Thời gian tâm linh trong tuồng có những
nhịp điệu, sắc độ riêng để phản ánh hiện thực.
Yếu tố tâm linh xuất hiện trong tuồng thường
mang một ý nghĩa nhất định nên chứa đựng
trong đó khoảng sâu văn hóa cần diễn giải. Vì
vậy thời gian tâm linh cũng có thể được rút
ngắn trong một câu trần thuật hay kéo dài bằng
cách miêu tả rất tỉ mỉ mọi diễn biến tâm trạng,
mọi diễn biến hành động của nhân vật, các sự
kiện hoặc nhấn nhá trong câu ca, lời hát.
Khương Linh Tá hiện hồn soi đèn cho Kim
Lân cả đêm nhưng thời gian hiện hồn được
nén đọng trong một câu trần thuật. Giả Thị
hiện hồn than khóc với chồng trong chốc lát
nhưng tâm tư tình cảm dãi bày đến cả lớp
tuồng. Thời gian tâm linh là biểu hiện sinh
động của thời gian nghệ thuật trong tuồng.
11 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 454 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Không gian, thời gian nghệ thuật trong kịch bản tuồng Đào Tấn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAN TRAO UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE
No.04_November 2016 42
KHÔNG GIAN, THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG KỊCH BẢN TUỒNG ĐÀO TẤN
Art space and art time in the scenario of Dao Tan’s Tuong
Ngày nhận bài: 12/10/2016; ngày phản biện: 18/10/2016; ngày duyệt đăng:21/11/2016
Đinh Thị Kim Thương*
TÓM TẮT
Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật là một trong những phương thức biểu hiện thế
giới qua tác phẩm văn học. Nghiên cứu không gian thời gian nghệ thuật trong kịch bản tuồng Đào
Tấn cũng là một cách tiệp cận để giải mã những giá trị văn học trong các tác phẩm của “Hậu Tổ
nghề tuồng”.
Từ khóa: Không gian nghệ thuật; thời gian nghệ thuật; tuồng Đào Tấn
ABSTRACT
Art space and art time is one of method to express the world's by literature. Studying art space
and art time in Dao Tan’s Tuong is also an approach to clarify the literary values of the “posteriori
ancestor of Tuong” work.
Keywords: Art space; art time; Dao Tan’s Tuong
1. Đặt vấn đề
Không gian và thời gian là một phạm trù
triết học chỉ sự tồn tại của thế giới vật chất.
Tác phẩm văn học là một thế giới nghệ thuật.
Trong thế giới đó, con người tồn tại trong một
khoảng không gian và thời gian đặc biệt, đó là
không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật.
Nó không chỉ là không gian và thời gian vật
chất mà là một phương thức biểu hiện thế giới
tinh thần, hiện thực đời sống thông qua tác
phẩm văn học.
Là nhà soạn tuồng xuất sắc nhất trong
giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX, kịch bản
tuồng Đào Tấn đã được nghiên cứu dưới
nhiều góc độ khác nhau như: nội dung tư
tưởng, kết cấu, ngôn ngữ, nhân vật... nhưng
vấn đề không gian, thời gian nghệ thuật trong
kịch bản tuồng của ông chưa được đề cập đến
một cách cụ thể. Ở bài viết này, chúng tôi tiếp
cận, nghiên cứu kịch bản tuồng của Đào Tấn
bằng lý thuyết không gian, thời gian nghệ
thuật của thi pháp học.
2. Không gian nghệ thuật
Không gian là môi trường tồn tại của con
người: dòng sông, cánh đồng, ngọn núi, đèo
xa, biển cả... Không gian là nơi tác giả triển
khai sự kiện, biến cố, là chỗ cho nhân vật hoạt
động. Không gian có thể tồn tại dưới hai hình
thức là không gian vật lý, không gian phi vật
lý. Không gian vật lý là không gian chúng ta
có thể tri giác được bằng các giác quan như địa
điểm, nơi chốn, con người, sự vật... Không
gian phi vật lý là không gian con người có thể
tri nhận được nhưng không tri giác được bằng
các giác quan như: không gian tâm tưởng,
không gian tâm linh
Tuồng là loại hình nghệ thuật tổng hợp
bao gồm kịch bản văn học, vũ điệu, âm nhạc,
bối cảnh sân khấu, hóa trang, phục trang...
trong đó phương thức biểu hiện chủ yếu là ước
* Thạc sĩ - Trường Đại học Thủ đô Hà Nội
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO
SỐ 04 - THÁNG 11 NĂM 2016 43
lệ. Do đó không gian có một vị trí vô cùng
quan trọng trong việc chỉ dẫn bối cảnh để cảm
thụ tuồng. Đối với tuồng truyền thống với đặc
trưng “nội dung cung đình, nhân vật phong
kiến”, không gian thường được miêu tả chủ
yếu là không gian vật lý gắn với cảnh cung
vàng, điện ngọc của triều đình phong kiến là
nơi diễn ra hầu hết các sự kiện của truyện. Đó
là những Triều Tề (Sơn Hậu), Triều Nguyên
(Tam nữ đồ vương), Triều đình Cát Thượng
Nguyễn (Đào Phi Phụng), Triều Ca (Trầm
Hương các)... Trong không gian đó, các mâu
thuẫn hình thành và phát triển tạo ra xung đột
kịch và phát triển đến cao trào. Không gian thế
sự có được nhắc đến nhưng không nhiều và
không chi phối chủ đề tư tưởng, nội dung của
tác phẩm.
Trong các tuồng bản do Đào Tấn nhuận
sắc, về cơ bản các không gian được giữ nguyên
như các bản tuồng cổ. Nhưng trong các văn bản
tuồng do ông sáng tác, có sự chuyển biến không
nhỏ trong cách lựa chọn không gian cho nhân
vật xuất hiện. Bên cạnh các không gian truyền
thống như cung đình, lầu, phủ, biên ải, đền,
miếu... ta thấy sự xuất hiện của những không
gian riêng tư như trong khuê phòng (Diễn võ
đình, Hộ sinh đàn), tẩm cung (Trầm Hương
các); không gian trên đường lưu lạc (không
gian hành trình) như trong Diễn võ đình, Hộ
sinh đàn, Cổ thành, Tân Dã đồn, Hoàng Phi Hổ
quá giới bài quan... Và đặc biệt là sự xuất hiện
dày đặc của không gian phi vật lý: không gian
tâm tưởng (nhớ mong, hoài niệm, ước mơ...),
không gian tâm linh (cõi Phật, cõi tiên, hiện
hồn, nằm mộng...).
2.1. Không gian khuê phòng
Không gian khuê phòng xuất hiện khá
nhiều trong văn học cổ trung đại và thường gắn
với hình ảnh người phụ nữ với những khát khao
về hạnh phúc lứa đôi. Đó là người vợ nhớ mong
chồng trong Khuê oán của Vương Xương Linh
hay Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn (Đoàn
Thị Điểm diễn Nôm), sự khát khao hạnh phúc
của Thúy Kiều khi gặp Kim Trọng và sự bẽ
bàng của nàng khi ở lầu Ngưng Bích (Truyện
Kiều - Nguyễn Du), đó còn nỗi đau ai oán khi
mất vợ trong Khuê ai lục (Ngô Thì Sĩ) và Văn
tế Trương Quỳnh Như (Phạm Thái)...
Trong tuồng của Đào Tấn, không gian
khuê phòng được sử dụng như bối cảnh để tâm
sự, tự tình và giao duyên. Đó là khuê phòng
của Vương Kiều Quang nơi nàng cùng Bích
Đào (Triệu Khánh Sanh) sớm tối học thêu thùa
và tâm sự chuyện nữ nhi. Ở nơi đó ấp ủ ước
mơ hạnh phúc của Kiều Quang và những tâm
sự băn khoăn của nàng về một người thị nữ
với “hành vi lạ lùng”. Đồng thời đó cũng là
nơi “nương mình” của Triệu Khánh Sanh
trong vai Bích Đào với lòng bi hận khôn cùng
trước thời cuộc đảo điên“Kham thán thời vận
chi điên đảo/Ta hồ tình thế chi quai vi” (Xót
bấy vận thời điên đảo/Đau vì tình thế rối ren)
và đó cũng là nơi nuôi dưỡng tình yêu của
chàng và nàng qua từng đường kim, mũi chỉ:
Bích Đào (Khánh Sanh): ... chắp tơ mành
Kiều Quang: ... dóng thẳng đường ngay
Bích Đào:... nhận nẻo quanh
Kiều Quang: Cúc trắng, mai vàng thưa
thớt nhụy
Bích Đào: Chim xanh lá đỏ ngẩn ngơ tình
Cùng ngâm: Uyên ương chếch bạn còn
lơ láo
Phỉ thúy chiều duyên khéo rập rình
Từng lời thơ xoắn xuýt nhau đầy quyến
luyến, đầy yêu nhưng mang những tâm trạng
khác nhau. Kiều Quang lúc này chưa biết Bích
Đào là Khánh Sanh, nàng gửi yêu thương vào
mộng tưởng về một hình bóng tình lang không
biết đang lưu lạc phương nào. Còn Khánh
Sanh trong khung cảnh uyên ương này không
kìm chế nổi những cơn sóng tình đang cuồn
TAN TRAO UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE
No.04_November 2016 44
cuộn trong lòng muốn ôm chặt Kiều Quang
vào lòng cho thỏa niềm khao khát:
Trước chưa học xem qua lăng líu
Nay học rồi ngẫm lại lí lăng
Cắc cớ thay dì gió chị trăng
Thày lay bấy mũi kim đường chỉ
Cảnh học thêu của Kiều Quang - Khánh
Sanh trong khuê phòng có lẽ là khung cảnh
tình yêu đẹp nhất trên sân khấu tuồng bởi lẽ
sân khấu cung đình phong kiến thường chỉ
dành cho đề tài quân quốc hiếm có chỗ cho
những tình cảm cá nhân, đặc biệt là tình yêu
nam nữ. Vậy mà, không chỉ một lần cảnh ân ái
riêng tư của lứa đôi được Đào Tấn đưa lên sân
khấu tuồng. Mặc dù giữa chốn cung đình
nhưng tẩm cung của Đát Kỷ lại được Đào Tấn
khắc họa là một không gian sinh hoạt đời
thường của cuộc sống vợ chồng. Ở đó không
còn vua, không còn phi, không còn lễ giáo hà
khắc mà chỉ có những hành động quan tâm
chăm sóc rất đỗi bình thường của người chồng
dành cho vợ:
Đát Kỷ: Trong mình lạnh, mà trạo trực
trong cổ nữa. Lại trống ngực đánh hoài khó
chịu lắm. Xin quốc trưởng, ngài vuốt cho tôi
một tí nào!
Vua Trụ: Để quả nhân vuốt cho. Xuôi,
xuôi, xuôi, xuôi!
Đát Kỷ: Chao ơi, mỏi xương sống lắm,
hãy đấm cho tôi một tí!
Vua Trụ: Ừ, để quả nhân đấm cho...
Đát Kỷ: Chao ôi! Nóng mặt lắm, biểu
đứa mô hắn quạt phất phơ cho dễ chịu.
Vua Trụ: Đứa nào quạt bay!
Đát Kỷ: Thôi... ôi lạnh lắm!
Vua Trụ: Bay quạt mạnh lắm, răng mà
quân hư lắm. Để tao quạt cho bay coi coi.
(Quạt) Thôi đừng rên nữa mà mệt...
Trong Hộ sinh đàn, không gian khuê
phòng còn là nơi tự tình, bày tỏ tâm trạng của
người phụ nữ khi chồng đi xa:
Luống thâm khuê vĩnh dạ ưu sầu
Hà! Khéo loi thoi dương liễu mạnh đầu
Càng thanh thót hoàng oanh chi thượng
Một mình nơi khuê phòng, Lan Anh bày
tỏ sự cô đơn, thấp thỏm và nỗi ngóng mong
chồng trở sau bao ngày xa cách. Vế đầu mượn
tứ thơ trong bài “Khuê oán” của Vương
Xương Linh, vế sau mượn lời bài “Xuân oán”
của Kim Xương Tự, Đào Tấn đã khắc họa sâu
sắc nỗi buồn, cô đơn và sự tủi thân, ai oán
trong lòng người thiếu phụ:
Khuê oán
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu
Hốt kiếm mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế tịch phong hầu
(Vợ trẻ buồng thêu chẳng biết sầu
Ngày xuân trang điểm bước lên lầu
Chợt thấy đầu đường phơi sắc liễu
Tại ai giục giã chuyện phong hầu)
Xuân oán
Đả khởi hoàng oanh nhi
Mạc giao chi thượng đề
Đề thời kinh thiếp mộng
Bất đắc đáo liêu tê (tây)
(Xua đi cái oanh vàng
Trên cành cấm hót vang
Hót làm thiếp tỉnh mộng
Liêu tây chẳng gặp chàng
Trong hoàn cảnh này, Lan Anh tự ví
mình như người thiếu phụ trong “Khuê oán” và
“Xuân oán”, ngày ngày mong nhớ lang quân
nhưng tỉnh dậy chỉ thấy bẽ bàng đơn chiếc một
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO
SỐ 04 - THÁNG 11 NĂM 2016 45
mình. Nàng cũng như những thiếu phụ ấy khát
khao có được cuộc sống bình yên bên người
mình thương yêu nhưng đối mặt với sự thật phũ
phàng luôn là bi kịch chia ly xa cách. Tương
phản với những chủ đề lớn lao kỳ vỹ trong
tuồng cổ, Đào Tấn đã thực sự tinh tế, nhân văn
khi đưa không gian khuê phòng cùng ước mơ
của người phụ nữ lên sân khấu tuồng.
2.2. Không gian hành trình
Không gian hành trình là không gian có
sự chuyển biến liên tục, thể hiện sự di chuyển
của nhân vật từ nơi này sang nơi khác. Gắn với
mô típ truy đuổi - chốn chạy và mô típ tha
hương, trong tuồng của Đào Tấn xuất hiện khá
nhiều không gian hành trình. Đó là cuộc đuổi
bắt của Bàng Hồng với Triệu Khánh Sanh
(Diễn Võ đình), Võ Tam Tư với Tiết Cương
(Hộ sinh đàn); Đó là sự di chuyển của Triệu
Khánh Sanh trên đường tha hương, Tiết
Cương, Lan Anh lưu lạc trong rừng, Hoàng
phi Hổ trên con đường quá ải “phản trụ, đầu
chu”, Quan Công qua 5 ải chém 6 tướng hồi
Cổ thành, Từ Thứ trên đường tiễn biệt anh em
Lưu, Quan, Trương qui Tào cứu mẹ...
Không gian hành trình thường được
miêu tả qua không gian rừng núi, quan ải và
không gian trên đường cô chinh.
Không gian rừng núi thường gợi lên cảm
giác hùng vĩ, bí ẩn và chứa đựng sự nguy hiểm.
Chúng ta vẫn có câu “non cao rừng thẳm”,
“rừng thiêng nước độc” để hình dung địa thế
của loại không gian này. Các nhân vật chính
diện thường bị đặt trong hoàn cảnh lạc giữa
rừng sâu như một thử thách để thể hiện bản
lĩnh, sự dũng cảm, anh hùng. Bằng tài năng, trí
dũng hoặc được sự giúp đỡ của các nhân vật
tâm linh, nhân vật chính sẽ vượt qua thử thách
này để đến với thành công và hạnh phúc. Trong
Sơn Hậu, Kim Lân cùng Thứ Phi bị lạc giữa
rừng, chàng được hồn Khương Linh Tá biến
thành ngọn đuốc soi đường băng rừng vượt núi
đến thành Sơn Hậu. Đào Phi Phụng bị truy sát
lạc trong rừng gặp miếu Quan Công và được
Quan Công giúp thay đổi hình dáng thành Lý
Vạn Chung trà trộn vào triều đình Cát Thượng
Nguyên báo thù. Vợ chồng Lan Anh - Tiết
Cương hai lần lạc nhau trong rừng, lần thứ nhất
Lan Anh một mình đi tìm chồng trong tình cảnh
“lấm lê lấm lết”, nhờ mưu trí, gan dạ mà nàng
cứu được chồng đưa về Long Sơn trại; lần thứ
hai bị tập kích ở Long Sơn trại, nàng cùng Hồ
Nô lạc trong rừng sâu lại đúng lúc trở dạ sinh
con, nhờ có sự giúp đỡ của thần Hộ thai nên mẹ
tròn con vuông, tay ôm con, tay bế cháu đi tìm
chồng. Nhờ có tổ tiên họ Tiết phù hộ, hai vợ
chồng đã gặp lại nhau và trở về sơn trại sống
hạnh phúc. Như vậy, có thể thấy, không gian
rừng núi trong tuồng bản của Đào Tấn mang ý
nghĩa như sự thử thách dành cho các nhân vật
chính. Đó là một trong chuỗi các không gian
hành trình tương ứng với chuỗi các thử thách
mà nhân vật phải vượt qua để đi đến thắng lợi
cuối cùng.
Không gian quan ải khiến ta hình dung
đến những ranh giới mà con người phải vượt
qua để đến một đích nào đó. Quan ải cũng gắn
với hình ảnh chiến trận, những đội quân chinh
chiến liên miên, sự tang tóc và bi thương...
Cũng như không gian rừng núi, không gian
quan ải cũng là một trong những thử thách mà
nhân vật phải vượt qua để khẳng định mình.
Muốn đến Cổ thành, Quan Công phải vượt qua
5 cửa ải, chém 6 tướng; Muốn qua ải Giới bài
để “đầu Chu”, Hoàng Phi Hổ cũng phải vượt
qua ải Trần Thương, Trần Ngô và biên ải do
chính cha mình (Hoàng Cổn) trấn giữ; Muốn
đánh quân Tào Nhân, Quan Công phải chiếm
được Phàn Thành; Muốn đánh đổ lũ phản
nghịch họ Tạ, Đổng Kim Lân, Phàn Diệm phải
náu mình tại Sơn Hậu dưỡng quân suốt 15
năm; Đào Phi Phụng và quân Cát Thượng Lân
giao tranh ngoài biên ải. Không gian quan ải
TAN TRAO UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE
No.04_November 2016 46
cũng là không gian cho những cuộc chia ly:
Đó là cuộc chia ly của anh em Lưu, Quan,
Trương tiễn Từ Thứ quy Tào, Đổng Mẫu -
Kim Lân; Đào Công - Nguyệt Tâm phải lựa
chọn giữa trung và hiếu... (thử thách cả về tâm
lý và lòng dũng cảm).
Không gian trên đường cô chinh thường
là không gian lẻ loi một mình. Không gian này
được Đào Tấn khắc họa bằng những hình ảnh
ước lệ thể hiện không gian rộng lớn cô liêu đối
lập với sự nhỏ bé của con người như “sơn nhai
hải giác” (đầu non góc bể), “góc bể chân trời”,
“thiên cao địa hậu” (trời cao đất dày); gắn với
những tình cảnh của con người trên đường cô
chinh như “Nam Hồ Bắc Việt” (nay đây mai
đó), “Sông Sở non Ngô” (xa cách), “khứ quốc
ly gia” (bỏ nước, lìa nhà). Khung cảnh trên
đường đi thường được miêu tả hoang vu,
quạnh quẽ và đơn độc với các hình ảnh : “nhạn
quy thanh”, “tàn nguyệt”, “thiên lý”, “lữ
điếm”, “hương đài nhất vọng”, “dấu thỏ đường
dê”, “tiếng viên điểu”... và sự ảm ảnh bởi
tương lai mịt mờ phía trước với hình ảnh : “lộ
nan” (đường đi khó), “lộ đa kỳ” (nhiều đường
phía trước không biết nên đi đường nào).
Không gian trên đường cô chinh cùng
với không gian quan ải và không gian rừng núi
tạo nên một bức tranh tổng thể về hành trình
của nhân vật trong toàn bộ tác phẩm. Đó là
không gian chính để nhân vật bộc lộ mình và
thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
2.3. Không gian tâm tưởng và không
gian tâm linh
Không gian vật lý không phải là cõi
không gian duy nhất của vũ trụ. Cao hơn
không gian vật lý còn có không gian tâm
tưởng và không gian tâm linh với sự chi phối
bởi những quy luật tâm lý, tình cảm và trí
tưởng tượng phong phú của con người.
Không gian tâm tưởng được qui định bởi
sự tác động tích cực của tình cảm lên tư duy và
sự trỗi dậy mạnh mẽ tiềm thức khiến con
người sinh ra những ảo giác hoặc chìm đắm
trong những dòng suy tưởng về quá khứ hay
sự kỳ vọng vào tương lai. Việc tác giả đào sâu
vào tâm hồn nhân vật đến từng ngõ ngách
thông qua những biện pháp nghệ thuật đã tạo
ra loại không gian tâm tưởng. Nắm bắt được
những chuyển động và sắc thái tâm trạng nhân
vật, Đào Tấn tái hiện nó bằng ngòi bút điêu
luyện, với cái nhìn tinh tế. Dòng suy tư của
nhân vật tuôn chảy suốt chiều dài tác phẩm
diễn ra trong tiềm thức tạo nên một mạch
ngầm tâm trạng, một không gian tâm tưởng
trải dài, rộng mở với hàng loạt những suy
tưởng đan cài, chồng chéo phức tạp.
Trong Hoàng Phi Hổ quá giới bài quan,
nỗi đau vì vợ và em gái bị Trụ vương sát hại
chưa nguôi, Hoàng Phi Hổ lại tiếp tục đối mặt
với nỗi đau phải “khứ quốc ly gia”, “bội quân
phản quốc”. Trên đường ly hương quá quan,
chàng chìm đắm trong tâm trạng u uất “Vì ai
chia rẽ đôi đường/Tam cang chẳng trọn ngũ
thường lại vong”. Đêm xuống ở miếu thần,
một mình đối diện với nỗi đau, dòng hồi ức
những tháng ngày hạnh phúc tràn về trong
niềm tiếc nuối, chàng nhớ đến gia đình, đến vợ
con, đến bằng hữu khi xưa quây quần mà
nay tan tác mỗi người một phương:
Thượng mã đăng cao vọng Giới quan
Vân mê man, nguyệt hựu mê man
Kim nhật giai vân: ngô phản bạn
Hà thời thức đắc: Trụ hôn quân?
Cố đô cựu vật giai tương biệt
Bằng hữu phu thê các nhất phương
Dịch thơ: (Lưng ngựa lên cao ngắm Giới quan
Mây mơ màng, trăng cũng mơ màng
Giờ đây ai cũng: ta làm phản
Nào lúc nhìn ra: Trụ bạo tàn
Đồ xưa vật cũ đều xa cách
Chồng vợ, bạn bè kẻ một phương)
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO
SỐ 04 - THÁNG 11 NĂM 2016 47
Dòng hoài niệm xen lẫn sự giày vò trong
tư tưởng khi “chưa dứt tình trung với chúa,
lòng còn canh cánh khôn nguôi”, rồi đối mặt
với nỗi đau khi mất đi người vợ thân yêu của
mình, chàng hồi tưởng lại những tháng ngày
hạnh phúc bên Giả Thị và chìm đắm trong
mộng tưởng:“Tử biệt sinh ly, hứa cửu tương
tri đồ trướng vọng” (Kẻ chết thì đã mất, người
sống lại chia lìa (vậy mà) từ lâu cứ mong mỏi
tương tri mãi mãi). Chìm đắm trong dòng tâm
tưởng, chàng ngỡ như bị ảo giác khi Giả Thị
hiện hồn. Hành động của chàng trở nên điên
cuồng khi ôm cái bóng vợ mình trong không
khí lạnh lẽo mà đành bất lực, nàng giờ chỉ còn
là ảo ảnh khói sương. Hai người giờ thuộc về
hai cõi, bị chia lìa bởi nỗi đau sinh ly tử biệt
không thể vượt qua được:
Phi Hổ: Ủa này Giả Thị phu nhân! Ha hả
(Khách) Thậm ủy ngô tâm, em!
(Quăng cây gươm ôm hồn)
Thùy thức cửu nguyên do khả tích
(Lòng ta an ủi biết bao, ai hiểu được
người chín suối vẫn còn tiếc nhớ.
(Hồn lại hiện, Hổ lại ôm)
Ná kham kim tịch, anh đây em!
(Lại không thấy hồn)
Không thành nhất mộng tự hàm sầu
(Đêm nay là đêm gì, bỗng hóa thành giấc
mộng tự nuốt lấy sầu)
Không giống như Hoàng Phi Hổ luôn
sống trong dòng tâm tưởng hoài niệm quá khứ,
Lan Anh lại chìm đắm trong nỗi cô đơn và bế
tắc khi đi tìm chồng giữa mênh mông bể trời:
Thử cảnh, thử tình, tâm tự khổ
Khả nam, khả bắc, lô đa kỳ
Phu quân ôi!
Hải giác, sơn nhai, lạc lạc cô tung thùy
khẳng cố
Thiên cao địa hậu
Trăm lạy thiên địa quỷ thần, cho tôi
gặp phu quân tôi, kẻo mà
Mang mang sầu hận cánh kham bi
(Cảnh ấy tình này lòng những khổ
Khôn dò nam bắc lắm đường đi
Góc biển đầu non, ai kẻ đoái hoài thêm
quạnh quẽ
Trời cao đất rộng, hận sầu dày đặc xiết
ai bi)
Bủa vây quanh nàng là khó khăn trùng
trùng khi thân gái dặm trường bụng mang dạ
chửa phiêu bạt tìm chồng nhưng vượt lên tất cả
là nỗi lo lắng cho tình cảnh chồng phiêu bạt
nơi góc biển chân trời. Nỗi lo lắng thường trực
trong tâm khảm đã trở thành sự ám ảnh trong
suốt cuộc hành trình của nàng:
Lối sơn khê chi xiết ghập ghình
Tiếng viên điểu càng thêm đau đớn
Phu quân ơi! Em ở đây, còn phu quân
đi đường mô?
Rủi ro sợ đầu tên mũi đạn
Bơ vơ thương góc biển chân trời
Từ những diễn biến của tâm trạng nhân
vật qua những dòng suy tư, hồi tưởng hay
những nỗi ám ảnh thường trực, không gian
tâm tưởng hiện ra dưới những sắc màu khác
nhau. Nó góp phần đào sâu thêm thế giới nội
tâm nhân vật, mở rộng không gian tác phẩm
theo chiều hướng nội và kéo thời gian hành
động của nhân vật. Đây cũng là một dạng thức
không gian nghệ thuật khá phổ biến trong
tuồng của Đào Tấn.
Khác với không gian tâm tưởng bị chi
phối bởi những quy luật tình cảm, cảm xúc;
không gian tâm linh được hình thành từ những
vô thức văn hóa, tín ngưỡng, là sản phẩm của
trí tưởng tượng và bị chi phối bởi những quy
luật hoàn toàn mới lạ mà tri giác của con người
cũng không thể biết được. Tôn giáo nào cũng
chú trọng vào thế giới tâm linh với niềm tin và
TAN TRAO UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE
No.04_November 2016 48
thêm thắt các phỏng đoán, các tưởng tượng vô
cùng hấp dẫn về thế giới đó. Các tôn giáo cũng
cho rằng, ngoài không gian vật lý vũ trụ còn có
cõi giới siêu hình thiên đường, địa ngục các
cõi giới siêu hình đó tồn tại một cách khách
quan giống như không gian vật lý chứa đựng
nhiều sinh vật cao cấp như Ngọc Hoàng, các vị
thần linh, các loài quỷ sứ yêu ma
Trầm Hương các mượn cốt truyện
Phong thần diễn nghĩa để viết lại, tác phẩm
này được Đào Tấn xây dựng thành một không
gian tâm linh thần bí đậm chất liêu trai. Một
các Trầm Hương thờ Nữ Oa linh thiêng tương
thông với cõi tiên giới, bất kì lời nói, hành
động nào diễn ra ở các Trầm Hương thì thần
Nữ Oa ở cõi tiên đều như đang được chứng
kiến. Vì vậy nên khi vua Trụ có những lời nói
và hành động suồng sã với bức tượng làm
bằng gỗ trầm hương thì cũng như đang trực
tiếp ghẹo trêu thần Nữ Oa. Điều đó làm chúng
ta liên tưởng, trong thế giới này, các vị thần có
năng lực siêu nhiên quảng đại, có thể biết được
mọi chuyện trong thiên hạ. Trong thế giới này
có Phật, có tiên, có thần và có cả yêu tinh, yêu
quái. Con người, thần tiên và yêu ma cùng
chung sống với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Thế
giới này cũng có quy luật riêng, có lực lượng
thống trị áp chế và sai bảo những thế lực khác.
Vậy nên khi “chốn uy linh nhiều tiếng lăng
khi” Thần Nữ Oa bèn “chiêu yêu huyền xuất
không trung”. Hồ Ly, yêu quái bèn trở thành
công cụ để trừng phạt cái ác:
Hồ Ly: Phụng chiếu văn, phụng chiếu
văn
(Tẩu) Trực hướng triều Ca, dả diệu
thuật tiềm khuynh bạo chúa
Tạ từ đơn phủ, trượng tôn linh đắc triển
vị tài
(Thẳng tới cung vua, dùng phép lạ diệt
trừ bạo chúa
Giã từ điện thánh, dựa oai linh thi thố
tài hèn)
Màn đoạt xác Đát Kỷ của Hồ Ly được
miêu tả trong một không gian mập mờ tràn đầy
yêu khí “Gió ở đâu ngùn ngụt Đèn trong
trướng leo leo”, không gian quỷ mị này là bối
cảnh thích hợp để hồ ly ra tay đuổi hồn nhập
xác “hồn bất định, hồn bất địnhnguyện khả
thân, nguyện khả thân”. Hồn Đát Kỷ chết đi lại
bước vào một thế giới tâm linh khác được Địa
tạng đón về cõi hư vô để siêu sinh tịnh độ.
Trong thế giới này tiếp tục xuất hiện các nhân
vật tâm linh như Phật Như Lai, Quan Âm Bồ
Tát, và ở đây Đát Kỷ lại được kể cho biết về
một thế giới tâm linh khác, thế giới tiền kiếp
của mình là “người hầu dưới bệ đốt hương lễ
Phật, bỗng sinh thói tục, nép bên đèn mỉm cười
dâng hoa nên bị đọa xuống trần gian, mười sáu
tuổi hoa hờn liễu thẹn” nay “trần duyên dĩ
mãn, đồng quy tịnh độ”. Các không gian tâm
linh lồng ghép vào nhau, từ thế giới thực sang
thế giới ảo, từ trần gian đến thiên đình, thế giới
con người đến với thế giới thần tiên, yêu ma
cùng tồn tại và gây ảnh hưởng lẫn nhau theo
quy luật nhân quả Có thể nói rằng không
gian chính chi phối tuồng bản Trầm Hương các
là không gian tâm linh. Trong đó không chỉ có
thế giới con người, có thế giới thần phật mà thế
giới của yêu tinh, yêu quái cũng được miêu tả
một cách sinh động. Đó là thế giới hoang dã,
thú tính của quần yêu mà không cách nào che
giấu được. Khi Hồ Ly mở yến chiêu mời quần
yêu về dự tiệc, Hồ Ly dạy chúng giả tiên nhưng
bản chất yêu quái vẫn từ từ được bộc lộ, chúng
thích ăn thịt sống, “uống rượu hi ha”, nôn mửa
khắp nhà và bị lộ cái đuôi yêu quái. Khi bị truy
sát, chúng bỏ chạy tán loạn, hiện nguyên hình
và chui vào mả để chốn
Tương tự như Trầm Hương các, các
tuồng bản Sơn hậu, Hộ sinh đàn, Hoàng Phi
Hổ quá giới bài quan, Khuê các anh hùng
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO
SỐ 04 - THÁNG 11 NĂM 2016 49
cũng chứa đựng những không gian tâm linh
mang đậm màu sắc Phật giáo và tín ngưỡng
dân gian. Chính những nét văn hóa riêng biệt
này biểu hiện rõ đặc trưng đa hợp của văn hóa
dân tộc. Vì vậy mặc dù mượn cốt truyện nước
ngoài nhưng các tác phẩm của ông vẫn hết sức
gần gũi với người Việt.
Không gian nghệ thuật biểu hiện trong
tuồng của Đào Tấn rất phong phú và đa dạng.
Cùng với những yếu tố khác của thi pháp nghệ
thuật, không gian nghệ thuật là một trong
những phương tiện quan trọng để tác giả xây
dựng nhân vật, cốt truyện của tác phẩm.
3. Thời gian nghệ thuật
3.1. Sự đảo lộn trật tự tuyến tính thời
gian trong tuồng
Tuồng là loại hình sân khấu tự sự trữ
tình phương Đông. Yếu tố tự sự được thể hiện
qua lời kể của nhân vật và trật tự tuyến tính
thời gian trong tác phẩm. Thời gian trong
tuồng cổ là thời gian tuần tự một chiều, sự
kiện gì xảy ra trước kể trước, sự kiện gì xảy ra
sau kể sau và diễn tiến cho đến hết tác phẩm.
Đối với các tuồng bản do Đào Tấn sáng
tác, trật tự của thời gian dường như không còn
tuân theo quy luật chung của tuồng truyền
thống cũng như những nguyên tắc của sân
khấu tự sự. Chúng ta thấy có dấu hiệu đảo lộn
trật tự thời gian trong lời kể của nhân vật và sự
đồng hiện thời gian - không gian trong cùng
một cảnh.
Không giống nhân vật mô thức trong
tuồng cổ, nhân vật của Đào Tấn đã “thoát thai”
khỏi dạng “nhân vật mặt nạ” quen thuộc của
tuồng để hóa thân thành những con người thực
có tính cách, tâm hồn và cảm xúc trong tác
phẩm. Chính vì vậy, những suy nghĩ, tình cảm
của nhân vật không tuân theo mô thức mà tuân
theo những quy luật của tư duy, tâm lý. Và
dường như nhân vật của Đào Tấn “nghĩ” nhiều
hơn là nhân vật “hành động”. Chính trong
dòng suy nghĩ ấy, thời gian đã không tuân theo
những trật tự thông thường. Trong Diễn võ
đình, Triệu Khánh Sanh trên đường trốn chạy
khỏi sự truy sát của Bàng Hồng, chàng miên
man suy nghĩ về thân phận long đong hiện tại,
lại nhớ về những ngày tháng hạnh phúc bên
Kiều Quang và hy vọng tương lai có thể “châu
về hiệp phố” rồi lại giật mình với thực tại bị
truy sát đến nơi:
Khánh sanh: (Tán) Phong cấp viên
thanh sầu
Đồ cùng cổ nhân khấp
Có chữ “Tái ông thất mã tri phi phúc”
Còn sự tình của tôi bây giờ, biết khi
nào...
Hiệp phố hoàn châu khả dĩ giải ưu
(Nam) Xăn tay lần gỡ sợi sầu
Tóc lo đã trổ trên đầu hùng anh
Khôn lau nước mắt thường tình
Em ơi! Nỗi ai ngơ ngác nỗi mình bâng
khuâng
Tiếng ba quân nghe chừng rộn đến
Hò họ... Giục vó lừa tách dặm sơn khê
Rõ ràng có sự pha trộn giữa hiện tại, quá
khứ và tương lai trong suy nghĩ của Khánh
Sanh. Thủ pháp đảo ngược thời gian trong suy
nghĩ và đồng hiện thời gian để làm nổi bật tâm
trạng bế tắc, bi thương của con người được
Đào Tấn sử dụng trong hầu hết các phân đoạn
độc thoại nội tâm của nhân vật hay tâm sự trên
đường cô chinh như Tiết Cương, Hoàng Phi
Hổ, Lan Anh, Giả Thị, Đát Kỷ...
Một biểu hiện khác của thời gian đồng
hiện là việc tái hiện song hành các hành động,
tâm trạng của nhân vật trong cùng một khoảng
thời gian. Phương pháp tái hiện này khiến
chúng ta liên tưởng tới cách phản ánh đặc
trưng của ngôn ngữ điện ảnh. Trong cùng một
cảnh thể hiện nhiều không gian và thời gian
TAN TRAO UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE
No.04_November 2016 50
khác nhau với các nhân vật có những hành
động, cảm xúc khác nhau, từ đó bao quát được
toàn bộ bối cảnh tác phẩm trong một phạm vi
rộng. Trong Cổ thành, ngay màn giáo tuồng, ta
thấy xuất hiện ba nhân vật ở ba không gian
khác nhau cùng bày tỏ suy nghĩ và tâm trạng
của mình. Đó là Trương Liêu với khí thế bừng
bừng đuổi theo Quan Công:
Mạc nại phong sương phi sất mã
Bất phân trú dạ đáo quan thành
Tiết phong mộc võ thiên sơn lộ
Đới nguyệt phi tinh vạn lý trình
(Chẳng nài gió bụi lao thân ngựa
Không quản ngày đêm tới ải quan
Dầm dãi gió mưa ngàn đỉnh núi
Mang sao đội nguyệt vượt muôn trùng)
Còn Quan Vũ lúc đó cũng với khí thế
hùng dũng ngút trời chém tướng băng ải với
mong muốn sớm nhất đưa hai chị về Cổ thành
hội ngộ với đại ca và tam ca:
Cái thế anh hùng mạc dữ kinh
Phong sương vạn lý triển bằng trình
Ngũ quan trực quá phò xa trượng
Sơn hải gian nguy nhược lý bình
(Dưới thế anh hùng dễ mấy ai
Gió sương muôn dặm cánh chim trời
Xông pha năm ải phò hai chị
Đạp núi san bằng mọi hiểu nguy)
Cũng trong thời gian ấy, Hạ Hầu Đôn
cũng đang trấn ải chờ Quan Vũ bằng một khí
thế oai phong, hùng dũng:
Ngang ngang khí khái dục lăng tiêu
Khả hiệp thái sơn bắc hải siêu
Thế thượng vô song, chiến địa thùy năng
tài lực địch?
Nhân gian đệ nhật, họa đài ưng cộng
tánh danh bêu
(Khí khái hiên ngang muốn vượt lên
trời thẳm
Cắp nách hòn núi Thái vượt qua bể bắc
Trên đời không có hai, trên chiến trường
ai là kẻ đủ sức đối chọi
Trong nhân gian ta là bậc nhất, tên tuổi
đáng nêu chung với các tướng giỏi đời xưa)
Cách kết cấu ba hồi ngắn liên tiếp chỉ
bao gồm lời tự bạch của ba nhân vật trong ba
khung cảnh khác nhau là sự đồng hiện thời
gian trên bề mặt văn bản. Do giới hạn tuyến
tính của ngôn ngữ, Đào Tấn dùng các hồi ngắn
để chuyển không gian liên tục như những tia
cắt chớp nhoáng để diễn tả ba không gian cùng
xảy ra trong một thời gian. Thông thường
trong tuồng, các nhân vật chỉ đối thoại trực
tiếp trong cùng một không gian, thời gian chứ
hiếm khi diễn tả ba không gian khác nhau
trong một thời gian. Đây là một trong những
cách tân đáng kể về mặt sân khấu của Đào
Tấn. Việc miêu tả ba nhân vật với tài năng
tuyệt đỉnh khí thế hùng cường đồng hiện trong
một thời gian khiến chúng ta dự đoán được sự
gặp gỡ của ba nhân vật này sẽ có những biến
cố không ngờ. Điều đó tạo sự lôi cuốn, hấp
dẫn đối với người xem tuồng và cũng làm cho
sân khấu tuồng chân thực và sinh động hơn.
Việc đồng hiện thời gian còn được Đào
Tấn sử dụng khi miêu tả tâm trạng của những
nhân vật cặp đôi như: Lan Anh - Tiết Cương,
Khánh Sanh - Kiều Quang, Hoàng Phi Hổ -
Giả Thị. Các cặp đôi này đều phải chịu cảnh
ân ái chia ly, tâm trạng buồn, nhớ thương khắc
khoải đều được thể hiện qua suy nghĩ và độc
thoại nội tâm. Việc đồng hiện thời gian giúp
người đọc đối chiếu tâm trạng của hai nhân vật
khiến nỗi đau như được nhân hai, sức mạnh
truyền cảm mạnh mẽ hơn rất nhiều lần.
3.2. Thời gian tâm tưởng và thời gian
tâm linh
Thời gian tâm tưởng và thời gian tâm
linh trong tuồng đều bị chi phối bởi quan niệm
cá nhân và mang tính ước lệ.
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO
SỐ 04 - THÁNG 11 NĂM 2016 51
Trong văn học trung đại nói chung và
trong tuồng nói riêng, con người thường có xu
hướng muốn làm chủ thời gian hay nói cách
khác thời gian thường được phản ánh qua lăng
kính chủ quan của con người. Do vậy thời gian
tâm tưởng thường có sự khác biệt khá lớn so
với thời gian thực tế. Quy luật “ngày vui ngắn
chẳng tày gang” chi phối cảm quan về thời
gian của hầu hết các nhân vật trong tuồng.
Trong hoàn cảnh chia ly, các nhân vật đều có
xu hướng hoài niệm về những tháng ngày hạnh
phúc và cảm nhận khoảng thời gian đó thật
ngắn ngủi, kèm theo đó là những tiếc nuối
khôn nguôi. Đó là tâm trạng Hoàng Phi Hổ -
Giả Thị trong phút hàn huyên ngắn ngủi tại
miếu thần, tâm trạng của Khánh Sanh - Kiều
Quang lúc chia tay tiễn Khánh Sanh lên đường
trốn chạy sự truy đuổi của Bàng Hồng, tâm
trạng Tiết Cương - Lan Anh sau lần hội ngộ
thứ nhất tại Long Sơn trại. Sự đối lập giữa
“ngày vui thì ngắn ngủi” còn những ngày chia
xa thì dài dằng dặc bị chi phối bởi tình cảm và
cảm xúc của con người. Đứng trước đau buồn,
đứng trước nỗi cô đơn, con người thường có
xu hướng chìm đắm vào trong đó và tự huyễn
hoặc mình. Vì thế thời gian tâm tưởng đôi khi
được biểu hiện bằng thời gian huyền ảo với
cặp đối lập “xưa sao nay sao..” hoặc “bao
giờ như xưa”:
“Ngày ngày lặn suối trèo non
Bao giờ cho đặng vuông tròn như xưa”
Thời gian tâm tưởng thường xuất hiện
vào lúc “vầng ô khuất núi”, “bóng tà” hay
“trăng tàn”, “bóng ác hầu chênh” là những thời
điểm gợi buồn trong thơ văn cổ.
Thời gian tâm linh là thời gian gắn với
sự xuất hiện của các yếu tố tâm linh trong tác
phẩm. Thời điểm được chọn để xuất hiện các
yếu tố tâm linh thường là đêm tối, chạng vạng
hoặc rạng sáng. Đó là những thời điểm vượng
âm khí hoặc thời khắc giao nhau giữa ngày và
đêm. Đát Kỷ bị đoạt hồn khi “đã khuya khoắt
ỷ khôn làm tỉnh”, Linh Tá xuất hiện soi đường
giữa đêm tối mịt mùng, Giả Thị hiện hồn khi
Hoàng Phi Hổ đang ngủ bỗng thấy “Gió phút
động bên màn/ Kìa tay ai cầm đuốc?”
Thời gian tâm linh có thể làm ta quên đi
sự khác biệt trong hiện thực vì nó tiếp nối hiện
thực, nhập làm một với thời gian trong hiện
thực hoặc là một phần của hiện thực. Do đặc
trưng của sân khấu truyền thống Việt Nam là
tự sự - trữ tình, diễn tiến các sự kiện diễn ra
theo một chiều, các sự kiện tiếp nối nhau xuất
hiện theo thời gian một cách tuần tự nên thời
gian thực và thời gian tâm linh xen kẽ nối tiếp
nhau. Sự chuyển biến thời gian trong tuồng rất
nhanh, chỉ qua lời thuật của nhân vật mà ta có
thể đi từ không gian này sang không gian
khác, từ thời gian thực đến thời gian tâm linh
trong nháy mắt.
Thời gian tâm linh trong tuồng có những
nhịp điệu, sắc độ riêng để phản ánh hiện thực.
Yếu tố tâm linh xuất hiện trong tuồng thường
mang một ý nghĩa nhất định nên chứa đựng
trong đó khoảng sâu văn hóa cần diễn giải. Vì
vậy thời gian tâm linh cũng có thể được rút
ngắn trong một câu trần thuật hay kéo dài bằng
cách miêu tả rất tỉ mỉ mọi diễn biến tâm trạng,
mọi diễn biến hành động của nhân vật, các sự
kiện hoặc nhấn nhá trong câu ca, lời hát.
Khương Linh Tá hiện hồn soi đèn cho Kim
Lân cả đêm nhưng thời gian hiện hồn được
nén đọng trong một câu trần thuật. Giả Thị
hiện hồn than khóc với chồng trong chốc lát
nhưng tâm tư tình cảm dãi bày đến cả lớp
tuồng. Thời gian tâm linh là biểu hiện sinh
động của thời gian nghệ thuật trong tuồng.
Như vậy có thể thấy, không gian và thời
gian nghệ thuật trong kịch bản tuồng Đào Tấn
cũng chịu sự chi phối của cảm thức không gian
thời gian trong văn học cổ trung đại như không
gian khuê phòng, không gian quan ải, thời gian
TAN TRAO UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE
No.04_November 2016 52
tâm tưởng Bên cạnh đó, ông có những cách
tân đáng kể khi sử dụng đa dạng các kiểu
không gian, thời gian tâm linh để biểu hiện đời
sống tinh thần phong phú của con người. Đặc
biệt là sự đảo lộn trật tự tuyến tính của thời
gian, sử dụng linh hoạt không gian hành trình
và sự đồng hiện nhiều không gian thời gian
trong cùng một cảnh đã đem lại những hiệu
quả nghệ thuật độc đáo cho kịch bản tuồng của
ông. Với những cách tân mạnh mẽ về nội dung
cũng như nghệ thuật, Đào Tấn xứng đáng là
bậc thầy của văn chương tuồng, là nhà biên
kịch tuồng xuất sắc nhất mọi thời đại, là “Hậu
tổ nghề tuồng” của Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Chương (Chủ biên - 2008), Đào Tấn - trăm năm nhìn lại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội;
2. Dương Quảng Hàm (1941), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Đông Pháp, Hà Nội;
3. Hoàng Châu Ký (1978), Tuồng cổ (tập 1), Nxb Văn hóa, Hà Nội;
4. Vũ Ngọc Liễn (2005), Đào Tấn tuồng hát bội, Nxb Sân khấu, Hà Nội;
5. Mịch Quang (1963), “Bàn về một vài đặc điểm của văn học tuồng”, Văn học, (6), tr. 51 - 63
6. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, Nxb Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh, TPHCM;
7. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà
Nội, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khong_gian_thoi_gian_nghe_thuat_trong_kich_ban_tuong_dao_tan.pdf