Thứ tư, thông qua chương trình ưu đãi thuế cho các hoạt động nghiên cứu
và triển khai, trong giai đoạn 2014-2015, Chính phủ Australia đã trợ giúp
cho hơn 13.000 doanh nghiệp với hơn 2,4 tỷ AUD tiền hỗ trợ thuế đối với
các dự án nghiên cứu triển khai đủ tiêu chuẩn. Vì vậy, Chính phủ Việt Nam
cần xây dựng các chính sách để giảm bớt các rào cản vốn, tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp start-up được tiếp cận vốn đầu tư.
Thứ năm, Việt Nam cần hoàn thiện hệ thống pháp luật dành cho khởi
nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khởi nghiệp. Các chính sách có
ảnh hưởng lớn đến quá trình khởi nghiệp của cả quốc gia, có khả năng lấp
đầy khoảng trống mà khu vực tư nhân không thể vượt qua, đem lại công cụ
hỗ trợ hiệu quả cho start-up. Nếu như Australia đang thực hiện hàng loạt
các cải cách nhằm khuyến khích các nhà đầu tư và các doanh nghiệp khởi
nghiệp bằng cách đưa ra các ưu đãi về thuế cho các hoạt động NC&PT và
cải cách luật phá sản thì Chính phủ Việt Nam vẫn chưa đưa ra các chính
sách cụ thể để đảm bảo quyền lợi và bảo vệ cho các doanh nghiệp khởi
nghiệp.
Cuối cùng, Việt Nam cần tăng cường các mối quan hệ hợp tác với các nước
phát triển trên thế giới về mô hình khởi nghiệp và chiến lược khởi nghiệp.
Nhà nước cần có các cơ chế thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thu hút các quỹ
đầu tư rót vốn vào các dự án khởi nghiệp. Việt Nam cần quan tâm đến chất
lượng và hiệu quả của các dự án FDI hơn là chú trọng quá nhiều tới GDP,
phụ thuộc vào các lợi thế có sẵn như lao động rẻ, tài nguyên, điều kiện tự
nhiên,. Để thu hút FDI lâu dài, Nhà nước cần mạnh tay hơn trong việc cải
cách hành chính, xóa bỏ các thủ tục hành chính rườm rà, tạo thông thoáng
trong cơ chế và chính sách đầu tư.
18 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 274 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo kinh nghiệm từ Australia, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO
KINH NGHIỆM TỪ AUSTRALIA
Dương Hồng Anh1
Văn phòng Đại diện Khoa học công nghệ tại Canberra, Australia
Hoàng Minh Thúy
Văn phòng các chương trình KH&CN Quốc gia, Bộ KH&CN
Tóm tắt:
Bài viết nghiên cứu về thực trạng hệ sinh thái khởi nghiệp tại Australia và các chương
trình hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp của chính phủ Australia (Quỹ đổi mới CSIRO,
Chương trình Doanh nhân, Quỹ phát triển thị trường xuất khẩu). Tìm hiểu về hình thức
huy động vốn (Khả năng huy động vốn từ cộng đồng), các loại hình đầu tư (khóa tăng tốc
khởi nghiệp, các vườn ươm khởi nghiệp, các nhà đầu tư thiên thần và các nhà đầu tư mạo
hiểm) và cái cách các chính sách pháp lý (ưu đãi thuế, chính sách bảo vệ doanh nghiệp khi
phá sản) do chính phủ Australia đề ra nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới
sáng tạo. Từ đó, đề xuất các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng quốc
gia khởi nghiệp.
Từ khoá: Hệ sinh thái khởi nghiệp; Đổi mới sáng tạo; Australia.
Mã số: 17110901
1. Mở đầu
Khi nền kinh tế toàn cầu đang thay đổi từng ngày, Chính phủ Australia đã
nhận ra những thách thức và khó khăn mà đất nước sẽ gặp phải nếu như
không có những nhìn nhận nghiêm túc về thế mạnh của mình, cũng như đưa
ra những hướng đi phù hợp cho tương lai. Trong tuyên bố đổi mới của
chính phủ Liên bang, Thủ tướng Australia Malcolm Turnbull đã cho biết,
Chính phủ cam kết sẽ đầu tư 1,1 tỷ đôla Australia (AUD) trong vòng 04
năm, giai đoạn từ 2016-2020, để thúc đẩy hoạt động đổi mới, phát triển,
nghiên cứu. Trong đó, 200 triệu AUD để thành lập một quỹ đổi mới dành
cho các doanh nghiệp áp dụng và phát triển công nghệ từ Tổ chức Nghiên
cứu Khoa học và Công nghiệp Liên bang (CSIRO) và các trường đại học
của Australia.
Hệ sinh thái khởi nghiệp ở Australia đang trong giai đoạn tăng trưởng mạnh
mẽ. Trong giai đoạn 2014-2016, khởi nghiệp nhận được sự quan tâm mạnh
mẽ từ Chính phủ và cả cộng đồng trong các bước phát triển, cũng như khả
1 Liên hệ tác giả: anhdh.17@gmail.com
98
năng nâng cao chất lượng của các doanh nghiệp start-up. Kết quả việc tập
trung cơ hội để phát triển cơ sở hạ tầng mềm nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp
start-up - bao gồm xây dựng các vườn ươm, các khóa tăng tốc khởi nghiệp,
không gian làm việc chung, và vốn đầu tư đã được đổ vào lĩnh vực này từ
các nhà đầu tư thiên thần và các quỹ đầu tư mạo hiểm.
Môi trường pháp lý của Australia đã đưa ra các giải pháp để hỗ trợ khởi
nghiệp, như rút ngắn thời gian để hình thành doanh nghiệp, đơn giản hóa các
thủ tục hành chính để đăng ký kinh doanh. Chính phủ Australia cũng đưa ra
các ưu đãi thuế cho các hoạt động NC&PT để khuyến khích các công ty tham
gia vào nghiên cứu đổi mới. Trong giai đoạn 2014-2015, chương trình ưu đãi
thuế NC&PT đã hỗ trợ cho 13.000 doanh nghiệp với tổng mức thuế suất
được ưu đãi lên tới 2,4 tỷ AUD đối với các dự án NC&PT đủ tiêu chuẩn. Bên
cạnh đó, các dự thảo liên quan đến cải cách luật phá sản cũng tạo cơ hội cho
các công ty lớn và các công ty truyền thống có cơ hội tái cơ cấu để đổi mới.
Dưới đây sẽ trình bày những nỗ lực của Australia trong quá trình xây dựng
quốc gia khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo.
2. Mở rộng thị trường và xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp tại Australia
2.1. Hệ sinh thái khởi nghiệp tại Australia
Trên thế giới, nền kinh tế của Australia đứng thứ 13 và xếp thứ 9 trên tổng
số các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người (GDP) cao nhất. Với thị
trường việc làm ổn định, thu nhập bình quân hàng tháng cao, với mức
lương bình quân tháng là 18,22 AUD (tương đương với 14,48 USD). Điều
đáng nói nhất ở đây đó là quốc gia này chưa từng trải qua bất kỳ cuộc
khủng hoảng kinh tế nào trong vòng 26 năm gần đây. Tỷ lệ sở hữu nhà
riêng cao mặc dù luôn ở mức giá cao, đặc biệt là ở Sydney và Melbourne.
Chính phủ hỗ trợ toàn bộ cho hệ thống giáo dục. 40 trên tổng số 43 trường
đại học tại Australia được nhà nước tài trợ với các gói hỗ trợ các khoản vay
và các khoản trợ cấp cho sinh viên. Bên cạnh đó, Australia có hệ thống y tế
cộng đồng toàn diện và hệ thống chăm sóc sức khỏe đạt tiêu chuẩn thế giới.
Mặc dù Australia có một nền kinh tế lành mạnh, việc đầu tư vào các doanh
nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong nước vẫn còn thấp. Năm 2015,
chỉ có 54% người dân Australia cân nhắc phát triển kinh doanh theo hướng
lâu dài. Tuy nhiên, chỉ có 19% dân số Australia có hứng thú với việc kinh
doanh nhưng đều đã xây dựng cho bản thân những kế hoạch kinh doanh cụ
thể trong vòng 03 năm tới. Trong quá trình xây dựng hệ sinh thái khởi
nghiệp, Chính phủ Australia mong muốn xây dựng tinh thần kinh doanh,
khuyến khích người dân theo đuổi ý tưởng của mình và sẵn sàng chấp nhận
rủi ro và làm lại khi thất bại. Thông qua gói hỗ trợ của Chương trình nghị
sự khoa học đổi mới và phát triển quốc gia (National Innovation and
Science Agenda) trị giá 1,1 tỷ AUD từ chính phủ của Thủ tướng Turnbull,
các ưu đãi thuế mới đối với các nhà đầu tư giai đoạn đầu, khởi xướng dự án
hỗ trợ vườn ươm doanh nghiệp ban đầu và tạo ra các bước chạy đà ban đầu
tại các thành phố nơi có hệ sinh thái khởi nghiệp hoạt động mạnh mẽ như
San Francisco, Shanghai, Singapore, Tel Aviv và Berlin, các doanh nghiệp
khởi nghiệp ở Australia và hệ sinh thái khởi nghiệp nhận được thêm nhiều
cơ hội hơn bao giờ hết để có thể thương mại hóa các ý tưởng của mình.
Năm 2016, khái niệm “khởi nghiệp đổi mới sáng tạo” tại Australia đã trở
nên phổ biến hơn đối với người dân. Theo Startup Muster Report 2016, số
lượng các doanh nghiệp khởi nghiệp ở Sydney chiếm 35% và đứng đầu cả
nước, tiếp theo là Melbourne với 14% và Brisbane với 9%.
Theo báo cáo của Ủy ban đổi mới khoa học quốc gia (National Innovation
and Science Agenda - NISA), các doanh nghiệp khởi nghiệp ở Australia đã
tạo cơ hội việc làm cho 1,44 triệu lao động trong giai đoạn từ năm 2006 đến
2011. Các công ty khởi nghiệp thành công của Australia phải kể đến như
Atlassian (có giá trị doanh nghiệp đạt $4,4 tỷ AUD), AfterPay, Canva,
Envato, Kogan, Big commerce, Airtasker, Menulog,... Hàng ngàn công ty
khởi nghiệp của Australia chủ yếu tập trung trong lĩnh vực công nghệ như
Artificial Intelligence (AI), Virtual Reality (VR), Augmented Reality (AR),
Wearable technologies, Fin-techs, Điều này chứng tỏ cộng đồng các
doanh nghiệp khởi nghiệp của Australia đang có những thay đổi nhanh
chóng và sức hút của nó được thể hiện bằng cấp số nhân.
2.2. Mở rộng thị trường
Số lượng các doanh nghiệp start-up tại Australia là 23 triệu công ty tính đến
thời điểm năm 2015, đây là con số khá thấp so với các nước như Hoa Kỳ
(314 triệu) và Anh (63 triệu). Các khách hàng chủ yếu của các doanh
nghiệp start-up tại Australia là Chính phủ và các công ty lớn, lợi nhuận từ
các hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ đối với các khách hàng này lần
lượt là 41 tỷ AUD và 2.000 tỷ AUD trong năm 2012. Tuy nhiên, thách thức
đối với các doanh nghiệp start-up là phải đạt được các yêu cầu mà Chính
phủ và các công ty lớn đặt ra khi thực hiện các giao dịch và có khả năng
cạnh tranh với các doanh nghiệp start-up khác trong việc giành lấy miếng
bánh lợi nhuận có trị giá hàng tỷ AUD. Để đạt được các mục tiêu khi giao
dịch, các bên cần đưa ra các tiêu chí, tận dụng thế mạnh của đối phương để
tạo ra các khoản lợi nhuận cho giao dịch. Chính phủ chỉ hợp tác với các
doanh nghiệp start-up khi các doanh nghiệp này cam kết cung cấp các dịch
vụ có tính đổi mới công nghệ với mức chi phí thấp nhất có thể. Đổi lại, các
đối tác phải giúp doanh nghiệp start-up mở rộng thị trường, tìm kiếm khách
hàng tiềm năng, giảm thiểu rủi ro và gia tăng lợi nhuận.
100
Các mối quan hệ hợp tác giữa chính phủ, các công ty lớn và doanh nghiệp
start-up không chỉ dừng lại ở việc giao dịch hàng hóa mà còn củng cố các
mối liên kết giữa cộng đồng doanh nghiệp, các trường đại học và các viện
nghiên cứu để đưa các sáng kiến đổi mới ra thị trường và thúc đẩy nền kinh
tế. Chính phủ Australia cũng khuyến khích và xây dựng “văn hóa đổi mới”
cho thế hệ trẻ thông qua quỹ thúc đẩy giáo dục, khuyến khích đào tạo đối
với các môn khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán. Trong khoản đầu tư 1,1
tỷ AUD, Chính phủ cũng giành 50 triệu AUD để khuyến khích phụ nữ và
các bé gái tham gia vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó có các
doanh nghiệp khởi nghiệp.
Nhận thấy sự tụt hậu về đổi mới so với các nước tiên tiến khác, Chính phủ
Australia đã chi một khoản đầu tư trị giá 200 triệu AUD cho các doanh
nghiệp áp dụng và phát triển công nghệ từ CSIRO và các trường đại học
của Australia. Khi các nhà nghiên cứu và doanh nghiệp cùng bắt tay nhau
thương mại hóa các công trình nghiên cứu sẽ tạo ra cơ hội được làm việc
thực tiễn cho sinh viên cũng như những lợi ích lớn cho nền kinh tế.
2.3. Các chương trình hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp của Chính phủ
Australia
Tương tự như các quốc gia khác trên thế giới, Chính phủ Australia cũng
đưa ra các chương trình nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp, mặc dù
các doanh nghiệp này cũng cần phải chứng tỏ mình có đầy đủ các yếu tố
cần thiết để được hỗ trợ.
2.3.1. Quỹ đổi mới CSIRO
Được thành lập vào năm 1916, Tổ chức Nghiên cứu Khoa học và Công
nghiệp Liên bang (CSIRO) là cơ quan khoa học quốc gia của Australia. Với
lịch sử phát triển hơn 100 năm, CSIRO đã đem lại nhiều sáng kiến và đổi
mới có tính đột phá cho thế giới.
Trong nhiệm kỳ của mình, Thủ tướng Australia Malcolm Turnbull đã kêu
gọi thúc đẩy kế hoạch có tên là “sự bùng nổ các sáng kiến” nhằm thắt chặt
mối quan hệ giữa các nhà khoa học, các trường đại học và các doanh nghiệp
tạo ra một hệ sinh thái nơi mà các sáng kiến đổi mới được áp dụng vào
nhiều lĩnh vực khác nhau (ABC News, 2015). Vì vậy, CSIRO với vai trò là
tổ chức đại diện trong lĩnh vực nghiên cứu và khoa học của Australia, đã
xây dựng Quỹ đổi mới CSIRO với mục tiêu hỗ trợ việc thương mại hóa
những sáng kiến ban đầu của CSIRO, các trường đại học và các cơ quan
nghiên cứu khác. Việc vận hành các doanh nghiệp được thành lập từ các ý
tưởng sẽ tạo ra các cơ hội việc làm, thúc đẩy nền kinh tế và nâng cao năng
lực tăng trưởng của Australia.
Quỹ đổi mới CSIRO được thành lập vào tháng 12 năm 2016 với mục tiêu là
cầu nối giúp các doanh nghiệp phát triển các ý tưởng nghiên cứu và thương
mại hóa các sản phẩm của mình (Marshall, 2015). Trong giai đoạn 2003-
2014, các doanh nghiệp mới đã tạo ra cơ hội việc làm cho 1,6 triệu người
và có khả năng tăng năng suất gấp 2 lần so với các doanh nghiệp khác
(Potter, 2016). Đó là lý do vì sao đối tượng được Quỹ đổi mới CSIRO
hướng đến đầu tư là các start-up, các công ty spin-off và các doanh nghiệp
vừa và nhỏ (SMEs). Thông qua quỹ, các công ty này sẽ được trao đổi
nghiên cứu và hỗ trợ đào tạo theo hướng cụ thể như sau:
- Hoàn thiện quy trình chuyển đổi thương mại hóa các sản phẩm nghiên
cứu được tài trợ bởi Chính phủ và khuyến khích việc xây dựng ý tưởng
tại Australia;
- Hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển - nâng cao năng suất và xuất khẩu
của Australia cũng như tạo thêm nhiều cơ hội việc làm, đặc biệt trong
các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của Australia;
- Xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của Australia đồng
thời tiếp tục hỗ trợ các cá nhân và tổ chức trong việc xây dựng văn hóa
đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực sản xuất;
Một số nguồn tài trợ vẫn luôn sẵn có nhưng sự cạnh tranh trên thị trường
càng ngày càng khốc liệt. Để thu hút các nhà đầu tư cũng như đảm bảo các
khoản đầu tư được sử dụng hiệu quả, Quỹ đổi mới CSIRO đưa ra những đề
xuất như sau:
- Đầu tư cho cả lợi ích thương mại và lợi ích quốc gia: Song song với việc
hỗ trợ cho các doanh nghiệp hiện thực hóa các ý tưởng, Chính phủ
Australia hiện nay đang triển khai Chương trình Doanh nhân, giúp các
star-up được thương mại hóa các ý tưởng khả thi, tạo thị trường, cung
cấp các thông tin chuyên ngành, đưa ra các dịch vụ tư vấn cũng như
cung cấp các kỹ năng cần thiết;
- Tập trung đầu tư vào các công ty tư nhân và có phần lớn vốn sở hữu
được hình thành trong quá trình kinh doanh tại Australia: Xu hướng
toàn cầu hóa đã trở thành bàn đạp cho sự phát triển nhanh chóng của đầu
tư quốc tế. Sự gia tăng mạnh mẽ của các chuỗi giá trị toàn cầu đang giúp
các doanh nghiệp tối ưu hóa quy trình sản xuất bằng cách tận dụng
những lợi thế khác nhau của từng quốc gia (Cục TT KH&CN Quốc gia,
2015). Bên cạnh các chính sách thu hút đầu tư quốc tế vào đổi mới sáng
tạo, Chính phủ Australia cũng đề ra các chính sách ưu tiên đối với các
doanh nghiệp nội địa;
- Mở rộng các đề xuất đầu tư của CSIRO, các trường đại học, các cơ
quan nghiên cứu của Australia và các đối tác của họ, bao gồm cả các
102
SMEs: Các kế hoạch cải tổ việc gọi vốn gần đây của Chính phủ Australia
đang hỗ trợ các star-up có nhiều cơ hội để tiếp cận với các nguồn tiền tiềm
năng giúp hiện thực hóa các ý tưởng và phát triển mô hình kinh doanh.
Năm 2015, Thủ tướng Australia Malcolm Turnbull trong bài phát biểu
tuyên thệ nhậm chức của mình đã khẳng định đổi mới công nghệ là cực kỳ
quan trọng đối với đất nước. Chính phủ của ông cũng cam kết sẽ chi 200
triệu AUD trong vòng 10 năm cho Quỹ đổi mới CSIRO và mở rộng các
chương trình hỗ trợ, đưa ra các ưu đãi và khuyến khích tinh thần khởi
nghiệp, xây dựng văn hóa đổi mới, chấp nhận rủi ro tạo đà tăng trưởng kinh
tế cho đất nước và các cơ hội việc làm trong tương lai.
2.3.2. Chương trình Doanh nhân (Entrepreneurs’ Programme)
Chương trình Doanh nhân, thay thế cho Quỹ thương mại hóa, Quỹ đầu tư
và đổi mới Australia năm 2014, nhằm giúp các doanh nghiệp tăng năng suất
và khả năng cạnh tranh thông qua việc tài trợ và tiếp cận với một mạng lưới
các chuyên gia tư vấn và người hỗ trợ trên toàn quốc.
Chương trình này cung cấp các khoản trợ cấp cho các nhà sáng lập thông
qua Quỹ khuyến khích thương mại và trợ cấp tăng trưởng kinh doanh.
Chương trình này có nhiệm vụ cung cấp các khoản đầu tư lên đến 50% tổng
dự án, tương đương với 250.000 AUD cho các công ty thương mại và các
đối tác hợp pháp, và tương đương với 1 triệu AUD cho các ứng viên còn lại.
Các nhà kinh doanh cũng có thể nhận lời khuyên từ các chuyên gia mà
không phải chịu bất kỳ một khoản chi phí nào để được chia sẻ các kiến thức
và kinh nghiệm nhằm thúc đẩy tăng trưởng thông qua các hoạt động thuộc
chương trình Kết nối đổi mới.
Ngoài ra, Chương trình Doanh nhân cũng cung cấp hỗ trợ các chi phí liên
quan đến việc đầu tư, giúp các công ty khởi nghiệp thâm nhập vào các thị
trường khác trên thế giới. Các khoản đầu tư trong hiện tại và tương lai có
thể được tài trợ lên đến 50% tổng giá trị dự án tương đương với 500.000
USD. Đối với các doanh nghiệp hoặc chuyên gia thuộc dự án trong nước có
thể nhận được gói hỗ trợ lên đến 25.000 AUD.
2.3.3. Quỹ phát triển thị trường xuất khẩu (Export Market Development
Grant - EMDG)
Trong khi các nước như Hoa Kỳ hay Vương quốc Anh đang đưa ra các chính
sách nhằm thắt chặt làn sóng nhập cư thì Chính phủ Australia vẫn tiếp tục các
chính sách nhằm hỗ trợ những người nước ngoài đang sinh sống và làm việc
ở Australia. Những người nhập cư đóng vai trò quan trọng trong việc hình
thành các hoạt động kinh doanh ở Australia. Họ thành lập các doanh nghiệp,
chủ yếu ở quy mô nhỏ, tạo ra các cơ hội việc làm và phát triển các hoạt động
xuất nhập khẩu trong tất cả các ngành công nghiệp ở Australia và trở thành
một trong các yếu tố có ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế của đất nước này.
Mặt khác, làn sóng nhập cư cũng là một trong những lý do giúp cho
Australia tránh khỏi tình trạng suy thoái kinh tế nhờ việc hình thành các lợi
ích kinh tế, giảm thiểu tuổi thọ bình quân, tăng trưởng GDP và cải thiện các
hoạt động kinh doanh.
Vì vậy, Quỹ EMDG được thành lập nhằm giúp đỡ các công ty xuất khẩu ở
các lĩnh vực khác nhau mở rộng thị trường ra nước ngoài và khuyến khích
du lịch trong nước. Đối với các doanh nghiệp đã chi 15.000 AUD trở lên
cho các hoạt động xuất nhập khẩu, họ có thể được hoàn lại 50% tổng chi
phí và đảm bảo không vượt quá 5.000 AUD.
Để đạt điều kiện tham gia vào Quỹ EMDG, các doanh nghiệp phải thúc đẩy
được các hoạt động xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, khuyến khích du lịch tại
các sự kiện và hội nghị của Australia. Các doanh nghiệp đủ điều kiện sẽ
được hỗ trợ khoảng 50 triệu AUD trong thời gian được tài trợ.
2.4. Vai trò của các trường đại học và các viện nghiên cứu
Trước sự phát triển nhanh chóng của hệ sinh thái khởi nghiệp, các trường
đại học nắm vai trò quan trọng trong việc đào tạo nhân lực và xây dựng các
chương trình giảng dạy nhằm khuyến khích các sinh viên của mình tham
gia vào các doanh nghiệp start-up cũng như hình thành hệ sinh thái khởi
nghiệp từ ngay môi trường đại học.
Trong năm 2016, số lượng những người sáng lập các doanh nghiệp khởi
nghiệp đã có bằng cấp đại học chiếm 84,4%. Báo cáo năm 2016 của Startup
Muster cũng cho thấy 5,8% người sáng lập có bằng đào tạo nghề; 9,8% có
trình độ học vấn trung học. Trong đó, 70,5% các nhà sáng lập có trình độ
học vấn đại học đã theo học tại một trường đại học của Australia, còn lại
29,5% được đào tạo ở nước ngoài. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên vì
67% người sáng lập là công dân Australia, trong khi 33% còn lại là người
nước ngoài. Hơn 80% người sáng lập trên 20 tuổi có bằng cử nhân hoặc cao
hơn. Trách nhiệm của các thành viên trong nhóm sáng lập doanh nghiệp
khởi nghiệp cũng gắn liền với trình độ chuyên môn và bằng cấp của họ. Các
kỹ năng này bao gồm phát triển phần mềm (64%), kinh doanh (61%), tiếp
thị (37%), nghiên cứu khoa học (13%), kỹ thuật (14%) và pháp lý (11%).
3. Huy động vốn và các loại hình đầu tư
3.1. Khả năng huy động vốn từ cộng đồng
Khó khăn của các doanh nghiệp nhỏ khi tạo chỗ đứng của mình trên thị
trường đó chính là việc huy động vốn và thiết lập thị trường. Hiện nay, chính
104
phủ các cấp của Australia không có bất kỳ một khoản tài trợ nào về tiền vốn
ban đầu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông thường, mà chỉ có các khoản
trợ cấp nhỏ như trợ cấp tiền lương hay các ưu đãi về thuế, về khấu trừ. Thay
vào đó, Chính phủ Australia đang xây dựng các chính sách để giúp các doanh
nghiệp nhỏ bao gồm các start-up được hoạt động dễ dàng và giảm thiểu các
chi phí. Các doanh nghiệp này có thể dễ dàng huy động vốn từ cộng đồng
cũng như được bảo vệ quyền lợi khi đầu tư kinh doanh.
Các quy định hiện hành của Chính phủ Australia đang tạo ra hàng rào pháp
lý trong việc mở rộng các hoạt động của việc huy động vốn từ cộng đồng
(Crowd-sourced Equity Funding - CSEF). Tương tự như các hình thức huy
động vốn khác, CSEF cho phép các công ty huy động vốn thông qua một
cổng trực tuyến. Điểm khác biệt của CSEF là cho phép các nhà đầu tư được
mua vào 10.000 AUD vốn cổ phần của một công ty thông qua một diễn đàn
CSEF hợp pháp và được nhận lãi thay vì một sản phẩm hay một dịch vụ.
Các doanh nghiệp Australia có doanh thu và tổng tài sản dưới 25 triệu USD
được khuyến khích áp dụng hình thức huy động vốn CSEF. Tương tự như
các hình thức huy động vốn khác, các công ty tư nhân muốn được huy động
vốn CSEF sẽ phải có trách nhiệm báo cáo, chẳng hạn như cung cấp các báo
cáo tài chính hàng năm cho cổ đông.
Hình thức huy động vốn CSEF giúp cho các công ty có khả năng huy động
được gần 05 triệu AUD mỗi năm với chi phí thấp hơn so với các hình thức
huy động vốn truyền thống khác. Hình thức huy động vốn CSEF được công
nhận là một giải pháp hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
cũng như các doanh nghiệp khởi nghiệp.
Tuy nhiên, để bảo vệ cho các nhà đầu tư, Chính phủ Australia đồng thời
cũng xây dựng các hàng rào pháp lý nhằm hạn chế số lượng các công ty
cũng như các diễn đàn CSEF. Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp khởi
nghiệp đang bỏ lỡ một phương thức huy động vốn có thể sử dụng để phát
triển các ý tưởng kinh doanh của mình.
Nhận ra những bất cập này, chính phủ Australia đã ban hành các đạo luật
mới cho phép các doanh nghiệp được truy cập vào CSEF với nhiều lựa
chọn hình thức huy động vốn và loại bỏ các bất lợi cạnh tranh so với các
nhà đầu tư nước ngoài. Thực tế các doanh nghiệp nước ngoài cũng như các
doanh nghiệp sử dụng vốn CSEF như một công cụ đầu tư không được phép
huy động vốn CSEF tại Australia. Tương tự tại một số quốc gia khác, New
Zealand cho phép tất cả các doanh nghiệp đều có quyền huy động vốn
CSEF, trong khi ở Vương quốc Anh, Hoa Kỳ và Canada, số lượng các
doanh nghiệp không sử dụng hình thức huy động vốn CSEF chiếm một tỷ
lệ rất nhỏ. Đặc biệt, sau 01 năm áp dụng hình thức huy động vốn CSEF,
hơn 20 doanh nghiệp đổi mới tại New Zealand đã huy động được hơn 12
triệu USD từ các quỹ khác nhau.
Ngày 22/3/2017, Nghị viện Australia đã thông qua đạo luật cho phép sử
dụng hình thức huy động vốn CSEF cho các công ty công và có hiệu lực từ
ngày 29/9/2017. Ngày 09/5/2017, Chính phủ đã công bố, để lấy ý kiến dự
thảo luật bổ sung đối với việc huy động vốn CSEF của các công ty tư nhân.
3.2. Các loại hình đầu tư
Một số doanh nghiệp start-up phát triển dựa vào nguồn vốn nội lực. Một cá
nhân có thể không có đủ khả năng tài chính để thành lập doanh nghiệp
nhưng việc tham gia vào các mô hình Co-working (Không gian chia sẻ để
làm việc) sẽ giúp họ dễ dàng tương tác với những người khác. Sau một thời
gian kết nối, những người cùng chung chí hướng có thể cùng nhau hùn vốn
và thành lập một doanh nghiệp.
Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp start-up sau khi được thành lập đều
gặp khó khăn trong việc huy động vốn từ bên ngoài. Khi đặt mục tiêu trở
thành quốc gia khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo, Chính phủ Australia đã
đưa các gói hỗ trợ 36 tỷ AUD để toàn cầu hóa các ý tưởng của mình, giúp
đỡ các doanh nghiệp khởi nghiệp có cơ hội thâm nhập vào Thung lũng
Silicon, Tel Aviv và 03 thị trường khác (Borrello và Keany, 2015). Nhưng
trong báo cáo năm 2013 của PwC, khả năng thu hút các nhà đầu tư mạo
hiểm của Australia đang thấp hơn 20 lần so với Israel, quốc gia đứng thứ
hai thế giới về đổi mới công nghệ và đầu tư sau khi thâm nhập vào Thung
lũng Silicon.
Nguồn: Báo cáo của PwC - 2013
Hình 1. Vốn đầu tư mạo hiểm bình quân
Israel
Hoa Kỳ
Na Uy
Thụy Điển
Thụy Sĩ
Phần Lan
Đan Mạch
Pháp
Vương quốc Anh
Ireland
Hà Lan
Bỉ
Úc
0 25 50 75
~$7.50 (FY10 & FY11 average)
106
Báo cáo của PwC (2013) cũng chỉ ra các doanh nghiệp start-up ở Australia
luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh đáng kể trong việc kêu gọi vốn ở tất cả
các giai đoạn, đặc biệt ở các giai đoạn ban đầu. Năm 2012, chỉ có khoảng
53 triệu AUD trên tổng số 600 triệu AUD được đầu tư cho 62 doanh nghiệp
trong giai đoạn đầu tiên và được đầu tư bởi 12 khóa tăng tốc khởi nghiệp và
các vườn ươm khởi nghiệp, 500 nhà đầu tư thiên thần, 10 nhóm thiên thần
và 20 nhà đầu tư mạo hiểm.
Để khởi nghiệp, các doanh nghiệp start-up ban đầu phải huy động vốn từ
chính bản thân mình. Tiếp đó là sự ủng hộ, giúp đỡ của gia đình, bạn bè,
những người thân thích, rồi mới đến các khoản vay từ ngân hàng, các quỹ
đầu tư mạo hiểm và các nhà đầu tư thiên thần. Cụ thể có các loại hình đầu
tư như sau:
- Các khóa tăng tốc khởi nghiệp và các vườn ươm khởi nghiệp: Khi tham
gia vào các khóa tăng tốc khởi nghiệp và các vườn ươm, các doanh
nghiệp start-up có cơ hội nhận thức sớm hơn về những tiềm năng kinh tế
của mình. Sau khi hỗ trợ nguồn vốn 08 triệu USD, Chính phủ Australia
đã cam kết hỗ trợ hơn 15 triệu USD nữa trong vòng 04 năm tới, nhằm hỗ
trợ các khóa tăng tốc khởi nghiệp, các vườn ươm và các doanh nghiệp
start-up phát triển ý tưởng và phát sinh lợi nhuận từ công việc kinh
doanh của họ. Chương trình vườn ươm khởi nghiệp đã được Chính phủ
Australia đưa vào hoạt động từ ngày 20/9/2016. Chính phủ hỗ trợ rất tích
cực thông qua chính sách cấp đất và cơ sở hạ tầng tối thiểu, hỗ trợ một
phần kinh phí cho các vườn ươm khi thành lập, sau đó hầu như để cho
chúng tự hoạt động nuôi sống mình. Nguồn thu của vườn ươm đến từ
các khoản phí do các doanh nghiệp được ươm tạo chi trả. Những doanh
nghiệp chưa có nguồn thu sẽ không phải đóng phí ngay, mà sẽ được truy
thu sau khi đi vào hoạt động và bắt đầu có doanh thu. Điều này tạo động
lực để các vườn ươm sớm đi vào hoạt động và sinh lợi nhuận;
- Các nhà đầu tư mạo hiểm: Thông thường, khi các doanh nghiệp đưa ra ý
tưởng kinh doanh, họ sẽ tìm đến các nhà đầu tư. Số liệu của Hiệp hội
Vốn tư nhân và Đầu tư mạo hiểm Australia (Australian Private Equity
and Venture Capital Association Limited - AVCAL) chỉ ra các nhà đầu
tư mạo hiểm đã đầu tư 128 triệu AUD vào các doanh nghiệp start-up
trong năm 2012. Đây là một số tiền đầu tư không nhỏ, tuy nhiên, so với
các nước trên thế giới (Isarael: 500 triệu AUD) thì Australia còn cả một
chặng đường dài (PwC, 2013). Vì vậy, chính phủ Australia đã đưa ra các
phương án cải cách thay đổi hình thức vốn đầu tư mạo hiểm VCLPs, làm
tăng khả năng cạnh tranh cũng như thu hút được mức đầu tư vốn mạo
hiểm cao hơn của các doanh nghiệp start-up:
+ Doanh nghiệp start-up và các nhà đầu tư VCLPs sẽ ký một bản hợp
đồng liên doanh, trong đó, nhà đầu tư sẽ được miễn giảm các khoản
thuế 10% không được hoàn đối với khoản đầu tư phát sinh trong năm
ở Giai đoạn Đầu tư Mạo hiểm Ban đầu (Early Stage Venture Capital
Limited Partnerships - ESVCLPs);
+ Khoản đầu tư tối đa cho các ESVCLPs mới và đang thực hiện được
tăng từ 100 triệu AUD lên 200 triệu AUD;
+ Khi các khoản đầu tư ESVCLPs có giá trị lên đến 250 triệu AUD thì
không cần thiết phải bán lại doanh nghiệp.
Việc thay đổi VCLPs và ESVCLPs sẽ nới lỏng các điều kiện và các yêu
cầu, cho phép các doanh nghiệp start-up có thể thực hiện nhiều hoạt
động đầu tư khác nhau cũng như tăng sự đa dạng của hoạt động đầu tư.
Ưu đãi thuế từ hoạt động đầu tư VCLPs đã có hiệu lực từ ngày
01/7/2016.
- Nhà đầu tư thiên thần: Nhìn chung, các đầu tư thiên thần có chung mục
tiêu với các nhà đầu tư mạo hiểm, nhưng khác nhà đầu tư mạo hiểm,
nhà đầu tư thiên thần là các cá nhân có giá trị tài sản ròng cao, trên 1
triệu AUD với kỳ vọng tài sản, thu nhập này sẽ tiếp tục duy trì trong
tương lai. Ban đầu các doanh nghiệp start-up thường bắt đầu khởi
nghiệp nhờ vào cấp vốn được tài trợ bởi bạn bè và gia đình cho giai
đoạn đầu để phát triển được sản phẩm mẫu hoặc các phiên bản thử
nghiệm của sản phẩm. Ngoài ra, dựa vào các mối quan hệ xã hội, các
doanh nghiệp start-up tìm kiếm các nhà đầu tư được xác nhận, là những
người có giá trị tài sản ròng cao, trên 1 triệu AUD hoặc là các cá nhân
có thu nhập trên 200.000 AUD/năm. Các nhà đầu tư thiên thần thường
tự mình đưa ra quyết định và không bị chi phối bởi bất kỳ ai hoặc tham
gia vào một nhóm để cùng nhau đưa ra các quyết định khách quan cho
thương vụ định đầu tư. Năm 2015, Chính phủ Australia đã đưa ra gói
ưu đãi thuế lên tới 106 triệu AUD cho các nhà đầu tư thiên thần ở giai
đoạn ban đầu khi các doanh nghiệp start-up đang bắt đầu tìm kiếm các
quỹ đầu tư mạo hiểm.
Tuy nhiên, gia đình, bạn bè sẽ không thể góp tiền nếu chưa thấy được sự
cam kết của các cá nhân muốn khởi nghiệp. Ngân hàng cũng sẽ không thể
cho doanh nghiệp start-up vay nếu thấy kế hoạch kinh doanh không khả thi.
Và các nhà đầu tư thiên thần, kể cả các nhà đầu tư mạo hiểm cũng sẽ khó có
thể tài trợ vốn nếu thấy doanh nghiệp chưa thực sự cam kết hết mình, chưa
“đánh cược” toàn bộ bản thân cho công việc kinh doanh.
108
4. Cải cách chính sách mở rộng khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
Trong một vài khảo sát gần đây cho thấy, các quy định của Chính phủ
Australia vẫn đang tạo ra nhiều rào cản cho các doanh nghiệp trong việc đổi
mới sáng tạo, đặc biệt với các doanh nghiệp nhỏ. Vì vậy, Chính phủ
Australia trong thời gian gần đây đang thảo luận và ban hành các ưu đãi
thuế cũng như các chính sách bảo vệ doanh nghiệp khi phá sản.
4.1. Ưu đãi thuế cho nhà đầu tư
Rosenberg và Marron (2015) đã tổng hợp và khái quát những chính sách
thuế cơ bản đối với các hoạt động đầu tư kinh doanh, đồng thời, cũng chỉ
ra các chính sách thuế và tài chính có tác động như thế nào lên các nguồn
vốn đầu tư, đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các doanh
nghiệp start-up. Thông thường các doanh nghiệp start-up dễ dàng bị lỗ
trong lúc thực hiện các ý tưởng kinh doanh của mình nên khó có thể được
hưởng lợi từ những ưu đãi miễn giảm thuế bao gồm tín dụng thuế từ các
hoạt động NC&PT, giảm thuế lợi vốn và các chính sách ưu đãi khác. Cải
cách các chính sách thuế đem lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp này,
chẳng hạn như cơ hội được tiếp cận với nhiều loại hình đầu tư tạo tiềm
năng tăng trưởng.
Nhận thức được vấn đề này, Chính phủ Australia đã đưa ra các chính sách
ưu đãi thuế đối với các nhà đầu tư vào start-up. Dựa trên những thành công
của Chương trình Đầu tư ươm mầm doanh nghiệp của Anh, Chính phủ
Australia đã đầu tư hơn 500 triệu AUD cho gần 2.900 công ty trong 02 năm
đầu tiên.
Hoạt động nghiên cứu có nguồn gốc từ đầu tư công đóng vai trò căn bản
trong thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng suất, giúp tạo ra những tri
thức mới và hấp thụ những tri thức sẵn có trên thế giới. Năm 2008, tổng
đầu tư của Australia cho NC&PT khoảng 2,24% GDP, thấp hơn so với mức
trung bình của khối OECD là 2,35% nhưng vẫn đứng trên các quốc gia
khác như Anh, Pháp, Canada. Vì vậy, chương trình ưu đãi thuế cho các hoạt
động NC&PT của Australia được đánh giá là một trong những chương trình
hỗ trợ không trực tiếp lớn nhất trên thế giới. Năm 2015, chi phí hoạt động
của chương trình ước tính khoảng 03 tỷ AUD, chiếm 0,71% ngân sách chi
của Chính phủ (Innovation Australia Annual Report 2014-2015).
Các nhà đầu tư đủ điều kiện được xem xét áp dụng chương trình miễn giảm
thuế mà trong đó các doanh nghiệp mới thành lập sẽ được hưởng 20% các
khoản thuế không hoàn lại, với mức đầu tư 200.000 USD/năm. Đối với các
khoản đầu tư đủ điều kiện và đảm bảo hoạt động liên tục trong vòng 12
tháng, sẽ được áp dụng hình thức miễn thuế lợi vốn trong vòng 10 năm.
Tuy nhiên, không phải tất cả các nhà đầu tư đều được hưởng chính sách ưu
đãi này. Các nhà đầu tư phải được thông qua bài kiểm tra “Sophisticated
investor” theo Luật doanh nghiệp năm 2001 hoặc, nếu nhà đầu tư không đạt
được bài kiểm tra này thì tổng mức đầu tư của họ vào các doanh nghiệp
start-up tối đa phải đạt được là 50.000 AUD tại năm phát sinh thu nhập.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp start-up được đầu tư phải thỏa mãn các điều
kiện sau:
- Doanh nghiệp mới thành lập và được đánh giá dựa trên các tiêu chí liên
quan đến khả năng chi tiêu, các khoản doanh thu và giá cổ phiếu đã được
niêm yết;
- Là doanh nghiệp đổi mới, được xác định bằng cách cho phép công ty tự
đánh giá dựa trên nguyên tắc hoặc tiêu chí đánh giá chấm điểm hoặc
được công nhận bởi Cơ quan thuế Australian.
4.2. Cải cách luật phá sản nhằm khuyến khích đổi mới
Bên cạnh việc khuyến khích người dân của mình theo đuổi các ý tưởng,
Chính phủ Australia cũng đưa ra các gói hỗ trợ cá nhân start-up chấp nhận
rủi ro và sẵn sàng làm lại khi thất bại như cải cách luật phá sản nhằm
khuyến khích đổi mới. Thông thường, các start-up sẽ thất bại vài lần trước
khi thành công và rút ra được những bài học kinh nghiệm trong quá trình
này. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp này phải chấp nhận thay đổi văn
hóa kinh doanh và tái cơ cấu doanh nghiệp.
Mối lo ngại về việc vi phạm luật giao dịch bất hợp pháp thường được viện
dẫn như là một lý do khiến các nhà đầu tư thiên thần trong giai đoạn đầu
không muốn tham gia vào một doanh nghiệp start-up. Hầu hết các đạo luật
hiện hành quá chú trọng vào việc phạt tiền và nhấn mạnh những thất bại, vì
vậy Chính phủ đang xem xét để ban hành những sửa đổi, bổ sung đối với
những đạo luật này.
Chính phủ đang tập trung vào việc tạo ra một mối quan hệ công bằng
hơn nhằm khuyến khích các doanh nghiệp cũng như để bảo vệ các nhà
đầu tư như:
- Giảm thời gian phá sản xuống còn 01 năm: Hiện tại, thời gian phá sản cá
nhân thường kéo dài ít nhất 03 năm. Các báo cáo gần đây cho thấy điều
này có thể khiến các doanh nghiệp thất bại bị nản lòng. Các chính sách
hiện nay đều chỉ ra rằng nếu Australia muốn phát triển nền kinh tế start-
up thì cần giảm thiểu thời gian khiển trách và các lệnh trừng phạt đối với
các doanh nghiệp phá sản;
- Giới thiệu các bến đỗ an toàn cho các chủ doanh nghiệp trong thời kỳ
tái cơ cấu: Các ý kiến trao đổi gần đây đều đưa ra các giải pháp nhằm
110
bảo vệ cho các chủ doanh nghiệp những người mong muốn tái cơ cấu
doanh nghiệp. Việc tái cơ cấu này sẽ khiến cho các rủi ro liên quan đến
các khoản nợ không được bảo vệ tăng lên và các chủ doanh nghiệp sẽ bị
kiện do vỡ nợ. Các điều luật sẽ bảo vệ cho các chủ doanh nghiệp không
bị kiện bởi vỡ nợ nhưng cũng đồng thời cũng yêu cầu họ phải có sự tham
vấn với các chuyên gia tái cơ cấu đã đăng ký với Ủy ban Đầu tư và
Chứng khoán Australia (ASIC);
- Vô hiệu hóa điều khoản “ipso facto” trong hợp đồng: Chính quyền liên
bang đồng ý bãi bỏ trách nhiệm của các bên để hủy hoặc thay đổi điều
khoản hợp đồng dựa trên cơ sở tự nguyện quản lý hoặc dựa trên bảng kế
hoạch điều chỉnh (liên quan đến quá trình tái cơ cấu). Các doanh nghiệp
đang thực hiện tái cơ cấu có thể tiếp tục thực hiện công việc kinh doanh
của mình mà không phải chấm dứt hợp đồng.
5. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Với lợi thế về sự bùng nổ công nghệ, thị trường mở rộng, tư duy quản lý
thông thoáng hơn, Việt Nam đã có được thành công bước đầu trong việc
phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp. Đây là cơ hội giúp Việt Nam trở thành
điểm sáng trong cộng đồng khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (start-up) tại
châu Á.
Trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nền kinh tế sáng tạo được tạo lập
bởi sự hội tụ của KH&CN với các ngành công nghiệp và của sự bùng nổ
các sáng kiến đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, một thực trang không thể phủ
nhận ở Việt Nam đó là các nhà khoa học và doanh nghiệp chưa thực sự
được kết nối chặt chẽ với nhau, do đó rất nhiều các kết quả nghiên cứu sau
khi được nghiệm thu thì không được ứng dụng vào sản xuất hoặc được
thương mại hoá trên thị trường. So sánh từ kinh nghiệm của Australia và
các nước tiên tiến khác, Việt Nam hiện đang thiếu hệ sinh thái cho khởi
nghiệp trong lĩnh vực công nghệ, như các tổ chức, các quỹ đầu tư, các nhà
tư vấn và các không gian chia sẻ kinh nghiệm. Vì vậy, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 16/5/2016 về việc phê
duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến
năm 2025” (gọi tắt là Đề án 844). Mục tiêu cụ thể của Đề án 844 là đến
năm 2020 thu hút được 1.000 tỷ VNĐ và đến năm 2025 thu hút được 2.000
tỷ VNĐ đầu tư cho các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, từ đó
xây dựng một quốc gia khởi nghiệp tại Việt Nam. Nội dung của Đề án 844
là hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp, xây dựng cơ chế và thúc đẩy sự ra
đời của các quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ hỗ trợ khởi nghiệp, quỹ phát triển
KH&CN, trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, tạo môi trường để
cộng đồng khởi nghiệp hình thành, vận hành có hiệu quả làm cho làn sóng
khởi nghiệp mang lại hiệu quả thực chất, không chỉ là phong trào và xây
dựng một quốc gia khởi nghiệp.
Tại Diễn đàn Doanh nhân trẻ và Thanh niên khởi nghiệp do Hội Doanh
nhân trẻ Việt Nam và Diễn đàn Kinh tế Tư nhân Việt Nam (VPSF) tổ chức,
Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cho rằng, một quốc gia khởi nghiệp được
công nhận khi khởi nghiệp được công nhận là quốc sách, phải có phong
trào khởi nghiệp với tâm thế của một quốc gia (Chu Thanh Vân, 2017). Một
đất nước muốn phát triển và trở nên giàu mạnh thì phải có một cộng đồng
doanh nghiệp mạnh cũng như phải xây dựng một tinh thần quốc gia khởi
nghiệp. Một “quốc gia khởi nghiệp” cần có những cá nhân khởi nghiệp,
những người đi tiên phong và dám chấp nhận rủi ro để hiện thực hóa những
đam mê và những ý tưởng mới. Việt Nam cần phát huy và phổ biến tinh
thần khởi nghiệp rộng khắp cả nước, trong môi trường xã hội lẫn môi
trường học đường. Đây cũng là quan điểm của Nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa
học và Công nghệ Nguyễn Quân (2015): “Việt Nam có thể bắt đầu với các
công ty khởi nghiệp từ các trường đại học, sau đó đến các tỉnh, các thành
phố rồi cuối cùng là cấp quốc gia”.
Việt Nam có thể tham khảo và học hỏi các mô hình quốc gia khởi nghiệp
của các nước khác như Israel, Hàn Quốc, và đặc biệt là Australia. Tuy
nhiên, mỗi một quốc gia sẽ gặp những khó khăn nhất định khi áp dụng kinh
nghiệm khởi nghiệp của các nước khác vào thực tiễn. Vì vậy, Việt Nam cần
ứng dụng một cách linh hoạt để có thể phù hợp với các quy định của pháp
luật, đặc điểm xã hội, văn hóa để tạo ra một hệ sinh thái tốt cho khởi
nghiệp. Những bài học kinh nghiệm từ Australia có thể rút ra cho quá trình
khởi nghiệp của Việt Nam là:
Thứ nhất, nhà nước cần tuyên truyền các cá nhân làm khởi nghiệp không
ngại thất bại, khích lệ và động viên tinh thần cầu tiến vươn lên. Thực trạng
tại Australia cho thấy trung bình có 75% doanh nghiệp khởi nghiệp không
tồn tại sau 03 năm kể từ khi thành lập. Con số này còn ít hơn rất nhiều tại
Việt Nam, sau 3-5 năm tỷ lệ tồn tại của các doanh nghiệp mới thành lập là
20-30%, trong đó chỉ có khoảng 3-5% các doanh nghiệp khởi nghiệp. Điều
đó cho thấy, tỷ lệ thành công trong khởi nghiệp là rất thấp, đầu tư vào khởi
nghiệp là đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư khởi nghiệp là quỹ rủi ro. Vì vậy,
cùng quan điểm với Chính phủ của Thủ tướng Australia Malcom Turbull,
Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ nhấn mạnh việc xây dựng văn hóa chấp
nhận thất bại, chấp nhận rủi ro là một trong những yếu tố quan trọng khi
xây dựng quốc gia khởi nghiệp. Việc tạo ra môi trường cho các start-up
được quyền tự do biểu đạt, quyền thất bại và tiếp tục khởi nghiệp để thúc
đẩy khởi nghiệp đổi mới sáng tạo giúp cho hệ sinh thái khởi nghiệp phát
triển ổn định. Cộng đồng khởi nghiệp ở Australia và Việt Nam có thể học
112
hỏi từ những sai lầm đó để rút ra được kinh nghiệm thành công. Kinh
nghiệm vườn ươm của Australia cho thấy, Nhà nước hỗ trợ rất tích cực
thông qua chính sách cấp đất và cơ sở hạ tầng tối thiểu, hỗ trợ một phần
kinh phí cho các vườn ươm khi thành lập, sau đó hầu như để cho chúng tự
hoạt động và phát triển. Các doanh nghiệp khi tham gia các vườn ươm sẽ
phải chi trả kinh phí để được ươm tạo, tuy nhiên, nếu các doanh nghiệp này
chưa có nguồn thu thì chưa phải đóng phí ngay, mà sẽ được truy thu sau khi
đi vào hoạt động và bắt đầu có doanh thu. Đây là động lực để các vườn
ươm phải đi vào hoạt động, ươm tạo các doanh nghiệp và sinh lợi nhuận.
Mô hình này đã chứng minh khả năng hoạt động hiệu quả của mình, tỷ lệ
các doanh nghiệp khởi nghiệp được ươm tạo không tồn tại sau 03 năm hoạt
động là 25%, cao hơn gấp 3 lần so với các doanh nghiệp khởi nghiệp khác.
Một trong những vườn ươm khởi nghiệp nổi bật nhất của Chính phủ
Australia phải kể đến chương trình Landing Pad. Chương trình này cung
cấp cho các doanh nghiệp khởi nghiệp những hỗ trợ thiết yếu để phát triển
doanh nghiệp, mở rộng thị trường, tăng tốc, kết nối và cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Australian Landing Pads hiện đang hoạt động tại Singapore,
San Francisco, Tel Aviv, Berlin và Shanghai. Tương tự, ở Việt Nam hiện
nay, các mô hình vườn ươm đều đang trong giai đoạn đầu của quá trình
ươm tạo, do đó còn đối mặt với nhiều khó khăn, vướng mắc về hình thành
pháp nhân, bộ máy, cơ chế điều hành, nguồn nhân lực và vốn,... Việt Nam
hiện nay đang phát triển các mô hình vườn ươm doanh nghiệp công nghệ
trong trường đại học, mô hình vườn ươm thuộc doanh nghiệp và mô hình
vườn ươm doanh nghiệp công nghệ cao do Nhà nước quản lý.
Thứ hai, từ việc hình thành mô hình các vườn ươm có thể thấy phong trào
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đang được các trường đại học khuyến khích
và tạo cơ hội cho các sinh viên của mình. Chính phủ Australia đã xây dựng
một quỹ thúc đẩy giáo dục - khuyến khích đào tạo các lĩnh vực khoa học,
công nghệ, kỹ sư và toán nhằm khởi động một văn hóa đổi mới trong giới
trẻ. Chính phủ nước này đang đầu tư và phát triển các trung tâm nghiên cứu
và hợp tác nhằm thúc đẩy các công trình nghiên cứu ở các trường đại học,
các viện nghiên cứu và đào tạo các sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm làm
việc thực tiễn. Vì vậy, chính phủ Việt Nam cần chú trọng đẩy mạnh giáo
dục, tập trung xây dựng các trường đại học, cao đẳng theo xu hướng hiện
đại, chú trọng chất lượng, cải thiện theo các tiêu chuẩn của thế giới như:
nâng cao điều kiện vật chất, nội dung đào tạo - nghiên cứu và tổ chức -
quản trị. Ngoài ra, các trường đại học ở Việt Nam cần tăng cường tính liên
kết với các trường đại học trong và ngoài nước để học hỏi, trao đổi chuyên
môn. Các trường hiện nay nên tăng cường chú trọng việc đào tạo tài năng
trẻ, nâng cao trình độ, mời các chuyên gia nước ngoài cũng như trong nước
về khởi nghiệp đến chia sẻ kinh nghiệm start-up.
Thứ ba, khi mới khởi nghiệp, mọi doanh nghiệp đều mong muốn có cộng
sự cùng góp vốn để san sẻ áp lực tài chính hoặc tìm kiếm những nhà đầu tư
thích hợp cho mình. Chính phủ Australia cũng đã công bố các kế hoạch cải
tổ việc gọi vốn, nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp có thể huy động
tiền đã hiện thực hoá các ý tưởng với đi vào hoạt động. Hiện nay, trong khi
các start-up ở Australia chứng minh bằng ý tưởng, thì các start-up tại Việt
Nam phải phát triển đến một mức nhất định thì các quỹ đầu tư mới đổ tiền
vào. Điều đó đồng nghĩa với việc nguồn vốn đầu tư có thể rất dồi dào
nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng nhận được. Chính vì vậy, theo
một thống kê không chính thức, tỷ lệ thất bại của các doanh nghiệp start-up
tại Việt Nam lên tới hơn 80% ngay trong năm đầu tiên thành lập.
Thứ tư, thông qua chương trình ưu đãi thuế cho các hoạt động nghiên cứu
và triển khai, trong giai đoạn 2014-2015, Chính phủ Australia đã trợ giúp
cho hơn 13.000 doanh nghiệp với hơn 2,4 tỷ AUD tiền hỗ trợ thuế đối với
các dự án nghiên cứu triển khai đủ tiêu chuẩn. Vì vậy, Chính phủ Việt Nam
cần xây dựng các chính sách để giảm bớt các rào cản vốn, tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp start-up được tiếp cận vốn đầu tư.
Thứ năm, Việt Nam cần hoàn thiện hệ thống pháp luật dành cho khởi
nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khởi nghiệp. Các chính sách có
ảnh hưởng lớn đến quá trình khởi nghiệp của cả quốc gia, có khả năng lấp
đầy khoảng trống mà khu vực tư nhân không thể vượt qua, đem lại công cụ
hỗ trợ hiệu quả cho start-up. Nếu như Australia đang thực hiện hàng loạt
các cải cách nhằm khuyến khích các nhà đầu tư và các doanh nghiệp khởi
nghiệp bằng cách đưa ra các ưu đãi về thuế cho các hoạt động NC&PT và
cải cách luật phá sản thì Chính phủ Việt Nam vẫn chưa đưa ra các chính
sách cụ thể để đảm bảo quyền lợi và bảo vệ cho các doanh nghiệp khởi
nghiệp.
Cuối cùng, Việt Nam cần tăng cường các mối quan hệ hợp tác với các nước
phát triển trên thế giới về mô hình khởi nghiệp và chiến lược khởi nghiệp.
Nhà nước cần có các cơ chế thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thu hút các quỹ
đầu tư rót vốn vào các dự án khởi nghiệp. Việt Nam cần quan tâm đến chất
lượng và hiệu quả của các dự án FDI hơn là chú trọng quá nhiều tới GDP,
phụ thuộc vào các lợi thế có sẵn như lao động rẻ, tài nguyên, điều kiện tự
nhiên,... Để thu hút FDI lâu dài, Nhà nước cần mạnh tay hơn trong việc cải
cách hành chính, xóa bỏ các thủ tục hành chính rườm rà, tạo thông thoáng
trong cơ chế và chính sách đầu tư.
Công nghệ đang và sẽ tạo ra các bước chuyển đổi quan trọng về kinh tế-xã
hội trên thế giới. Nếu Việt Nam muốn trở thành một quốc gia khởi nghiệp,
không gì khác là đầu tư vào nghiên cứu và sản xuất những sản phẩm có tính
đổi mới KH&CN cao. Trong bài học kinh nghiệm về đổi mới sáng tạo ở
114
Australia, đất nước này luôn giành một khoản đầu tư khổng lồ hàng năm cho
các hoạt động KH&CN nhưng không phải kết quả nghiên cứu nào cũng
mang nhiều tính đổi mới sáng tạo. Vì vậy để thúc đẩy những thay đổi trong
lĩnh vực KH&CN và khuyến khích các doanh nghiệp khởi nghiệp, các nhà
hoạch định chính sách của Việt Nam cần tạo ra các chính sách tốt cũng như
xây dựng một hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo hoạt động hiệu quả./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:
1. Chu Thanh Vân. 2017. “Việt Nam có thể trở thành quốc gia khởi nghiệp như Israel”,
xem 19/5/2017, <https://www.vietnamplus.vn/viet-nam-co-the-tro-thanh-quoc-gia-
khoi-nghiep-nhu-israel/447213.vnp>
Tiếng Anh:
2. “PwC: The Start-up Economy”. 2013. Available at: <https://www.digitalpulse.pwc.
com.au/wp-content/uploads/2013/04/PwC-Google-The-startup-economy-2013.pdf>
3. Rosenberg, J. and Marron, D. 2015. “Tax policy and investment by startups and
innovative firms”. Full Report, see 09/02/2015, <
publications/tax-policy-and-investment-startups-and-innovative-firms/full.>
4. Marshall, L. 2015. “Unleashing Australia’s innovation potential”, see 07/12/2015,
5. Borrello, E. và Keany, F. 2015. “Innovation statement: PM Malcolm Turnbull calls
for 'ideas boom' as he unveils $1b vision for Australia's future”, see 08/12/2015,
<
innovation-program/7006952>
6. Kinner, C., McCauley, A. và Gruszka, A. 2016. “Crossroads report: An action plan to
develop a vibrant tech startup ecosystem in Australia”. Available at:
7. Potter, B. 2016. “Start-ups create all new jobs”, see 24/8/2016,
8. Startup Muster. 2016. “Startup Muster Annual Report 2016”. Available at:
9. “Innovation Australia Annual Report 2014-2015”. 2017. Available at:
<https://industry.gov.au/Innovation-and-Science-Australia/Innovation-
Australia/Annual-reports/Pages/Innovation-Australia-Annual-Report-2014-15.aspx.>
10. Nehme, M. 2017. “Australia finally has crowd-sourced equity funding, but there’s
more to do”, see 22/3/2017, <https://theconversation.com/australia-finally-has-crowd-
sourced-equity-funding-but-theres-more-to-do-74921>
11. Weisfeld, J. 2017. “The Rising Success Of Startups Down Under: Inside Australia's
Entrepreneurial Ecosystem”. Available at:
<https://www.forbes.com/sites/groupthink/2017/08/10/the-rising-success-of-startups-
down-under-inside-australias-entrepreneurial-ecosystem/#b50a6f51cda2>.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khoi_nghiep_doi_moi_sang_tao_kinh_nghiem_tu_australia.pdf