Năng lực chính trị
Liên quan đến năng lực chính trị ở cấp
độ cá nhân, tri thức chính trị và trải nghiệm
chính trị, hay còn gọi là “nhạy bén chính trị”
là phẩm chất then chốt của những người
tham gia làm chính sách19. Để đóng vai trò
hiệu quả trong chu trình chính sách, người
tham gia làm chính sách cần phải có “cái
mũi nhạy” về chính trị không chỉ trong nội
bộ một cơ quan, tổ chức, mà mở rộng ra cả
môi trường chính trị bên ngoài; biết xác định
các chủ thể quan trọng khác tham gia vào
chu trình chính sách với những lợi ích, quan
điểm, mối quan hệ khác nhau; hiểu rõ về sự
mặc cả chính trị để đi đến thỏa thuận giữa
các bên.
Về năng lực chính trị ở cấp độ tổ chức,
thách thức nằm ở chỗ làm sao để xây dựng,
phát triển mối quan hệ với các đối tác cùng
trong chính phủ và với công chúng bên
ngoài20. Để thành công trong chính sách,
chính phủ cần thu hút sự quan tâm và đóng
góp của công chúng để giải quyết các vấn đề
chính sách. Trao đổi hai chiều giữa chính
phủ và công chúng sẽ tạo điều kiện cho công
dân theo dõi, giám sát hoạt động của nhà
nước, tác động đến kết quả đầu ra của chính
sách.
Năng lực chính trị ở cấp độ hệ thống là
dạng năng lực có phạm vi bao phủ rộng nhất,
có thể tác động đến các yếu tố khác thuộc
năng lực chính sách nói chung. Năng lực này
gắn với khả năng thu hút sự ủng hộ, lòng tin
của công chúng đối với hành động chính
sách trong các lĩnh vực như chính trị, kinh
tế, xã hội, an ninh v.v., tạo dựng tính chính
danh của chính sách trong xã hội
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 250 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khung phân tích năng lực chính sách - Lý thuyết đánh giá năng lực chính sách công, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 12 (412) - T6/202036
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
KHUNG PHÂN TÍCH NĂNG LỰC CHÍNH SÁCH - LÝ THUYẾT ĐÁNH GIÁ
NĂNG LỰC CHÍNH SÁCH CÔNG1
Nguyễn Đức Lam*
*Trung tâm Bồi dưỡng đại biểu dân cử, Văn phòng Quốc hội
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Năng lực chính sách, chính
sách công, đại biểu Quốc hội.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 18/5/2020
Biên tập : 08/6/2020
Duyệt bài : 10/6/2020
Article Infomation:
Key words: Policy capacity; public
policy; National Assembly deputy.
Article History:
Received : 18 May. 2020
Edited : 08 Jun. 2020
Approved : 10 Jun. 2020
Tóm tắt:
Năng lực chính sách là một trong những khái niệm cơ bản trong
nghiên cứu và thực hành chính sách công. Trên thế giới, các nhà
nghiên cứu chính sách công còn có ý kiến khác nhau về khái
niệm này, và rất ít nghiên cứu có hệ thống định hình năng lực
chính sách và đo lường nó2. Nghiên cứu riêng biệt liên quan đến
năng lực chính sách của nghị viện/Quốc hội, nghị sỹ/đại biểu
Quốc hội (ĐBQH) càng hiếm hoi, nhất là ở Việt Nam. Trong
phạm vi bài viết này, tác giả giới thiệu khái quát các định nghĩa
khác nhau về năng lực chính sách và trình bày tổng quát về
khung phân tích năng lực chính sách do một số nhà nghiên cứu
thiết kế. Khung phân tích năng lực chính sách này có thể được
tham khảo để phân tích, đánh giá năng lực chính sách của Quốc
hội, ĐBQH.
Abstract:
Policy capacity is one of the basic concepts in research and
implementation of public policy. Researchers of public policy
in the world have different opinions on this concept, and very
few systematical studies have shaped and measured the policy
capacity. It is rare to find separate studies on policy capacity by
Parliament/National Assembly, parliamentarian/National
Assembly deputies, especially in Vietnam. Within this article,
the author gives an overview of the different definitions of the
policy capacity and provides an overview of the framework of
the policy capacity analysis developed by a number of
researchers. This framework of policy capacity analysis may be
used as references for the National Assembly, National
Assembly deputies to analyze and evaluate the policy capacity.
1 Bài viết này có sử dụng kết quả nghiên cứu của Đề tài cấp bộ: “Nâng cao năng lực hoạch định chính sách
của đại biểu Quốc hội trong hoạt động lập pháp: Thực trạng và giải pháp” do Nguyễn Anh Phương làm Chủ
nhiệm, Viện Nghiên cứu lập pháp là cơ quan chủ trì.
2 X. Wu, M. Ramesh & M. Howlett (2015) Policy capacity: A conceptual framework for understanding policy
competences and capabilities, Policy and Society, 34: pp.3-4, 165-171. Link: https://doi.org/10.1016/j.pol-
soc.2015.09.001.
37Số 12 (412) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
1. Định nghĩa về năng lực chính sách
Năng lực chính sách, cải thiện năng lực
chính sách ngày càng trở nên một trong
những mối quan tâm hàng đầu của chính phủ
(theo nghĩa rộng) ở bất kỳ quốc gia nào
nhằm giải quyết các vấn đề chính sách ngày
càng phức tạp. Bên cạnh đó, sự trông đợi của
công chúng vào chính phủ trong việc ban
hành và thực hiện những chính sách hiệu quả
sẽ càng gia tăng sức ép, thách thức đối với
năng lực chính sách của chính phủ. Chẳng
hạn, cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008
bộc lộ sự bất lực của chính phủ các nước, kể
cả chính phủ các nước phát triển và đang
phát triển trong việc vận hành hệ thống tài
chính toàn cầu. Hoặc mới đây nhất, đại dịch
Covid-19 một lần nữa cho thấy, năng lực
chính sách của chính phủ có tầm quan trọng
như thế nào trong việc ngăn ngừa, phản ứng
trước những đại họa của nhân loại.
Trong bối cảnh đó, các nhà nghiên cứu
cũng như nhà thực tiễn chính sách càng quan
tâm đến khái niệm, tính chất của năng lực
chính sách, các yếu tố tạo nên năng lực chính
sách. Nhiều học giả định nghĩa, năng lực
chính sách từ góc độ của chính phủ, là “khả
năng của chính phủ đưa ra những lựa chọn
(chính sách) thông minh; đánh giá môi
trường thực tế và đưa ra các định hướng
chiến lược; cân nhắc và đánh giá các phương
án chính sách; sử dụng tri thức một cách phù
hợp để hoạch định chính sách”3.
Một nhà nghiên cứu định nghĩa, năng
lực chính sách là “khả năng huy động các
nguồn lực cần thiết để đưa ra các lựa chọn
tập thể thích hợp, trong đó có việc thiết lập
các định hướng chiến lược, phân bổ các
nguồn lực hạn hẹp cho các mục đích
chung”4. Một nhà nghiên cứu khác có cách
nhìn tương đối giới hạn này, mặc dù bổ sung
một số yếu tố khác như thu thập, khai thác
tri thức liên quan đến chính sách, định hình
các phương án chính sách, áp dụng các
phương pháp nghiên cứu định tính, định
lượng đối với các vấn đề chính sách, sử dụng
hiệu quả truyền thông, các chiến lược giao
tiếp với các bên liên quan5.
Bên cạnh đó, có những học giả định
nghĩa năng lực chính sách một cách rộng mở
hơn, bao hàm khả năng của chính phủ thực
hiện hiệu quả những phương án hành động
đáng phải làm, cũng như khả năng quyết
định về các lựa chọn đó6. Học giả khác lại
cho rằng, năng lực chính sách là chức năng
kết nối của chính phủ các tổ chức, các lợi ích
khác nhau nhằm tạo dựng nên khối chính
sách thống nhất7. Thậm chí, có những học
giả còn nhấn mạnh một số điều kiện có tính
hệ thống của nền quản trị tốt như là những
yếu tố then chốt của năng lực chính sách
như: sự liêm chính, thượng tôn pháp luật,
tuyển dụng theo năng lực, lòng tin và sự
chính danh về mặt xã hội8. Có người tiếp cận
từ góc độ quản lý công và đề xuất tam giác
“chiến lược” gồm giá trị công, tính chính
3 X. Wu, M. Ramesh & M. Howlett (2015), tlđd.
4 Painter, M., & Pierre, J. (Eds.). (2005). Challenges to state policy capacity: Global trends and comparative
perspectives. London: Palgrave Macmillan.
5 Howlett, M. (2009), Government communication as a policy tool: A framework for analysis. The Canadian
Political Science Review, 3(June), 2. Trích theo: X. Wu, M. Ramesh & M. Howlett (2015), tlđd.
6 Davis (2000), Trích theo: X. Wu, M. Ramesh & M. Howlett (2015), tlđd.
7 Parsons (2004), Trích theo: X. Wu, M. Ramesh & M. Howlett (2015), tlđd.
8 Holmberg and Rothstein (2012); Rotberg (2014). Trích theo: X. Wu, M. Ramesh & M. Howlett (2015), tlđd.
Số 12 (412) - T6/202038
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
danh và sự ủng hộ của công chúng, năng lực
về mặt tổ chức; coi đây là nền tảng quan
trọng để các cơ quan công quyền vận hành
hiệu quả9.
Những định nghĩa về năng lực chính
sách nêu trên có một số hạn chế sau:
Thứ nhất, các định nghĩa trên đề cập
nhiều khía cạnh khác nhau của năng lực
chính sách, nhưng mỗi quan điểm chỉ nhìn
nhận năng lực chính sách dưới một góc độ
nhất định, không mang tính hệ thống, bao
trùm được các yếu tố khác nhau và mối liên
quan giữa chúng.
Thứ hai, các định nghĩa trên chưa giải
đáp được câu hỏi liệu năng lực chính sách
công chỉ liên quan đến năng lực của chính
phủ, khối công, hay được mở rộng đến cả
các chủ thể ngoài chính phủ, khối tư nhân?
2. Khung phân tích năng lực chính sách
Do những hạn chế nêu trên, mặc dù
nhận được nhiều sự chú ý trong giới nghiên
cứu, các định nghĩa lý thuyết về năng lực
chính sách không được sử dụng nhiều trong
thực tiễn. Nhận thấy khoảng trống đó trong
việc định hình đầy đủ, đa diện, có tính thực
tiễn về năng lực chính sách, một số nhà
nghiên cứu đã coi năng lực chính sách là khả
năng của các chủ thể khác nhau trong việc
phân tích, vận hành, thu hút sự ủng hộ về
mặt chính trị đối với chính sách trên các cấp
độ cá nhân, tổ chức, hệ thống10.
Khả năng phân tích có tính kỹ thuật
chính sách, hướng đến việc nhận biết vấn đề
bất cập, tìm ra các phương án giải quyết,
đánh giá chính sách. Khả năng vận hành có
tính quản lý, nhằm huy động, điều phối các
phương tiện, nguồn lực về mặt tổ chức để xây
dựng, thực hiện chính sách. Khả năng chính
trị giúp cho những người tham gia làm chính
sách huy động nguồn lực để thu hút và duy
trì sự chính danh, ủng hộ đối với chính sách.
Như vậy, năng lực chính sách bao gồm
các yếu tố sau đây:
- Ba bình diện: khả năng phân tích
(analytical competence); khả năng vận hành
(operational competence); khả năng thu hút
sự ủng hộ về chính trị (political
competence).
- Ba cấp độ: Cấp độ năng lực của cá
nhân; cấp độ năng lực của tổ chức; cấp độ
năng lực của toàn bộ hệ thống.
Khung phân tích năng lực chính sách
tổng quát được thể hiện trong Bảng 111 trang
sau.
Khung phân tích này được đánh giá cao,
tạo nền tảng lý luận vững chắc, xuất phát
điểm để phân tích năng lực chính sách của
các chủ thể khác nhau, từ quốc gia, chính
phủ, cơ quan, tổ chức, cho đến cá nhân tham
gia vào chu trình chính sách như nghị sỹ,
quan chức, chuyên gia về chính sách v.v
Khung năng lực chính sách nêu trên có một
số ưu điểm như sau12:
- Bao quát được các khía cạnh của năng
lực chính sách, không giới hạn trong một
chức năng, giai đoạn hay nhiệm vụ nhất định
nào trong chu trình chính sách, mà bao gồm
toàn bộ các giai đoạn lên chương trình nghị
sự, hình thành, ban hành, thực hiện, đánh giá
chính sách.
9 Moore (1995), Trích theo: X. Wu, M. Ramesh & M. Howlett (2015), tlđd.
10 X. Wu, M. Ramesh & M. Howlett (2015), tlđd.
11 Tổng hợp thành bảng từ bài của Xun Wu, M. Ramesh and Michael Howlett, Policy Capacity: Conceptual
Framework and Essential Components, trong sách: Wu, X., Howlett, M., & Ramesh, M. (Eds.) Policy
Capacity and Governance: Assessing Governmental Competences and Capabilities in Theory and Practice.
Palgrave, McMillan, 2018, tr.4-13.
12 X. Wu, M. Ramesh & M. Howlett (2015), tlđd.
39Số 12 (412) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
- Vượt ra khỏi khuôn khổ năng lực của
chính phủ, thừa nhận sự tham gia, tác động
của các chủ thể khác trong chu trình chính
sách đối với năng lực chính sách của chính
phủ, gồm có: các chính đảng, NGOs, doanh
nghiệp, các tổ chức quốc tế, các cơ sở nghiên
cứu, đào tạo, hiệp hội, báo chí.
- Thừa nhận mối liên hệ tác động qua lại
giữa 3 cấp độ năng lực. Theo đó, sự ủng hộ
của cả hệ thống trong một quốc gia, xã hội,
từ trên xuống dưới đối với chính sách là một
thành tố quan trọng của năng lực chính sách,
nhằm nhận được tính chính danh. Bên cạnh
đó, năng lực chính sách của toàn thể chính
phủ, hay toàn thể quốc gia không tồn tại
riêng biệt trong một môi trường chân không,
mà được tạo nên bởi năng lực chính sách của
các cá nhân, tổ chức tham gia vào chu trình
chính sách. Ở cấp độ cá nhân, năng lực của
các nhà hoạch định chính sách, quản lý,
chuyên gia đóng vai trò then chốt trong việc
hình thành, xây dựng, thực hiện chính sách
của chính phủ, quốc gia. Mặt khác, năng lực
chính sách cá nhân cao chưa chắc đã đảm
bảo được chính sách tốt hay hiệu quả, mà
còn phụ thuộc vào các nguồn lực, năng lực
ở cấp độ tổ chức và cả hệ thống rộng hơn.
- Kết hợp được các khả năng, nguồn lực
khác nhau ở mỗi cấp độ năng lực nêu trên.
Khả năng phân tích sẽ đảm bảo để các chính
sách được tốt, phù hợp về mặt kỹ thuật
(technically sound), góp phần giúp đạt được
các mục tiêu của chính sách. Khả năng vận
hành giúp huy động được các nguồn lực để
thực hiện chính sách trên thực tế. Khả năng
chính trị giúp thu hút và duy trì được sự ủng
Số 12 (412) - T6/202040
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
hộ về mặt chính trị của các chủ thể khác
nhau đối với chính sách.
3. Các yếu tố của năng lực chính sách ở
các cấp độ
3.1. Năng lực phân tích
Năng lực phân tích thuộc năng lực chính
sách ở cấp độ cá nhân là khả năng tiếp cận,
thu nhận, áp dụng tri thức kỹ thuật, có tính
khoa học, các kỹ thuật phân tích để thiết kế
và thực hiện chính sách một cách hiệu suất
và hiệu quả về mặt chi phí13. Điều này càng
quan trọng khi việc ra quyết sách dựa trên
bằng chứng khoa học ngày càng được coi
trọng, đòi hỏi các cá nhân tham gia vào
chính sách phải có năng lực hấp thụ, xử lý
thông tin trên mọi phương diện trong toàn
bộ chu trình chính sách.
Ở cấp độ tổ chức, chính phủ và các cơ
quan của chính phủ cũng phải có khả năng
phân tích, bao gồm các cá nhân với những
kỹ năng phân tích; bộ máy và quy trình thu
thập, phân tích dữ liệu; chính sách dựa trên
bằng chứng được tổ chức thành nếp một
cách quy củ14. Cần có một hệ thống thu thập,
chia sẻ thông tin hiệu quả trong một cơ quan
công quyền và giữa các cơ quan với nhau,
nhằm đảm bảo dữ liệu, thông tin được phân
tích, được lưu giữ có hệ thống, luôn có sẵn
khi cần thiết.
Ở cấp độ hệ thống, khả năng phân tích
thuộc năng lực chính sách hàm ý thực trạng
nói chung của các cơ sở nghiên cứu khoa
học, thống kê, giáo dục trong xã hội, tạo điều
kiện cho các nhà hoạch định chính sách,
người tham mưu chính sách tiếp cận thông
tin chất lượng cao để thực hiện chức năng,
nhiệm vụ15. Chẳng hạn, thực trạng của nền
giáo dục nói chung và giáo dục, đào tạo
chính sách công nói riêng, cùng với việc thu
thập, chia sẻ rộng rãi thông tin về chính sách
công có tác động mạnh mẽ đến năng lực
chính sách của chính phủ.
3.2. Năng lực vận hành
Ở cấp độ cá nhân, năng lực vận hành
hàm ý khả năng của các nhà quản lý thực
hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý, điều phối
các hoạt động chính sách16.
Ở cấp độ tổ chức, kết quả công việc của
các nhà quản lý, chuyên gia về chính sách ở
các cơ quan công quyền phụ thuộc vào tổ
chức nội tại của các cơ quan đó và môi
trường chính trị - thể chế. Mối quan hệ công
tác của các cơ quan với các cơ quan, tổ chức
khác trong chu trình chính sách; quy trình
vận hành, hiệu quả làm việc về chính sách,
nâng cao năng lực của công chức là những
yếu tố xác định năng lực vận hành chính
sách của các cơ quan làm về chính sách17.
Ở cấp độ hệ thống, theo một số nhà
nghiên cứu, năng lực vận hành thể hiện ở sự
phối hợp các hoạt động của chính phủ và các
tổ chức ngoài chính phủ nhằm giải quyết các
13 M. Howlett (2015) Policy analytical capacity: The supply and demand for policy analysis in government,
Policy and Society, 34:3-4, 173-182, https://www.tandfonline.com/doi/full/10.1016/j.polsoc.2015.09.002.
14 Vale ŕie Pattyn & Marleen Brans (2015) Organisational analytical capacity: Policy evaluation in Belgium,
Policy and Society, 34:3-4, 183-196,
https://www.tandfonline.com/doi/pdf/10.1016/j.polsoc.2015.09.009?needAccess=true.
15 Hsu Angel (2015) Measuring policy analytical capacity for the environment: A case for engaging new
actors, Policy and Society, 34:3-4, 197-208, https://www.tandfonline.com/doi/pdf/10.1016/
j.polsoc.2015.09.003?needAccess=true.
16 Tiernan Anne (2015) The dilemmas of organisational capacity, Policy and Society, 34:3-4, 209-217,
https://www.tandfonline.com/doi/pdf/10.1016/j.polsoc.2015.09.004?needAccess=true.
17 B. Guy Peters (2015) Policy capacity in public administration, Policy and Society, 34:3-4, 219-228,
https://www.tandfonline.com/doi/pdf/10.1016/j.polsoc.2015.09.005.
41Số 12 (412) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
vấn đề chính sách chung18. Ở cấp độ này, vai
trò lãnh đạo, tầm nhìn được chia sẻ, thu hút
những nhóm người ủng hộ, nghiên cứu
chính sách có ý nghĩa quan trọng trong việc
phát triển năng lực chính sách.
3.3. Năng lực chính trị
Liên quan đến năng lực chính trị ở cấp
độ cá nhân, tri thức chính trị và trải nghiệm
chính trị, hay còn gọi là “nhạy bén chính trị”
là phẩm chất then chốt của những người
tham gia làm chính sách19. Để đóng vai trò
hiệu quả trong chu trình chính sách, người
tham gia làm chính sách cần phải có “cái
mũi nhạy” về chính trị không chỉ trong nội
bộ một cơ quan, tổ chức, mà mở rộng ra cả
môi trường chính trị bên ngoài; biết xác định
các chủ thể quan trọng khác tham gia vào
chu trình chính sách với những lợi ích, quan
điểm, mối quan hệ khác nhau; hiểu rõ về sự
mặc cả chính trị để đi đến thỏa thuận giữa
các bên.
Về năng lực chính trị ở cấp độ tổ chức,
thách thức nằm ở chỗ làm sao để xây dựng,
phát triển mối quan hệ với các đối tác cùng
trong chính phủ và với công chúng bên
ngoài20. Để thành công trong chính sách,
chính phủ cần thu hút sự quan tâm và đóng
góp của công chúng để giải quyết các vấn đề
chính sách. Trao đổi hai chiều giữa chính
phủ và công chúng sẽ tạo điều kiện cho công
dân theo dõi, giám sát hoạt động của nhà
nước, tác động đến kết quả đầu ra của chính
sách.
Năng lực chính trị ở cấp độ hệ thống là
dạng năng lực có phạm vi bao phủ rộng nhất,
có thể tác động đến các yếu tố khác thuộc
năng lực chính sách nói chung. Năng lực này
gắn với khả năng thu hút sự ủng hộ, lòng tin
của công chúng đối với hành động chính
sách trong các lĩnh vực như chính trị, kinh
tế, xã hội, an ninh v.v.., tạo dựng tính chính
danh của chính sách trong xã hội21.
4. Năng lực pháp lý và năng lực chính sách
Bên cạnh các nghiên cứu về năng lực
chính sách thuần túy, mặc dù có những ưu
điểm rõ rệt, nhưng khung phân tích năng lực
chính sách vẫn còn thiếu bình diện pháp lý.
Vì vậy, có ý kiến đề xuất khung năng lực
chính sách với 4 bình diện: Phân tích, vận
hành, chính trị và pháp lý; trong đó bình diện
pháp lý có những yếu tố như: các kỹ năng
lập pháp, tư vấn pháp lý, các quy trình tố
tụng22 v.v Theo ý kiến này, sở dĩ có thể
đưa thêm năng lực pháp lý vào khung năng
lực nêu trên, vì chính sách và pháp luật luôn
đi đôi với nhau, tác động qua lại; chính sách
là nội dung cốt lõi, pháp luật là hình thức thể
hiện của chính sách. Mối liên hệ giữa năng
lực pháp lý và chính sách thể hiện trong
Bảng 2 dưới đây.
18 A. Hughes, D. Gleeson, D. Legge & V. Lin (2015) Governance and policy capacity in health development
and implementation in Australia, Policy and Society, 34:3-4, 229-245, https://www.tandfonline.com/doi/
pdf/10.1016/j.polsoc.2015.11.001?needAccess=true.
19 Leslie A. Pal & Ian D. Clark (2015) Making reform stick: Political acumen as an element of political ca-
pacity for policy change and innovation, Policy and Society, 34:3-4, 247-257,
https://www.tandfonline.com/doi/pdf/10.1016/j.polsoc.2015.09.006?needAccess=true.
20 Claire A. Dunlop (2015) Organizational political capacity as learning, Policy and Society, 34:3-4, 259-
270, https://www.tandfonline.com/doi/pdf/10.1016/j.polsoc.2015.09.007?needAccess=true.
21 J.J. Woo, M. Ramesh & M. Howlett (2015) Legitimation capacity: System-levelresources and political
skills in public policy, Policy and Society, 34:3-4, 271-283,
https://www.tandfonline.com/doi/pdf/10.1016/j.polsoc.2015.09.008?needAccess=true.
22 Marleen Brans, Frankie Schram, Stijn Smismans, Policy capacity and legal capacity: missing links at the
individual, organizational and systemic level? Paper presented at the 1st IPPA International Workshops on
Public Policy 26-28/6/2016 in Pittsburgh, United States,
Số 12 (412) - T6/202042
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
23 Marleen Brans, Frankie Schram, Stijn Smismans, tlđd.
(Xem tiếp trang 51)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khung_phan_tich_nang_luc_chinh_sach_ly_thuyet_danh_gia_nang.pdf