Khoản 1 Điều 8 Luật Các TCTD quy
định: “Tổ chức có đủ điều kiện theo quy
định của Luật này và các quy định khác
của pháp luật có liên quan được NHNN
cấp Giấy phép thì được thực hiện một hoặc
một số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam”.
Điều này có nghĩa NHNN là cơ quan duy
nhất trên lãnh thổ Việt Nam cấp phép hoạt
động ngân hàng cho các tổ chức có đủ điều
kiện muốn hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên,
theo quy định trong Thông tư số 203/2015/
TT-BTC của Bộ Tài chính ban hành ngày
21/12/2015 Hướng dẫn về giao dịch trên thị
trường chứng khoán thì: “Hợp đồng mở tài
khoản giao dịch ký quỹ đồng thời là hợp
đồng tín dụng cho các khoản vay trên tài
khoản giao dịch ký quỹ” (khoản 3 Điều
9). Như vậy, giao dịch ký quỹ là hoạt động
cấp tín dụng do công ty chứng khoán cung
cấp cho khách hàng. Tuy nhiên, hoạt động
ngân hàng này không do NHNN cấp phép
mà là do Ủy ban Chứng khoán nhà nước
cấp phép. Điều này không đúng với Luật
Các TCTD nhưng đã tồn tại và thực hiện
như một hoạt động kinh doanh hợp pháp
của công ty chứng khoán. Do vậy, chúng
tôi kiến nghị sửa khoản 1 Điều 8 Luật Các
TCTD như sau: “Tổ chức có đủ điều kiện
theo quy định của Luật này và các quy
định khác của pháp luật có liên quan được
NHNN cấp Giấy phép thì được thực hiện
một hoặc một số hoạt động ngân hàng tại
Việt Nam, trừ hoạt động giao dịch ký quỹ,
giao dịch mua, bán lại chứng khoán của
công ty chứng khoán”. Đồng thời, bổ sung
khoản 3 Điều 8 Luật Các TCTD năm 2010
như sau: “Hoạt động giao dịch ký quỹ, giao
dịch mua, bán lại chứng khoán của công ty
chứng khoán được thực hiện theo quy định
của pháp luật chứng khoán”. Quy định này
vừa đảm bảo sự chính xác phạm vi quản lý
của NHNN, vừa đảm bảo sự hợp lý trong
phân quyền quản lý giữa các cơ quan quản
lý trong lĩnh vực tài chính.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 238 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến nghị hoàn thiện dự thảo luật sửa đổi, bổ sung - Một số điều của luật các tổ chức tín dụng năm 2010, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Bài viết đánh giá một số nội dụng trong Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (Dự thảo Luật
lần 3) và đưa ra các kiến nghị sửa đổi tập trung vào các vấn đề như: xác
định tình trạng kiểm soát đặc biệt; các phương án xử lý khi tổ chức tín
dụng rơi vào tình trạng kiểm soát đặc biệt, sự phù hợp giữa Luật Các tổ
chức tín dụng với các luật liên quan.
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN DỰ THẢO LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG NĂM 2010
Phan Phương Nam*
Abstract:
This article provides the reviews of a number of contents in the draft
law on the amendments and supplements of a number of articles
of the Law on Credit Institutions of 2010 (draft version #3) and
recommendations for proposed amendments focusing on issues
such as: determination of the status of special control; resolvement
solutions for the credit institution falls into the special control by the
government, the consistence between the Law on Credit Institutions
and other relevant laws.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: tổ chức tín dụng, ngân
hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng,
kiểm soát đặc biệt, công ty tài chính
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 19/10/2017
Biên tập: 25/10/2017
Duyệt bài: 01/11/2017
Article Infomation:
Keywords:credit institutions, banks,
non-banking credit institution,
special control, financial company.
Article History:
Received: 19 Oct. 2017
Edited: 25 Oct. 2017
Appproved: 01 Nov. 2017
* ThS. GV. Khoa Luật Thương mại, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
1. Những điểm mới của Dự thảo Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ
chức tín dụng
Thứ nhất, Dự thảo Luật lần 3 đã đưa
ra một số quy định mới nhằm nâng cao năng
lực quản trị điều hành, xử lý tình trạng sở
hữu chéo, ngăn ngừa nợ xấu mới, tổ chức
tín dụng (TCTD) yếu kém mới phát sinh, cụ
thể như:
Một là, nhằm minh bạch nguồn vốn góp
của cổ đông, góp phần ngăn ngừa tình trạng
sở hữu chéo, tăng vốn ảo của các TCTD, Dự
thảo Luật lần 3 đã sửa đổi, bổ sung điểm
đ khoản 1 Điều 29 về những thay đổi phải
được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chấp
thuận, theo đó bổ sung “mua bán, chuyển
nhượng phần vốn góp của thành viên góp
vốn; mua bán, chuyển nhượng phần vốn góp
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
29Số 21(349) T11/2017
của chủ sở hữu; mua bán, chuyển nhượng cổ
phần của cổ đông lớn; trường hợp mua bán,
chuyển nhượng cổ phần dẫn đến cổ đông lớn
thành cổ đông thường và ngược lại” phải
được NHNN chấp thuận bằng văn bản trước
khi thực hiện; sửa đổi, bổ sung khoản 6 Điều
126 về các trường hợp không được cấp tín
dụng, theo đó nêu rõ “TCTD không được
cấp tín dụng cho khách hàng để góp vốn,
mua cổ phần của TCTD”...
Hai là, xem xét can thiệp sớm vào
TCTD khi các TCTD có những dấu hiệu
nguy cơ cao trong hoạt động. Theo đó, Điều
130 a Dự thảo Luật quy định: “NHNN xem
xét áp dụng can thiệp sớm đối với TCTD, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài lâm vào một
trong các trường hợp sau đây nhưng chưa
được đặt vào kiểm soát đặc biệt (KSĐB)
theo quy định tại Điều 145 của Luật này:
- Không duy trì được tỷ lệ an toàn vốn
tối thiểu trong thời hạn 6 tháng liên tục;
- Không duy trì được tỷ lệ khả năng chi
trả trong thời gian 3 tháng liên tục;
- Xếp hạng dưới mức trung bình theo
quy định của NHNN về xếp hạng TCTD, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài”.
Quy định này sẽ giúp NHNN can thiệp
sớm vào các TCTD trước khi các TCTD rơi
vào tình trạng xấu hơn và ảnh hưởng đến an
toàn của cả hệ thống TCTD.
Ba là, để nâng cao năng lực quản trị
các TCTD, ngăn ngừa những nguy cơ gây
ảnh hưởng xấu đến các TCTD xuất phát từ
hoạt động quản trị, Dự thảo Luật lần 3 đã
sửa đổi, bổ sung khoản 1 và khoản 4 Điều
50 về tiêu chuẩn, điều kiện đối với các chức
danh thành viên Hội đồng quản trị/Hội đồng
thành viên, Tổng giám đốc (Giám đốc) của
các TCTD. Quy định này đã thêm yêu cầu
về năng lực quản trị điều hành cho nhân
sự quản lý, điều hành của TCTD; bổ sung
khoản 4 vào Điều 75 về nội dung liên quan
đến chấp thuận danh sách nhân sự dự kiến
của quỹ tín dụng nhân dân, ngân hàng hợp
tác xã;...
Thứ hai, Dự thảo Luật lần 3 rất quan
tâm đến việc phát hiện và xây dựng các
phương án xử lý khi TCTD rơi vào tình trạng
KSĐB có nguy cơ ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, ảnh
hưởng đến sự phát triển và tăng trưởng của
nền kinh tế. Do vậy, Dự thảo Luật lần 3 đã
gần như sửa đổi một cách toàn diện về nội
dung này bao gồm:
- Xác định các căn cứ để NHNN xem
xét quyết định đặt TCTD vào tình trạng
KSĐB cho chính xác và phù hợp hơn.
- Đưa ra các phương án xử lý khi
TCTD rơi vào tình trạng KSĐB với những
phương thức đa dạng và phù hợp hơn so với
quy định của Luật Các TCTD hiện hành.
- Quy định rõ ràng thẩm quyền và
nguồn tài chính được sử dụng để hỗ trợ
các TCTD khi các TCTD rơi vào tình
trạng KSĐB.
2. Một số hạn chế trong Dự thảo Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ
chức tín dụng và kiến nghị sửa đổi
Thứ nhất, quy định về việc NHNN
xem xét, quyết định đặt TCTD vào tình
trạng KSĐB còn những bất cập:
Một là, quy định về các trường hợp
TCTD bị đặt vào tình trạng KSĐB còn chưa
hợp lý. Trong Dự thảo Luật lần 3 đã bổ sung
Điều 130a để áp dụng can thiệp sớm đối với
TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Ban đầu là TCTD tự xây dựng các biện
pháp khắc phục trong thời gian tối đa là 01
năm. Tuy nhiên, nếu TCTD không xây dựng
được phương án khắc phục theo quy định
hoặc sau thời hạn thực hiện phương án mà
không khắc phục tình trạng can thiệp sớm
thì tùy theo tính chất, mức độ rủi ro, NHNN
sẽ áp dụng một hoặc một số biện pháp quy
định. Vấn đề đặt ra là nếu sau khi bị NHNN
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
30 Số 21(349) T11/2017
áp dụng các biện pháp quy định mà TCTD
vẫn không thoát khỏi tình trạng trên, nhưng
cũng chưa có các dấu hiệu rơi vào tình trạng
KSĐB được xác định tại khoản 1 Điều 145
của Dự thảo Luật lần 3 thì TCTD đó sẽ bị xử
lý như thế nào? Chúng tôi kiến nghị: khi xảy
ra tình trạng đó, TCTD cần phải bị đặt vào
tình trạng KSĐB, vì pháp luật không thể để
tình trạng TCTD bị áp dụng can thiệp sớm
trong thời gian dài mà không xử lý tiếp khi
TCTD đó không có dấu hiệu bị đặt vào tình
trạng KSĐB. Do đó cần bổ sung vào khoản
1 Điều 145 của Dự thảo Luật lần 3 trường
hợp TCTD được vào tình trạng KSĐB là:
"TCTD sau khi hết thời gian bị can thiệp
sớm hoặc sau khi bị NHNN áp dụng các
biện pháp quy định khi bị can thiệp sớm mà
TCTD vẫn không thoát khỏi tình trạng quy
định tại khoản 1 Điều 130 a Luật này”. Việc
làm này để TCTD, những người lãnh đạo,
điều hành của TCTD nỗ lực giúp TCTD vượt
qua tình trạng bị can thiệp sớm nhằm giảm
sự ảnh hưởng đến chính họ. Đồng thời cũng
tạo nên hệ thống phân tầng các TCTD khi
có những dấu hiệu khác nhau thì có những
phương án khác nhau để xử lý hiệu quả.
Hai là, Dự thảo Luật lần 3 chưa xác
định trách nhiệm của các chủ thể liên quan
trong việc phát hiện các TCTD rơi vào tính
trạng KSĐB. Điều 145 Dự thảo Luật có
điểm thụt lùi so với Dự thảo Luật lần 1, bởi
Dự thảo Luật lần 1 đã xác định những nguồn
cơ bản mà NHNN có thể dựa vào đó để phát
1 Xem thêm khoản 2 Điều 145 Dự thảo Luật lần 1.
View_Detail.aspx?ItemID=1359&TabIndex=1&LanID=1360
2 Xem khoản 1 Điều 149 Luật NHNN năm 2010, khoản 1 Điều 7 Nghị định 26/2014/NĐ-CP của Chính phủ ban hành
ngày 07/04/2014 Về tổ chức và hoạt động của thanh tra, giám sát ngành ngân hàng.
3 Khoản 8 Điều 9 của Điều lệ về tổ chức và hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (ban hành kèm theo Quyết định
số 1395/QĐ-TTg ngày 13/8/2013 của Thủ tướng Chính phủ) quy định Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam sẽ: “Tổng hợp, phân
tích và xử lý thông tin về tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi nhằm phát hiện và kiến nghị NHNN xử lý kịp thời những
vi phạm quy định về an toàn hoạt động ngân hàng, rủi ro gây mất an toàn trong hệ thống ngân hàng”.
4 Bao gồm những chủ thể có thể biết được các thông tin về tình hình tài chính của TCTD như: tổ chức kiểm toán độc lập
cho TCTD, văn bản của các cơ quan nhà nước khác hoặc cơ quan giám sát nước ngoài có liên quan, những chủ thể thực
hiện công tác quản trị TCTD.
hiện TCTD có dấu hiệu rơi vào tình trạng
KSĐB, đó là TCTD tự báo cáo, thông qua
hoạt động giám sát, hoạt động thanh tra của
NHNN; báo cáo kiểm toán của tổ chức kiểm
toán độc lập; ý kiến bằng văn bản của các
cơ quan nhà nước khác hoặc cơ quan giám
sát nước ngoài có liên quan1. Quy định trong
Dự thảo Luật lần 3 đã làm hạn chế khả năng
tiếp cận thông tin của NHNN để nhận biết
TCTD nào có thể được KSĐB. Theo chúng
tôi, ở đây Dự thảo Luật lần 3 cần bổ sung
thêm các chủ thể có liên quan nếu phát hiện
TCTD có một trong các dấu hiệu mà pháp
luật quy định rơi vào tình trạng KSĐB thì
các chủ thể này phải có trách nhiệm báo cáo
cho NHNN. Cụ thể là các cơ quan: Cơ quan
thanh tra, giám sát ngân hàng2, Bảo hiểm
tiền gửi Việt Nam3 và các cơ quan, tổ chức,
cá nhân có liên quan4 có trách nhiệm báo cáo
cho NHNN khi phát hiện TCTD có những
dấu hiệu bị KSĐB trong quy định tại Điều
145 Dự thảo Luật.
Thứ hai, quy định trong Dự thảo Luật
còn thiếu sót khi không đề cập đến công ty
cho thuê tài chính:
Công ty cho thuê tài chính là một loại
hình TCTD phi ngân hàng theo quy định tại
khoản 4 Điều 4 Luật Các TCTD năm 2010.
Tuy nhiên, trong Dự thảo Luật lần 3 quy định
về KSĐB và xử lý đối với các TCTD được
đặt vào tình trạng KSĐB lại không đề cập đến
việc xử lý như thế nào đối với công ty cho thuê
tài chính nếu công ty được KSĐB. Có thể Dự
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
31Số 21(349) T11/2017
thảo Luật tư duy theo hướng là trong khoản
4 Điều 4 Luật Các TCTD năm 2010 đã xác
định “công ty cho thuê tài chính là loại hình
công ty tài chính có hoạt động chính là cho
thuê tài chính theo quy định của Luật này”
nên cho rằng chỉ cần quy định công ty tài
chính là đủ. Tuy nhiên, điều này chưa hoàn
toàn chính xác. Bởi lẽ, không phải lúc nào
hoạt động công ty tài chính cũng bao trùm
lên hoạt động của công ty cho thuê tài chính
vì: i) công ty tài chính chỉ cho thuê tài chính
khi được NHNN chấp thuận5; ii) trong Luật
Các TCTD năm 2010 có quy định hai mục
riêng về hoạt động của hai loại hình công ty
này6. Để đảm bảo tính bao quát, theo chúng
tôi, cần phải thay đổi cụm từ: “công ty tài
chính” trong Dự thảo Luật lần 3 thành cụm
từ "TCTD phi ngân hàng”, bởi TCTD phi
ngân hàng bao gồm công ty tài chính và
công ty cho thuê tài chính.
Thứ ba, thay đổi lại tên phương án thứ
hai trong các phương án xử lý TCTD được
kiểm soát đặc biệt:
Theo quy định của Dự thảo Luật lần
3, TCTD được KSĐB có thể bị xử lý theo
các phương án sau: i) phương án phục hồi;
5 Xem khoản 1 Điều 108 Luật Các TCTD năm 2010.
6 Xem Mục 3, 4 Chương IV hoạt động của TCTD trong Luật Các TCTD năm 2010. Trong đó, mục 3 quy định về công
ty tài chính, mục 4 quy định về Công ty cho thuê tài chính.
7 Trong Dự thảo Luật lần 1 thì có 3 phương án xử lý TCTD được KSĐB là: i) phương án phục hồi; ii) phương án xử lý
pháp nhân (bao gồm thức sáp nhập, hợp nhất, chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp, giải thể, phá sản); iii)
phương án chuyển giao bắt buộc. Quy định trên sẽ dễ bị hiểu nhầm rằng các phương án có thể tiến hành theo đúng thứ
tự i, ii và iii. Tuy nhiên, Dự thảo Luật lần 1 không có ý định trên. Theo Dự thảo Luật lần 1, khi áp dụng các biện pháp
sáp nhập, hợp nhất trong phương án xử lý pháp nhân không được có thể chuyển sang phương án chuyển giao bắt buộc.
Sau khi phương án chuyển giao bắt buộc không áp dụng được thì sẽ quay lại phương án xử lý pháp nhân theo hình thức
giải thể hoặc phá sản.
Trong khi đó, Dự thảo Luật lần 2 xác định rằng có 4 phương án cơ cấu lại TCTD được KSĐB - là một trong các phương
án sau đây: a) Phương án phục hồi; b) Phương án giải thể; c) Phương án chuyển giao bắt buộc; và d) Phương án phá
sản. Trong đó, phương án phục hồi là phương án áp dụng các biện pháp để TCTD được KSĐB khắc phục tình trạng dẫn
đến đặt vào KSĐB thông qua hình thức tự khắc phục hoặc sáp nhập, hợp nhất, chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần
vốn góp. Quy định này không ổn khi phương án phục hồi phải hiểu là sau khi phục hồi xong thì TCTD vẫn còn tồn tại.
Nhưng nếu theo quy định này thì trong phương án phục hồi bao gồm cả phương án sáp nhập, hợp nhất mà nếu áp dụng
phương án sáp nhập, hợp nhất thì TCTD mới sẽ không phải là TCTD cũ nên không đúng với tên phương án phục hồi.
h t t p : / / d u t h a o o n l i n e . q u o c h o i . v n / D u T h a o / L i s t s / D T _ D U T H A O _ L U AT / V i e w _ D e t a i l .
aspx?ItemID=1359&TabIndex=1&LanID=1360
ii) phương án sáp nhập, hợp nhất, chuyển
nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp; iii)
phương án giải thể; iv) phương án chuyển
giao bắt buộc và v) phương án phá sản.
Những quy định trong lần Dự thảo Luật
này tương đối logic và đảm bảo tính rõ
ràng hơn so với các phương án xử lý trong
Dự thảo Luật lần 1, lần 27. Theo đó, tinh
thần của Dự thảo Luật lần 3 xác định là,
khi TCTD được đặt vào tình trạng KSĐB
có thể bị xử lý theo thứ tự các hình thức
trên. Theo chúng tôi quy định này còn có
điểm chưa hợp lý, đó là phương án thứ hai
bao gồm các nội dung: sáp nhập, hợp nhất,
chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn
góp. Trong đó, sáp nhập, hợp nhất chính là
tổ chức lại TCTD, còn việc chuyển nhượng
toàn bộ cổ phần, phần vốn góp chính là thay
đổi chủ sở hữu TCTD. Do vậy, nên chăng
tên phương án hai nên đặt lại là phương án
tổ chức lại và cơ cấu lại vốn của TCTD.
Thứ tư, bất cập trong việc xác định
loại hình TCTD được áp dụng hình thức
chuyển giao bắt buộc:
Điều 146 Dự thảo Luật lần 3 quy định:
“Chính phủ quyết định chủ trương và phê
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
32 Số 21(349) T11/2017
duyệt phương án chuyển giao bắt buộc
TCTD được KSĐB theo đề nghị của NHNN”.
Theo quy định này, các TCTD đều có thể bị
áp dụng phương án chuyển giao bắt buộc. Tuy
nhiên, toàn bộ nội dung Mục 1đ của Dự thảo
lần 3 lại xác định rằng chỉ có ngân hàng thương
mại mới có khả năng bị áp dụng phương án
này. Vậy các loại hình TCTD khác thì sao? Ở
góc độ lý luận, có thể cho rằng quỹ tín dụng
nhân dân và tổ chức tài chính vi mô khó có thể
áp dụng phương án này vì tính đặc thù trong
hoạt động của nó. Tuy nhiên, đối với TCTD
phi ngân hàng thì vẫn có thể áp dụng phương
án chuyển giao bắt buộc. Vì vậy, chúng tôi
kiến nghị cần bổ sung TCTD phi ngân hàng
vào trong quy định về chuyển giao bắt buộc.
Thứ năm, mục tiêu của Dự thảo Luật
lần 3 còn hạn chế:
Dự thảo Luật lần 3 chỉ hướng đến vấn
đề nợ xấu và đảm bảo cho sự ổn định trong
hoạt động của các TCTD mà chưa chú trọng
đến những vấn đề bất cập khác đang tồn tại
trong Luật Các TCTD hiện hành như: một số
khái niệm trong Luật Các TCTD hiện hành
chưa thật sự chính xác, sự chưa thống nhất
của Luật Các TCTD với các văn bản liên
quan như Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng
khoán. Theo giải trình của Ủy ban Kinh tế
của Quốc hội thì: “Việc sửa đổi toàn diện các
quy định tại Luật Các TCTD cần tiến hành
đồng thời với việc sửa đổi Luật NHNN Việt
Nam và tổng kết, đánh giá việc thực hiện Đề
án cơ cấu lại TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai
đoạn 2016 - 2020, đòi hỏi có thời gian nghiên
cứu đánh giá kỹ lưỡng tác động theo đúng quy
định của Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật để bảo đảm tính hiệu quả, khả thi”8.
Theo chúng tôi, nếu có điều kiện, Dự thảo
Luật lần này nên sửa đổi luôn những bất cập
trong Luật Các TCTD hiện hành, cụ thể:
8 Xem Báo cáo số 656/BC-UBKT14 của Uỷ ban Kinh tế ban hành ngày 15/09/2017 về một số vấn đề lớn về dự án Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD.
Một là, Dự thảo Luật cần sửa đổi một
số khái niệm được sử dụng trong Luật Các
TCTD cho chính xác như:
- Khái niệm “tổ chức tín dụng”:
Khoản 1 Điều 4 Luật Các TCTD năm
2010 quy định: “TCTD là doanh nghiệp
thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt
động ngân hàng”. Tuy nhiên, dùng cụm từ
“doanh nghiệp” ở đây là chưa chính xác.
Bởi lẽ, trong các loại hình TCTD có những
TCTD tồn tại dưới hình thức hợp tác xã,
liên hiệp hợp tác xã như: quỹ tín dụng nhân
dân và ngân hàng hợp tác xã. Trong khi
khoản 1, 2 Điều 3 Luật Hợp tác xã năm
2012 cũng chỉ xác định hợp tác xã, liên
hiệp hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể
mà không xác định đây là doanh nghiệp. Vì
vậy, nên chăng thay đổi khái niệm TCTD
cho đúng và chính xác hơn là: “TCTD là
tổ chức được thành lập theo quy định của
pháp luật để thực hiện một, một số hoặc tất
cả các hoạt động ngân hàng”.
- Khái niệm “ngân hàng”: Theo khoản
2 Điều 4 Luật Các TCTD năm 2010 thì
“Ngân hàng là loại hình TCTD có thể được
thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng
theo quy định của Luật này”. Theo quy định
này, có thể hiểu ngân hàng có thể tiến hành
các hoạt động như: nhận tiền gửi, cấp tín
dụng (bao gồm: cho vay, chiết khấu, tái chiết
khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo
lãnh ngân hàng) và cung ứng dịch vụ thanh
toán qua tài khoản. Tuy nhiên, trong điểm b
khoản 2 Điều 103 Luật Các TCTD quy định,
nếu ngân hàng thương mại muốn tiến hành
hoạt động cho thuê tài chính thì phải thành
lập công ty con, công ty liên kết hoặc mua
lại công ty. Điều này sẽ ngăn cản, không
cho phép ngân hàng thương mại có thể tiến
hành hoạt động cho thuê tài chính trực tiếp.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
33Số 21(349) T11/2017
Nên khái niệm “ngân hàng được tiến hành
tất cả hoạt động ngân hàng” là thiếu chính
xác. Chúng tôi kiến nghị cần điều chỉnh khái
niệm này như sau: “Ngân hàng là loại hình
TCTD có thể được thực hiện các hoạt động
ngân hàng theo quy định của Luật này, trừ
hoạt động cho thuê tài chính”.
- Xem xét bổ sung khái niệm “cho
thuê tài chính”: Điều 4 Luật Các TCTD có
giải thích từ ngữ nhưng không có phần giải
thích từ ngữ về “cho thuê tài chính”. Trong
khi đó, khái niệm cho thuê tài chính lại được
Luật Các TCTD nêu ra trong Điều 113. Điều
này làm thiếu tính logic trong các quy định
của Luật Các TCTD. Vì vậy, chúng tôi kiến
nghị cần chuyển quy định tại Điều 113 Luật
Các TCTD thành một khoản trong Điều 4
Luật Các TCTD để đảm bảo tính logic trong
các quy định của Luật Các TCTD.
Hai là, sửa đổi khoản 1 Điều 8 Luật
Các TCTD:
Khoản 1 Điều 8 Luật Các TCTD quy
định: “Tổ chức có đủ điều kiện theo quy
định của Luật này và các quy định khác
của pháp luật có liên quan được NHNN
cấp Giấy phép thì được thực hiện một hoặc
một số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam”.
Điều này có nghĩa NHNN là cơ quan duy
nhất trên lãnh thổ Việt Nam cấp phép hoạt
động ngân hàng cho các tổ chức có đủ điều
kiện muốn hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên,
theo quy định trong Thông tư số 203/2015/
TT-BTC của Bộ Tài chính ban hành ngày
21/12/2015 Hướng dẫn về giao dịch trên thị
trường chứng khoán thì: “Hợp đồng mở tài
khoản giao dịch ký quỹ đồng thời là hợp
đồng tín dụng cho các khoản vay trên tài
khoản giao dịch ký quỹ” (khoản 3 Điều
9). Như vậy, giao dịch ký quỹ là hoạt động
cấp tín dụng do công ty chứng khoán cung
cấp cho khách hàng. Tuy nhiên, hoạt động
ngân hàng này không do NHNN cấp phép
mà là do Ủy ban Chứng khoán nhà nước
cấp phép. Điều này không đúng với Luật
Các TCTD nhưng đã tồn tại và thực hiện
như một hoạt động kinh doanh hợp pháp
của công ty chứng khoán. Do vậy, chúng
tôi kiến nghị sửa khoản 1 Điều 8 Luật Các
TCTD như sau: “Tổ chức có đủ điều kiện
theo quy định của Luật này và các quy
định khác của pháp luật có liên quan được
NHNN cấp Giấy phép thì được thực hiện
một hoặc một số hoạt động ngân hàng tại
Việt Nam, trừ hoạt động giao dịch ký quỹ,
giao dịch mua, bán lại chứng khoán của
công ty chứng khoán”. Đồng thời, bổ sung
khoản 3 Điều 8 Luật Các TCTD năm 2010
như sau: “Hoạt động giao dịch ký quỹ, giao
dịch mua, bán lại chứng khoán của công ty
chứng khoán được thực hiện theo quy định
của pháp luật chứng khoán”. Quy định này
vừa đảm bảo sự chính xác phạm vi quản lý
của NHNN, vừa đảm bảo sự hợp lý trong
phân quyền quản lý giữa các cơ quan quản
lý trong lĩnh vực tài chính.
Ba là, chỉnh sửa khoản 4 Điều 111
Luật Các TCTD:
Theo khoản 4 Điều 111 Luật Các
TCTD năm 2010 thì công ty tài chính cũng
có thể tiến hành hoạt động bảo lãnh phát
hành trái phiếu. Tuy nhiên, theo quy định
tại khoản 14 Điều 6 Luật Chứng khoán năm
2006 thì công ty chứng khoán hoặc ngân
hàng thương mại mới là chủ thể được phép
có thể tiến hành hoạt động bảo lãnh phát
hành chứng khoán. Xuất phát từ đặc thù của
hoạt động bảo lãnh phát hành là rất cần khả
năng tài chính của chủ thể bảo lãnh nhằm
đảm bảo thực hiện cam kết bảo lãnh phát
hành nên chúng tôi cho rằng, quy định trong
Luật Chứng khoán hợp lý hơn. Vì vậy, chúng
tôi kiến nghị bỏ quy định hoạt động bảo lãnh
phát hành chứng khoán là trái phiếu trong
khoản 4 Điều 111 Luật Các TCTD cho phù
hợp với quy định của Luật Chứng khoán
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
34 Số 21(349) T11/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kien_nghi_hoan_thien_du_thao_luat_sua_doi_bo_sung_mot_so_die.pdf