Kết luận và kiến nghị
Pháp luật của các quốc gia thành viên
WTO có nghĩa vụ tuân thủ và đảm bảo thực
hiện đúng các quy định của WTO. Pháp
luật về tự vệ của Việt Nam cũng không nằm
ngoài thông lệ này. Tuy nhiên, quy định về
yếu tố “diễn tiến không lường trước được”
chưa được cụ thể hóa trong Luật QLNT và
các văn bản hướng dẫn thi hành. Vì vậy,
việc đơn thuần áp dụng Điều 92 Luật QLNT
mà không xem xét yếu tố “diễn tiến không
lường trước được” như là một trong những
điều kiện cần đánh giá khi áp dụng biện
pháp tự vệ để kết luận nguyên nhân thiệt hại
và áp dụng biện pháp tự vệ chính thức sẽ dẫn
đến khả năng vi phạm khoản 1 Điều XIX
của GATT 1994 và Điều 20 của FTA Việt
Nam - Nhật Bản. Đây là một khoảng trống
pháp lý mà Việt Nam cần phải quan tâm, xử
lý kịp thời để đảm bảo tuân thủ các quy định
của WTO và FTA Việt Nam - Nhật Bản đã
ký kết. Với lý do đó, chúng tôi kiến nghị:
(1) Về nội dung, cần xác định rõ các
tiêu chí cho việc đánh giá yếu tố “diễn tiến
không lường trước được” như các số liệu,
biểu đồ, thông tin viện dẫn sẽ được ghi nhận
trong từng giai đoạn điều tra của các văn bản
được cơ quan điều tra Việt Nam công khai.
(2) Về thủ tục, Bộ Công thương, trên
cơ sở quy định của Luật QLNT và Nghị
định hướng dẫn thi hành luật, cần ban hành
Thông tư quy định cụ thể nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho các cơ quan điều tra Việt Nam
trong quá trình thực hiện
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 243 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến nghị hoàn thiện các điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG
BIỆN PHÁP TỰ VỆ ĐỐI VỚI HÀNG HÓA NHẬP KHẨU
Tóm tắt:
Các điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu
vào Việt Nam quy định tại Điều 92 Luật Quản lý ngoại thương
năm 2017 chưa thể hiện đầy đủ các cam kết Việt Nam đã ký kết
với WTO và FTA Việt Nam - Nhật Bản, đó là quy định về đánh giá
yếu tố “diễn tiến không lường trước được”, một trong những yêu
cầu cần đảm bảo khi xem xét các điều kiện áp dụng biện pháp tự
vệ. Đây là một vấn đề cần được nghiên cứu để hoàn thiện pháp luật
về tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.
Kim Thị Hạnh*
*ThS. NCS. Phó ban Văn hóa - Xã hội, HĐND tỉnh Tây Ninh.
Abstract
The conditions for imposition of safeguard measures against the
imports into Vietnam as stipulated at Article 92 of the Law on
Foreign Trade Management of 2017 do not fully reflect Vietnam's
commitments signed with the WTO and FTA by Vietnam - Japan,
that is the provision on evaluation of "unforeseen developments"
as one of the requirements to be taken into consideration when
considering the conditions for imposition of safeguard measures.
This is an issue needed to be reviewed for improvement of the law
on safeguard measures to the imports into Vietnam.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: các điều kiện áp dụng biện
pháp tự vệ, biện pháp tự vệ, diễn tiến
không lường trước được, Luật Quản lý
ngoại thương, WTO
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 30/03/2019
Biên tập : 07/04/2019
Duyệt bài : 16/04/2019
Article Infomation:
Keywords: conditions for imposition of
safeguard measures; safeguard measures;
unforeseen developments; Law on
Foreign Trade Management, WTO.
Article History:
Received : 30 Mar. 2019
Edited : 07 Apr. 2019
Approved : 16 Apr. 2019
1. Khái quát chung
Hiệp định chung về Thuế quan và
Thương mại (GATT 1994) cho phép quốc
gia thành viên được quyền áp dụng các biện
pháp phòng vệ thương mại nhưng không
được phương hại đến mục đích chung là
thúc đẩy và tăng cường hệ thống thương
mại quốc tế. Các biện pháp phòng vệ thương
mại được cho phép bao gồm: chống bán phá
giá, chống trợ cấp và tự vệ thương mại. Biện
pháp tự vệ được quy định tại Điều XIX của
GATT 1994 và Hiệp định về các biện pháp tự
vệ (SG). Mặc dù hai văn bản này đều không
đưa ra định nghĩa thế nào là biện pháp tự vệ,
tuy nhiên, căn cứ Điều XIX.1(a) có thể thấy
rằng, biện pháp tự vệ được áp dụng khi “do
hậu quả của những diễn tiến không lường
trước được và do kết quả của những nghĩa
vụ, trong đó có những nhân nhượng thuế
quan của một bên ký kết theo Hiệp định này,
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
17Số 10(386) T5/2019
một sản phẩm được nhập khẩu vào lãnh thổ
của bên ký kết đó với số lượng gia tăng và
với các điều kiện đến mức gây thiệt hại hoặc
đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng cho các
nhà sản xuất những sản phẩm tương tự hay
sản phẩm cạnh tranh trực tiếp trong nước”.
Bên cạnh đó, Điều XIX của GATT 1994,
Điều 2.1 và Điều 4.2 của SG quy định,
chỉ được áp dụng biện pháp tự vệ đối với
hàng hóa nhập khẩu sau quá trình điều tra và
chứng minh được trên thực tế có sự tồn tại
đồng thời của ba yếu tố: (1) sự gia tăng nhập
khẩu tuyệt đối hoặc tương đối mặt hàng đó
vào thị trường nội địa; (2) ngành sản xuất
trong nước sản xuất ra các sản phẩm tương
tự hoặc các sản phẩm cạnh tranh trực tiếp bị
thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa thiệt hại
nghiêm trọng; (3) có mối quan hệ nhân quả
giữa sự gia tăng nhập khẩu với những thiệt
hại đó.
Mặt khác, trong bối cảnh hình thành
các Hiệp định Thương mại tự do (FTA), việc
giảm thuế, ưu đãi thuế thường thấp hơn mức
thuế được thực hiện theo nguyên tắc tối huệ
quốc (MFN) được quy định của WTO, vì
thế, ngành sản xuất trong nước của các bên
tham gia FTA sẽ gặp rất nhiều rủi ro, gây tổn
hại hoặc đe dọa gây tổn hại cho ngành sản
xuất trong nước khi nền kinh tế phải thích
ứng với sự cạnh tranh trong môi trường mới.
Do đó, các biện pháp tự vệ trở thành công cụ
bảo vệ rất quan trọng trong FTA, đặc biệt là
trong giai đoạn chuyển tiếp. Vì vậy, các thỏa
thuận về biện pháp tự vệ trong các FTA rất
chú ý đến cách thức áp dụng các biện pháp
tự vệ. Đây là một quy định giống như “một
van cứu sinh” để ngăn chặn tác động tiêu
cực đến ngành sản xuất trong nước do quá
trình tự do hóa thương mại.
1 Khoản 2 Điều 92 Luật QLNT 2017.
2 Điều 6 Pháp lệnh về Tự vệ năm 2002.
2. So sánh quy định diễn tiến không lường
trước được, với điều kiện áp dụng biện
pháp tự vệ theo pháp luật Việt Nam
Điều 92 Luật Quản lý ngoại thương
(QLNT) năm 2017 quy định điều kiện áp
dụng biện pháp tự vệ. Theo quy định này, biện
pháp tự vệ chỉ được áp dụng đối với hàng hóa
nhập khẩu khi có đủ các điều kiện: (a) Nhập
khẩu quá mức khi khối lượng hoặc số lượng
hàng hóa nhập khẩu gia tăng một cách tuyệt
đối hoặc tương đối so với khối lượng hoặc
số lượng hàng hóa tương tự được sản xuất
trong nước; (b) Ngành sản xuất trong nước bị
thiệt hại nghiêm trọng hoặc bị đe dọa gây ra
thiệt hại nghiêm trọng; (c) Việc gia tăng khối
lượng hoặc số lượng hàng hóa nhập khẩu quy
định tại điểm a khoản này là nguyên nhân
chính gây ra thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe
dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng của ngành
sản xuất trong nước1.
Khi so sánh quy định về điều kiện áp
dụng biện pháp tự vệ theo quy định của Pháp
lệnh về Tự vệ năm 20022 và Luật QTNT
năm 2017, ta thấy có một sự khác biệt về
quy định đánh giá yếu tố “diễn tiến không
lường trước” trong việc xác định điều kiện
áp dụng biện pháp tự vệ. Hiện nay, Việt Nam
chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết về việc
đánh giá yếu tố “diễn tiến không lường trước
được” khi điều tra và kết luận các điều kiện
để áp dụng biện pháp tự vệ. Do vậy, cơ quan
điều tra sẽ không có nghĩa vụ phải xem xét,
đánh giá các nội dung liên quan đến việc xác
định có yếu tố “diễn tiến không lường trước
được” khi điều tra và kết luận việc áp dụng
biện pháp tự vệ đã đảm bảo các điều kiện
đánh giá theo quy định chưa.
Trước đó, quy định đánh giá yếu tố
“diễn tiến không lường trước được” trong
một cuộc điều tra về tự vệ đối với hàng hóa
nhập khẩu vào Việt Nam đã được cụ thể hóa
tại Điều 6 của Pháp lệnh về Tự vệ năm 2002
như sau: Các biện pháp tự vệ chỉ được áp
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
18 Số 10(386) T5/2019
dụng đối với hàng hoá nhập khẩu khi có đủ
các điều kiện sau đây: (1) Khối lượng, số
lượng hoặc trị giá hàng hoá nhập khẩu gia
tăng đột biến một cách tuyệt đối hoặc tương
đối so với khối lượng, số lượng hoặc trị giá
của hàng hoá tương tự hoặc hàng hoá cạnh
tranh trực tiếp được sản xuất trong nước; (2)
Việc gia tăng khối lượng, số lượng hoặc trị
giá hàng hoá nhập khẩu quy định tại khoản 1
Điều này gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại
nghiêm trọng cho ngành sản xuất hàng hoá
tương tự hoặc hàng hoá cạnh tranh trực tiếp
trong nước. Hoặc tại Điều 20 của FTA song
phương Việt Nam - Nhật Bản quy định điều
kiện áp dụng biện pháp tự vệ với nội dung:
(1) Mỗi Bên có thể áp dụng một biện pháp tự
vệ đối với hàng hoá xuất xứ của Bên kia theo
Điều XIX, Hiệp định GATT 1994 và Hiệp
định về Tự vệ trong Phụ lục 1A của Hiệp
định WTO (sau đây được gọi là Hiệp định
về Tự vệ); (2). Trong trường hợp cần thiết
nhất, . hoặc nếu Bên đó phải chịu hậu quả
từ những thay đổi không thể dự đoán trước
và những tác động từ việc thực hiện nghĩa
vụ cam kết trong Hiệp định này, gia tăng số
lượng hàng hoá xuất xứ nhập khẩu từ Bên
kia, ở mức tuyệt đối hoặc có liên quan đến
sản xuất nội địa, và ở những điều kiện gây ra
hoặc có nguy cơ gây ra tổn thương nghiêm
trọng đối với nền công nghiệp nội địa của
Bên sản xuất các hàng hoá tương tự hoặc
cạnh tranh trực tiếp. Như vậy, quy định về
đánh giá yếu tố “diễn tiến không lường trước
được” đã cụ thể hóa với cụm từ “đột biến”
trong Điều 6 Pháp lệnh về Tự vệ năm 2002
hoặc cụm từ “không thể dự đoán trước” tại
Điều 20 của FTA Việt Nam - Nhật Bản3 đã
không được Luật QLNT năm 2017 kế thừa
và duy trì.
Cho đến nay, mặc dù Việt Nam chưa
bị khởi kiện đến Cơ quan giải quyết tranh
3 FTA Việt Nam - Nhật Bản, khoản 2 Điều 20 với cụm từ không thể dự đoán được.
4 Xem Đề tài nghiên cứu khoa học năm 2017 của Trường Đại học Mở TP.Hồ Chí Minh, Sự xung đột quan điểm pháp lý
về mối liên hệ giữa ‘những diễn tiến không lường trước được’ và các điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ, Nguyễn Thu
Hương (2017), “Các biện pháp phòng vệ thương mại theo Hiệp định thương mại tự do”, Luận án Tiến sĩ, Học viện Khoa
học và Xã hội.
chấp WTO liên quan đến các biện pháp tự
vệ thương mại đã áp dụng, tuy nhiên, trong
trường hợp này, khả năng Việt Nam trở
thành nguyên đơn hay bị đơn trong tương
lai là khá lớn.
Câu hỏi được đặt ra ở đây là, pháp
luật về tự vệ của Việt Nam có nên bắt buộc
phải quy định việc đánh giá yếu tố “diễn tiến
không lường trước được” không? Trong quá
trình điều tra vụ việc tự vệ, các cơ quan điều
tra có bắt buộc phải xem xét, đánh giá yếu
tố “diễn tiến không lường trước được” trước
khi tiến hành điều tra thiệt hại và kết luận
khi nội dung này không được Luật QLNT
2017 ghi nhận không?
Do khi đàm phán để trở thành thành
viên của WTO vào năm 2007, Việt Nam
không đưa ra bảo lưu nào đối với các Hiệp
định của WTO, vì vậy, các quy định pháp
luật về tự vệ của Việt Nam gần như tiếp thu
toàn bộ các điều khoản GATT 1994 và SG,
đặc biệt trong FTA Việt Nam - Nhật Bản
cũng thỏa thuận phải thực hiện việc đánh giá
yếu tố “diễn tiến không lường trước được”
khi điều tra và kết luận các điều kiện thỏa
mãn cho phép áp dụng biện pháp tự vệ. Do
đó, việc đánh giá lại quy định của pháp luật
hiện hành về điều kiện áp dụng biện pháp tự
vệ là một việc làm cần thiết.
3. Thực tiễn áp dụng
Ở nước ta, từ năm 2009 đến nay, qua
thực tiễn điều tra 05 vụ việc áp dụng biện
pháp tự vệ đã xuất hiện khá nhiều tranh luận
về tính phù hợp của các điều kiện áp dụng
biện pháp tự vệ so với các quy định của
WTO4, nhất là việc đánh giá yếu tố “diễn
tiến không lường trước được” với các kết
luận của Bản ghi nhớ về các quy tắc và thủ
tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp của
WTO (Dispute Settlement Understanding -
DSU), cụ thể như sau:
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
19Số 10(386) T5/2019
- Vụ “Điều tra áp dụng biện pháp tự
vệ đối với sản phẩm dầu thực vật tinh luyện
nhập khẩu vào Việt Nam” năm 2012.
Trong phần lập luận, phân tích các nội
dung được xem là yếu tố “diễn tiến không
lường trước được”, cơ quan điều tra vụ dầu
thực vật tinh luyện nêu hai lý do để chứng
minh cho yếu tố “diễn tiến không lường
trước được” như sau:
+ Lý do thứ nhất: “Trong điều kiện
ngành sản xuất dầu thực vật còn phát triển
chậm, việc giảm thuế nhập khẩu xuống còn
0% năm 2012 (do Việt Nam áp dụng biểu
thuế mới của Hiệp định Thương mại hàng
hóa ASEAN) đã tạo ra một áp lực vượt ngoài
sự tính toán của ngành sản xuất trong nước”.
Tuy nhiên, lập luận cho rằng, sự kiện Việt
Nam ký kết và thực hiện các cam kết theo
FTA ASEAN về nhân nhượng thuế quan
được xem là một trong những yếu tố “diễn
tiến không lường trước được” chưa mang
tính thuyết phục. Bởi lẽ, vào thời điểm đàm
phán ký kết FTA, Việt Nam phải thấy trước
được việc nhập khẩu hàng hóa sẽ tăng lên
do hàng rào thuế quan đã bị tháo bỏ. Vì vậy,
đây là tình huống phải biết rõ và Việt Nam
có thể lường trước được tác động của nó.
Trong khuôn khổ các vụ kiện liên quan
đến biện pháp tự vệ tại WTO, yếu tố “nhân
nhượng thuế quan” làm gia tăng sự nhập
khẩu không thể là “diễn tiến không lường
trước được” đã được EU lập luận với các lý
lẽ khá thuyết phục về việc không thể đưa lý
do “nhận nhượng thuế quan” làm gia tăng
nhập khẩu là “diễn tiến không lường trước
được” khi đối chiếu với quy định tại điểm
a, khoản 1 Điều XIX GATT 19945. Hoặc
trong vụ Argentina - Giày dép, DSU đã giải
thích rằng, theo định nghĩa của từ điển đối
5 WT/DS121/R, đoạn 5.3 và 5.5, đoạn 5.55 và đoạn 5.56.
6 Webster's Third New International Dictionary, (Encyclopaedia Britannica Inc., 1966) Vol. 3, trang 2496 và
Black's Law Dictionary, 6th ed., (West Publishing Company, 1990), trang 1530.
7 Webster's Third New International Dictionary, (Encyclopaedia Britannica Inc., 1966) Vol. 3, trang 2496 và Black's Law
Dictionary, 6th ed., (West Publishing Company, 1990), trang 1530.
8 WT/DS121/AB/R, đoạn 91.
9 WT/DS98/AB/R, đoạn 84; WT/DS121/AB/R, đoạn 91.
với cụm từ “không lường trước được”, đặc
biệt khi nó liên quan đến từ “phát triển”
thì sẽ đồng nghĩa với “bất ngờ”6. Ý nghĩa
cụm từ “không lường trước được” theo định
nghĩa trong từ điển có nghĩa là “không thể
đoán trước được”7. Như vậy, ý nghĩa thông
thường của cụm từ “diễn tiến không lường
trước được” đòi hỏi một sản phẩm được nhập
khẩu với số lượng tăng lên trong những điều
kiện như gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại
nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước
phải là “bất ngờ”8. Vì vậy, DSU cho rằng
nghĩa gốc của cụm từ“diễn tiến không lường
trước được” đòi hỏi những diễn tiến đó dẫn
đến một sản phẩm được nhập khẩu gia tăng
về số lượng, gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt
hại cho nhà sản xuất nội địa phải là “không
dự đoán được”9. Trong khi đó, việc hội nhập
thương mại là một chiến lược được tính toán
rất kỹ lưỡng và thận trọng trong chính sách
thương mại của mỗi quốc gia, các quốc gia
đã mất rất nhiều thời gian để đàm phán và
cân nhắc kỹ càng tác động của nó. Do đó,
những tác động của hội nhập thương mại
gây ra (như cắt giảm hay xóa bỏ thuế quan)
là những vấn đề mà các quốc gia khi ký các
FTA phải lường trước được.
+ Lý do thứ hai: “giảm giá bán hàng
nhập khẩu làm thay đổi nhanh chóng điều
kiện cạnh tranh” không thể đảm bảo yêu
cầu “diễn tiến không lường trước được”. Vì
biện pháp tự vệ có thể áp dụng cho hành vi
thương mại bình thường nhưng phải có yếu
tố bất ngờ, không lường trước được. Nếu
việc hạ giá để cạnh tranh có thể xem là “diễn
tiến không lường trước được” thì một hành
vi thương mại bình thường cũng có thể trở
thành yếu tố “diễn tiến không lường trước
được”. Bán hàng với giá thấp là hành vi
cạnh tranh thương mại bình thường giữa các
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
20 Số 10(386) T5/2019
doanh nghiệp, một chiến lược kinh doanh
của mỗi doanh nghiệp. Các doanh nghiệp
được quyền sử dụng những hành vi cạnh
tranh lành mạnh như giảm giá hàng hóa,
miễn sao việc giảm giá đó không cấu thành
nên hành vi bán phá giá. Nếu so sánh các lập
luận về “sự thay đổi đáng kể điều kiện cạnh
tranh” đã được kết luận trong vụ Hoa Kỳ
- Mũ lông năm 1951 thì chứng cứ này của
Việt Nam sẽ không đủ thuyết phục. Lập luận
của Hoa Kỳ viện dẫn cho đánh giá “diễn tiến
không lường trước được” là những tác động
của một sự kiện thực tế như “sự thay đổi
thời trang lên vị thế cạnh tranh”. Do việc dự
đoán một sự kiện thực tế là không khó, tuy
nhiên, để đánh giá tất cả những tác động của
sự kiện đó là một vấn đề rất khó khăn. “Sự
thay đổi thời trang” đề cập ở đây liên quan
đến mặt hàng nón vải nhung (hats with nap
or pile finishes), một sự kiện “không lường
trước được” tại thời điểm đặt ra những cam
kết, được xem là “diễn tiến không lường
trước được”. Việc sản xuất sản phẩm mũ
nón của Hoa Kỳ cần nhiều lao động để thực
hiện các công đoạn gia công thủ công hơn
việc sản xuất mũ nón trơn thông thường
(nón nhung) của Tiệp Khắc. Trong khi mặt
hàng nón vải nhung trơn không có kiểu
hoặc không có hoa văn tại nước xuất khẩu
không cần sử dụng nhiều lao động thủ công
với chi phí thuê nhân công rất cao để sản
xuất các mặt hàng nón truyền thống như của
Hoa Kỳ. Do vậy, giá bán một sản phẩm nón
của Hoa Kỳ đắt hơn nhiều so với sản phẩm
nón nhung của Tiệp Khắc. Các nhà sản xuất
của Hoa Kỳ không thể sản xuất ra sản phẩm
cạnh tranh với mặt hàng tương tự là nón của
Tiệp Khắc do sản phẩm được nhận mức ưu
đãi thuế quan từ việc ký kết năm 1947. Kết
quả là một sự gia tăng nhập khẩu về mặt số
lượng tới hơn 95% trong suốt khoảng thời
gian từ năm 1949 đến sáu tháng đầu năm
1950. Tóm lại, kết luận cuối cùng trong vụ
10 GATT/CP/106, đoạn 11.
11 Mục III(4) của Báo cáo sơ bộ (trang 10) và Báo cáo cuối cùng (trang 10) của vụ việc “Điều tra áp dụng biện pháp tự vệ
đối với sản phẩm Dầu thực vật tinh luyện nhập khẩu vào Việt Nam”.
việc này là sự thay đổi thời trang không tạo
nên “diễn tiến không lường trước được” theo
Điều XIX của GATT, nhưng tác động đến
vị thế cạnh tranh là một tình huống không
thể biết trước được. Như vậy, các tác động
mà không dự đoán trước được sẽ là những
“diễn tiến không lường trước được”10.
Ngoài ra, một điểm lưu ý nữa trong vụ
điều tra tự vệ đối với sản phẩm dầu thực vật
là cách thể hiện và thời điểm thể hiện yếu tố
“diễn tiến không lường trước được”. Mục 8
của Thông báo về việc tiến hành điều tra áp
dụng biện pháp tự vệ được ban hành kèm
theo bởi Quyết định số 7968/QĐ-BCT của
Bộ trưởng Bộ Công thương ngày 26/12/2012
về việc điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối
với mặt hàng dầu thực vật tinh luyện nhập
khẩu vào Việt Nam (Quyết định 7968) quy
định: “sau khi xem xét đơn yêu cầu áp dụng
biện pháp tự vệ của nguyên đơn, Bộ Công
thương đánh giá đã có những dấu hiệu về
việc gia tăng đột biến lượng nhập khẩu hàng
hóa thuộc đối tượng điều tra và theo đó gây
thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất
hàng hóa tương tự ở trong nước. Vì vậy đã
đủ điều kiện để Bộ tiến hành điều tra áp
dụng biện pháp tự vệ đối với mặt hàng thuộc
đối tượng điều tra”. Như vậy, các thông tin
liên quan đến yếu tố “diễn tiến không lường
trước được” chưa được cơ quan điều tra ghi
nhận trong Thông báo về việc tiến hành điều
tra tự vệ. Vì thiếu sót này mà trong phần
phản hồi ý kiến của mình, Hiệp hội Dầu thực
vật Indonesia (GIMNI) đã đề nghị Việt Nam
phân tích rõ hơn vấn đề sự gia tăng hàng
hóa nhập khẩu là do yếu tố “diễn tiến không
lường trước được”11. Vấn đề này đã được
khắc phục khi các Báo cáo sơ bộ và Báo cáo
cuối cùng đều có ghi nhận nội dung đánh giá
yếu tố “diễn tiến không lường trước được”.
Đây là một nội dung cần quan tâm trong quá
trình thực hiện các thủ tục điều tra và kết
luận khi áp dụng biện pháp tự vệ chính thức.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
21Số 10(386) T5/2019
- Vụ “Điều tra áp dụng biện pháp tự
vệ đối với sản phẩm bột ngọt” năm 2015.
Trong vụ điều tra này, cụm từ “sự suy
giảm trong phát triển kinh tế tại Trung Quốc
trong năm 2014” được cơ quan điều tra đưa
ra để viện dẫn cho yếu tố “diễn tiến không
lường trước được” là chưa hợp lý. Theo lý
thuyết tăng trưởng và phát triển kinh tế của
kinh tế học phát triển, “phát triển kinh tế” là
khái niệm có nội dung phản ánh rộng hơn
so với khái niệm “tăng trưởng kinh tế”. Nếu
như “tăng trưởng kinh tế” về cơ bản chỉ là
sự gia tăng thuần túy về mặt lượng của các
chỉ tiêu kinh tế tổng hợp: GNP, GNP/đầu
người hay GDP, GDP/đầu người thì “phát
triển kinh tế” ngoài việc bao hàm quá trình
gia tăng đó, còn có một nội hàm phản ánh
rộng lớn hơn, sâu sắc hơn, đó là những biến
đổi về chất của nền kinh tế - xã hội, mà trước
hết là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa kèm
theo đó là việc không ngừng nâng cao mức
sống toàn dân, trình độ phát triển văn minh
xã hội thể hiện ở hàng loạt tiêu chí như: thu
nhập thực tế, tuổi thọ trung bình, tỷ lệ chết
của trẻ sơ sinh, trình độ dân trí, bảo vệ môi
trường và khả năng áp dụng các thành tựu
khoa học - kỹ thuật vào phát triển kinh tế -
xã hội12. Do đó, trong trường hợp bên bị áp
dụng biện pháp tự vệ không đồng tình với
quyết định áp dụng biện pháp tự vệ của Việt
Nam, khởi kiện đến WTO thì trách nhiệm
của Việt Nam khi chứng minh vấn đề này
rất lớn, thậm chí khó thu thập số liệu chứng
minh cho các vấn đề liên quan nêu trên của
người dân Trung Quốc. Trong trường hợp
này, chúng ta sử dụng cụm từ “tăng trưởng
kinh tế” thì sẽ phù hợp hơn với mục đích
chứng minh nội dung Việt Nam đang đề cập
trong vụ điều tra này.
- Vụ “Điều tra áp dụng biện pháp tự
12 Trần Anh Phương (2008), Một số khái niệm của lý thuyết kinh tế học phát triển đang được vận dụng ở nước ta hiện nay,
truy cập ngày 10/8/2018 trên https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2008/04/11/5672526/.
13 Quyết định số 14296 kèm Thông báo, mục 8.
14 WT/DS177/AB/R, WT/DS178/AB/R, Hoa Kỳ - Thịt cừu.
vệ đối với sản phẩm phôi thép và thép dài”
năm 2015.
Trong vụ việc này, cơ quan điều tra đã
nêu các nội dung viện dẫn cho yếu tố “diễn
tiến không lường trước được”. Về mặt tổng
thể, các nội dung này có thể là yếu tố “diễn
tiến không lường trước được”, tuy nhiên,
cách trình bày các yếu tố trong văn bản của
cơ quan điều tra trong vụ việc này chưa logic
và chưa chứng minh được mối quan hệ nhân
quả theo các tiêu chí cần đảm bảo khi thực
hiện biện pháp tự vệ, đó là:
+ Khi ban hành văn bản dưới hình
thức thông báo về việc tiến hành điều tra áp
dụng biện pháp tự vệ13, cơ quan điều tra đã
không đưa ra các lý do để minh chứng cho
yếu tố “diễn tiến không lường trước được”.
Mục 8 của Thông báo về việc tiến hành điều
tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với mặt hàng
phôi thép và thép dài được ban hành kèm
theo Quyết định số 14296/QĐ-BCT của Bộ
trưởng Bộ Công thương ngày 25/12/2012
(Quyết định 14296) nêu rõ: “sau khi xem
xét đơn yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ của
nguyên đơn, Bộ Công thương đánh giá đã
có những dấu hiệu về việc gia tăng đột biến
lượng nhập khẩu hàng hóa thuộc đối tượng
điều tra và theo đó gây thiệt hại nghiêm
trọng cho ngành sản xuất hàng hóa tương
tự ở trong nước. Vì vậy đã đủ điều kiện để
Bộ tiến hành điều tra áp dụng biện pháp tự
vệ đối với mặt hàng thuộc đối tượng điều
tra”. Đây là tình huống xảy ra lần thứ hai,
sau vụ điều tra sản phẩm dầu thực vật. Do
vậy, khi điều tra một vụ tự vệ, Việt Nam cần
lưu ý về thời điểm và hình thức thể hiện nội
dung đánh giá yếu tố “diễn tiến không lường
trước được”.
Thực tiễn giải quyết tranh chấp trên
thế giới cho thấy, trong vụ kiện Hoa Kỳ -
Thịt cừu14 khi Hoa Kỳ kháng cáo đến cơ
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
22 Số 10(386) T5/2019
quan phúc thẩm WTO về việc điểm a khoản
1 Điều XIX GATT 1994 không có bất kỳ
hướng dẫn nào về cách mà các bên có thể
tiếp cận với vấn đề “diễn tiến không lường
trước được”. Australia chỉ ra rằng, Điều 11.1
(a) của Hiệp định về Các biện pháp tự vệ yêu
cầu các thành viên thực hiện hành động tự
vệ theo Điều XIX của GATT 1994 để đảm
bảo rằng các biện pháp đó tuân thủ các quy
định của Hiệp định về Các biện pháp tự vệ.
Do đó, các thành viên áp dụng các biện pháp
tự vệ phải đáp ứng các yêu cầu của cả Điều
XIX của GATT 1994 và Hiệp định về Các
biện pháp tự vệ, bao gồm Điều 3.1 của SG
yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền thông
báo công khai cho “tất cả các bên liên quan”
về “ báo cáo kết quả điều tra... các kết luận
thỏa đáng trên cơ sở các vấn đề thực tế và
pháp lý”. Australia cũng cho rằng, để đáp
ứng “các điều kiện” áp dụng theo Điều 2 và
4 của SG, cơ quan có thẩm quyền phải đưa
ra quyết định bao gồm đánh giá “tất cả các
yếu tố liên quan” và Điều 4.2 (c) yêu cầu
phải công bố ngay lập tức “một bản đánh giá
chi tiết về vụ việc được điều tra cũng như
trình bày các nhân tố liên quan được xem
xét”. Đồng thời, để đáp ứng yêu cầu “diễn
tiến không lường trước được”, các cơ quan
có thẩm quyền cần kiểm tra sự tồn tại của
“diễn tiến không lường trước được” dựa trên
bằng chứng thực tế trước khi họ tiến hành
điều tra; chứng minh sự tồn tại của yếu tố
“diễn tiến không lường trước được” như một
vấn đề của thực tế và trình bày kết luận đó,
theo một cách nào đó, trong báo cáo được
công bố15. Như vậy, căn cứ nội dung khoản 1
Điều 3 của SG quy định rằng “ ...Việc điều
tra sẽ bao gồm việc thông báo công khai cho
tất cả các bên liên quan... và các bên liên
quan có thể đưa ra chứng cứ, quan điểm của
họ...” thì việc cơ quan điều tra không thể
hiện nội dung “diễn tiến không lường trước
15 WT/DS177/AB/R, WT/DS178/AB/R, đoạn 23.
16 Quyết định 862 kèm Thông báo, mục 7.
17 Quyết định 862 kèm Thông báo, mục 6.
18 WT/DS468/R, đoạn 7.64, chú thích 99.
được” trong phần Thông báo tiến hành điều
tra tự vệ sẽ gây khó khăn cho các bên liên
quan trong việc chuẩn bị các chứng cứ, lập
luận để trao đổi, báo cáo ý kiến của bên bị
khởi kiện đến cơ quan điều tra.
+ Khủng hoảng kinh tế tại Trung Quốc,
sự dư thừa công suất cũng như sản lượng
thực tế kết hợp với lượng tồn kho lớn của các
sản phẩm thép của Trung Quốc, một số quốc
gia áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại
đối với sản phẩm phôi thép và thép dài nhập
khẩu của Trung Quốc16, việc phá giá đồng
nhân dân tệ nhằm thúc đẩy xuất khẩu của
Trung Quốc17 được xem là yếu tố “diễn tiến
không lường trước được” trong báo cáo khi
áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời và chính
thức của cơ quan điều tra Việt Nam trong vụ
áp dụng biện pháp tự vệ đối với phôi thép và
thép dài theo án lệ xét xử của các cơ quan
giải quyết tranh chấp WTO.
Liên quan đến vấn đề “khủng hoảng
kinh tế” đã được Ban Hội thẩm trong vụ
Ukraine - Xe ô tô chở khách khẳng định,
“khủng hoảng kinh tế” có thể là một nội
dung thuộc yếu tố “diễn tiến không lường
trước được”18. Nhìn chung, các lý do được
viện dẫn trong vụ điều tra phôi thép và thép
dài được cơ quan điều tra sử dụng để chứng
minh cho yếu tố “diễn tiến không lường
trước được” cơ bản phù hợp. Tuy nhiên, ở
đây vấn đề cần lưu ý là sự liên kết pháp lý
giữa các yếu tố được viện dẫn này với sự gia
tăng nhập khẩu chưa được cơ quan điều tra
phân tích và công bố đầy đủ trong báo cáo
cuối cùng để kết luận việc áp dụng biện pháp
tự vệ chính thức. Các minh chứng cho nhận
định “khủng hoảng kinh tế” ở Trung Quốc
sẽ thuyết phục và chặt chẽ hơn nếu có các
số liệu minh họa dưới hình thức các biểu đồ,
số liệu cụ thể qua từng thời kỳ dẫn đến một
số tác động của nó đối với việc nhập khẩu
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
23Số 10(386) T5/2019
hàng hóa của Trung Quốc. Đây là các minh
chứng viện dẫn cho tình trạng có hay không
cuộc khủng hoảng kinh tế ở Trung Quốc
nhưng chưa được cơ quan điều tra vụ việc
này chú trọng phân tích. Sự giải thích đầy
đủ về các vấn đề liên quan đến các yếu tố
cần chứng minh của yếu tố “diễn tiến không
lường trước được” đã được DSU của WTO
trong các vụ kiện19 kết luận. DSU trong các
vụ kiện này xác nhận20 các nhận định do
Hoa Kỳ đưa ra có thể là “diễn tiến không
lường trước được” nhưng vì Hoa Kỳ không
ghi rõ ràng các căn cứ chứng minh cho yếu
tố “diễn tiến không lường trước được” trong
các văn bản công bố công khai nên các căn
cứ này không được thừa nhận là dùng để
chứng minh cho đánh giá yếu tố “diễn tiến
không lường trước được”. Ví dụ: Trong vụ
kiện Hoa Kỳ - Thép, một trong những sai
lầm và bài học kinh nghiệm của Hoa Kỳ đối
với việc chứng minh yếu tố “diễn tiến không
lường trước được” là đã không tự tạo ra được
tính liên kết giữa các dữ liệu với nhau21.
Hoặc ở vụ kiện Ukraine - Xe ô tô chở khách,
DSU khi xem xét các chứng cứ một cách rời
rạc của Ukraine viện dẫn cho việc đánh giá
yếu tố “diễn tiến không lường trước được”
nhưng không xác định rõ nội dung này trong
báo cáo được công bố, nên kết luận Ukraine
đã không chứng minh được có “ảnh hưởng
của những nghĩa vụ, trong đó có những nhân
nhượng thuế quan của một bên ký kết theo
Hiệp định này”. Kết quả, DSU đã kết luận
biện pháp tự vệ được áp dụng không tuân
thủ Điều XIX.1(a) của GATT22.
Như vậy, cách thức ghi nhận kết quả
điều tra đôi khi cũng ảnh hưởng đáng kể đến
19 Hoa Kỳ - Thịt cừu (WT/DS177/R, WT/DS178/R), Hoa Kỳ - Thép (WT/DS 259/AB/R), Ukraine – Xe ô tô chở khách
(WT/DS468/R).
20 WT/DS177/R, WT/DS178/R, đoạn 7.42.
21 WT/DS 259/AB/R, đoạn 322.
22 WT/DS468/R, đoạn 7.98 và 7.99.
23 Quyết định số 1682A/QĐ-BCT ngày 12/5/2017 của Bộ trưởng Bộ Công thương về việc tiến hành điều tra áp dụng biện
pháp tự vệ toàn cầu đối mặt hàng phân bón nhập khẩu vào Việt Nam.
24 Xem Quyết định 686, Báo cáo kết luận điều tra sơ bộ (trang 17-18) và Chính thức (trang 24 đến trang 26) vụ việc tự
vệ số 6 đối với sản phẩm phân bón.
25 WT/DS468/R đoạn 7.64, chú thích 99
tính phù hợp với các quy định pháp luật. Vì
khi các dữ kiện không kết nối được với nhau,
cơ quan giải quyết tranh chấp sẽ không có
đủ cơ sở khách quan để đưa ra kết luận, thì
liệu cơ quan có thẩm quyền của quốc gia áp
dụng có dùng dữ liệu này để chứng minh
hay không? Chính từ việc không có cơ sở
để xem xét, nên sẽ không tạo ra được các
chứng cứ bổ sung cho kết quả điều tra. Một
khẳng định đơn thuần không kèm theo dữ
liệu minh chứng sẽ không được thừa nhận
khi có tranh chấp xảy ra.
- Vụ “Điều tra áp dụng biện pháp tự
vệ đối với sản phẩm phân bón” năm 201723.
Mất mùa do thiên tai và hạn hán năm
2016 gây ra sự sụt giảm nhu cầu tiêu thụ
phân bón nội địa; dư thừa công suất toàn
cầu và suy giảm nhu cầu tiêu thụ tại các thị
trường lớn, dẫn tới việc giảm giá mạnh của
hàng hóa nhập khẩu trong giai đoạn 2015 -
201624 là các viện dẫn chứng minh cho yếu
tố “diễn tiến không lường trước được” trong
vụ điều tra tự vệ đối với sản phẩm phân bón.
Việc ảnh hưởng của thiên tai và khủng hoảng
kinh tế toàn cầu cũng đã được DSU xem xét,
kết luận trong vụ kiện Ukraine – Xe ô tô chở
khách25. Bên cạnh việc nêu các lý do cho
yếu tố “diễn tiến không lường trước được”
nêu trên, các số liệu phân tích kèm theo cho
nhận định do ảnh hưởng của thiên tai cũng
như việc thị trường phân bón thế giới đang
bị thừa cung (Ấn Độ và Trung Quốc tồn kho
hàng hóa nhiều, có thể cung cấp cho toàn
bộ nhu cầu năm 2016 ngay từ những tháng
đầu năm 2016) góp phần minh chứng thuyết
phục cho các lập luận nêu trên. Nếu so sánh
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
24 Số 10(386) T5/2019
với việc đánh giá, nhận định và các thông
tin viện dẫn kèm theo cho các lý do được
xem là “diễn tiến không lường trước” trong
các vụ điều tra tự vệ trước, vụ điều tra tự vệ
đối với sản phẩm phân bón đã cơ bản khắc
phục được những lỗi thiếu sót về thể thức
văn bản, mối liên kết hợp lý giữa “diễn tiến
không lường trước được” với “sự gia tăng
nhập khẩu”.
Từ thực trạng tiến hành điều tra và
quyết định áp dụng biện pháp tự vệ của Cục
Cạnh tranh - Bộ Công thương cho thấy, các
sự kiện, lập luận, thời điểm công khai các
nhận định dùng để chứng minh cho yếu tố
“diễn tiến không lường trước được” trong
các thủ tục và nội dung công bố của Cục còn
nhiều thiếu sót và hạn chế cần được quan
tâm, khắc phục trong thời gian tới.
4. Kết luận và kiến nghị
Pháp luật của các quốc gia thành viên
WTO có nghĩa vụ tuân thủ và đảm bảo thực
hiện đúng các quy định của WTO. Pháp
luật về tự vệ của Việt Nam cũng không nằm
ngoài thông lệ này. Tuy nhiên, quy định về
yếu tố “diễn tiến không lường trước được”
chưa được cụ thể hóa trong Luật QLNT và
các văn bản hướng dẫn thi hành. Vì vậy,
việc đơn thuần áp dụng Điều 92 Luật QLNT
mà không xem xét yếu tố “diễn tiến không
lường trước được” như là một trong những
điều kiện cần đánh giá khi áp dụng biện
pháp tự vệ để kết luận nguyên nhân thiệt hại
và áp dụng biện pháp tự vệ chính thức sẽ dẫn
đến khả năng vi phạm khoản 1 Điều XIX
của GATT 1994 và Điều 20 của FTA Việt
Nam - Nhật Bản. Đây là một khoảng trống
pháp lý mà Việt Nam cần phải quan tâm, xử
lý kịp thời để đảm bảo tuân thủ các quy định
của WTO và FTA Việt Nam - Nhật Bản đã
ký kết. Với lý do đó, chúng tôi kiến nghị:
(1) Về nội dung, cần xác định rõ các
tiêu chí cho việc đánh giá yếu tố “diễn tiến
không lường trước được” như các số liệu,
biểu đồ, thông tin viện dẫn sẽ được ghi nhận
trong từng giai đoạn điều tra của các văn bản
được cơ quan điều tra Việt Nam công khai.
(2) Về thủ tục, Bộ Công thương, trên
cơ sở quy định của Luật QLNT và Nghị
định hướng dẫn thi hành luật, cần ban hành
Thông tư quy định cụ thể nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho các cơ quan điều tra Việt Nam
trong quá trình thực hiện
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn bản pháp luật
Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại - GATT 1994;
Hiệp định về Các biện pháp tự vệ (SG);
Hiệp định Thương mại hàng hóa Asean (ATIGA);
Hiệp định Thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA);
Hiệp định về Thương mại Hàng hóa trong khuôn khổ Hiệp định khung giữa ASEAN - Ấn Độ.
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á Âu (EAEU).
Hiệp định về thương mại hàng hóa thuộc Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện giữa hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á và Trung Quốc.
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Châu Âu (EVFTA).
Hiệp định Thương mại tự do ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA);
Hiệp định Thương mại tự do ASEAN – Úc – Niu Di Lân (AANZFTA);
Hiệp định Thương mại tự do ASEAN – Nhật Bản (AJCEP);
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA);
Hiệp định Thương mại tự do ASEAN – Ấn Độ (AIFTA);
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Chile (VCFTA);
Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA);
Luật Quản lý ngoại thương 2017;
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
25Số 10(386) T5/2019
Pháp lệnh số 42/2002/PL-UBTVQH10 ngày 25/05/2002 về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào
Việt Nam;
Nghị định của Chính phủ Số 150/2003/NĐ-CP ngày 08/12/2003 Quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh về Tự vệ
trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam;
Nghị định 10/2018/NĐ-CP ngày 15/01/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý
ngoại thương về các biện pháp phòng vệ thương mại.
II. Vụ kiện tham khảo
1. Report of The Intersessional Working Party on the complaint of Czechslovakia concerning the withdrawal
by The United States of a concession under the terms of article XIX, GATT/CP/106, dated 22 October 1951
(Viết tắt là US – Hatter’s Fur hoặc Hòa Kỳ - Mũ).
2. Panel Report, Turkey – Restrictions on Imports of Textiles and Clothing Products, WT/DS34/R, dated 31
May 1999 (Viết tắt là Thổ Nhĩ Kỳ - Dệt may).
3. Appellate Body Report, Turkey – Restrictions on Imports of Textiles and Clothing Products, WT/DS34/
AB/R, dated 22 October 1999 (Viết tắt là Thổ Nhĩ Kỳ - Dệt may).
4. Appellate Body Report, Korea – Definitive Safeguard Measure on Imports of Certain Dairy Products
(“Korea - Dairy”), WT/DS98/AB/R, adopted 12 January 2000 (Viết tắt là Hàn Quốc – Sản phẩm sữa).
5. Appellate Body Report, Argentina - Safeguard Measures on Imports of Footwear, “Argentina – Footwear
(EC)”), WT/DS121/AB/R, adopted 12 January 2000 (Viết tắt là Argentina – Giày dép).
6. Appellate Body Report, United States – Definitive Safeguard Measures on Imports of Wheat Gluten from
the European Communities (“US – Wheat Gluten”), WT/DS166/AB/R, adopted 19 January 2001 (Viết tắt
là Hoa Kỳ - Lúa mì Gluten)
7. Appellate Body Report, United States – Safeguard Measures on Imports of Fresh, Chilled or Frozen Lamb
Meat from New Zealand and Australia (“US - Lamb”), WT/DS177/AB/R, WT/DS178/AB/R, adopted 16,
May 2001 (Viết tắt là Hoa Kỳ - Thịt cừu).
8. Appellate Body Report, United States – Definitive Safeguard Measures on Imports of Circular Welded
Carbon Quality Line Pipe from Korea (“US – Line Pipe”), WT/DS202/AB/R, adopted 8 March 2002 (Viết
tắt là Hoa Kỳ - Ống Carbon)
9. Appellate Body Report, United States – Definitive Safeguard Measures on Imports of Certain Steel Products,
(“US - Steel”),WT/DS248/AB/R, adopted 10 December 2003 (Viết tắt là Hoa Kỳ - Thép không gỉ);
10. Appellate Body Report, United States – Definitive Safeguard Measures on Imports of Certain Steel Products,
(“US - Steel”),WT/DS259/AB/R, adopted 10 December 2003 (Viết tắt là Hoa Kỳ - Thép không gỉ);
11. Panel Report, Ukraine - Definitive Safeguard Measures on Certain Passenger Cars - Communication from
Ukraine (Ukraine - Passenger Cars). WT/DS 468/R, adopted 30 October 2013 (Viết tắt là Ukraine – Xe ô
tô chở khách)
12. Vụ việc tự vệ số 2: Quyết định số 7968/QĐ-BCT, ngày 26/12/2012 của Bộ trưởng Bộ Công thương về việc
điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với mặt hàng Dầu thực vật tinh luyện nhập khẩu vào Việt Nam; Quyết
định 2564/QĐ-BCT ngày 22/4/2013 của Bộ trưởng Bộ Công thương ban hành áp dụng biện pháp tự vệ tạm
thời đối với sản phẩm Dầu thực vật tinh luyện; Quyết định 5987/QĐ-BCT ngày 22/8/2013 của Bộ trưởng Bộ
Công thương ban hành áp dụng biện pháp tự vệ chính thức đối với sản phẩm Dầu thực vật tinh luyện; các văn
bản như đơn khởi kiện, thông báo, báo cáo sơ bộ, báo cáo cuối cùng... liên quan đến vụ việc điều tra số 2.
13. Vụ việc tự về số 3: Quyết định số 9269/QĐ-BCT ngày 01/9/2015 của Bộ trưởng Bộ Công thương về việc
điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với mặt hàng bột ngọt nhập khẩu vào Việt Nam; Quyết định 920/QĐ-
BCT ngày 10/3/2016 của Bộ trưởng Bộ Công thương về việc áp dụng biện pháp tự vệ chính thức đối với
sản phẩm bột ngọt; các văn bản như đơn khởi kiện, thông báo, báo cáo sơ bộ, báo cáo cuối cùng... liên quan
đến vụ việc điều tra số 3.
14. Vụ việc tự về số 4: Quyết định số 14296/QĐ-BCT ngày 25/12/2015 của Bộ trưởng Bộ Công thương về việc
điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với sản phẩm phôi thép và thép dài nhập khẩu vào Việt Nam; Quyết định
2968/QĐ-BCT ngày 18/7/2016, Bộ trưởng Bộ Công thương về việc áp dụng biện pháp tự vệ chính thức đối
với sản phẩm phôi thép và thép dài; các văn bản như đơn khởi kiện, thông báo, báo cáo sơ bộ, báo cáo cuối
cùng... liên quan đến vụ việc điều tra số 4.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
26 Số 10(386) T5/2019
15. Vụ việc tự về số 5: Quyết định số 2847/QĐ-BCT ngày 06/7/2016 của Bộ trưởng Bộ Công thương về việc
điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với mặt hàng Tôn màu nhập khẩu vào Việt Nam; Quyết định số 1931/
QĐ-BCT ngày 31/5/2017 của Bộ trưởng Bộ Công thương về việc áp dụng biện pháp tự vệ chính thức đối
mặt hàng Tôn màu nhập khẩu vào Việt Nam. các văn bản như đơn khởi kiện, thông báo, báo cáo sơ bộ, báo
cáo cuối cùng... liên quan đến vụ việc điều tra số 5.
16. Vụ việc tự về số 6: Quyết định số 1682A/QĐ-BCT ngày 12/5/2017 của Bộ trưởng Bộ Công thương về việc
tiến hành điều tra áp dụng biện pháp tự vệ toàn cầu đối mặt hàng phân bón nhập khẩu vào Việt Nam; các văn
bản như đơn khởi kiện, thông báo, báo cáo sơ bộ, báo cáo cuối cùng... liên quan đến vụ việc điều tra số 6.
17. Webster's Third New International Dictionary, (Encyclopaedia Britannica Inc., 1966) Vol. 3,
18. Nguyễn Quý Trọng (2014), Pháp luật về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam - những
vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án Tiến sỹ, Học viện Khoa học và Xã hội.
19. Nguyễn Thu Hương (2017), “Các biện pháp phòng vệ thương mại theo hiệp định thương mại tự do”, Luận
án Tiến sĩ, Học viện Khoa học và Xã hội.
20. Sự xung đột quan điểm pháp lý về mối liên hệ giữa ‘những diễn tiến không lường trước được’ và các điều kiện
áp dụng biện pháp tự vệ; Đề tài nghiên cứu khoa học năm 2017 của Trường Đại học mở TP. Hồ Chí Minh.
TS Trần Anh Phương (2008), Một số khái niệm của lý thuyết kinh tế học phát triển đang được vận dụng ở nước
ta hiện nay, https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2008/04/11/5672526/; truy cập ngày 10/8/2018.
Justin Yifu Lin, How Fast Will China Grow?, Project Syndicate, https://www.project-syndicate.org/commentary/
china-2015-five-year-plan-by-justin-yifu-lin-2015-01?barrier=accesspaylog, truy cập ngày 10/8/2018.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ KIẾN NGHỊ ...
(Tiếp theo trang 16)
3.4 Tiêu chí giám sát, đánh giá ý thức của
tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện luật
Về tiêu chí giám sát, đánh giá này cần
tập trung vào các vấn đề sau đây:
- Giám sát, đánh giá xem việc tham
gia của người dân trong các hội nghị phổ
biến, giáo dục pháp luật; việc tự nghiên cứu,
tìm hiểu, quán triệt các quy định của luật
như thế nào?
- Giám sát, đánh giá về nhận thức, ý
thức tôn trọng và chấp hành pháp luật của tổ
chức, cá nhân. Chẳng hạn xem xét tổ chức,
cá nhân có chấp hành nghiêm chỉnh các quy
định của pháp luật về thuế không; có nộp
thuế đúng định mức quy định, đúng thời hạn
không hay luồn lách các quy định của pháp
luật để trốn thuế, nợ thuế, chậm nộp thuế,
v. v..
3.5 Tiêu chí giám sát, đánh giá về hiệu
quả, hiệu lực trong việc thực hiện luật
Tiêu chí giám sát, đánh giá kết quả
thực hiện luật trên thực tiễn, tức là giám sát
xem luật đi vào đời sống như thế nào, có tính
khả thi, có hiệu quả không, có đáp ứng được
mục đích đặt ra khi xây dựng, ban hành luật
không. Việc giám sát, đánh giá này cần dựa
vào các chính sách, quy định của luật với
những đánh giá tác động của chính sách để
xem xét lợi ích (quản lý nhà nước, xã hội,
kinh phí.) thu được trên thực tiễn so với
chi phí (nhân lực, kinh phí và các chi phí
khác) bỏ ra để thấy được hiệu quả, hiệu lực
của luật.
Từ thực tiễn giám sát việc thực hiện
luật, có thể sơ kết, tổng kết việc thực hiện
luật, nêu những kết quả đạt được, những
hạn chế, bất cập của các quy định của luật,
nguyên nhân của hạn chế, bất cập; trách
nhiệm của các cơ quan, cá nhân có liên quan;
đồng thời nêu các kiến nghị sửa đổi, bổ sung
các quy định của luật nhằm hoàn thiện hơn
hoặc có thể bãi bỏ một số quy định hay toàn
bộ luật nếu không còn giá trị áp dụng nữa
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
27Số 10(386) T5/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kien_nghi_hoan_thien_cac_dieu_kien_ap_dung_bien_phap_tu_ve_d.pdf