, Toà án thông qua Thẩm phán đã thể hiện được vai trò trung gian hoà giải, giúp cho các bên chủ nợ và các con nợ thoả thuận được những lợi ích của nhau.
Thẩm phán có quyền ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp trong những trường hợp mà Luật đã quy định tại điều 36. Việc tuyên bố phá sản cũng là một quyền năng thể hiện vai trò, vị trí trung tâm của thẩm phá trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
- Đối với Tổ quản lý tài sản và các nhân viên của tổ: Cũng như Thẩm phán, trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, Tổ quản lý tài sản có những nhiệm vụ và quyền hạn sau:
. Lập bản kê tài sản toàn bộ tài sản của doanh nghiệp.
. Giám sát, kiểm tra việc quản lý tài sản của doanh nghiệp.
. Tập hợp danh sách các chủ nợ và số nợ phải trả của từng chủ nợ.
Như vậy thì việc giám sát kiểm tra của thẩm phán và Tổ quản lý tài sản đối với mọi hoạt động của doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở chỗ kiểm tra giám sát việc thực hiện các quy định này. Vậy còn những hành vi kinh doanh khác của doanh nghiệp như ký kết, thực hiện hợp đồng, bán và tiêu thụ sản phẩm thì chưa đề cập.
2-3. ấn định thời điểm ngừng thanh toán nợ.
Trong khi ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, Chánh toà kinh tế phải ấn định thời điểm ngừng thanh toán nợ và thời điểm này phải được ghi rõ trong quyết định trên. Việc ấn định thời điểm ngừng thanh toán nợ ở đây không có nghĩa là doanh nghiệp mắc nợ không phải trả nợ nữa mà nhằm mục đích bảo đảm sự bình quyền cho các chủ nợ trong việc toán, bảo đảm việc thanh toán diễn ra theo một thủ tục chung đó là thủ tục tố tụng phá sản doanh nghiệp. Việc ấn định thời điểm ngừng thanh toán nợ còn giúp cho mọi tài sản của doanh nghiệp sau thời điểm ngừng thanh toán nợ còn giúp cho mọi tài sản của doanh nghiệp sau thời điểm ngừng thanh toán không bị thất thoát hoặc suy chuyển vì những hành vi trả nợ của doanh nghiệp, giúp cho Tổ quản lý tài sản có thể thực hiện tốt nhiệm vụ kê khai tài sản của doanh nghiệp, bảo vệ các quyền về tài sản của các chủ nợ đối với số tài sản còn lại của doanh nghiệp. Chính vì tính chất quan trọng như vậy mà luật phá sản coi đây là nội dung không thể thiếu trong quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản.
2-4. Việc xây dựng phương án hoà giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiêp.
Trách nhiệm xây dựng thuộc về doanh nghiệp. Theo quy định của điều 20 luật phá sản doanh nghiệp ngay sau khi ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, Thẩm phán phải yêu cầu doanh nghiệp phải xây dựng phương án hoà giải và giải pháp tổ chức lại kinh doanh.
Phương án và giải pháp này phải gửi đến Thẩm phán trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày Thẩm phán yêu cầu. Hết thời hạn này nếu không có phương án hoà giải thì Thẩm phán ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp và tổ chức hội nghị chủ nợ bàn phương án phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày hết hạn gửi giấy đòi nợ, tổ quản lý tài sản phải lập xong bảng kê toàn bộ tài sản.. Bảng kê tài sản và bảng cân đối tài sản phải ghi rõ các loại tài sản, nếu tài sản là đồ vật phải được ghi rõ tên, tình trạng và được định giá (điều 20 NĐ 189/CP).
Tài sản của doanh nghiệp bao gồm:
- Tài sản cố định và tài sản lưu động của doanh nghiệp đang có ở doanh nghiệp.
- Tiền hoặc tài sản góp vốn, liên doanh, liên kết với các cá nhân, doanh nghiệp hoặc tổ chức khác.
- Tiền hoặc tài sản của doanh nghiệp mà cá nhân, tổ chức doanh nghiệp khác nợ hoặc chiếm đoạt.
- Tài sản mà doanh nghiệp đang cho thuê hoặc cho mượn.
- Các quyền về tài sản.
- Tài sản của doanh nghiệp tư nhân còn bao gồm cả tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân không trực tiếp dùng vào hoạt động kinh doanh.
(Điều 19 Luật phá sản doanh nghiệp)
ý nghĩa của việc lập bản kê toàn bộ tài sản của doanh nghiệp:
- Giúp Tổ quản lý tài sản nắm được số tài sản còn lại của doanh nghiệp để quản lý tốt số tài sản còn lại đó, hạn chế việc doanh nghiệp làm thất thoát tài sản của mình bằng những hành vi bất hợp pháp.
- Dựa vào bảng kê tài sản, có thể đối chiếu với số nợ mà doanh nghiệp phải trả (số nợ đến hạn, nợ chưa đến hạn, nợ có bảo đảm và nợ không có bảo đảm) từ đó xác định được khả năng phục hồi cũng như khả năng trả nợ của doanh nghiệp, qua đó đưa ra những cách thức tốt nhất cho phương án phân chia tài sản, dự kiến kế hoạch trả nợ, giúp cho thẩm phán và tổ quản lý tài sản xác định đúng thực trạng của con nợ, giải quyết nhanh chóng vụ việc.
2-6. Việc lập danh sách chủ nợ.
* Nghĩa vụ gửi giấy đòi nợ của các chủ nợ.
Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày đăng báo địa phương và báo hàng ngày của Trung ương về quyết định của Toà án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, các chủ nợ phải gửi giấy đòi nợ đến Toà án (điều 21).
Nội dung đơn đòi nợ: Luật quy định đơn đòi nợ phải ghi rõ số nợ doanh nghiệp phải trả và phân định rõ nợ đến hạn, nợ chưa đến hạn, nợ có bảo đảm và không có bảo đảm, những tài liệu chứng minh về số nợ đó.
* Lập danh sách chủ nợ:
Việc lập danh sách các chủ nợ và số nợ do Tổ quản lý tài sản tiến hành trên cơ sở đơn đòi nợ của các chủ nợ. Luật quy định trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày hết hạn gửi giấy đòi nợ, Tổ quản lý tài sản phải lập xong danh sách chủ nợ.
Nội dung: Bao gồm những nội dung cơ bản sau:
Họ tên, địa chỉ của chủ nợ.
Số nợ của từng chủ nợ, trong đó ghi rõ nợ có bảo đảm, nợ không bảo đảm, nợ đến hạn vànợ chưa đến hạn.
Tổ quản lý tài sản có nhiệm vụ niêm yết danh sách chủ nợ tại trụ sở, các chi nhánh của doanh nghiệp, tại trụ sở Toà án giải quyết phá sản doanh nghiệp. Thời hạn niêm yết là 10 ngày.
* Khiếu nại về danh sách chủ nợ:
Chỉ có chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ mới có quyền khiếu nại về danh sách chủ nợ bởi vì giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản thực chất là giải quyết vấn đề thanh toán giữa các chủ nợ và con nợ. Song đối với các chủ nợ Luật phá sản không quy định rõ các chủ nợ đã gửi giấy đòi nợ hay các chủ nợ không gửi giấy đòi nợ đúng hạn mới thường có nhiều lý do để khiếu nại hơn. Họ khiếu nại với Thẩm phán để được ghi tên vào danh sách chủ nợ, mặc dầu đã quá hạn.
Thẩm phán là người có quyền xem xét khiếu nại và ra quyết định bổ sung hay sửa đổi bổ sung danh sách chủ nợ theo quyết định của Thẩm phán và khoá sổ danh sách chủ nợ. Sau khi khoá sổ danh sách chủ nợ, những chủ nợ không có tên trong danh sách chủ nợ sẽ mất quyền tham gia Hội nghị chủ nợ.
3.Hội nghị chủ nợ.
3-1. Hội nghị chủ nợ- một thủ tục hoà giải bắt buộc trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
ở một số nước trên thế giới Hội nghị chủ nợ không phải là một thủ tục bắt buộc (chẳng hạn ở úc, việc họp Hội nghị chủ nợ là do các chủ nợ quyết định triệu tập nếu xét thấy cần thiết). Theo luật phá sản doanh nghiệp nước ta thì Hội nghị chủ nợ là một giai đoạn không thể thiếu được trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản bởi nếu Hội nghị chủ nợ không được tiến hành thì phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại kinh doanh của doanh nghiệp sẽ không được thông qua và các bên sẽ không nhất trí được với nhau về quyền lợi của mình.
* Nhiệm vụ quyền hạn của Hội nghị chủ nợ:
- Xem xét, thông qua phương án hoà giải tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Thảo luận và kiến nghị với Thẩm phán về việc phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiêp, nếu không có phương án hoà giải hoặc phương án hoà giải không được thông qua.
* Thành viên của Hội nghị chủ nợ.
Điều 25 Luật phá sản doanh nghiệp có quy định: Cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức có tên trong danh sách chủ nợ đều là thành viên của Hội nghị chủ nợ có tên trong danh sách Hội nghị chủ nợ mới có quyền tham gia Hội nghị chủ nợ.
* Tại Hội nghị chủ nợ các bên xem xét phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đưa ra những ý kiến nhằm bảo vệ lợi ích kinh tế của mình. Từ đó đi đến sự thống nhất và thông qua phương án hoà giải của doanh nghiệp.
Trong trường hợp các bên không nhất trí với nhau về việc khôi phục lại doanh nghiệp (doanh nghiệp không đưa ra phương án hoà giải hoặc các bên không thông qua phương án hoà giải) thì đương nhiên là doanh nghiệp sẽ bị tuyên bố phá sản. Khi đó Thẩm phán vẫn phải triệu tập Hội nghị chủ nợ để thảo luận, kiến nghị với Thẩm phán về việc phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp trên cơ sở phương án phân chia và dự kiến kế hoạch trả nợ Tổ quản lý tài sản đã xây dựng.
3-2. Thủ tục tiến hành hội nghị chủ nợ.
Tại hội nghị chủ nợ: Chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp phải trình bày phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, trả lời các vấn đề nêu ra tại hội nghị.
Tại Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất biểu quyết được thông qua khi được quá nửa số chủ nợ đại diện cho ít nhất 2/3 tổng số nợ không có bảo đảm thông qua ( Điều 29 Luật phá sản doanh nghiệp).
Tại hội nghị chủ nợ lần thứ hai biểu quyết được thông qua khi được sự chấp thuận của số chủ nợ đại diện cho ít nhất 2/3 tổng số nợ không có bảo đảm của các chủ nợ có mặt.
Nội dung của Hội nghị chủ nợ phải được ghi chép đầy đủ vào biên bản hội nghị. Biên bản hội nghị phải có chữ ký của Thẩm phán, thư ký, chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp và các chủ nợ có mặt tại hội nghị.
Trong khi tiến hành Hội nghị chủ nợ: Thẩm phán là người triệu tập và chủ trì Hội nghị chủ nợ, là người có quyền quyết định công nhận hay không công nhận biên bản giải thành. Trong giai đoạn này Thẩm phán có quyền ra quyết định đình chỉ hay tạm đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo quy định của điều 31,32 luật phá sản doanh nghiệp. Các quyết định trên đây phải được đăng báo địa phương và báo hàng ngày của Trung ương trong 3 số liên tiếp.
3.3. Trách nhiệm thực hiện những thoả thuận tại Hội nghị chủ nợ.
- Đối với doanh nghiệp mắc nợ:
Doanh nghiệp có trách nhiệm thực hiện các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo đúng kế hoạch và thời hạn đã được thông qua.
Trong quá trình thực hiện các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp không được tiến hành những hành vi mà luật đã nghiêm cấm thực hiện tại điều 18 khoản 2.
- Đối với các chủ nợ: Luật có quy định các chủ nợ phải có nghĩa vụ thực hiện các thoả thuận tại Hội nghị chủ nợ và theo dõi doanh nghiệp thực hiện các thoả thuận đó (Điều 34 luật phá sản doanh nghiệp)
- Trong giai đoạn thực hiện phương án hoà giải này. Thẩm phán có thể ra quyết định đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản nếu doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả thực hiện được các nghĩa vụ của mình theo kế hoạch đã được Hội nghị chủ nợ thông qua và không có khiếu nại của các chủ nợ (Điều 35 Luật phá sản doanh nghiệp)...
Nếu việc hoà giải không thành thì Toà án sẽ đứng ra giải quyết việc thanh toán nợ ở giai đoạn tiếp theo. Nếu hoà giải thành thì Toà án sẽ ghi nhận sự hoà giải đó và kiểm tra giám sát việc thực hiện những thoả thuận đó thông qua hoạt động của Thẩm phán và Tổ quản lý tài sản.
4. Tuyên bố phá sản doanh nghiệp
4.1 Quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp của Thẩm phán là cơ sở pháp lý cần thiết để bắt đầu giai đoạn thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Theo điều 36 Luật phá sản doanh nghiệp, Thẩm phán là người có quyền ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Sau khi xem xét và bảo đảm đầy đủ các cơ sở pháp lý cần thiết. Thẩm phán sẽ ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp trong những trường hợp sau:
. Chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp không có phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại kinh doanh của doanh nghiệp.
. Chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp không thực hiện các quy định tại điều 28 của luật phá sản doanh nghiệp.
. Hội nghị chủ nợ không thông qua phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
. Hết thời hạn tổ chức lại kinh doanh mà doanh nghiệp vẫn kinh doanh không có hiệu quả và các chủ nợ yêu cầu tuyên bố phá sản.
. Trong quá trình giải quyết việc phá sản doanh nghiệp mà chủ doanh nghiệp tư nhân bỏ trốn hoặc chết và người thừa kế từ chối thừa kế hoặc không có người thừa kế.
- Quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp phải có những nội dung sau:
. Tên của Toà án, họ và tên của Thẩm phán giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
. Ngày và số thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
. Tên và địa chỉ của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.
. Ngày tuyên bố phá sản.
. Lý do tuyên bố phá sản.
. Phương án phân chia giá trị tài sản của doanh nghiệp.
Sau khi ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Thẩm phán phải gửi cho các chủ nợ, doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản về Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp quyết định này.
4-2. Cách thức xác định và phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp.
Như chúng ta đã biết, kể từ thời điểm ngừng thanh toán nợ, tất cả các khoản nợ của doanh nghiệp được ngừng thanh toán, kể cả các khoản nợ có bảo đảm. Mọi tài sản của doanh nghiệp được tổ quản lý tài sản thống kê và quản lý. Trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Thẩm phán có quyền ra các quyết định bảo toàn tài sản của doanh nghiệp kể cả đối với các tài sản đã được đem ra bảo đảm (Điều 38 Luật phá sản doanh nghiệp). Theo đó việc thanh toán nợ có bảo đảm được diễn ra dưới sự giám sát của Thẩm phán, theo đúng giá trị của tài sản đã đem ra bảo đảm. Như vậy, giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp bao gồm cả phần chênh lệch giá trị tài sản đem ra bảo đảm sau khi thanh toán nợ có bảo đảm. Trong trường hợp giá trị tài sản thế chấp hay cầm cố không đủ thanh toán số nợ của có bảo đảm thì chủ nợ đó được tham gia vào việc phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp như các chủ nợ không có bảo đảm khác.
Theo điều 39 Luật phá sản doanh nghiệp quy định phương thức phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp theo thứ tự ưu tiên sau:
. Các khoản lệ phí, các chi phí theo quy định của pháp luật cho việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản.
. Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội và các quyền lợi khác theo thoả ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết.
. Các khoản nợ thuế.
. Các khoản nợ cho các chủ nợ trong danh sách chủ nợ.
- Các khoản lệ phí và chi phí phá sản bao gồm:
. Lệ phí Toà án giải quyết việc phá sản - do Toà án quyết định theo quy định của pháp luật về lệ phí.
. Chi phí kê biên, vận chuyển, thu hồi, giám định, bảo quản, tổ chức bán đấu giá tài sản, chi phí cho việc triệu tập và tiến hành Hội nghị chủ nợ.
Chi phí liên quan thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Theo quy định của Luật phá sản doanh nghiệp thì các khoản nợ có bảo đảm của doanh nghiệp sẽ được thanh toán theo nguyên tắc sau: Nếu giá trị tài sản thế chấp, cầm cố không đủ thanh toán số nợ của chủ nợ có bảo đảm thì chủ nợ đó được tham gia vào việc phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp như các chủ nợ không có bảo đảm. Nếu giá trị tài sản thế chấp cầm cố lớn hơn số nợ thì phần chênh lệch được nhập vào giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp.
4-3. Thủ tục khiếu nại và kháng nghị quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
- Quyền khiếu nại và kháng nghị:
. Các chủ nợ và doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản có quyền khiếu nại.
. Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có quyền kháng nghị.
. Đơn khiếu nại và quyết định kháng nghị phải được gửi đến Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao.
- Thời hạn khiếu nại và kháng nghị: trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày có quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Hết hạn này nếu không có khiếu nại hoặc kháng nghị thì quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp có hiệu lực thi hành.
- Trong trường hợp có khiếu nại hoặc kiến nghị việc giải quyết khiếu nại hoặc kháng nghị được tiến hành như sau:
. Trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại hoặc kháng nghị, Thẩm phán đã ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp phải gửi hồ sơ phá sản doanh nghiệp lên Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao.
. Thẩm quyền giải quyết: Do một tập thể Thẩm phán gồm 3 người do Chánh án Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao chỉ định giải quyết.
.Thời hạn giải quyết 60 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ phá sản doanh nghiệp.
. Quyết định của Toà phúc thẩm là thẩm quyền cuối cùng có hiệu lực thi hành.
4-4. Thủ tục thông báo quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp đã có hiệu lực.
Theo điều 41 Luật phá sản doanh nghiệp, việc thông báo quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp có hiệu lực được Thẩm phán tiến hành như sau:
. Đăng báo địa phương và báo hàng ngày của Trung ương trong 3 số liên tiếp về quyết định này. Thời hạn chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày quyết định tuyên bố phá sản có hiệu lực.
- Gửi bản sao quyết định này cho:
Phòng thi hành án thuộc Sở tư pháp.
Các chủ nợ, doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.
Viện Kiểm sát nhân dân, cơ quan tài chính, lao động cùng cấp.
Cơ quan cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp.
- Đối với Phòng thi hành án, phải gửi kèm theo bản sao quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp những tài liệu cần thiết cho việc thi hành. Thẩm phán là người giám sát việc bàn giao tài sản và các giấy tờ tài liệu có liên quan giữa Tổ quản lý tài sản và Tổ thanh toán tài sản.
5.Thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp thuộc thẩm quyền của Phòng thi hành án thuộc Sở tư pháp nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính.
5-1. Để thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp của Thẩm phán chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày ra quyết định thi hành quyết định tuyên bố phá sản, Trưởng phòng thi hành án phải ra quyết định thành lập Tổ thanh toán tài sản.
* Thành phần Tổ thanh toán tài sản gồm:
. Chấp hàng viên làm Tổ trưởng Tổ thanh toán tài sản là một cán bộ Phòng thi hành án do Trưởng phòng thi hành án cử.
. Một đại diện Sở tài chính do Giám đốc Sở tài chính cử.
. Một đại diện Ngân hàng Nhà nước do Giám đốc đó cử.
. Một đại diện chủ nợ là người đã tham gia Tổ quản lý tài sản, nếu quá nửa số chủ nợ không yêu cầu thay thế.
. Một đại diện Công đoàn doanh nghiệp.
. Một đại diện doanh nghiệp bị phá sản do chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp cử.
Trong việc thành lập Tổ thanh toán tài sản, Trưởng phòng thi hành án có quyền:
. Yêu cầu các cơ quan có liên quan cử người thay thế, nếu thấy người đã được cử có thể không khách quan hoặc không đủ năng lực thi hành nhiệm vụ. Chậm nhất 5 ngày, kể từ ngày Trưởng phòng thi hành án yêu cầu, cơ quan có liên quan phải cử người thay thế.
. Giải quyết các yêu cầu của chủ nợ về việc thay đổi đại diện chủ nợ tham gia Tổ thanh toán tài sản, nếu xét thấy yêu cầu của chủ nợ nhằm bảo đảm tính khách quan trong việc thực hiện nhiệm vụ của Tổ thanh toán tài sản.
Như vậy có thể coi Tổ thanh toán tài sản là người đứng ra thay mặt Phòng thi hành án thi hành quyết định tuyên bố phá sản của Toà án. Để đảm bảo cho việc thực hiện tốt quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp Luật phá sản doanh nghiệp trao cho Chấp hành viên và Tổ thanh toán tài sản những nhiệm vụ quyền hạn nhất định. Cụ thể:
- Đối với Chấp hành viên phụ trách thi hành quyết định tuyên bố phá sản, Luật quy định có những nhiệm vụ và quyền hạn sau:
. Ra quyết định thu hồi và bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.
. Thực hiện phương án phân chia tài sản theo quyết định tuyên bố phá sản của Thẩm phán.
. Ra quyết định phong toả các tài khoản của doanh nghiệp bị phá sản ở Ngân hàng, mở tài khoản mới ở Ngân hàng để gửi các khoản tiền thu được từ việc thu hồi các khoản vay của doanh nghiệp phá sản và từ việc bán đấu giá các tài sản của doanh nghiệp phá sản (Điều 43 luật phá sản doanh nghiệp).
- Đối với Tổ thanh toán tài sản: Điều 44 Luật phá sản doanh nghiệp có quy định:
. Nhận bàn giao tài sản, các giấy tờ, tài liệu có liên quan từ Tổ quản lý tài sản.
. Thu hồi và quản lý cả tài sản, giấy tờ, sổ sách kế toán và con dấu của doanh nghiệp phá sản.
. Phát hiện và yêu cầu chấp hành viên cho thu hồi lại tài sản của doanh nghiệp hoặc giá trị tài sản hay phần chênh lệch giá trị tài sản của doanh nghiệp đã bán hoặc chuyển giao bất hợp pháp.
. Theo quyết định của chấp hành viên, Tổ thanh toán tài sản tổ chức việc bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp.
. Gửi tất cả các khoản thu được của doanh nghiệp vào tài khoản mới mở ở Ngân hàng.
. Thực hiện phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp theo quyết định của Thẩm phán.
5-2. Thủ tục nhận bàn giao tài sản từ Tổ quản lý tài sản:
Thủ tục và bàn giao được tiến hành như sau: Trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày có quyết định thành lập Tổ thanh toán tài sản, Tổ quản lý tài sản phải bàn giao toàn bộ tài sản, tài liệu giấy tờ cho tổ thanh toán tài sản. Có thể bàn giao toàn bộ hoặc chi tiết từng tài sản của doanh nghiệp phá sản. Khi bàn giao phải lập biên bản. Đối với từng trường hợp tài sản bị hư hỏng, mất mát, phải lập biên bản riêng cho từng trường hợp cụ thể và ghi rõ lý do, trách nhiệm cá nhân về việc hư hỏng mất mát. Mọi biên bản bàn giao phải có chữ ký của Thẩm phán, tổ trưởng Tổ quản lý tài sản và tổ trưởng Tổ thanh toán tài sản.
5-3. Thủ tục thu hồi và bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp phá sản.
* Thu hồi tài sản:
Việc thu hồi do Tổ thanh toán tài sản tiến hành trên cơ sở quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, quyết định thi hành quyết định tuyên bố phá sản căn cứ vào biên bản bàn giao toàn bộ và chi tiết từng tài sản. Việc thu hồi phải có quyết định thu hồi của Tổ trưởng Tổ thanh toán. Đối với những tài sản của doanh nghiệp đang do người khác nắm giữ, nếu có tranh chấp xảy ra thì Tổ trưởng Tổ thanh toán tài sản có quyền yêu cầu Thẩm phán ra quyết định thu hồi lại tài sản đó.
Trước khi thu hồi lại tài sản hoặc phần chênh lệch giá trị tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. Tổ thanh toán tài sản phải xuất trình quyết định của Toà án, giải thích lý do thu hồi cho đương sự biết. Những tranh chấp về thu hồi lại tài sản hay phần chênh lệch giá trị tài sản của doanh nghiệp do Toà án giải quyết.
* Bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp:
Tổ thanh toán tài sản có nhiệm vụ tổ chức việc bán đấu giá các tài sản của doanh nghiệp theo quyết định của Tổ trưởng Tổ thanh toán tài sản.
Việc bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp phải có công chứng Nhà nước chứng nhận. Nếu tài sản bán đấu giá là thiết bị đồng bộ thì phải bán đồng bộ, trừ khi không bán được đồng bộ thì mới bán thiết bị lẻ. Việc tổ chức bán đấu giá phải theo đúng quy định của quy định của pháp luật. Đối với các tài sản là vật hạn chế hoặc cấm lưu thông trên thị trường phải tuân theo các quy định có liên quan của Nhà nước.
5-4. Việc mở tài khoản phá sản doanh nghiệp tài Ngân hàng và phân chia tài sản còn lại của doanh nghiệp.
* Việc mở tài sản khoản phá sản ở Ngân hàng được thực hiện như sau:
. Chấp hành viên ra quyết định phong toả các tài khoản của doanh nghiệp ở các Ngân hàng.
. Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày có quyết định thành lập Tổ thanh toán tài sản, chấp hành viên phải mở tài khoản phá sản doanh nghiệp ở Ngân hàng và làm chủ tài khoản đó.
. Toàn bộ các khoản tiền thu được của doanh nghiệp phá sản phải gửi vào tài khoản này chậm nhất là sau 3 ngày, kể từ ngày thu. Nếu chậm gửi sẽ phải chịu phạt chậm gửi theo mức lãi xuất cao nhất do Ngân hàng Nhà nước quy định trong từng thời kỳ để áp dụng trong quan hệ cho vay giữa Ngân hàng Thương mại với các tổ chức kinh tế.
* Việc phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp.
Căn cứ vào phương án phân chia ghi trong quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp và căn cứ vào thứ tự ưu tiên thanh toán, Chấp hành viên là Tổ trưởng Tổ thanh toán tài sản phải lập phương án quyết định trước khi thực hiện.
Trường hợp các chủ sở hữu tài sản cho doanh nghiệp thuê hoặc mượn để dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh, Luật phá sản doanh nghiệp có quy định: Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày tuyên bố phá sản, các chủ sở hữu tài sản này phải xuất trình giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, hợp đồng cho thuê hoặc mượn với Chấp hành viên để nhận lại tài sản của mình. Trong trường hợp doanh nghiệp đã trả cước tiền thuê mà chưa hết hạn thuê, chủ sở hữu chỉ được nhận lại tài sản sau khi đã thanh toán tiền thừa để tổ thanh toán tài sản nạp vào tài sản còn lại của doanh nghiệp.
5-5. Thủ tục khiếu nại và chấm dứt việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản.
Theo quy định của pháp luật thì chậm nhất là 7 ngày kể từ ngày thanh toán hết tài sản phá sản.
Sau thời hạn 15 ngày, kể từ ngày báo cáo được niêm yết mà không có ai khiếu nại thì Trưởng phòng thi hành án ra quyết định chấm dứt việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp và kết thúc hoạt động của Tổ thanh toán tài sản.
Trong quá trình thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, các đương sự có quyền khiếu nại đến Trưởng phòng thi hành án. Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhận đơn, Trưởng phòng thi hành án phải xem xét, giải quyết và trả lời khiếu nại. Nếu không đồng ý với quyết định của Trưởng phòng thi hành án thì đương sự có quyền khiếu nại lên Cục trưởng Cục quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư Pháp. Trong thời hạn 30 ngày nhận được đơn khiếu nại, Cục trưởng Cục quản lý thi hành án dân sự phải ra một trong những quyết định sau đây:
. Giữ nguyên quyết định của Trưởng phòng thi hành án.
. Huỷ quyết định bị khiếu nại và giao cho Trưởng phòng thi hành án giải quyết lại.
Chương III
Những đánh giá và kiến nghị
1. Những đánh giá chung.
Qua việc nghiên cứu những quy định của luật phá sản doanh nghiệp về trình tự thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản trên đây, chúng ta có thể nói rằng pháp luật phá sản của Việt nam đã kết hợp một cách hài hoà giữa các nguyên chung của pháp luật quốc tế về phá sản với tính đặc thù của hệ thống pháp luật trong nước. Hay nói một cách khác là nó mang cả tính thời đại và tính dân tộc. Điều này được thể hiện qua những nét cơ bản sau:
* Hầu hết pháp luật phá sản ở các quốc gia trên thế giới đều cho rằng giải quyết phá sản về thực chất là việc một cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra quyết định tuyên bố chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp và nhân đó bán tài sản còn lại để thanh toán cho chủ nợ theo một thứ tự và tỷ lệ nhất định. Có thể nói việc tuyên bố phá sản là một hành vi pháp lý hệ trọng, kéo theo nhiều hậu quả cho con nợ và những người lao động trong doanh nghiệp. Vì thế pháp luật phá sản của nước nào cũng dành sự quan tâm hàng đầu cho việc đề ra các điều kiện để tuyên bố một doanh nghiệp phá sản.
* Phá sản là một hiện tượng kinh tế xã hội phức tạp gây hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt cho nhiều người. Cho nên trong quá trình giải quyết các vụ phá sản, pháp luật phá sản của các nước đều quan tâm tới việc quy định quyền và nghĩa vụ của những người tham gia vụ việc.
- Trước hết pháp luật phá sản của các nước đều quy định cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc phá sản và tuyên bố phá sản là một cơ quan tài phán thực sự, đó là Toà án. Tên gọi của cơ quan này ở mỗi nước mỗi khác, do cơ cấu chức năng và hệ thống cơ quan toà án ở nước có sự khác biệt. Cụ thể ở Mỹ, Thuỵ Điển, úc có toà chuyên trách là toà phá sản, ở Nga có toà trọng tài, ở Pháp và một số nước châu âu có Toà Thương mại, ở Trung Quốc thẩm quyền giải quyết lại thuộc về Tòa án dân sự. Còn ở nước ta, cơ quan tài phán có thẩm quyền giải quyết các vụ phá sản là Toà án kinh tế nằm trong Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Toà án nhân dân tối cao.
- Trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản, vấn đề đầu tiên đặt ra ai là người có thẩm quyền làm đơn yêu cầu tuyên bố phá sản? Xuất phát từ quan điểm cho rằng quan hệ phá sản về thực chất là mối quan hệ tài sản giữa các chủ nợ và con nợ, cho nên pháp luật phá sản của các nước đều quy định, các chủ nợ và con nợ là các chủ thể đầu tiên có quyền này. Ngoài ra, để bảo vệ lợi ích của người lao động, Pháp luật phá sản cũng cho phép người lao động trong doanh nghiệp có quyền này. Điều 7, 8, 9 Luật phá sản doanh nghiệp nước ta cũng quy định ba đối tượng trên có quyền yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Riêng đối với người lao động trong doanh nghiệp quyền làm đơn của họ được thực hiện thông qua đại diện Công đoàn hoặc đại diện người lao động nơi chưa có Công đoàn trong trường hợp doanh nghiệp nợ tiền lương của họ trong 3 tháng liên tiếp.
Cũng như pháp luật phá sản của các nước khác trên thế giới, Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam cũng quy định các hành vi nghiêm cấm con nợ thực hiện như tẩu thoát, tẩu tán làm thất thoát tài sản; quy định Tổ quản lý tài sản là người có quyền giám sát kiểm tra việc quản lý tài sản và mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động của các nhân viên Tổ quản lý tài sản đều chịu sự kiểm tra giám sát của thẩm phán phụ trách vụ phá sản. Vấn đề thi hành tuyên bố phá sản doanh nghiệp ở nước ta cũng được xử lý theo thông lệ quốc tế, được giao cho Tổ thanh toán tài sản do Trưởng phòng thi hành án thuộc Sở Tư Pháp thành lập. Đây là cơ quan nằm ngoài hệ thống xét xử là Toà án, có chức năng thi hành các quyết định và bản án của Toà án.
* Trong quá trình tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước, Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam vẫn giữ được những nét đặc thù.
Trong quá trình tham gia vụ phá sản vấn đề quy định vị pháp lý của các chủ thể tham gia đều được pháp luật phá sản của các nước quan tâm. Theo luật phá sản doanh nghiệp thì nhân vật trung tâm của vụ phá sản là Toà án mà thẩm phán được phân công giải quyết là người đại diện. Thẩm phán quyết định thành phần Tổ quản lý tài sản, trong đó có đại diện chủ nợ, thành lập và chỉ đạo hoạt động của Tổ quản lý tài sản. Còn theo thông lệ quốc tế, trong số các chủ thể tham gia vụ phá sản là Thẩm phán. Tổ quản lý tài sản. Hội nghị chủ nợ, Tổ thanh toán tài sản thì Hội nghị chủ nợ giữ vị trí trung tâm. Xuất phát từ quan điểm, giải quyết việc phá sản thực chất là giải quyết mối quan hệ tài sản giữa con nợ và các chủ nợ, do đó Hội nghị chủ nợ phải có vai trò quyết định tất cả các vấn đề liên quan đến vụ phá sản chứ không phải là ai khác. Chính các chủ nợ là người có quyền cử đại diện của mình tham gia Tổ quản lý tài sản, chính họ là người thông qua hay không thông qua phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Toà án chỉ là người nhân danh Nhà nước đứng ra làm trung gian giữa chủ nợ và con nợ nhằm giúp họ đạt được sự thoả thuận trong việc giải quyết vụ phá sản mà thôi. Như vậy, pháp luật phá sản Việt Nam đã giải quyết vấn đề này một cách đặc thù không thông lệ đó. Theo Luật phá sản doanh nghiệp thì Hội nghị chủ nợ cũng được quy định cho nhiều quyền hạn trong đó có quyền xem xét thông qua phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức hoạt động kinh doanh, quyền đề xuất với thẩm phán phương án phân chia tài sản còn lại của doanh nghiệp mắc nợ (điều 24). Cái đặc thù của Luật phá sản doanh nghiệp nước ta ở đây là: Không phải mọi vấn đề được Hội nghị chủ nợ thông qua là có hiệu lực pháp luật mà phải có quyết định công nhận của thẩm phán. Theo điều 33 thì phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại doanh nghiệp được Hội nghị chủ nợ thông qua chỉ có được giá trị pháp lý sau khi được thẩm phán công nhận. Theo điều 24 khoản 2 thì Hội nghị chủ nợ chỉ có quyền xem xét và kiến nghị với thẩm phán mà không có quyền quyết định phương án phân chia tài sản còn lại của doanh nghiệp. Quyền này thuộc thẩm quyền của thẩm phán (điều 37).
2. Những kiến nghị.
2.1- Cần phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật về phá sản:
* Thứ nhất: Về phạm vi áp dụng luật phá sản doanh nghiệp:
Như chúng ta đã biết, việc kinh doanh có thể do một người hoặc một tập thể người (tổ chức) tiến hành. Khi cá nhân kinh doanh tuỳ thuộc vào số vốn đầu tư ít hay nhiều mà họ có tên gọi khác nhau. Nếu người đó có vốn đầu tư ban đầu bằng hoặc cao hơn vốn pháp định thì được gọi là doanh nghiệp tư nhân và hoạt động theo luật doanh nghiệp tư nhân. Còn nếu người đó có vốn đầu tư thấp hơn vốn pháp định thì lại được gọi là cá nhân kinh doanh và hoạt động theo NĐ 66/HĐBT ngày 2 tháng 3 năm 1992. Việc doanh nghiệp tư nhân và các cá nhân kinh doanh nợ lẫn nhau là chuyện bình thường. Nhưng theo luật phá sản doanh nghiệp thì chỉ có doanh nghiệp tư nhân mới có thể bị tuyên bố phá sản còn các cá nhân kinh doanh thì lại không. Một thực tế xảy ra là khi doanh nghiệp tư nhân không trả được món nợ cho các chủ nợ (trong đó có các cá nhân kinh doanh) thì các cá nhân kinh doanh có quyền yêu cầu toà án tuyên bố phá sản doanh nghiệp và thanh toán theo thủ tục tố tụng phá sản. Còn ngược lại, khi cá nhân kinh doanh nợ doanh nghiệp tư nhân mà không trả được nợ thì không bị giải quyết theo thủ tục phá sản. Sau khi kết thúc phá sản doanh nghiệp, việc thanh toán nợ đã được tiến hành trên cơ sở số tài sản còn lại của doanh nghiệp thì con nợ đã coi như được xoá bỏ các khoản nợ chưa thanh toán hết. Nhưng đối với các cá nhân kinh doanh việc thanh toán nợ còn kéo dài cho đến khi trả đủ số nợ.
Rõ ràng đây là vấn đề mà chúng ta cần phải quan tâm giải quyết, làm thế nào để đảm bảo được quyền bình đẳng của các cơ sở sản xuất kinh doanh mà Hiến pháp 1992 đã ghi nhận:
Nên chăng pháp luật phá sản của chúng ta cần phải mở rộng hơn phạm vi đối tượng áp dụng luật phá sản cho cả cá nhân kinh doanh? Nói cách khác là pháp luật phá sản của nước ta cần quan tâm đến cả việc giải quyết phá sản cá nhân như pháp luật của nhiều nước trên thế giới.
* Thứ hai: về các quy định của pháp luật phá sản trong quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp:
Trong quá trình giải quyết các vụ việc phá sản doanh nghiệp, các bên tham gia có nghĩa vụ tuân thủ những quy định của pháp luật phá sản theo trình tự thủ tục tố tụng nhất định. Khi nghiên cứu xem xét các quy định của Luật phá sản doanh nghiệp về trình tự thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, chúng ta thấy rằng luật đã quy định khá rõ ràng đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vụ việc phá sản như nhiệm vụ quyền hạn của thẩm phán (được quy định tại điều 6) của Tổ quản lý tài sản (điều 17) của Hội nghị chủ nợ (điều 24) của Tổ thanh toán tài sản (điều 44) và của từng chủ thể riêng biệt trong từng giai đoạn áp dụng thủ tục tố tụng phá sản như các chủ nợ, con nợ, người lao động...
Song để các chủ thể này thực hiện tốt những quyền và nghĩa vụ đó, pháp luật phá sản phải có những quy định cụ thể, chi tiết hoá hơn nữa các quy định chung nhất mà luật phá sản doanh nghiệp đã đề cập. Để thực hiện được điều này, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần phải sớm ban hành các văn bản pháp quy hướng dẫn việc áp dụng đúng những quyền năng mà trong quá trình tham gia giải quyết phá sản doanh nghiệp. Bản thân các văn bản pháp quy này phải là sự giải thích cụ thể những vấn đề khúc mắc trong quá trình áp dụng và thực hiện luật. Chẳng hạn như vấn đề mất quyền đòi nợ, các món nợ có người bảo lãnh, việc thanh toán các món nợ có bảo đảm có ảnh hưởng gì đến quyền lợi của các bên trong quan hệ chủ nợ và con nợ? Nếu phát sinh vấn đề này thì thẩm phán sẽ xử lý và giải quyết như thế nào?
Cần phải làm sáng tỏ thêm những vấn đề mà luật quy định chưa rõ ràng như vấn đề thực hiện tiếp các hợp đồng đã ký kết sau khi mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản hoặc vấn đề tính tiền phạt vì chậm thanh toán hoặc không thi hành đúng hợp đồng hoặc tiền phạt vi phạm pháp luật (như: buôn lậu, vi phạm chất lượng hàng hoá, hoạt động không đúng giấy tờ đăng ký,...) sau khi mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Pháp luật phá sản cũng phải có những quy định rõ ràng cụ thể hơn về trách nhiệm của những chủ thể nhất định có liên quan đến vụ việc phá sản; chẳng hạn như vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những hành vi vi phạm những quy định trong Luật phá sản doanh nghiệp (điều 49), trách nhiệm hình sự của những nhà lãnh đạo doanh nghiệp, truy cứu trách nhiệm tài chính của giám đốc doanh nghiệp. Các quy định về vấn đề chuyển nhượng thuê khoán cơ sở sản xuất của doanh nghiệp bị phá sản...
2-2. Hạn chế những ảnh hưởng xấu của các vụ việc phá sản đối với các mặt đời sống kinh tế xã hội nước ta.
* Về mặt xã hội: Như chúng ta đã biết, phá sản là một hiện tượng kinh tế xã hội phức tạp, nó để lại những hậu quả đáng kể trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Trước hết vấn đề thất nghiệp là một hiện tượng dễ thấy nhưng khó giải quyết ở mọi quốc gia. Một khi doanh nghiệp bị phá sản thì người lao động trong doanh nghiệp sẽ bị thất nghiệp và như vậy số lượng người thất nghiệp trong xã hội đã nhiều lại càng tăng thêm.
Luật phá sản doanh nghiệp có quy định đối với người lao động trong doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản, tiền lương của họ là khoản nợ được ưu tiên thanh toán so với các khoản nợ khác. Có thể hiểu rằng các khoản nợ lương ở đây bao gồm cả tiền công (lương tháng), tiền thưởng và các khoản trợ cấp khác. Song luật cũng chưa có những quy định rõ về các khoản thanh toán khác mà doanh nghiệp lẽ ra phải trả như tiền trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tìm lại việc làm và đào tạo lại nghề nghiệp, các khoản chi trả bảo hiểm ... Vấn đề này cần được các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật phá sản doanh nghiệp quy định cụ thể, có như vậy mới bảo đảm được quyền lợi của người lao động.
Nhà nước cần phải có những chính sách hỗ trợ, giúp đỡ họ trong việc ổn định việc làm hoặc giải quyết tìm kiếm việc làm mới. Chẳng hạn như quy định việc chuyển quyền sở hữu từng phần (toàn bộ) doanh nghiệp bị phá sản (sau khi bán đấu giá, thanh lý...) vào doanh nghiệp khác phải kèm theo một số lượng nhất định người lao động ở doanh nghiệp cũ; Thành lập và mở rộng quy mô hoạt động của các công ty xúc tiến việc làm. Đối với các công ty này Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi để họ phát triển.
* Đối với bản thân từng doanh nghiệp : Hậu quả của một vụ phá sản còn ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển của nhiều doanh nghiệp khác. Đây là những doanh nghiệp bạn hàng có quan hệ làm ăn với doanh nghiệp bị phá sản (có thể là người cung cấp vật tư nguyên liệu, có thể là người tiêu thụ sản phẩm cho doanh nghiệp). Khi doanh nghiệp bị phá sản thì những doanh nghiệp bạn hàng cũng bị ãnh hưởng xấu theo kiểu dây chuyền, có khi dẫn tới lâm vào tình trạng phá sản bởi các món nợ trong khinh doanh thường rất lớn và kéo dài... Phá sản trong kinh doanh chính là những hiện tượng rủi ro trong kinh doanh do nhiều nguyên nhân đem lại . Chính vì vậy mà nhà nước cần có những biện pháp hạn chế rủi ro trong kinh doanh, làm lành mạnh thương trường, tránh những hiện tượng “con sâu bỏ rầu nồi canh”.
Để thực hiện được điều này, trước hết bản thân mỗi doanh nghiệp khi thành lập và hoạt động phải xác định được cho mình một chiến lược kinh doanh thích hợp, cần phải quan tâm tới thị trường, nắm bắt được những thị hiếu, những biến động không ngừng của thị trường sau đó mới lao vào “cuộc đấu” trên thương trường. Thực tiễn cho thấy phần lớn các doanh nghiệp hiện nay chưa có chiến lược phát triển lâu dài, kể cả các doanh nghiệp có mục tiêu rõ ràng, có chăng cũng chỉ là mục đích định hướng, chưa có phưong án cụ thể.
Nhà nước cần hỗ trợ những thông tin cần thiết để giúp doanh nghiệp định hướng chiến lược của mình cũng như ổn định các chính sách chế độ đối với doanh nghiệp trong những thời kỳ nhất định.
*Về mặt quản lý nhà nước: Trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước hiện nay đòi hỏi nhà nước phải có được một hệ thống pháp luật đầy đủ và đồng bộ, tăng cường các biện pháp quản lý kinh tế, kiểm tra giám sát việc thi hành pháp luật, ngăn ngừa những hành vi sai trái trong kinh doanh.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời gian qua, nhiều luật lệ kinh tế ra đời. Chúng ta đã có một số bộ luật cơ bản làm cơ sở hoạt động cho các thành phần kinh tế như Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật đầu tư nước ngoài, Luật doanh nghiệp nhà nước, luật thương mại... Tuy vậy do với yêu cầu thực tế, luật pháp nước ta chưa đồng bộ, bản thân một số luật hiện hành cũng chưa hoàn thiện, còn nhiều kẽ hở. Nhiều người đã lợi dụng những kẽ hở này để hoạt động phi pháp. Hiện tượng chiếm dụng vốn của Nhà nước, nạn buôn lậu, tham nhũng còn diễn ra nhiều. Hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế nói chung và pháp luật phá sản nói riêng là yêu cầu cần thiết. Trong những năm tới đây, chúng ta cần phải xây dựng Bộ luật Thương mại để điều chỉnh các hành vi kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trên thị trường, có như vậy mới tạo ra được tính thống nhất trong khi áp dụng luật, bảo đảm sự bình đẳng của các doanh nghiệp, boả đảm sự cạnh tranh lành mạnh tránh hiện tượng đưa nhau đến sự sụp đổ trong kinh doanh.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh nghiệp luôn có nhu cầu về vốn. Giữa các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng ngân hàng luôn luôn tồn tại những quan hệ đi vay, quan hệ tài khoản gửi nhất định. Một khi doanh nghiệp bị phá sản thì hậu quả của nó ảnh hưởng không phải là nhỏ đối với thị trường vốn và các quan hệ tín dụng khác. Để hạn chế những ảnh hưởng này Nhà nước cần phải có những chính sách tài chính năng động thích ứng với cơ chế thị trường. Trước hết đối với từng doanh nghiệp, Nhà nước cần phải có những quy định chặt chẽ, tăng cường công tác quản lý vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Muốn hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải có đủ vốn (cố định và lưu động). Nhà nước phải căn cứ vào tình hình thực tế trong từng lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà có những quy định phù hợp về mức vốn pháp định, tỷ lệ vốn cố định và vốn lưu động... tránh tình trạng vốn cố định thì lớn nhưng vốn lưu động lại quá ít - là nguyên nhân gây ra hiện tượng vay vốn, chiếm dụng vốn tràn lan ở các doanh nghiệp. Nhà nước cần phải khẳng định và ghi nhận vai trò quan trọng của ngân hàng trong qúa trình thành lập và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ việc vay vốn đầu tư cho đến tiếp nhận vốn điều lệ trong thủ tục thành lập doanh nghiệp... Tăng cường trách nhiệm của ngân hàng và các tổ chức tín dụng đối với hành vi vay vốn của doanh nghiệp có nghĩa là Nhà nước có thể quản lý được hiện trạng kinh doanh của các doanh nghiệp từ đó có những biện pháp kịp thời hạn chế tình trạng đổ vỡ, suy sụp trong kinh doanh chẳng hạn như hỗ trợ vốn đầu tư, cho vay với lãi suất thấp... Song qua đó Nhà nước cũng cần phải loại bỏ ngay những doanh nghiệp quá yếu kém, không đủ sức thoát khỏi tình trạng phá sản để hạn chế những ảnh hưởng của nó tới các doanh nghiệp khác.
2-3. Đảm bảo tính khả thi của Luật phá sản doanh nghiệp.
* Trước hết để đảm bảo tính khả thi của luật phá sản doanh nghiệp chúng ta phải tăng cường công tác giải thích pháp luật. Loại bỏ các doanh nghiệp không thể kinh doanh có lãi thực chất là hệ quả tất yếu của sự cạnh tranh. Tuy nhiên ở nước ta hiện nay tâm lý chung cho hiện tượng này là một vấn đề bất thường của nền kinh tế. Sự hiểu biết của nhân dân nói chung và của các nhà doanh nghiệp nói riêng về vấn đề này chưa nhiều. Do đó cần phải tiến hành công tác giải thích pháp luật mạnh hơn nữa nhằm đưa pháp luật vào đời sống. Cụ thể là:
- Ban hành các văn bản pháp quy hướng dẫn, giải thích việc thực hiện và áp dụng luật phá sản doanh nghiệp.
- Tích cực phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng việc thi hành áp dụng pháp luật phá sản. Tăng cường công tác giáo dục ý thức chấp hành pháp luật trong đời sống nhân dân, nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật nói chung và pháp luật về kinh tế nói riêng cho các nhà doanh nghiệp.
- Tăng cường công tác trả lời, giải đáp những thắc mắc của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp về vấn đề thi hành và áp dụng Luật phá sản doanh nghiệp.
* Để pháp luật được đi vào đời sống đòi hỏi chúng ta phải có được, một đội ngũ cán bộ được trang bị đầy đủ các tri thức pháp luật, có năng lực công tác, hoạt động trong các cơ quan tư pháp. Do đó, chúng ta cần phải tăng cường công tác đào tạo, tổ chức đội ngũ cán bộ toà án. Các thẩm phán phải là những người không những nắm chắc luật mà còn có trình độ nghiệp vụ về các lĩnh vực khác như kinh tế, tài chính kế toán... có như vậy mới có thể xử lý đúng đắn các vụ việc trong đó có vấn đề phá sản. Cụ thể:
- Đào tạo lại các cán bộ toà án chưa có đủ tiêu chuẩn về trình độ khoa học pháp lý, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho các thẩm phán chuyên trách như trình độ khoa học kế toán, kiểm toán, kinh tế....
- Tiến tới thành lập đội ngũ những chuyên gia trong lĩnh vực giải quyết phá sản ở nước ta nhằm tháo gỡ khó khăn trong quá trình giải quyết các vụ việc phá sản, giúp cho cả thẩm phán phụ trách giải quyết phá sản và các doanh nghiệp giải quyết vấn đề này nhanh chóng dễ dàng hơn, góp phần ổn định và phát triển nền kinh tế nước nhà.
Tài liệu tham khảo
Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam năm 1993.
Luật phá sản Trung Quốc năm 1986.
Một số quy định của pháp luật phá sản các nước.
Hệ thống hoá các văn bản pháp luật về giải thể và phá sản doanh nghiệp.
Nghị định 189/CP ngày 23 tháng 12 năm 1994.
Tạp chí Luật học- Trường Đại học Luật Hà Nội 1995.
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật năm 1995.
Tạp chí Ngân hàng năm 1994, 1995, 1996.
Tạp chí kinh tế và dự báo năm 1995, 1996.
Khánh tận, Phá sản và tư pháp thanh toán tài sản trang 1089 đến 1383, Luật Thương mại Việt Nam dẫn giải Nguyễn Tài Triển 1973.
Phá sản và xử lý phá sản ở các nước và Việt Nam - Phó tiến sỹ Hoàng Công Thi 1993.
Chuyên đề về luật phá sản của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý 1993.
Một số quy định về luật phá sản của Việt Nam - Nguyễn Thị Bích Vân - PTS Luật học.
Phá sản doanh nghiệp một số vấn đề thực tiễn - Luật sư Nguyễn Tiến Hơn - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia năm 1995.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV584.doc