Khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường Việt Nam

- Tiếp tục triển khai thực hiện nhất quán quan điểm chủ trƣơng phát huy cao độ vai trò của khu vực kinh tế tƣ nhân trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN ở nƣớc ta, biến những quan điểm chủ trƣơng đó thành những cơ chế chính sách cụ thể đồng bộ và nhất quán. Kinh tế tƣ nhân và kinh tế nhà nƣớc không phải là hai mặt đối lập, không phải là đối thủ cạnh tranh "một mất một còn" mà là các bộ phận bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển. Kinh tế tƣ nhân phát triển cũng có nghĩa là kinh tế Việt Nam phát triển. - Điều kiện tiên quyết là Nhà nƣớc tạo ra môi trƣờng kinh doanh bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa kinh tế nhà nƣớc với kinh tế tƣ nhân. Kinh tế tƣ nhân hoạt động theo đúng tinh thần Luật Doanh nghiệp. Phải xoá bỏ các rào cản đối với kinh tế tƣ nhân. - Luật Doanh nghiệp đã tạo ra khuôn khổ pháp lý tƣơng đối thuận lợi để mọi ngƣời có thể gia nhập thị trƣờng, song còn thiếu những cơ sở pháp lý đồng bộ nhằm điều chỉnh hoạt động trên thị trƣờng. Cần xây dựng cơ sở pháp lý cho việc hình thành, thực hiện, theo dõi, thanh lý, giải quyết tranh chấp các hợp đồng kinh tế và xử lý các vấn đề kinh tế - tài chính khi doanh nghiệp phá sản hay giải thể theo qui luật thị trƣờng. - Đa dạng hoá các nguồn lực đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với phát triển khu vực kinh tế tƣ nhân. Các nguồn lực rất đa dạng và phong phú nên một trong những bí quyết tồn tại và phát triển của doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tƣ nhân chính là lựa chọn và triển khai thực hiện chiến lƣợc và các biện pháp cụ thể khai thác các nguồn lực một cách hợp lý, phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp. - Ngoài một số ƣu đãi tạm thời, về cơ bản, dài hạn, không nên áp dụng các chính sách ƣu đãi mà là tạo điều kiện, môi trƣờng ổn định, thuận lợi lâu dài cho kinh tế tƣ nhân phát triển.

pdf10 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 294 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
11 KHU VỰC KINH TẾ TƢ NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG VIỆT NAM ------------------------ TS. Vũ Đình Ánh Chuyên gia kinh tế Tóm tắt: Chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường luôn gắn liền với phát triển khu vực kinh tế tư nhân thay vì chỉ tập trung vào khu vực kinh tế Nhà nước. Việt Nam cũng không nằm ngoài qui luật phổ quát này và thực tế khu vực kinh tế tư nhân đã đóng vai trò ngày càng quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam kể từ khởi đầu công cuộc Đổi mới đến nay. Tuy nhiên, khu vực kinh tế tư nhân nước ta vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng và vai trò vốn có do bị hạn chế bởi hàng loạt rào cản chủ quan lẫn khách quan mà trước hết là rào cản về tư duy, về quan điểm quản lý phát triển, về khuôn khổ pháp lý, cơ chế chính sách có liên quan và về nguồn lực cho khu vực kinh tế đặc biệt quan trọng này. Chính vì vậy, vấn đề then chốt là tiếp tục đổi mới tư duy, quan điểm quản lý phát triển đồng thời cải cách pháp luật, cơ chế chính sách và phân bổ sử dụng các nguồn lực của xã hội nhằm đảm bảo khu vực kinh tế tư nhân được hoạt động trong môi trường bình đẳng, phát huy tốt nhất tính năng động, sáng tạo, vận động theo đúng các qui luật của thị trường. Từ khoá: kinh tế tƣ nhân; kinh tế nhà nƣớc; kinh tế thị trƣờng; vai trò; DNNVV Phát triển kinh tế tư nhân là tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta, phát triển khu vực kinh tế tư nhân cũng là yếu tố có tính qui luật. Bên cạnh việc khẳng định vai trò của khu vực kinh tế tư nhân đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn phát triển mới, vấn đề quan trọng hơn là xác lập vai trò đó một cách đúng đắn, hợp lý, đồng thời có giải pháp để kinh tế tư nhân phát huy cao độ những ưu điểm, hạn chế, khắc phục những nhược điểm, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 1. Cơ sở lý luận về vai trò của kinh tế tƣ nhân Để đơn giản hoá, chúng ta coi khu vực kinh tế tư nhân đồng nghĩa với khu vực kinh tế ngoài nhà nƣớc, nói cách khác khu vực kinh tế tƣ nhân là một nửa 12 của nền kinh tế quốc gia và nửa kia chính là khu vực kinh tế nhà nƣớc và kinh tế tập thể (dƣới dây gọi chung là khu vực kinh tế nhà nước). Chính vì vậy, vai trò của khu vực kinh tế tƣ nhân trƣớc hết đƣợc qui định bởi bản thân khu vực kinh tế đó, đồng thời liên hệ biện chứng với vai trò của khu vực kinh tế nhà nƣớc. Trƣớc hết cần khẳng định kinh tế tƣ nhân ra đời và phát triển từ trƣớc khi xuất hiện Nhà nƣớc và kinh tế nhà nƣớc. Trong các phƣơng thức sản xuất dƣới chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tƣ bản, chính kinh tế tƣ nhân chiếm vai trò "thống soái", quyết định sự vận hành của toàn bộ nền kinh tế, sử dụng tuyệt đại đa số lực lƣợng sản xuất, tạo ra tuyệt đại bộ phận sản phẩm hàng hoá và dịch vụ cho xã hội. Cho đến trƣớc cuộc Đại suy thoái kinh tế 1929-1933, khu vực kinh tế nhà nƣớc vẫn giữ vai trò rất khiêm tốn với qui mô nhỏ hơn nhiều lần so với khu vực kinh tế tƣ nhân. Thông thƣờng, kinh tế nhà nƣớc phát triển dựa trên độc quyền nhà nƣớc đối với một số ngành nghề liên quan tới chính trị, an ninh quốc phòng nhƣ khai thác khoáng sản chiến lƣợc, đúc tiền, chế tạo vũ khí,... và thu thuế để phục vụ cho hoạt động của bộ máy cầm quyền cũng nhƣ lực lƣợng vũ trang. Chỉ sau Đại khủng hoảng 1929-1933, đặc biệt là sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ 2, năm 1945, lịch sử kinh tế của loài ngƣời mới lần đầu tiên đƣợc chứng kiến sự lớn mạnh bất ngờ của khu vực kinh tế nhà nƣớc theo hai dòng chảy chủ đạo: (1) Khu vực kinh tế nhà nƣớc mở rộng đi đôi với sự phát triển của khu vực kinh tế tƣ nhân. Kinh tế nhà nƣớc trở thành cơ sở vật chất cho sự tăng cƣờng can thiệp của Nhà nƣớc vào nền kinh tế nhằm khắc phục cái gọi là "thất bại thị trường". Cha đẻ của học thuyết này chính là nhà kinh tế kiêm nhà quản lý nổi tiếng ngƣời Anh J.M.Keynes. Biểu hiện rõ ràng nhất của việc mở rộng kinh tế nhà nƣớc là qui mô NSNN tăng vọt, thậm chí lên tới 50-60%GDP ở một số nƣớc, và xuất hiện những tập đoàn kinh tế thuộc sở hữu nhà nƣớc với qui mô lớn, hoạt động trong nhiều lĩnh vực then chốt, trong nhiều trƣờng hợp chính những tập đoàn kinh tế nhà nƣớc đóng vai trò chủ đạo trong thực hiện thành công công nghiệp hoá ở một số nƣớc. Tuy nhiên, khu vực kinh tế tƣ nhân không những không bị chèn ép mà còn phát triển rất mạnh, kể cả những tập đoàn kinh tế lớn cũng nhƣ rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ. Từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX, nhận thức về kinh tế nhà nƣớc có sự thay đổi căn bản để phù hợp với những diễn biến kinh tế mới trên thị trƣờng quốc tế, đặc biệt là diễn biến giá dầu lửa, hệ thống tỷ 13 giá hối đoái và mức độ cạnh tranh trên thị trƣờng thƣơng mại quốc tế. Theo đó, kinh tế nhà nƣớc có xu hƣớng thu hẹp để nhƣờng chỗ cho khu vực tƣ nhân phát triển mạnh hơn thông qua chƣơng trình tƣ hữu hoá các tập đoàn kinh tế nhà nƣớc, đồng thời nhà nƣớc tập trung vào điều tiết vĩ mô nền kinh tế hơn là trực tiếp tham gia vào hoạt động kinh tế. Chính nhờ chủ trƣơng chuyển sang đẩy mạnh phát triển kinh tế tƣ nhân đó mà các nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng phát triển đã thoát khỏi nguy cơ khủng hoảng và tiếp tục tăng trƣởng. Hiện nay trên thế giới đã có những tập đoàn kinh tế tƣ nhân với qui mô gấp vài lần GDP của nhiều quốc gia khác, chẳng hạn năm 2017, ICBC có mức vốn hoá thị trƣờng lên tới gần 230 tỷ USD, con số tƣơng tự của China Construction Bank là hơn 200 tỷ USD, của Berkshire Hathaway Inc. tới gần 410 tỷ USD, JP Morgan Chase là gần 307 tỷ USD, Wells Fargo là gần 275 tỷ USD, Apple là 752 tỷ USD, Exxon Mobil là hơn 343 tỷ USD, Microsoft là hơn 507 tỷ USD, Alphabet là 579,5 tỷ USD, của General Electronic là hơn 261 tỷ USD1,... Thống kê toàn cầu giai đoạn 1986 - 1991 cho thấy, DNNN chiếm 14% GDP ở các nƣớc có thu nhập thấp, 9% GDP ở các nƣớc có thu nhập trung bình và chỉ có 8% GDP ở các nƣớc có thu nhập cao2. (2) Khu vực kinh tế nhà nƣớc và kinh tế tập thể thay thế hoàn toàn khu vực tƣ nhân. Xu hƣớng này diễn ra ở các nƣớc phủ nhận sự phát triển của kinh tế thị trƣờng. Theo đó chỉ tồn tại hai loại hình chủ yếu là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, kinh tế tƣ nhân trở thành mục tiêu phải bị loại bỏ. Cơ chế thị trƣờng bị thay thế bằng cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp. Chính các DNNN, giữ vai trò thống trị tuyệt đối trong nền kinh tế, hoạt động không hiệu quả và không chuyển biến phù hợp với diễn biến kinh tế thế giới là nguyên nhân vật chất trực tiếp làm cho hệ thống kinh tế XHCN ở Liên xô và Đông Âu sụp đổ, kéo theo sự sụp đổ gần nhƣ hoàn toàn của kinh tế nhà nƣớc thông qua "liệu pháp sốc". Chỉ có một số nƣớc, điển hình là Trung Quốc và Việt Nam đã kịp thời thay đổi nên vẫn duy trì đƣợc khu vực kinh tế nhà nƣớc ở mức cần thiết đồng thời đẩy mạnh phát triển kinh tế tƣ nhân. Đến những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, quan niệm về vai trò của Nhà nƣớc và kinh tế nhà nƣớc tiếp tục đƣợc củng cố và hoàn thiện với quan niệm phổ biến cho rằng: "Nhà nước đóng vai trò trung tâm trong phát triển kinh tế và 1 https://www.forbes.com/global2000/list/#tab:overall 2 14 xã hội, không phải với tư cách là một người trực tiếp tạo ra sự tăng trưởng, mà là một đối tác, là chất xúc tác và là người tạo điều kiện thuận lợi cho sự tăng trưởng đó"3. Năm nhiệm vụ cơ bản của Nhà nƣớc là: (1) thiết lập một cơ sở pháp luật; (2) duy trì một môi trƣờng chính sách không lệch lạc, kể cả sự ổn định kinh tế vĩ mô; (3) đầu tƣ vào các dịch vụ xã hội cơ bản và cơ sở hạ tầng cơ bản; (4) bảo vệ nhóm ngƣời dễ bị tổn thƣơng; (5) bảo vệ môi trƣờng4. Hai chức năng cơ bản nhất của Nhà nƣớc là giải quyết thất bại thị trƣờng và cải thiện sự công bằng, theo đó Nhà nƣớc thực hiện phối hợp hoạt động tƣ nhân và phân phối lại5. Với những quan điểm nhƣ trên, vai trò của kinh tế tƣ nhân trong sự phát triển kinh tế - xã hội là đặc biệt quan trọng. Nhiều ngƣời cho rằng, một nền kinh tế thị trƣờng hoạt động tốt phải có năm đặc điểm sau6: (1) Phân phối các nguồn lực một cách có hiệu quả nhất; (2) Tạo ra những nguồn lực mới thông qua việc đổi mới sản phẩm và đổi mới quá trình xử lý; (3) Thích nghi nhanh chóng và có hiệu quả với những hoàn cảnh luôn biến đổi; (4) Duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô và tránh đƣợc những trục trặc nhƣ tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát cao; (5) Tạo ra hiệu quả xã hội mong muốn, tránh phân hoá giàu nghèo quá mức. Nếu 2 đặc điểm cuối qui định vai trò của Nhà nƣớc và kinh tế nhà nƣớc thì vai trò của kinh tế tƣ nhân thể hiện rõ nhất trong 3 đặc điểm đầu tiên vì chính kinh tế tƣ nhân là bộ phận tiêu biểu nhất của nền kinh tế thị trƣờng và phù hợp nhất với các qui luật kinh tế thị trƣờng. Động cơ của kinh tế thị trƣờng là lợi nhuận và không ở khu vực kinh tế nào thể hiện "khát khao lợi nhuận" nhƣ khu vực kinh tế tƣ nhân. Đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu đối với khu vực kinh tế nhà nƣớc vừa không hợp lý vừa ít tính khả thi. Nhà kinh tế chuyển đổi nổi tiếng J.Kornai đã nói: "Người cai quản, dùng tiền nhà nước và khi lỗ thì nhà nước chịu, thì không phải là nhà kinh doanh. Người và chỉ có người, mà bản thân phải gánh chịu tai hoạ nghiêm trọng về mặt vật chất khi làm ăn thua lỗ mới gọi là nhà kinh doanh" 7 . 3 Nhà nƣớc trong một thế giới đang chuyển đổi – NHTG – NXB Chính trị quốc gia 1998, tr.13 4 Nhà nƣớc trong một thế giới đang chuyển đổi – NHTG – NXB Chính trị quốc gia 1998, tr.16 5 Nhà nƣớc trong một thế giới đang chuyển đổi – NHTG – NXB Chính trị quốc gia 1998, tr.42 6 Các nền kinh tế chuyển đổi: Lý luận và thực tiễn - Trung tâm KHXH&NVQG, Viện Thông tin khoa học xã hội - Hà Nội 1998 - tr.122-148 7 Con đƣờng dẫn tới nền kinh tế thị trƣờng - János Kornai (The Road to a Free Economy - Shifting from a Socialist System: The Example of Hungary) - Hà Nội: Hội tin học Việt Nam, 2001, tr.32. 15 Trong quá trình vận động theo các qui luật kinh tế thị trƣờng, khu vực kinh tế tƣ nhân không tránh khỏi những hạn chế nhƣ cạnh tranh không lành mạnh, sản xuất dƣ thừa quá mức, vi phạm pháp luật và kỷ luật thị trƣờng, tạo ra nguy cơ khủng hoảng kinh tế - tài chính, phá hoại môi trƣờng, bất công bằng xã hội,... Vai trò của khu vực kinh tế tƣ nhân đối với nền kinh tế Việt Nam cũng trải qua nhiều bƣớc thăng trầm. Kinh tế tƣ nhân, vốn đã kém phát triển trƣớc năm 1954 do bị chế độ thực dân và tƣ sản mại bản chèn ép, lại không đƣợc công nhận và dần dần bị thay thế bởi kinh tế nhà nƣớc và kinh tế tập thể từ sau năm 1954 ở miền Bắc và từ sau 1975 trên phạm vi cả nƣớc. Là đối tƣợng của các cuộc cải cách ruộng đất, hợp tác hoá trong nông nghiệp nông thôn và cải tạo XHCN trong công thƣơng nghiệp, khu vực kinh tế tƣ nhân hầu nhƣ đã bị xoá bỏ hoàn toàn và vai trò của khu vực kinh tế này đối với nền kinh tế bị phủ nhận. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 với chủ trƣơng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc theo định hƣớng XHCN. Nhờ có chủ trƣơng sáng suốt của Đảng và Nhà nƣớc mà khu vực kinh tế tƣ nhân nƣớc ta liên tục phát triển, đóng góp phần quan trọng vào những thành tựu kinh tế - xã hội suốt những năm đổi mới. Luật Doanh nghiệp có hiệu lực từ năm 2000 đã tạo ra cuộc bùng nổ lần thứ hai trong phát triển kinh tế tƣ nhân. Hơn nữa, lần đầu tiên Đảng dành một Nghị quyết định hƣớng phát triển khu vực kinh tế tƣ nhân ở Việt Nam. Nghị quyết TW 5 khoá IX đánh giá tổng quát vai trò khu vực kinh tế tƣ nhân ở Việt Nam: "Sự phát triển của kinh tế tư nhân đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, tăng thêm số lượng công nhân, lao động và doanh nhân Việt Nam, thực hiện các chủ trương xã hội hoá y tế, văn hoá, giáo dục, ...". Tuy nhiên, Nghị quyết cũng nhận thấy kinh tế tƣ nhân nƣớc ta "phần lớn có qui mô nhỏ, vốn ít, công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ quản lý yếu kém, hiệu quả và sức cạnh tranh yếu, ít đầu tư vào lĩnh vực sản xuất; còn nhiều khó khăn, vướng mắc về vốn, về mặt bằng sản xuất kinh doanh, về môi trường pháp lý và môi trường tâm lý xã hội; nhiều đơn vị kinh tế tư nhân chưa thực hiện tốt những qui định của pháp luật đối với người lao động; không ít đơn vị vi phạm pháp luật, trốn lậu thuế, gian lận thương mại, kinh doanh trái phép,...". 16 Nghị quyết Đại hội XI (2011) tiếp tục khẳng định: “Phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp”. Khu vực kinh tế Nhà nƣớc tập trung vào “Đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nƣớc. Khẩn trƣơng cơ cấu lại ngành nghề kinh doanh của các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty nhà nƣớc, tập trung vào một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế”. Bên cạnh đó, “Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tƣ nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế” và “Thu hút mạnh đầu tƣ trực tiếp của nƣớc ngoài vào những ngành, lĩnh vực kinh tế phù hợp với quy hoạch và chiến lƣợc phát triển của đất nƣớc, nhất là các lĩnh vực công nghệ cao”. Nghị quyết Đại hội XII nhấn mạnh: “Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nƣớc theo hƣớng: doanh nghiệp nhà nƣớc tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tƣ” và “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tƣ nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế” đồng thời “Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tƣ trực tiếp của nƣớc ngoài, chú trọng chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm”. Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa XII tháng 5.2017 đã thông qua Nghị quyết quan trọng về phát triển kinh tế tƣ nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt đặt mục tiêu (Nghị quyết 10) đến năm 2020 có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp; đến năm 2025 có hơn 1,5 triệu doanh nghiệp và đến năm 2030, có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp và tỉ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tƣ nhân vào GDP để đến năm 2020 đạt khoảng 50%, năm 2025 khoảng 55%, đến năm 2030 khoảng 60 - 65%. 2. Vai trò thực tế của khu vực kinh tế tƣ nhân ở nƣớc ta Thực hiện đƣờng lối của Đảng và Nhà nƣớc, khu vực kinh tế tƣ nhân nƣớc ta đã không ngừng phát triển, ngày càng khẳng định vai trò của mình trong thực tế đời sống kinh tế - xã hội của đất nƣớc trên tất cả các mặt, các lĩnh vực. Luật Doanh nghiệp năm 2000 có hiệu lực đã tạo ra sự "bùng nổ" số lƣợng các doanh nghiệp ngoài nhà nƣớc. Khu vực kinh tế tƣ nhân giữ vị trí quán quân 17 về số lƣợng doanh nghiệp đang hoạt động. Tổng vốn sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài nhà nƣớc cũng tăng lên. Các doanh nghiệp ngoài nhà nƣớc đã và đang liên tục tăng trƣởng cả về qui mô, tiềm lực kinh tế tài chính và khẳng định vị thế trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế. Đặc biệt, khu vực kinh tế tƣ nhân liên tục chiếm vị trí quan trọng nhất trong tạo nhiều công ăn việc làm cho ngƣời lao động. Đóng góp vào GDP của khu vực kinh tế ngoài nhà nƣớc cũng tăng lên. Khu vực kinh tế tƣ nhân đã cho thấy sự năng động và đã khẳng định đƣợc vai trò vững chắc trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, nhƣng vẫn còn nhiều tiềm năng để phát huy hơn nữa. Nguyên nhân nằm cả ở phía khu vực kinh tế tƣ nhân và cả từ phía cơ chế chính sách của Chính phủ. Đặc điểm nổi bật của kinh tế tƣ nhân nƣớc ta là tuyệt đại đa số còn nhỏ và yếu, năng suất và năng lực cạnh tranh còn thấp và thời gian hoạt động còn ngắn trong bối cảnh môi trƣờng sản xuất kinh doanh chƣa ổn định, còn chứa đựng nhiều rủi ro bất khả kháng. Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ban hành ngày 12/6/2017 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2018 đƣợc đánh giá là bƣớc đột phá trong tạo môi trƣờng kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp ngoài Nhà nƣớc, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) vốn đang chiếm tới trên 95% trong tổng số hơn 600.000 doanh nghiệp (DN) của cả nƣớc và đóng góp khoảng 10%GDP đồng thời tạo việc làm cho khoảng 7 triệu lao động. Mặc dù khu vực kinh tế tƣ nhân nói chung, khu vực DNNVV nói riêng đƣợc xác định là động lực quan trọng của nền kinh tế song tuyệt đại đa số DNNVV đều đang đối mặt với vô vàn khó khăn thách thức, từ khả năng tiếp cận các nguồn lực sản xuất kinh doanh nhƣ đất đai, mặt bằng kinh doanh, vốn tín dụng, lao động có trình độ cao,... đến rào cản về thủ tục hành chính, hạn chế về cơ hội kinh doanh, tiếp cận thị trƣờng, tiếp cận thông tin, quản trị doanh nghiệp,... trong đó, khó khăn về vốn sản xuất kinh doanh dƣờng nhƣ là căn bệnh chung của các DNNVV ở nƣớc ta. Vì vậy, bên cạnh tiêu chí sử dụng dƣới 200 lao động thì một tiêu chí quan trọng của khối DNNVV chính là có qui mô vốn kinh doanh dƣới 100 tỷ đồng. Theo số liệu thống kê, hàng năm có chƣa đến 50% tổng số DNNVV tiếp cận đƣợc với nguồn tín dụng ngân hàng, còn tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ƣu đãi của Nhà nƣớc thì gần nhƣ là không thể. Chính vì thiếu vốn sản xuất kinh doanh nên một bộ phận đáng kể DNNVV không thể lớn lên đƣợc, thậm chí ngày càng thu nhỏ lại, từ DN vừa trở thành nhỏ, từ nhỏ lại biến thành DN siêu nhỏ, thậm chí có DN có qui mô vốn thấp xa so với cả hộ gia đình kinh doanh. 18 Đến nay đã và đang xuất hiện một số doanh nghiệp tƣ nhân lớn tầm cỡ quốc gia, thậm chí khu vực và quốc tế song số lƣợng còn rất ít và hoạt động trong những lĩnh vực đặc thù nhƣ bất động sản, cà phê, thuỷ sản,... Nhìn chung chất lƣợng tài sản cố định của đại đa số doanh nghiệp khu vực kinh tế tƣ nhân không cao, thậm chí rất thấp, hệ thống máy móc thiết bị lạc hậu so với trình độ trong khu vực 3 đến 4 thập kỷ, công nghệ sản xuất lạc hậu, năng suất thấp, tiêu tốn nguyên nhiên liệu, ảnh hƣởng xấu tới môi trƣờng trong khi chất lƣợng và mẫu mã sản phẩm hàng hoá dịch vụ bị hạn chế. Một trong những tài sản cố định có giá trị nhất của doanh nghiệp tƣ nhân cũng nhƣ hộ gia đình sản xuất kinh doanh ở nƣớc ta lại chính là đất đai, là BĐS trong khi khả năng tiếp cận những loại tài sản này của khu vực kinh tế tƣ nhân lại hết sức hạn chế. Vì vậy, doanh nghiệp tƣ nhân và hộ kinh doanh cá thể thƣờng lâm vào vòng xoáy, thiếu vốn sản xuất kinh doanh nhƣng lại khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng do rào cản thiếu tài sản đảm bảo, thế chấp có giá trị. Theo một số báo cáo, chỉ có khoảng ½ số doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nƣớc ta tiếp cận đƣợc nguồn vốn tín dụng ngân hàng trong khi khả năng huy động các nguồn vốn khác, kể cả vốn tự có hết sức hạn hẹp. Thiếu thốn mọi thứ dƣờng nhƣ là ngƣời bạn song hành với tuyệt đại đa số doanh nghiệp tƣ nhân nhiều năm qua. Chính những điều kiện thiếu thốn kinh niên đó đã buộc không ít doanh tế tƣ nhân nói chung của chúng ta phải vật lộn để tồn tại. Phần lớn số doanh nghiệp tƣ nhân co cụm, thu hẹp sản xuất kinh doanh, chờ cơ hội mới và môi trƣờng thuận lợi hơn để phục hồi và tiếp tục phát triển. Nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển nhƣ thế nào, năng lực cạnh tranh của nƣớc ta sẽ đƣợc cải thiện và nâng cao đến đâu, bao giờ chúng ta bắt kịp nhịp độ phát triển của các nƣớc tiên tiến trên thế giới phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó sự phát triển của khu vực kinh tế tƣ nhân là một trong những yếu tố quan trọng. 3. Kết kuận và khuyến nghị Khu vực kinh tế tƣ nhân đang không ngừng phát triển và khẳng định vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN ở nƣớc ta. Những đóng góp của kinh tế tƣ nhân vào nhiều mặt đời sống kinh tế - xã hội rất quan trọng và không thể phủ nhận. Để tiếp tục giữ vững và phát huy cao độ vai trò của kinh tế tƣ nhân ở nƣớc ta cần có những chuyển biến mạnh mẽ trên tất cả các mặt, từ chủ trƣơng quan điểm, kinh tế - tài chính, lao động - xã hội đến tâm lý - tuyên truyền,... Trong đó, theo chúng tôi cần hết sức lƣu ý những điểm căn bản sau: 19 - Tiếp tục triển khai thực hiện nhất quán quan điểm chủ trƣơng phát huy cao độ vai trò của khu vực kinh tế tƣ nhân trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN ở nƣớc ta, biến những quan điểm chủ trƣơng đó thành những cơ chế chính sách cụ thể đồng bộ và nhất quán. Kinh tế tƣ nhân và kinh tế nhà nƣớc không phải là hai mặt đối lập, không phải là đối thủ cạnh tranh "một mất một còn" mà là các bộ phận bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển. Kinh tế tƣ nhân phát triển cũng có nghĩa là kinh tế Việt Nam phát triển. - Điều kiện tiên quyết là Nhà nƣớc tạo ra môi trƣờng kinh doanh bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa kinh tế nhà nƣớc với kinh tế tƣ nhân. Kinh tế tƣ nhân hoạt động theo đúng tinh thần Luật Doanh nghiệp. Phải xoá bỏ các rào cản đối với kinh tế tƣ nhân. - Luật Doanh nghiệp đã tạo ra khuôn khổ pháp lý tƣơng đối thuận lợi để mọi ngƣời có thể gia nhập thị trƣờng, song còn thiếu những cơ sở pháp lý đồng bộ nhằm điều chỉnh hoạt động trên thị trƣờng. Cần xây dựng cơ sở pháp lý cho việc hình thành, thực hiện, theo dõi, thanh lý, giải quyết tranh chấp các hợp đồng kinh tế và xử lý các vấn đề kinh tế - tài chính khi doanh nghiệp phá sản hay giải thể theo qui luật thị trƣờng. - Đa dạng hoá các nguồn lực đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với phát triển khu vực kinh tế tƣ nhân. Các nguồn lực rất đa dạng và phong phú nên một trong những bí quyết tồn tại và phát triển của doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tƣ nhân chính là lựa chọn và triển khai thực hiện chiến lƣợc và các biện pháp cụ thể khai thác các nguồn lực một cách hợp lý, phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp. - Ngoài một số ƣu đãi tạm thời, về cơ bản, dài hạn, không nên áp dụng các chính sách ƣu đãi mà là tạo điều kiện, môi trƣờng ổn định, thuận lợi lâu dài cho kinh tế tƣ nhân phát triển. 20 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Các nền kinh tế chuyển đổi: Lý luận và thực tiễn - Trung tâm KHXH&NVQG, Viện Thông tin khoa học xã hội - Hà Nội 1998. 2. Con đƣờng dẫn tới nền kinh tế thị trƣờng - János Kornai (The Road to a Free Economy - Shifting from a Socialist System: The Example of Hungary) - Hà Nội: Hội tin học Việt Nam, 2001. 3. Nhà nƣớc trong một thế giới đang chuyển đổi – NHTG – NXB Chính trị quốc gia 1998. 4. Báo cáo chính trị của BCH TW tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 11 (2011) 5. Báo cáo chính trị của BCH TW tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 12 (2016) 6. Nghị quyết số 07 – NQ/TW tháng 11/2016 về “Chủ trƣơng, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nƣớc, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững” 7. Nghị quyết số 10, 11, 12 của BCHTW tại Hội nghị TW5 (2017) 8. Nghị quyết 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lƣợng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập 9. Nghị quyết số 05/NQ-TW tháng 11/2016 về một số chủ trƣơng, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trƣởng, nâng cao chất lƣợng tăng trƣởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế 10. https://www.forbes.com/global2000/list/#tab:overall 11.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhu_vuc_kinh_te_tu_nhan_trong_nen_kinh_te_thi_truong_viet_na.pdf
Tài liệu liên quan