Nâng cao năng lực, phẩm chất, trình
độ, chuyên môn của Đại biểu Quốc hội
và tăng cường số lượng Đại biểu chuyên
trách của Quốc hội.
Chất lượng Đại biểu Quốc hội là vấn đề
then chốt trong công tác giám sát hoạt động
của Chính phủ. Do vậy, cần tiếp tục nâng cao
năng lực, phẩm chất, trình độ, chuyên môn
của Đại biểu Quốc hội để thực hiện tốt hoạt
động giám sát thực hiện quyền hành pháp
của Chính phủ. Hơn nữa, hiện nay theo quy
định của pháp luật, số lượng Đại biểu Quốc
hội chuyên trách chỉ chiếm 30% tổng số Đại
biểu quốc hội, điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn
đến hoạt động thực thi nhiệm vụ của các
Đại biểu Quốc hội. Do đó, cần tăng cường số
lượng Đại biểu chuyên trách của Quốc hội.
Mặt khác, Hiến pháp Việt Nam không đòi
hỏi có sự biệt lập về nhân sự giữa cơ quan
lập pháp, hành pháp và tư pháp, mà ngược
lại, đòi hỏi người đứng đầu các nhánh quyền
lực phải là nhân sự thuộc cơ quan lập pháp.
Thủ tướng bắt buộc phải là đại biểu cơ quan
dân cử trong cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất. Ngược lại, không có quy định nào
về việc hạn chế những người làm trong cơ
quan hành chính nhà nước trở thành đại biểu
Quốc hội. Đại biểu kiêm nhiệm vẫn chiếm đa
số trong Quốc hội. Do vậy, khả năng giám
sát của Quốc hội đối với các cơ quan hành
chính nói chung và Chính phủ nói riêng rất
khó có hiệu quả khi mà Đại biểu Quốc hội
đồng thời công tác trong lĩnh vực hành pháp.
Từ đây cần đặt vấn đề về Đại biểu chuyên
trách cần phải được quy định trong hệ thống
pháp luật. Điều này nhằm tăng cường chất
lượng đại biểu, là nhân tố quan trọng thúc
đẩy và nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát
của Quốc hội đối với các cơ quan nhà nước
nói chung, đặc biệt với Chính phủ.
Mục tiêu kiểm soát quyền hành pháp
là để nhằm cải thiện và nâng cao chất lượng
thực hiện quyền hành pháp của Chính
phủ. Trong mối quan hệ giữa Quốc hội với
Chính phủ bên cạnh mối quan hệ phối hợp
thì trọng tâm đó là quan hệ chấp hành của
Chính phủ với Quốc hội, đó là việc kiểm soát
của Quốc hội đối với Chính phủ trong thực
hiện quyền hành pháp. Việc làm rõ những
khía cạnh về kiểm soát quyền hành pháp
giữa Quốc hội với Chính phủ là nội dung
đóng vai trò quan trọng trong tổ chức thực
hiện quyền lực nhà nước, cũng như tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước trong
giai đoạn xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 355 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiểm soát quyền hành pháp của quốc hội với chính phủ theo hiến pháp năm 2013, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
34 Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2018
1.Quyền hành pháp theo Hiến pháp
năm 2013
Trong Hiến pháp năm 2013, quyền
hành pháp đã được trao cho Chính phủ với
quy định tại Điều 94:“Chính phủ là cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất, cơ quan chấp hành
của Quốc hội và thực hiện quyền hành pháp”.
Đây là lần đầu tiên Hiến pháp phân công rõ
Chính phủ thực hiện quyền hành pháp. Với
việc phân công rõ ràng này, Chính phủ sẽ
được xây dựng để trở thành một Chính phủ
mạnh, một hệ thống hành chính nhà nước
thông suốt, có đủ quyền năng và công cụ
hiến định để thực hiện quyền hành pháp.
Phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của Chính
phủ về cơ bản giống như trước, nhưng có
một số điều chỉnh quan trọng trong Hiến
pháp năm 2013 thể hiện sự tăng cường vị
trí, vai trò của Chính phủ theo hướng là cơ
quan có quyền hành pháp. Quyền hành
pháp của Chính phủ thể hiện trên các nội
dung sau đây:
Thứ nhất, về thực thi Hiến pháp và pháp
luật, đưa Hiến pháp và pháp luật vào cuộc sống:
Khoản 1 Điều 96 Hiến pháp năm 2013
đã quy định rõ Chính phủ có trách nhiệm
tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết
của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy
* Thạc sĩ, Khoa nhà nước và Pháp luật, Trường Đại
học Kiểm sát Hà Nội
KIỂM SOÁT QUYỀN HÀNH PHÁP CỦA QUỐC HỘI VỚI CHÍNH PHỦ THEO
HIẾN PHÁP NĂM 2013
LÊ NGỌC DUY*
Kế thừa quy định của các bản Hiến pháp trước đây, đặc biệt là Hiến
pháp 1992 về phân công, phối hợp thực hiện quyền lực nhà nước, đồng thời
thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội . Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một nguyên tắc mới
về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta: “Quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Điều
này là hết sức cần thiết cho nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước và
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, góp phần xây dựng
và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam giai đoạn hiện nay.
Từ khóa: Quyền hành pháp, Quốc hội, Chính phủ, Hiến pháp năm 2013.
Inheriting the provisions from the previous Constitutions, especially the
1992 one on assigning, cooperating the exercise of the State power, at the same
time institutionalizing the Platform to build the nation in the transitional period
towards socialism, the Article 2 of the Constitution of 2013 has supplemented
a new principle on the organization and operation of the State apparatus:
“The state power is unified and delegated to state agencies which coordinate
with and control one another in the exercise of the legislative, executive and
judicial powers.” This is extremely essential for the principle of organization
of the State power and the principles of organization and operation of the
State apparatus, contributing to the development and perfection of the law-
governed socialist state of Vietnam at present.
Keywords: Executive power, National Assembly, Government, the
constitution of 2013.
LÊ NGỌC DUY
35Số 06 - 2018 Khoa học Kiểm sát
ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của
Chủ tịch nước. Với việc tổ chức thực hiện
pháp luật, Chính phủ bảo đảm quản lý xã
hội, bảo đảm quyền tự do, dân chủ, quyền
con người, quyền công dân; duy trì và bảo
đảm trật tự cộng cộng.
Hiến pháp năm 2013 đã nhấn mạnh và
đề cao tính chất, vị trí, chức năng của Chính
phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Việc phân định rõ ràng hơn về
tính chất, vị trí trong phân công quyền lực
tạo cho Chính phủ có vị trí độc lập hơn, do
vậy sẽ chủ động, linh hoạt và sáng tạo hơn
trong hoạt động. Tính chất hành chính nhà
nước cao nhất nước của Chính phủ chi phối
không những mối quan hệ của Chính phủ
với hệ thống hành chính mà còn các mối
quan hệ giữa Chính phủ với các cơ quan
lập pháp, hành pháp, với các tổ chức trong
hệ thống chính trị nói chung. Theo đó, về
mặt hành chính nhà nước, Chính phủ có vị
trí và thẩm quyền cao nhất, các quyết định
của nó có giá trị trong toàn quốc. Tất cả các
cơ quan tổ chức trong hệ thống chính trị,
các tổ chức và cá nhân trong xã hội phải
tôn trọng và chấp hành. Đồng thời, bảo
đảm cho Chính phủ có quyền chủ động,
linh hoạt, phát huy tính sáng tạo trong
quản lý điều hành.
Đặc biệt, quy định này thể hiện rõ việc
quay trở lại với tư tưởng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh được thể hiện trong Hiến pháp
năm 1946 là thực hiện chính quyền mạnh
mẽ và sáng suốt của nhân dân, bởi: “Một
chính quyền mạnh trước hết phải được thể hiện
ở một Chính phủ mạnh, hiệu lực, hiệu quả.
Chính phủ mạnh thì Đảng mạnh, Chính phủ
mạnh thì Quốc hội mạnh và cơ quan tư pháp
mạnh”.
Thứ hai, về việc đề xuất, xây dựng chính
sách, dự án luật:
Khoản 2 Điều 96 Hiến pháp năm 2013
quy định rõ Chính phủ có quyền đề xuất,
xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc
quyết định theo thẩm quyền để thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều
này; trình dự án luật, dự án ngân sách
nhà nước và các dự án khác trước Quốc
hội; trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban
thường vụ Quốc hội. Có thể nói, quyền
trình dự án luật là một cấu phần rất quan
trọng của quyền hành pháp. Trong đa số
các nước hiện nay, dù là theo mô hình
tổng thống hay đại nghị, Chính phủ là
nguồn chủ yếu của các đạo luật do Nghị
viện ban hành. Sở dĩ như vậy là vì, Chính
phủ là người trực tiếp điều hành xã hội
nên nắm rõ được nhu cầu của xã hội.
Hiến pháp năm 2013 đã bỏ quy định
về thẩm quyền của Quốc hội quyết định
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.
Điều này tạo điều kiện cho Chính phủ và
các chủ thể khác chủ động, linh hoạt trong
việc đề xuất xây dựng luật, pháp lệnh;
phân định rõ hơn phạm vi chính sách và
các vấn đề quan trọng do Quốc hội và
Chính phủ quyết định trong một số lĩnh
vực, ví dụ như: Quốc hội quyết định mục
tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
quyết định chính sách cơ bản về tài chính,
tiền tệ quốc gia, còn Chính phủ có thẩm
quyền ban hành các chính sách, biện pháp
cụ thể để quản lý, điều hành các lĩnh vực.
Thứ ba, về hoạt động ban hành văn bản
quy phạm pháp luật (hoạt động lập quy) của
Chính phủ:
Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung quyền
ban hành văn bản pháp quy của Chính phủ,
Thủ tướng chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang Bộ như một nhiệm vụ, quyền
hạn độc lập của chức năng hành pháp, Điều
100 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp
luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình,
kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các
văn bản trái pháp luật theo quy định của luật”.
Đây là hoạt động mang tính thường
xuyên, liên tục của Chính phủ trong việc
thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Tính hiệu
quả của hoạt động này chính là thước đo
về chất lượng hoạt động của Chính phủ
và đội ngũ cán bộ. Do đó, trong xu thế
KIỂM SOÁT QUYỀN HÀNH PHÁP CỦA QUỐC HỘI...
36 Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2018
hiện nay, hoạt động ban hành văn bản
pháp luật của Chính phủ cần phải được
chú trọng, quan tâm và đẩy mạnh.
2. Kiểm soát quyền hành pháp của
Quốc hội với Chính phủ
Theo nghĩa chung nhất, “kiểm soát”
được hiểu là: “xem xét để phát hiện, ngăn
chặn những gì trái với quy định”(1). Kiểm
soát quyền lực nhà nước có thể hiểu là hoạt
động của các chủ thể trong xã hội được xác
lập trên cơ sở tác động đến đối tượng chịu
sự kiểm soát nhằm theo dõi, kiểm tra, giám
sát quá trình thực hiện các chức năng, nhiệm
vụ của đối tượng đó, để bảo đảm các yêu cầu
về quyền lực nhà nước được thực thi đúng
pháp luật và đạt hiệu quả cao nhất. Theo đó,
kiểm soát thực hiện quyền hành pháp là toàn
bộ những hoạt động xem xét, theo dõi, kiểm
tra, đánh giá nhằm ngăn ngừa, hạn chế, hoặc
loại bỏ nguy cơ sai phạm, hành vi vi phạm
của cơ quan, cá nhân được nhà nước trao
quyền trong tổ chức và thực thi quyền hành
pháp, bảo đảm cho quyền hành pháp được
tổ chức và thực hiện đúng mục đích và đạt
được hiệu quả cao. Mục đích của việc kiểm
soát quyền hành pháp là nhằm ngăn chặn,
hạn chế sự lạm quyền, tham nhũng trong
bộ máy nhà nước, xâm phạm đến quyền
con người, quyền công dân. Đây chính là
cách “dùng quyền lực để chế ước, kiểm soát
quyền lực”(2). Phân công quyền lực và kiểm
soát quyền lực có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Phân công quyền lực là cơ sở, là tiền đề cho
kiểm soát quyền lực. Phân công để xác định
rõ chức năng, thẩm quyền của mỗi nhánh
quyền lực. Trên cơ sở của sự phân công
quyền lực một cách rõ ràng, cụ thể, các cơ
quan nhà nước có thể kiểm soát lẫn nhau để
bảo đảm thực hiện đúng chức năng, thẩm
quyền đã được Hiến pháp và pháp luật trao.
Hiến pháp năm 2013 đã phân định rõ vị trí,
1 Hoàng Phê, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 1997
2 Nguyễn Thế Lực, “Về nguyên tắc quyền lực nhà nước
luôn thống nhất vào Hiến pháp, xuất phát từ sự phân
công, phối hợp và kiểm soát giữa các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp”, Sách chuyên khảo Sửa đổi, bổ sung
Hiến pháp năm 1992 - tập 1 những vấn đề lý luận và
thực tiễn, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, 2012, tr.274.
chức năng, thẩm quyền của Quốc hội là cơ
quan thực hiện quyền lập pháp (Điều 69) và
Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành
pháp (Điều 94). Đặc biệt, Quốc hội (bao gồm
Ủy ban thường vụ Quốc hội, các cơ quan
của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại
biểu Quốc hội) với vị trí và tính chất pháp lý
là “cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân,
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”,
ngoài chức năng lập hiến, lập pháp, quyết
định những vấn đề hệ trọng của đất nước,
còn có chức năng giám sát tối cao đối với
toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Theo quy định của Hiến pháp năm
2013, Quốc hội kiểm soát quyền hành pháp
của Chính phủ thể hiện trên các phương
diện sau đây:
- Một là, Quốc hội thực hiện chức năng
giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp,
luật và nghị quyết của Quốc hội; Xét báo
cáo công tác của Chính phủ, bầu, miễn
nhiệm, bãi nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm Thủ
tướng Chính phủ.
- Hai là, Ủy ban thường vụ Quốc hội
thực hiện quyền giám sát việc thi hành Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc
hội; Giám sát hoạt động của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ. Ủy ban thường vụ Quốc
hội có quyền bãi bỏ văn bản của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ; quyền đình chỉ việc
thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ... trái với Hiến pháp, Luật,
Nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội
quyết định việc hủy bỏ các văn bản đó; hủy
bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ trái với pháp lệnh, nghị quyết
của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Ba là, Hội đồng Dân tộc của Quốc
hội, các Ủy ban của Quốc hội đều thực
hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình do luật định đối
với hoạt động của Chính phủ.
- Bốn là, Đại biểu Quốc hội có quyền
chất vấn Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng
và các thành viên khác của Chính phủ.
Người bị chất vấn phải trả lời.
LÊ NGỌC DUY
37Số 06 - 2018 Khoa học Kiểm sát
- Năm là, Quốc hội có quyền bãi bỏ
các văn bản của Chính phủ trái với Hiến
pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội.
Quyền bãi bỏ văn bản của Quốc hội là kết
quả của hoạt động giám sát về tính hợp
hiến, hợp pháp đối với các văn bản pháp
luật do Chính phủ ban hành.
- Sáu là, Chính phủ là cơ quan chấp
hành của Quốc hội, chịu trách nhiệm trước
Quốc hội, báo cáo công tác trước Quốc hội,
Ủy ban thường vụ Quốc hội. Thủ tướng
Chính phủ - người đứng đầu Chính phủ
- chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt
động của Chính phủ và những nhiệm vụ
được giao, báo cáo công tác của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu
trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính
phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh
vực được phân công phụ trách, cùng các
thành viên khác của Chính phủ chịu trách
nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ.
- Bảy là, Quốc hội có quyền bỏ phiếu tín
nhiệm đối với người do Quốc hội bầu hoặc
phê chuẩn. Đối với Chính phủ, người do
Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn bao gồm: Thủ
tướng, các phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và
Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. Để đánh giá
kết quả công tác của các thành viên Chính
phủ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, khi
cần thiết Quốc hội có quyền bỏ phiếu tín
nhiệm để xem xét và đánh giá năng lực, trình
độ, chuyên môn, uy tín, phẩm chất đạo đức
của những người đứng đầu các cơ quan của
Chính phủ. Thực hiện hoạt động này chính là
một trong những biện pháp kiểm soát quyền
hành pháp của Chính phủ từ phía Quốc hội.
3. Thực trạng và một số biện pháp
nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền hành
pháp giữa Quốc hội với Chính phủ
3.1. Thực trạng kiểm soát quyền hành
pháp của Quốc hội với Chính phủ
Như vậy, có thể khẳng định rằng
quyền kiểm soát của cơ quan lập pháp đối
với cơ quan hành pháp đã được xác lập,
quy định khá đầy đủ trong Hiến pháp 2013
cũng chính là kiểm soát quyền hành pháp
của Quốc hội với Chính phủ. Tuy vậy, trên
thực tiễn, việc kiểm soát này chưa thực sự
đạt được hiệu quả cao, thể hiện:
Thứ nhất, hoạt động giám sát tối cao của
Quốc hội còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp.
- Một là, chủ thể giám sát (Quốc
hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu
Quốc hội) lẫn đối tượng giám sát của Quốc
hội (Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
các Bộ và cơ quan ngang bộ, Bộ trưởng và
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ) vẫn chưa
nhận thức đúng đắn và đầy đủ về vai trò
của giám sát. Một số chủ thể giám sát và
đối tượng giám sát vẫn coi nhẹ vai trò của
kiểm soát quyền lực nhà nước, chưa nhận
thức giám sát là một phương tiện để hạn
chế sự tha hoá của quyền lực, đảm bảo
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
- Hai là, phạm vi giám sát tối cao quy
định có thể chưa hợp lý. Việc giao cho
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại
biểu Quốc hội giám sát việc ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, Bộ
trưởng là chưa thật sự hợp lý. Hoạt động
của Quốc hội là hoạt động mang tính chất
chính trị - pháp lý ở tầm vĩ mô. Trong khi
đó, hoạt động giám sát ban hành văn bản
quy phạm pháp luật của những chủ thể
trên là những hoạt động chuyên môn kỹ
thuật ở tầm vi mô, thường được áp dụng
pháp luật đối với các sự kiện pháp lý cụ
thể. Do vậy, trên thực tế, hiệu lực và hiệu
quả giám sát vẫn thấp, khó tiến hành được
hoặc tiến hành mang tính hình thức.
Thứ hai, kiểm soát quyền lực hành pháp
đã có quy định nhưng thực hiện kém hiệu quả
Trong thời gian gần đây hoạt động
giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ
đã được tăng cường. Hoạt động chất vấn
Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các
thành viên khác của Chính phủ đã đi vào
nề nếp và được các cử tri quan tâm. Phương
thức chất vấn tại các phiên họp của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội ngày càng được sử
dụng phổ biến. Uỷ ban thường vụ Quốc
hội và các Uỷ ban của Quốc hội đã tiến
hành giám sát theo chương trình giám sát
KIỂM SOÁT QUYỀN HÀNH PHÁP CỦA QUỐC HỘI...
38 Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2018
ngày một thường xuyên hơn.
Tuy nhiên, có thể thấy hoạt động giám
sát của Quốc hội dù đã được tăng cường
nhưng hiệu quả còn thấp. Chưa sử dụng
phương thức Ủy ban lâm thời; hầu như
không ban hành Nghị quyết về trả lời chất
vấn; chưa tổ chức bỏ phiếu tín nhiệm đối với
các thành viên Chính phủ; chưa quy được
trách nhiệm đối với các thành viên Chính
phủ; vẫn chưa bãi nhiệm được những người
không hoàn thành nhiệm vụ...
Vấn đề đặt ra hiện nay trong kiểm
soát quyền hành pháp là: Quy định Chính
phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và
chịu sự giám sát của Quốc hội, nhưng
nếu Chính phủ vi phạm Hiến pháp, vi
phạm luật như ban hành nghị định trái
Hiến pháp, trái luật hoặc có các hành vi
vi phạm Hiến pháp thì chế độ chịu trách
nhiệm như thế nào, cả Chính phủ chịu
trách nhiệm tập thể hay Thủ tướng Chính
phủ với tư cách là người đứng đầu Chính
phủ phải chịu trách nhiệm. Nếu là trách
nhiệm tập thể như hiện nay thì chỉ là hình
thức, thực chất không chịu trách nhiệm gì.
Thứ ba, tình trạng khó kiểm soát hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật do Chính phủ ban hành
Theo Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2015, Chính phủ và các bộ,
cơ quan ngang bộ có quyền ban hành: Nghị
định của Chính phủ; Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ; Thông tư của Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; Nghị quyết
liên tịch giữa Chính phủ với cơ quan trung
ương của các tổ chức chính trị - xã hội;
Thông tư giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao; Thông tư giữa các Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ;
Hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật được ban hành ngày càng nhiều, gia
tăng về số lượng và càng ngày càng trở
nên rất phức tạp cả về nội dung quy định
lẫn khái niệm pháp lý. Nếu tính cả hàng
nghìn điều ước quốc tế mà Việt Nam ký
kết và tham gia đang có hiệu lực và áp
dụng thì rất khó có thể kiểm soát hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật do Chính
phủ ban hành. Theo quy định pháp luật
thì căn cứ vào kết quả giám sát, Quốc hội
có các quyền sau đây:
Một là, yêu cầu Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ ban hành văn bản hướng dẫn
thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội;
Hai là, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ
văn bản quy phạm pháp luật của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
Thực tế, đây vẫn là một hoạt động gặp
nhiều vướng mắc, bởi có nhiều văn bản
quy phạm pháp luật do các Bộ và cơ quan
ngang bộ ban hành có sự chồng chéo, thiếu
tính đồng bộ, khó triển khai áp dụng, dẫn
đến việc lúng túng áp dụng cho cấp dưới.
Đặc biệt, việc kiểm tra, giám sát và xử lý
các văn bản dưới luật do Chính phủ và các
Bộ ban hành còn rất hạn chế, chưa có cơ
chế xử lý rõ ràng. Như đã trình bày, Quốc
hội và các cơ quan của Quốc hội rất khó
để kiểm soát các văn bản dưới luật, trong
khi hệ thống cơ quan tư pháp thì không
có thẩm quyền giám sát các văn bản quy
phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Bộ trưởng và các Bộ ban hành.
3.2. Các biện pháp nâng cao hiệu quả
kiểm soát quyền hành pháp của Quốc hội
với Chính phủ
Hiến pháp năm 2013 đánh dấu bước
ngoặt lớn trong quá trình ghi nhận quyền
hành pháp được phân công cho Chính
phủ. Đây không chỉ là sự tiến bộ lớn trong
quá trình cải cách hành chính mà là sự
ghi nhận một cách sâu sắc việc phân chia
quyền lực nhà nước của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để có thể đảm
bảo hiệu quả phân công, phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện quyền hành pháp, chúng ta cần
chú trọng một số giải pháp sau:
- Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám
sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội
đối với Chính phủ trong thực hiện quyền
hành pháp. Xuất phát từ thực trạng hoạt
động giám sát của Quốc hội đối với Chính
LÊ NGỌC DUY
39Số 06 - 2018 Khoa học Kiểm sát
phủ trong việc thực hiện quyền hành pháp.
Chúng ta cần tăng cường việc thực hiện giám
sát quyền hành pháp bằng kết quả kiểm soát,
hậu quả pháp lý của kiểm soát quyền hành
pháp giữa Quốc hội với Chính phủ. Việc
thực hiện này sẽ mang lại hiệu quả cao thông
qua một số phương thức cụ thể như sau:
+ Một là, thường xuyên thực hiện việc bỏ
phiếu tín nhiệm đối với các thành viên của
Chính phủ. Qua đó, theo dõi, kiểm tra, đánh
giá chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ của các
thành viên Chính phủ trong nhiệm kỳ công
tác. Đây là một hoạt động cần thiết phải tiến
hành trong các kỳ họp Quốc hội, điều này
có ý nghĩa quan trọng đối với các thành viên
Chính phủ, để họ nhận thức và tự nâng cao
ý thức, trách nhiệm trước Quốc hội và Nhân
dân. Cần xây dựng kế hoạch theo dõi, kiểm
tra, đánh giá các thành viên Chính phủ mang
tính thường xuyên, kết hợp hoạt động giám
sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội,
khi cần thiết bỏ phiếu tín nhiệm để đánh giá
khách quan, mang tính xây dựng.
+ Hai là, tăng cường các hoạt động chất
vấn các thành viên của Chính phủ, đồng thời
phải gắn với cơ chế trách nhiệm theo dõi, giám
sát các báo cáo, giải trình, trả lời chất vấn của
các thành viên Chính phủ. Thực tế cho thấy,
các kỳ họp chất vấn của Quốc hội, của Đại
biểu Quốc hội đối với Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ và Bộ trưởng còn mang nặng tính
hình thức, các vấn đề chất vấn chưa đạt được
trọng tâm của vấn đề. Do vậy, cần nâng cao ý
thức, trách nhiệm, năng lực của các đại biểu
Quốc hội, đặc biệt nâng cao vai trò của người
chủ trì phiên chất vấn để phiên chất vấn thực
sự có chiều sâu và hiệu quả. Cần ban hành
Nghị quyết về việc trả lời chất vấn và theo dõi,
kiểm tra, kèm theo trách nhiệm của người trả
lời chất vấn sau khi bị chất vấn.
- Nâng cao năng lực, phẩm chất, trình
độ, chuyên môn của Đại biểu Quốc hội
và tăng cường số lượng Đại biểu chuyên
trách của Quốc hội.
Chất lượng Đại biểu Quốc hội là vấn đề
then chốt trong công tác giám sát hoạt động
của Chính phủ. Do vậy, cần tiếp tục nâng cao
năng lực, phẩm chất, trình độ, chuyên môn
của Đại biểu Quốc hội để thực hiện tốt hoạt
động giám sát thực hiện quyền hành pháp
của Chính phủ. Hơn nữa, hiện nay theo quy
định của pháp luật, số lượng Đại biểu Quốc
hội chuyên trách chỉ chiếm 30% tổng số Đại
biểu quốc hội, điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn
đến hoạt động thực thi nhiệm vụ của các
Đại biểu Quốc hội. Do đó, cần tăng cường số
lượng Đại biểu chuyên trách của Quốc hội.
Mặt khác, Hiến pháp Việt Nam không đòi
hỏi có sự biệt lập về nhân sự giữa cơ quan
lập pháp, hành pháp và tư pháp, mà ngược
lại, đòi hỏi người đứng đầu các nhánh quyền
lực phải là nhân sự thuộc cơ quan lập pháp.
Thủ tướng bắt buộc phải là đại biểu cơ quan
dân cử trong cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất. Ngược lại, không có quy định nào
về việc hạn chế những người làm trong cơ
quan hành chính nhà nước trở thành đại biểu
Quốc hội. Đại biểu kiêm nhiệm vẫn chiếm đa
số trong Quốc hội. Do vậy, khả năng giám
sát của Quốc hội đối với các cơ quan hành
chính nói chung và Chính phủ nói riêng rất
khó có hiệu quả khi mà Đại biểu Quốc hội
đồng thời công tác trong lĩnh vực hành pháp.
Từ đây cần đặt vấn đề về Đại biểu chuyên
trách cần phải được quy định trong hệ thống
pháp luật. Điều này nhằm tăng cường chất
lượng đại biểu, là nhân tố quan trọng thúc
đẩy và nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát
của Quốc hội đối với các cơ quan nhà nước
nói chung, đặc biệt với Chính phủ.
Mục tiêu kiểm soát quyền hành pháp
là để nhằm cải thiện và nâng cao chất lượng
thực hiện quyền hành pháp của Chính
phủ. Trong mối quan hệ giữa Quốc hội với
Chính phủ bên cạnh mối quan hệ phối hợp
thì trọng tâm đó là quan hệ chấp hành của
Chính phủ với Quốc hội, đó là việc kiểm soát
của Quốc hội đối với Chính phủ trong thực
hiện quyền hành pháp. Việc làm rõ những
khía cạnh về kiểm soát quyền hành pháp
giữa Quốc hội với Chính phủ là nội dung
đóng vai trò quan trọng trong tổ chức thực
hiện quyền lực nhà nước, cũng như tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước trong
giai đoạn xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kiem_soat_quyen_hanh_phap_cua_quoc_hoi_voi_chinh_phu_theo_hi.pdf