- Xuất phát từ bản chất của hệ thống chính
trị nước ta được tổ chức và hoạt động theo
cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ và
Nhà nước quản lý, nên kiểm soát quyền lực
nhà nước là kiểm soát quyền lực nhà nước
giữa Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước quản
lý. Đây là đặc điểm thể hiện mối quan hệ tất
yếu lịch sử và khách quan ở nước ta. Trong
suốt 80 năm qua, Đảng ta đã trải qua 15 năm
lãnh đạo nhân dân đấu tranh cách mạng giành
chính quyền, hơn 65 năm cầm quyền - trong
đó 30 năm cầm quyền trong hoàn cảnh chiến
tranh ác liệt chống thực dân và đế quốc xâm
lược giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước và 35 năm
cầm quyền trong hòa bình xây dựng đất nước.
Lịch sử đã chứng minh một cách thuyết phục
về tính tất yếu khách quan của sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước.
Với đặc điểm khách quan này, trong điều kiện
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đòi
hỏi phải có sự kiểm soát quyền lực nhà nước
của Đảng, đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước, hạn chế sự dựa dẫm, ỷ lại
của Nhà nước, làm cho cả hai đều yếu, không
phát huy đúng vị trí và vai trò của mình. Dưới
ánh sáng của đường lối xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN thật sự của dân, do dân và
vì dân với nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là
thống nhất nhưng có sự phân công, phối hợp
và kiểm soát trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp” đã được ghi
nhận trong Cương lĩnh của Đảng, đòi hỏi phải
tiếp tục đổi mới về nội dung và phương thức
lãnh đạo của Đảng, để xứng đáng là một Đảng
cầm quyền về trí tuệ, về tư tưởng, về phẩm
chất năng lực lãnh đạo và hoạt động thực tiễn.
Vấn đề trước hết trong mối quan hệ này là
phân công trách nhiệm giữa Đảng lãnh đạo và
Nhà nước quản lý như thế nào cho rõ ràng,
minh bạch, có hiệu lực và hiệu quả, để Đảng
không quyết định thay Nhà nước, để phát huy
dân chủ, tập hợp trí tuệ của các tầng lớp nhân
dân, tạo sự đồng thuận giữa Đảng, Nhà nước
và nhân dân đối với những quyết định trọng
đại của đất nước (trừ những quyết định bí mật
quốc gia). Dựa trên sự phân công trách nhiệm
rõ ràng đó, Đảng thực hiện việc kiểm soát
quyền lực nhà nước và phát huy vai trò của
Nhà nước là một nội dung quan trọng trong tổ
chức và hoạt động quyền lực ở nước ta.
- Kiểm soát quyền lực nhà nước giữa nhân
dân - chủ thể tối cao và duy nhất của quyền
lực nhà nước, đối với Nhà nước - chủ thể quản
lý. Đây là mối quan hệ kiểm soát quyền lực
của người chủ đối với Nhà nước. Thực tiễn chỉ
ra rằng, chỉ có phân định một cách thực chất,
giao quyền một cách rõ ràng những nhiệm
vụ quyền hạn gì cho Nhà nước, còn những gì
nhân dân thực thi quyền lực nhà nước một cách
trực tiếp hoặc thông qua tổ chức chính trị, xã
hội, nghề nghiệp của mình, thì nhân dân mới
thực hiện được quyền kiểm soát quyền lực nhà
nước có hiệu quả. Đồng thời, xây dựng một
cơ chế giám sát hữu hiệu để nhân dân kiểm
soát được quyền lực nhà nước đã giao, đã ủy
quyền cho Nhà nước, đặc biệt là hoàn thiện
và cụ thể hóa cơ chế nhân dân thực hiện được
quyền bãi nhiệm và miễn nhiệm những người
do mình bầu ra khi họ không còn xứng đáng
(đã được Hiến pháp quy định nhưng trong thực
tiễn, nhân dân chưa thực hiện được).
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 214 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 16(201) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 58
2011
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
1. Ý nghĩa của kiểm soát quyền lực
- Trước hết, kiểm soát quyền lực nhà nước
bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất của Nhà
nước pháp quyền XHCN là “Tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân”. Quyền lực nhà
nước không phải là quyền lực tự có của Nhà
nước mà quyền lực của nhân dân, được nhân
dân ủy quyền, nhân dân giao quyền. Nhân dân
không trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước
của mình mà lại giao cho Nhà nước thay mình
thực hiện, nên tất yếu nảy sinh đòi hỏi chính
đáng và tự nhiên phải kiểm soát quyền lực nhà
nước. Mặt khác, khi ủy quyền cho Nhà nước,
quyền lực nhà nước lại thường vận động theo
xu hướng tự phủ định mình, trở thành đối lập
với chính mình lúc ban đầu (từ của nhân dân là
số đông chuyển sang số ít của một nhóm người
hoặc của một người). C.Mác gọi hiện tượng
này là sự tha hóa của quyền lực nhà nước.
Quyền lực nhà nước là của nhân dân giao cho
các cơ quan nhà nước suy cho cùng là giao cho
những con người cụ thể thực thi. Mà hành động
của con người thì luôn luôn chịu sự tác động
của các loại tình cảm và dục vọng khiến cho
lý tính đôi khi bị chìm khuất3. Đặc biệt là khi
lý tính bị chi phối bởi các dục vọng, thói quen
hay tình cảm thì khả năng sai lầm trong việc
thực thi quyền lực nhà nước càng lớn. Với đặc
điểm đó của con người, không thể khẳng định
người được ủy quyền luôn luôn làm đúng, làm
đủ những gì mà nhân dân đã ủy quyền. Vì vậy,
kiểm soát quyền lực nhà nước là một nhu cầu
(*) GS, TS. Văn phòng Quốc hội.
(1 và 2) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb. Chính trị Quốc gia. H., 2011, trang 85.
(3) JonMills. Luận về tự do, Nxb, Chính trị Quốc gia, H., 2005, tr 131.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)
đã khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân”1; tổ chức và hoạt động của nó dựa trên một trong những nguyên tắc nền tảng: “Quyền lực Nhà
nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp ”2. So với Cương lĩnh năm 1991, lần này Cương lĩnh chẳng những bổ sung thêm
“Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN” mà còn đưa một nội dung mới vào nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của bộ máy Nhà nước là “Kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp”. Sự bổ sung và phát triển này có ý nghĩa gì? Và nội dung của nó như thế nào?
TRầN NGọC ĐƯờNG*
KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
6 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 16(201) 82011
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
khách quan từ phía người ủy quyền là nhân
dân đối với người được ủy quyền là Nhà nước.
Hơn thế nữa, quyền lực nhà nước không phải
là một đại lượng có thể cân, đong, đo, đếm
xác định được một cách chính xác, để có thể
giao quyền một cách cụ thể. Điều đó lại càng
đòi hỏi phải kiểm soát quyền lực nhà nước để
hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền, mâu thuẫn
chồng chéo hoặc trùng lắp trong quá trình thực
thi quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà
nước, làm cho hiệu lực và hiệu quả thực thi
quyền lực nhà nước bị hạn chế.
Xuất phát từ đòi hỏi khách quan nói trên,
quyền lực nhà nước thường được lượng hóa,
phân định thành các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Sự lượng hóa này là để giao
cho các cơ quan nhà nước khác nhau, thay mặt
nhân dân thực hiện. Sự phân định các quyền
như vậy là điều kiện cơ bản để nhân dân giao
quyền mà không bị lạm quyền, nhân dân kiểm
soát và đánh giá được hiệu lực và hiệu quả thực
hiện các quyền mà mình đã giao. Đồng thời
cũng là để cho các cơ quan tương ứng được
giao quyền đề cao trách nhiệm trong việc thực
thi quyền lực nhà nước và tự kiểm tra việc thực
hiện quyền lực nhà nước được giao của mình.
Vì thế, phân công quyền lực nhà nước là cơ sở,
là đòi hỏi khách quan để thực hiện được việc
kiểm soát quyền lực nhà nước.
Quyền lập pháp là quyền đại diện cho nhân
dân thể hiện ý chí chung của quốc gia. Những
người được nhân dân trao quyền này là những
người do phổ thông đầu phiếu bầu ra hợp thành
cơ quan gọi là Quốc hội. Thuộc tính cơ bản,
xuyên suốt mọi hoạt động của quyền này là đại
diện cho nhân dân, bảo đảm cho ý chí chung
của nhân dân được thể hiện trong các đạo luật
mà mình là cơ quan duy nhất được nhân dân
giao quyền biểu quyết thông qua luật là quyền
lập pháp. Đồng thời, là người thay mặt nhân
dân giám sát tối cao mọi hoạt động của Nhà
nước, nhất là hoạt động thực hiện quyền hành
pháp. Đây là một hình thức kiểm soát quyền
lực nhà nước bên trong tổ chức bộ máy nhà
nước để góp phần giúp cho các cơ quan hành
pháp và tư pháp làm đúng, làm đủ nhiệm vụ
quyền hạn được giao, hạn chế sự lạm quyền,
lộng quyền.
Quyền hành pháp là quyền tổ chức thực
hiện ý chí chung của quốc gia do Chính phủ
đảm trách. Thuộc tính cơ bản, xuyên suốt mọi
hoạt động của quyền này là quản lý nhà nước
(hay cai trị) mà thực chất là tổ chức thực hiện
pháp luật để bảo đảm an ninh, an toàn và phát
triển xã hội. Không có một Chính phủ quản lý
nhà nước hữu hiệu, thông minh thì không thể
có một Nhà nước giàu có, phát triển ổn định cả
về mặt kinh tế lẫn mặt xã hội. Thực hiện quyền
này đòi hỏi Chính phủ và các thành viên của
Chính phủ phải nhanh nhạy, quyết đoán kịp
thời và quyền uy tập trung thống nhất. Đồng
thời phải thường xuyên kiểm tra, thanh tra -
một hình thức kiểm soát quyền lực bên trong
bộ máy hành pháp.
Quyền tư pháp là quyền xét xử, được nhân
dân giao cho Tòa án và các cơ quan tư pháp.
Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên
tắc xuyên suốt và cao nhất trong tổ chức thực
hiện quyền này. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức
không được phép can thiệp vào hoạt động xét
xử của Tòa án. Đây thực chất là quyền bảo vệ
ý chí chung của quốc gia bằng việc xét xử các
hành vi vi phạm Hiến pháp, pháp luật từ phía
công dân và cơ quan nhà nước. Vì vậy, bảo
vệ pháp luật, công lý, tự do của công dân là
trách nhiệm hàng đầu của quyền tư pháp. Mọi
cơ quan, tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ tôn
trọng, giữ gìn và bảo vệ tính pháp quyền và
công lý trong các phán quyết của Tòa án. Kiểm
sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát,
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa
án - là các hình thức kiểm soát quyền lực nhà
nước bên trong bộ máy tư pháp để đảm bảo
cho quyền tư pháp độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật.
Như vậy, xuất phát từ đặc điểm của quyền
lực nhà nước, việc phân định thành ba quyền
nói trên là một nhu cầu khách quan. Thực tiễn
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước
ta chỉ ra rằng, việc phân định rành mạch ba
quyền là cách thức tốt nhất để phát huy vai trò
của nhà nước đồng thời là cơ sở để kiểm soát
Số 16(201) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 78
2011
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
việc thực hiện quyền lực nhà nước.
Ngoài ra, trong quan hệ với quyền lực nhà
nước, một thực tế khách quan thường xảy ra là
công dân không được bình đẳng với Nhà nước
về thông tin, nên thường xảy ra tình trạng: (1)
người chủ quyền lực nhà nước (nhân dân) thiếu
thông tin hoặc không được thông tin đầy đủ;
(2) khả năng Nhà nước không nắm bắt đúng
mục đích, lợi ích của nhân dân; (3) khả năng
những người thực thi quyền lực cụ thể không
hiểu rõ mục đích; (4) khả năng hiểu đúng mục
đích nhưng không sử dụng quyền lực đúng
cách, hợp lý; (5) khả năng các đại diện vì lợi
ích riêng có thể vượt quyền, lạm quyền làm tổn
hại đến mục đích chung. Hơn nữa, Nhà nước
là tổ chức duy nhất có thuộc tính cưỡng chế.
“Thuộc tính cưỡng chế mang lại cho Nhà nước
quyền lực can thiệp một cách có hiệu quả vào
các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội, nhưng
với độc quyền này, Nhà nước có thể can thiệp
một cách độc đoán, chuyên quyền, xâm hại
đến quyền và lợi ích hợp pháp của con người.
Quyền này cộng với bất bình đẳng về thông tin
giữa dân chúng và Nhà nước tạo ra những cơ
hội cho các công chức xúc tiến những lợi ích
của riêng họ hay những bạn bè đồng minh của
họ, làm thiệt hại cho lợi ích chung. Những khả
năng kiếm lợi và tham nhũng là rất lớn4.
- Hai là, kiểm soát quyền lực trong Nhà
nước pháp quyền XHCN còn là tất yếu kỹ thuật
để thực thi quyền lực đạt hiệu quả. Quyền lực
nhà nước nếu không được tổ chức thành hệ
thống, tuân theo những nguyên tắc, cơ chế,
quy trình nhất định và được thực thi bởi những
con người cụ thể thì quyền lực không phát huy
được vai trò của mình. Ngày nay, cùng với sự
phát triển như vũ bão của khoa học và công
nghệ, xã hội càng trở nên hiện đại, tổ chức
quyền lực nhà nước lại càng phải có sự phân
công, phối hợp và kiểm soát. Đây là một yêu
cầu khách quan do sự phân công lao động xã
hội, do tính chuyên nghiệp hóa của hoạt động
quyền lực. Đồng thời trong lao động quyền lực
cũng có những hạn chế. Trước hết, khả năng
của con người là hữu hạn bắt nguồn từ sự hữu
hạn của trí tuệ và lý tính của mình. Dù một
người có trí tuệ siêu việt, là “thánh nhân” như
thế nào đi nữa thì khả năng sai lầm vẫn có thể
xảy ra “loài người không phải là thánh thần
không bao giờ sai lầm, chân lý của họ phần
nhiều chỉ là các chân lý một nửa”5.
Do vậy, khả năng sai lệch trong nhận thức và
thực thi quyền lực nhà nước, khả năng sử dụng
quyền lực thiếu hiệu quả là có thể xảy ra.
Hơn nữa, con người bị điều khiển bởi nhiều
khát vọng, trong đó có khát vọng về quyền lực
vừa là mục tiêu, vừa là công cụ để đạt được
các khát vọng khác. Hobbes nhấn mạnh: “Tinh
thần vị kỷ trong loài người là một khát vọng
không ngừng đối với quyền lực và điều này
chỉ mất đi khi con người chết”6. C. Mác - cũng
như Locke và Hobbes - đều cho rằng, bản chất
của con người là có thể thay đổi được. Do đó,
không thể khẳng định người được ủy quyền
luôn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
Vì vậy, trong tổ chức quyền lực nhà nước cần
phải có sự kiểm soát một cách chặt chẽ những
con người làm việc trong bộ máy quyền lực
nhà nước, để có thể phát hiện và xử lý được
khi những người này không còn xứng đáng với
sự tín nhiệm của nhân dân.
- Ba là, kiểm soát quyền lực trong xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam còn
bắt nguồn từ đặc trưng Nhà nước ta do một
Đảng duy nhất lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã
hội là một tất yếu lịch sử. Tất yếu đó đòi hỏi
phải kiểm soát quyền lực giữa các chủ thể cấu
thành hệ thống chính trị ở nước ta. Đó là:
+ Kiểm soát của nhân dân, chủ thể tối cao của
quyền lực nhà nước đối với quyền lực nhà nước.
+ Kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước giữa
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, giữa
(4) Ngân hàng Thế giới (1998), Nhà nước trong một thế giới chuyển đổi, H., 1998, tr. 126.
(5) John Mills. Sđd, tr13
(6) Hobbes. Leviathan, Harmondsworth, Penguin, 1968, p 161.
8 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 16(201) 82011
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
quyền lực nhà nước ở trung ương và quyền lực
nhà nước ở địa phương.
+ Kiểm soát của chủ thể lãnh đạo nhà nước
là Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước.
Kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các
chủ thể nói trên là nhằm đảm bảo cho tổ chức
và hoạt động của Nhà nước vận hành nhịp
nhàng, ăn khớp và thông suốt, chống được
lạm quyền, lộng quyền. Tổ chức và hoạt động
của quyền lực nhà nước có sự kiểm soát thì
“tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân” không chỉ tuyên bố trong Cương lĩnh,
trong Hiến pháp mà là điều kiện làm cho nó
trở thành hiện thực. Do đó, “kiểm soát quyền
lực” thực chất là kiểm soát quyền lực nhà
nước để đảm bảo cho tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân, bản chất của Nhà
nước pháp quyền XHCN mà Đảng và Nhà
nước ta đang hướng tới xây dựng.
2. Nội dung cơ bản của kiểm soát quyền
lực nhà nước ở nước ta
Kiểm soát quyền lực nhà nước là một vấn đề
phức tạp, bởi sự phức tạp của tổ chức quyền lực
nhà nước và hoạt động thực thi quyền lực nhà
nước. Tính phức tạp đó, một mặt do kiểm soát
việc sử dụng quyền lực nhà nước để chống sự
lạm dụng nó là đòi hỏi bắt buộc đối với bất kỳ
nhà nước dân chủ và pháp quyền nào. Nhưng
mặt khác, kiểm soát được việc sử dụng quyền
lực nhà nước mà lại không làm mất đi tính năng
động, mềm dẻo cần phải có để tiến hành các
công việc nhà nước. Cái khó nhất trong thiết kế
một chính quyền nhà nước trước hết là làm cho
bộ máy nhà nước có khả năng kiểm soát được
xã hội và sau nữa - không kém phần quan trọng
- là buộc Nhà nước phải tự kiểm soát được chính
mình. Vì thế, kiểm soát quyền lực nhà nước
theo nghĩa rộng chính là việc thiết kế tổ chức và
thực thi quyền lực nhà nước sao cho đạt được
mục đích chính trị chung và đạt được hiệu quả
cao nhất. Xét theo nghĩa hẹp, kiểm soát quyền
lực nhà nước là toàn bộ những phương thức,
quy trình, quy định mà dựa vào đó, Nhà nước
và xã hội có thể ngăn chặn, loại bỏ những hoạt
động sai trái của các thiết chế quyền lực nhà
nước, phát hiện và điều chỉnh được việc thực
thi quyền lực nhà nước, đảm bảo cho quyền lực
nhà nước thực thi đúng mục đích chung và đạt
được hiệu quả cao nhất. Vì thế, quyền lực nhà
nước chỉ có thể kiểm soát được khi có cơ chế
xác định và các điều kiện cần thiết cho sự vận
hành của nó trên thực tế. Cơ chế đó bao gồm
kiểm soát bên ngoài, lẫn kiểm soát bên trong
quyền lực nhà nước.
Mục đích của kiểm soát quyền lực nhà nước,
theo chủ nghĩa Mác - Lênin, là loại bỏ những
điều kiện xã hội đã sản sinh ra Nhà nước và
giai cấp. Đây chính là quá trình khắc phục sự
tha hóa của quyền lực nhà nước, đưa quyền
lực nhà nước trở về với đúng nghĩa của nó là
quyền lực của nhân dân, quyền lực thực hiện
chức năng công quản xã hội. Vì thế, có thể nói,
nội dung của kiểm soát quyền lực nhà nước là:
(i) đảm bảo cho quyền lực nhà nước được sử
dụng đúng mục đích; (ii) đảm bảo cho quyền
lực nhà nước thực thi có hiệu lực, hiệu quả.
Cần phải nhận thức sâu sắc vai trò của
kiểm soát quyền lực nhà nước. Bởi trong Nhà
nước dân chủ và pháp quyền thì quan hệ giữa
Nhà nước và nhân dân là quan hệ đại diện, ủy
quyền. Bản thân quan hệ này cần phải khắc
phục các biểu hiện sau:
Một là, giữa người chủ và người đại diện
có thể xảy ra mâu thuẫn về lợi ích. Nếu xảy ra
điều đó thì kết quả là người chủ phải chịu sự
thiệt thòi nào đó về lợi ích của mình, do người
đại diện không làm đúng, làm đủ nhiệm vụ
và quyền hạn được giao; người chủ phải chịu
những tổn thất do người đại diện gây ra.
Hai là, sự không bình đẳng về thông tin và
hành động giữa người chủ và người đại diện
nhất là trong điều kiện của nền kinh tế tri thức
và khoa học công nghệ phát triển như vũ bão.
Người đại diện vốn có những thông tin mà
người chủ không thể có hoặc phải chi phí lớn
mới có được. Người đại diện lại có thể sử dụng
nhiều hành động khác nhau làm cho người chủ
khó lòng mà nhận xét và kết luận về tính đúng
đắn của các kết quả do họ đưa ra.
Ba là, trong các thể chế dân chủ, tổ chức và
hoạt động quyền lực nhà nước thường xảy ra
Số 16(201) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 98
2011
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
một thực tế là: có trường hợp thiểu số là đúng
và hợp lý nhưng vẫn phải chịu sự chi phối và
quyết định của đa số thiển cận. Đây là vấn đề
nan giải đã được đặt ra từ lâu trong lịch sử
chính trị và được Madison khái quát thành “sự
chuyên chế của đa số”.
Để khắc phục những nhược điểm nói trên
của lao động quyền lực nhà nước, kiểm soát
quyền lực được xem là một nguyên tắc hiến
định. Vì thế, kiểm soát quyền lực phải được
ghi nhận và bổ sung vào Hiến pháp năm 1992
và tiếp tục thể chế trong các đạo luật về tổ
chức bộ máy nhà nước. Việc thể chế nguyên
tắc kiểm soát quyền lực của Cương lĩnh thành
nguyên tắc hiến định và tiếp tục cụ thể hóa
trong các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước
trong thời gian sắp tới, cần tập trung vào các
nội dung sau đây:
- Xuất phát từ bản chất của hệ thống chính
trị nước ta được tổ chức và hoạt động theo
cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ và
Nhà nước quản lý, nên kiểm soát quyền lực
nhà nước là kiểm soát quyền lực nhà nước
giữa Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước quản
lý. Đây là đặc điểm thể hiện mối quan hệ tất
yếu lịch sử và khách quan ở nước ta. Trong
suốt 80 năm qua, Đảng ta đã trải qua 15 năm
lãnh đạo nhân dân đấu tranh cách mạng giành
chính quyền, hơn 65 năm cầm quyền - trong
đó 30 năm cầm quyền trong hoàn cảnh chiến
tranh ác liệt chống thực dân và đế quốc xâm
lược giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước và 35 năm
cầm quyền trong hòa bình xây dựng đất nước.
Lịch sử đã chứng minh một cách thuyết phục
về tính tất yếu khách quan của sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước.
Với đặc điểm khách quan này, trong điều kiện
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đòi
hỏi phải có sự kiểm soát quyền lực nhà nước
của Đảng, đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước, hạn chế sự dựa dẫm, ỷ lại
của Nhà nước, làm cho cả hai đều yếu, không
phát huy đúng vị trí và vai trò của mình. Dưới
ánh sáng của đường lối xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN thật sự của dân, do dân và
vì dân với nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là
thống nhất nhưng có sự phân công, phối hợp
và kiểm soát trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp” đã được ghi
nhận trong Cương lĩnh của Đảng, đòi hỏi phải
tiếp tục đổi mới về nội dung và phương thức
lãnh đạo của Đảng, để xứng đáng là một Đảng
cầm quyền về trí tuệ, về tư tưởng, về phẩm
chất năng lực lãnh đạo và hoạt động thực tiễn.
Vấn đề trước hết trong mối quan hệ này là
phân công trách nhiệm giữa Đảng lãnh đạo và
Nhà nước quản lý như thế nào cho rõ ràng,
minh bạch, có hiệu lực và hiệu quả, để Đảng
không quyết định thay Nhà nước, để phát huy
dân chủ, tập hợp trí tuệ của các tầng lớp nhân
dân, tạo sự đồng thuận giữa Đảng, Nhà nước
và nhân dân đối với những quyết định trọng
đại của đất nước (trừ những quyết định bí mật
quốc gia). Dựa trên sự phân công trách nhiệm
rõ ràng đó, Đảng thực hiện việc kiểm soát
quyền lực nhà nước và phát huy vai trò của
Nhà nước là một nội dung quan trọng trong tổ
chức và hoạt động quyền lực ở nước ta.
- Kiểm soát quyền lực nhà nước giữa nhân
dân - chủ thể tối cao và duy nhất của quyền
lực nhà nước, đối với Nhà nước - chủ thể quản
lý. Đây là mối quan hệ kiểm soát quyền lực
của người chủ đối với Nhà nước. Thực tiễn chỉ
ra rằng, chỉ có phân định một cách thực chất,
giao quyền một cách rõ ràng những nhiệm
vụ quyền hạn gì cho Nhà nước, còn những gì
nhân dân thực thi quyền lực nhà nước một cách
trực tiếp hoặc thông qua tổ chức chính trị, xã
hội, nghề nghiệp của mình, thì nhân dân mới
thực hiện được quyền kiểm soát quyền lực nhà
nước có hiệu quả. Đồng thời, xây dựng một
cơ chế giám sát hữu hiệu để nhân dân kiểm
soát được quyền lực nhà nước đã giao, đã ủy
quyền cho Nhà nước, đặc biệt là hoàn thiện
và cụ thể hóa cơ chế nhân dân thực hiện được
quyền bãi nhiệm và miễn nhiệm những người
do mình bầu ra khi họ không còn xứng đáng
(đã được Hiến pháp quy định nhưng trong thực
tiễn, nhân dân chưa thực hiện được).
(Xem tiếp tang 18)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kiem_soat_quyen_luc_nha_nuoc_trong_xay_dung_nha_nuoc_phap_qu.pdf