Ðiều 422. Bào chữa
1. Người bị buộc tội là người dưới 18
tuổi có quyền tự bào chữa, (bỏ chữ hoặc và
thay bằng dấu phẩy) nhờ người khác bào chữa.
2. (Giữ nguyên)
3. Trường hợp người bị buộc tội là
người dưới 18 tuổi không có người bào
chữa hoặc người đại diện của họ không
lựa chọn người bào chữa thì cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định
người bào chữa theo quy định tại Điều 76
của Bộ luật này.
Như vậy, quy định về thủ tục tố tụng
đối với người dưới 18 tuổi trong BLTTHS
năm 2015 là một bước tiến lớn trong hoạt
động lập pháp của Nhà nước ta nhằm bảo
đảm ngày càng tốt hơn lợi ích của người
dưới 18 tuổi; phù hợp và đáp ứng các
chuẩn mực quốc tế về quyền trẻ em. Tuy
nhiên, quy định của BLTTHS năm 2015
vẫn còn một số hạn chế nhất định cần tiếp
tục sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hơn
nữa chế định này.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 233 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
15Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2020
PHAN THỊ THANH MAI
Theo pháp luật hiện hành, thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi được quy định tại Chương 28, Phần
thứ 7 BLTTHS năm 2015 và được hướng
dẫn cụ thể trong Thông tư liên tịch số
06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-
BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân
dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ
Lao động-Thương binh và Xã hội Về phối
hợp thực hiện một số quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người
dưới 18 tuổi (TTLT số 06/2018) và Thông tư
số 02/2018/TT-TANDTC ngày 21/9/2018
của Tòa án nhân dân tối cao Quy định chi
tiết việc xét xử vụ án hình sự có người tham
gia tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm
quyền của Tòa gia đình và người chưa thành
niên. Qua nghiên cứu những quy định này,
tác giả nhận thấy quy định của BLTTHS
năm 2015 về thủ tục tố tụng đối với người
dưới 18 tuổi còn một số bất cập cần được
sửa đổi, bổ sung rõ ràng, đầy đủ và hợp lý
hơn. Trong bài viết này, tác giả đề cập đến
những vấn đề cụ thể sau:
1. Về việc xác định tuổi của người
dưới 18 tuổi
Theo quy định tại Điều 417 BLTTHS
năm 2015, việc xác định tuổi của người bị
buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi được
quy định như sau:
“1. Việc xác định tuổi của người bị buộc
tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi do cơ
KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
* Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội
Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 về thủ tục tố
tụng đối với người dưới 18 tuổi đã có những bổ sung, thay đổi đáng kể nhằm
khắc phục những bất cập trong quy định của BLTTHS năm 2003 về thủ tục
này nhưng vẫn còn một số hạn chế nhất định. Những hạn chế đó không chỉ
không bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi mà còn làm cho việc
giải quyết vụ án khó đạt hiệu quả cao.
Từ khóa: Thủ tục tố tụng; người dưới 18 tuổi; quyền trẻ em; Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015; sửa đổi, bổ sung điều luật.
Ngày nhận bài: 28/02/2020; Ngày biên tập xong: 10/3/2020; Ngày duyệt
đăng: 10/4/2020.
The 2015 Criminal Procedure Code’s provisions on legal proceedings for
persons under 18 years of age have been amended and supplemented to
overcome shortcomings in the 2003 one; however, still remained some
limitations. They not only do not guarantee the best benefits for persons under 18
but also make it difficult to solve the cases effectively.
Keywords: Legal proceedings; persons under 18 years of age; rights of
children; the 2015 Criminal Procedure Code; amendment and supplementation.
PHAN THỊ THANH MAI *
16
KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2020
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực
hiện theo quy định của pháp luật.
2. Trường hợp đã áp dụng các biện pháp
hợp pháp mà vẫn không xác định được chính
xác thì ngày, tháng, năm sinh của họ được xác
định:
a) Trường hợp xác định được tháng
nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày
cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh.
b) Trường hợp xác định được quý nhưng
không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày
cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó
làm ngày, tháng sinh.
c) Trường hợp xác định được nửa của
năm nhưng không xác định được ngày, tháng
thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng
trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh.
d) Trường hợp xác định được năm nhưng
không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày
cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó
làm ngày, tháng sinh.
3. Trường hợp không xác định được năm
sinh thì phải tiến hành giám định để xác định
tuổi.”
Quy định này được hướng dẫn cụ thể
tại Điều 6 TTLT số 06/2018 như sau: (1) Việc
xác định tuổi của người bị buộc tội, người
bị hại dưới 18 tuổi căn cứ vào một trong
các giấy tờ, tài liệu sau: giấy chứng sinh;
giấy khai sinh; chứng minh nhân dân; thẻ
căn cước công dân; sổ hộ khẩu; hộ chiếu.
(2) Trường hợp các giấy tờ, tài liệu nêu tại
khoản 1 Điều này có mâu thuẫn, không
rõ ràng hoặc không có giấy tờ, tài liệu này
thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng phải phối hợp với gia đình, người
đại diện, người thân thích, Nhà trường,
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
hoặc tổ chức, cá nhân khác có liên quan nơi
người dưới 18 tuổi học tập, lao động, sinh
hoạt trong việc hỏi, lấy lời khai, xác minh
làm rõ mâu thuẫn hoặc tìm các giấy tờ, tài
liệu khác có giá trị chứng minh về tuổi của
người đó. Trường hợp đã áp dụng các biện
pháp hợp pháp nhưng chỉ xác định được
khoảng thời gian tháng, quý, nửa đầu hoặc
nửa cuối của năm hoặc năm sinh thì tùy
từng trường hợp cụ thể cần căn cứ khoản 2
Điều 417 BLTTHS để xác định tuổi của họ;
(3) Trường hợp kết quả giám định tuổi chỉ
xác định được khoảng độ tuổi của người bị
buộc tội, người bị hại thì cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng lấy tuổi thấp nhất
trong khoảng độ tuổi đã xác định được để
xác định tuổi của họ.
Việc xác định tuổi của người bị buộc
tội, người bị hại dưới 18 tuổi mặc dù đã
được quy định và hướng dẫn cụ thể, tuy
nhiên, theo chúng tôi, quy định này vẫn
còn có một số bất cập như sau:
Thứ nhất, về việc xác định tuổi của
người bị hại: Việc xác định tuổi của người
dưới 18 tuổi là vấn đề rất quan trọng trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự. Ở góc
độ luật hình sự, việc xác định tuổi của nạn
nhân có ý nghĩa trong việc xác định hành
vi có cấu thành tội phạm hay không, xác
định tội danh, định khung hình phạt, quyết
định hình phạt. Ở góc độ luật tố tụng hình
sự, việc xác định tuổi của bị hại có ý nghĩa
quyết định trong việc lựa chọn thủ tục tố
tụng để giải quyết vụ án đối với họ.
Việc xác định tuổi người bị hại căn cứ
vào giấy khai sinh. Tuy nhiên, trong thực
tiễn tố tụng, vẫn còn gặp những trường hợp
bị hại không có giấy khai sinh, có giấy khai
sinh nhưng chỉ ghi năm sinh hoặc nhiều
giấy khai sinh với nội dung khác nhau.
Trong trường hợp đó, cơ quan có thẩm
17Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2020
PHAN THỊ THANH MAI
quyền tiến hành tố tụng phải tiến hành các
biện pháp hợp pháp để xác định tuổi của
người bị hại như căn cứ vào các giấy tờ,
tài liệu (sổ hộ khẩu, học bạ, căn cước...), lời
khai của người bị hại và những người biết
ngày sinh của người bị hại. Nếu đã áp dụng
các biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác
định chính xác được thì theo quy định tại
khoản 2 Điều 147 BLTTHS năm 2015, ngày,
tháng, năm sinh của người bị hại được xác
định theo hướng có lợi cho người bị hại.
Như vậy, quy định tại khoản 2 Điều 417
BLTTHS năm 2015 đã có sự khác biệt căn bản
so với Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-
VKSNDTC-TANDTC-BTP-BCA-BLĐTBXH
ngày 12/7/2011 hướng dẫn cách xác định
độ tuổi đối với bị can, bị cáo và người bị
hại là người chưa thành niên (TTLT số
01/2011) về cách xác định độ tuổi của bị
hại dưới 18 tuổi, đó là xác định độ tuổi
của bị hại quy định theo hướng bất lợi cho
người bị buộc tội, ngược lại với nguyên
tắc suy đoán vô tội.
Hiện nay, có các quan điểm khác nhau
về quy định tại khoản 2 Điều 417 BLTTHS
năm 2015 về việc xác định tuổi của người
bị hại.
- Quan điểm thứ nhất cho rằng,
BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể
vấn đề xác định tuổi của người bị buộc tội
và người bị hại dưới 18 tuổi. Đây là quy
định thể hiện tinh thần quán triệt sâu sắc
nguyên tắc “bảo đảm lợi ích tốt nhất cho
người chưa thành niên” phù hợp với các
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên. Theo đó, nguyên tắc “lợi ích tốt nhất
của trẻ em” quy định trong Điều 3 Công
ước quyền trẻ em được coi là trọng tâm
trong việc ứng xử với người chưa thành
niên là bị hại. Nguyên tắc này có tầm quan
trọng đặc biệt, là kim chỉ nam khi xem xét
vai trò của trẻ em trong quy trình tư pháp.1
Việc quy định cách xác định tuổi tại khoản
2 Điều 417 BLTTHS năm 2015 bảo đảm việc
giải quyết vụ án liên quan đến người chưa
thành niên trong những trường hợp cần
thiết được thuận lợi, kịp thời, vừa bảo đảm
thực hiện nguyên tắc có lợi đối với người
chưa thành niên phạm tội, đồng thời bảo
vệ được tốt hơn quyền và lợi ích của người
bị hại là người chưa thành niên trước sự
xâm hại của tội phạm.2
- Quan điểm thứ hai cho rằng, cách xác
định tuổi của người bị hại là người dưới 18
tuổi quy định tại Điều 417 BLTTHS năm
2015 tuy đã tạo được sự công bằng giữa
người bị buộc tội và người bị hại trong việc
xác định tuổi, nhưng nếu dùng để truy cứu
trách nhiệm hình sự và xác định mức độ
trách nhiệm hình sự đối với người bị buộc
tội thì lại gây bất lợi cho người bị buộc tội,
vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội. Quan
điểm này cho rằng cần sửa đổi khoản 2
Điều 417 BLTTHS, xác định tuổi của người
bị hại theo hướng có lợi cho người bị buộc
tội như hướng dẫn tại TTLT số 01/2011.3
1 Nguyễn Thị Lộc (2017), Vấn đề xác định tuổi của
người bị hại là người dưới 18 tuổi theo quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Tạp chí Khoa học
Kiểm sát, số 1/2017, trang 33.
2 Nguyễn Hòa Bình chủ biên (2016), Những nội
dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015,
Nxb Chính trị quốc gia, trang 356.
3 Trần Xuân Thiên An, Tìm hiểu về việc xác định tuổi
của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi
theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015,
đăng ngày 3/7/2017,
tin-tuc/tim-hieu-ve-viec-xac-dinh-tuoi-cua-nguoi-
bi-buoc-toi-nguoi-bi-hai-la-nguoi-duoi-18-tuoi-
theo-quy-dinh-cua-bltths-nam-2015-3273.html,
truy cập ngày 28/4/2019;
Đinh Văn Quế, Xác định tuổi của người bị hại -
Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Kiểm
sát số 10/2018,
tuoi-cua-nguoi-bi-hai-50249.html, đăng ngày
10/7/2018, truy cập ngày 28/4/2019.
18
KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2020
Cả hai quan điểm đều dựa trên những
nguyên tắc đã được thừa nhận chung:
Quan điểm một dựa trên nguyên tắc “lợi
ích tốt nhất cho trẻ em phải là mối quan
tâm hàng đầu” được quy định trong Công
ước của Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em;
còn quan điểm hai dựa trên “nguyên tắc
suy đoán vô tội” được nêu trong Công ước
của Liên hợp quốc về các quyền dân sự,
chính trị. Theo tác giả, trong hai quan điểm,
quan điểm thứ hai có sức thuyết phục hơn
vì người bị buộc tội là trung tâm của tố
tụng hình sự và nguyên tắc suy đoán vô tội
là nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự.
Hơn nữa, nếu theo quan điểm một, nguyên
tắc “lợi ích tốt nhất cho trẻ em phải là mối
quan tâm hàng đầu” sẽ khó áp dụng nếu
trong vụ án cả bị hại và người bị buộc tội
đều là người dưới 18 tuổi. Khi đó, chúng ta
buộc phải áp dụng nguyên tắc suy đoán vô
tội cho người bị buộc tội để xác định tuổi
người bị hại.
Về việc xác định tuổi của người bị buộc
tội, Ủy ban về quyền trẻ em tuyên bố: “Nếu
không có bằng chứng về độ tuổi thì trẻ em
có quyền được kiểm tra về y tế, xã hội theo
phương pháp tin cậy để có thể xác định
tuổi của trẻ em đó. Trong trường hợp có
xung đột hoặc bằng chứng không thuyết
phục, trẻ em đó phải được hưởng quy tắc
về lợi ích của sự nghi ngờ”.4 Tuy nhiên hiện
nay, chưa có hướng dẫn nào của Liên hợp
quốc về việc xác định tuổi của người bị hại
để định hướng cho việc hoàn thiện pháp
luật ở Việt Nam về vấn đề này.
Theo tác giả, để có thể bảo đảm hai
nguyên tắc “lợi ích tốt nhất cho trẻ em phải
4 Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa Luật (2010),
Quyền con người, tập hợp những bình luận và
khuyến nghị chung của Ủy ban công ước Liên hợp quốc
(Ủy ban về quyền trẻ em, bình luận chung số 10 về
quyền trẻ em trong tư pháp người chưa thành niên,
đoạn 39), Nxb Công an nhân dân, tr.789.
là mối quan tâm hàng đầu” và “suy đoán
vô tội”, chúng ta có thể xác định tuổi của
bị hại vào thời điểm người đó bị tội phạm
xâm hại theo hướng có lợi cho người bị
buộc tội (áp dụng nguyên tắc suy đoán
vô tội) và xác định tuổi của bị hại vào thời
điểm họ tham gia tố tụng theo hướng có lợi
cho bị hại để họ được áp dụng thủ tục đối
với người dưới 18 tuổi. Quy định như vậy
có thể bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
cho bị hại dưới 18 tuổi, đồng thời bảo đảm
quyền được suy đoán vô tội của người
bị buộc tội, bảo đảm quyền được đối xử
công bằng của các bên đối lập trong vụ án.
Phương án này có thể dẫn đến việc không
thống nhất trong cách xác định ngày tháng
năm sinh của người bị hại, tuy nhiên bất
cập này nhỏ hơn nhiều so với việc vi phạm
nguyên tắc “suy đoán vô tội” hoặc nguyên
tắc “lợi ích tốt nhất cho trẻ em phải là mối
quan tâm hàng đầu”.
Thứ hai, Điều 417 BLTTHS không quy
định về việc xác định tuổi của người làm
chứng là không đầy đủ. Tuổi của người
làm chứng không ảnh hưởng đến việc
truy cứu trách nhiệm hình sự của người
bị buộc tội nhưng ảnh hưởng đến việc xác
định thủ tục tố tụng được áp dụng đối với
họ. Theo quy định hiện hành, phạm vi áp
dụng thủ tục đối với người dưới 18 tuổi
được áp dụng đối với cả người làm chứng
dưới 18 tuổi. Vì vậy, cần phải bổ sung quy
định về việc xác định tuổi đối với cả người
làm chứng dưới 18 tuổi để bảo đảm lợi ích
tốt nhất cho người làm chứng dưới 18 tuổi.
Về thuật ngữ pháp lý, theo chúng tôi,
cần phải sử dụng thuật ngữ “bị hại” thay
cho “người bị hại” trong Điều 417 để thống
nhất với quy định tại Điều 62 BLTTHS năm
2015 về bị hại.
Từ những phân tích trên, chúng tôi kiến
nghị sửa đổi bổ sung Điều 417 như sau:
19Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2020
PHAN THỊ THANH MAI
Điều 417. Xác định tuổi của người bị
buộc tội, bị hại, người làm chứng là người
dưới 18 tuổi
1. Việc xác định tuổi của người bị buộc
tội, bị hại, người làm chứng là người dưới 18
tuổi do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng thực hiện theo quy định của pháp luật.
2. (giữ nguyên)
3. (giữ nguyên)
4. Trong trường hợp đã áp dụng các biện
pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được
chính xác thì ngày, tháng, năm sinh của bị hại
được xác định:
a) Xác định tuổi của bị hại để truy cứu
trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội:
- Trường hợp xác định được tháng nhưng
không xác định được ngày thì lấy ngày đầu
tiên của tháng đó làm ngày sinh.
- Trường hợp xác định được quý nhưng
không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày
đầu tiên của tháng đầu tiên trong quý đó làm
ngày, tháng sinh.
- Trường hợp xác định được nửa của năm
nhưng không xác định được ngày, tháng thì
lấy ngày đầu tiên của tháng đầu tiên trong nửa
năm đó làm ngày, tháng sinh.
- Trường hợp xác định được năm nhưng
không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày
đầu tiên của tháng đầu tiên trong năm đó làm
ngày, tháng sinh.
b) Xác định tuổi của bị hại để áp dụng thủ
tục đối với người dưới 18 tuổi thì trong mọi
trường hợp được xác định theo quy định tại
khoản 2 Điều này.
2. Về việc áp dụng hoạt động đối chất
đối với người dưới 18 tuổi
Theo quy định tại khoản 6 Điều 421
BLTTHS, “chỉ tiến hành đối chất giữa bị
hại là người dưới 18 tuổi với bị can, bị cáo
để làm sáng tỏ tình tiết của vụ án trong
trường hợp nếu không đối chất thì không
thể giải quyết được vụ án”. Hiện nay,
không có quy định nào về việc đối chất
giữa người làm chứng và bị can dưới 18
tuổi với bị can đã thành niên. Theo chúng
tôi, cần phải quy định không tiến hành đối
chất giữa người bị hại và người làm chứng,
bị can dưới 18 tuổi với bị can đã thành niên
vì những lý do sau:
Thứ nhất, quy định về đối chất trong
thủ tục đối với người dưới 18 tuổi không có
gì khác so với quy định chung về đối chất,
không thể hiện tính chất đặc biệt khi áp
dụng hoạt động này đối với người dưới 18
tuổi. Khoản 1 Điều 189 BLTTHS năm 2015
về hoạt động đối chất quy định “trường hợp
có mâu thuẫn trong lời khai giữa hai hay nhiều
người mà đã tiến hành các biện pháp điều tra
khác nhưng chưa giải quyết được mâu thuẫn
thì Điều tra viên tiến hành đối chất”. So với
quy định chung này, quy định tại khoản 6
Điều 421 BLTTHS năm 2015 “chỉ tiến hành
đối chất giữa bị hại là người dưới 18 tuổi với
bị can, bị cáo để làm sáng tỏ tình tiết của vụ án
trong trường hợp nếu không đối chất thì không
thể giải quyết được vụ án” cũng có nội dung
tương tự. Đối chất được xác định như biện
pháp cuối cùng, khi đã sử dụng các biện
pháp điều tra khác mà không giải quyết
được mâu thuẫn. Quy định tại khoản 6
Điều 421 BLTTHS năm 2015 không mang
tính chất đặc biệt, có tính ưu tiên áp dụng
riêng đối với bị hại dưới 18 tuổi. Nếu chỉ
với nội dung như vậy thì không cần thiết
phải quy định trong thủ tục tố tụng đối với
người dưới 18 tuổi.
Thứ hai, hiệu quả của việc đối chất đối
với người dưới 18 tuổi không cao và kết
quả đối chất trong những trường hợp này
rất khó có tính tin cậy.
Việc đối chất rất phức tạp, phụ thuộc
vào thái độ, tâm lý, hiểu biết của hai bên
20
KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2020
tham gia đối chất và phụ thuộc rất nhiều
vào trình độ chuyên môn, kĩ năng nghiệp
vụ, thái độ khách quan của người tiến
hành đối chất; kết quả của việc đối chất
chưa chắc chắn để khẳng định hay bác bỏ
lời khai của các bên. Mặt khác, nếu bị can
im lặng, không trả lời câu hỏi của người
tiến hành đối chất thì khi đó, việc đối chất
cũng thất bại. Vì vậy, không nên trông chờ
vào kết quả đối chất như là biện pháp sau
cùng để giải quyết vụ án. Đặc biệt, việc cho
người dưới 18 tuổi, nhất là trẻ em đối chất
với bị can đã thành niên thì việc đối chất có
khả năng cao là không đạt kết quả. Rất có
thể họ khai đúng sự thật nhưng khi phải
đối mặt với bị can, do căng thẳng, hoảng
sợ nên họ đã im lặng hoặc thay đổi lời
khai, dẫn đến việc đối chất nhằm bác bỏ
lời khai gian dối của bị can, bị cáo thường
không đạt kết quả.
Thứ ba, việc cho bị hại, người làm
chứng, bị can dưới 18 tuổi đối chất với
bị can đã thành niên là không bảo đảm
nguyên tắc “lợi ích tốt nhất cho trẻ em phải
là mối quan tâm hàng đầu”. Không nên
quy định bị hại dưới 18 tuổi phải đối chất
với bị can đã thành niên vì họ có thể phải
chịu những chấn thương nặng nề về tâm lý
do phải đối mặt, đối chất với người đã xâm
hại mình, tránh tình trạng bị hại trở thành
“nạn nhân lần thứ hai” của hoạt động tố
tụng. Cũng không nên quy định người làm
chứng dưới 18 tuổi phải đối chất với bị can
đã thành niên. Tâm lý chung của người
làm chứng khi tham gia tố tụng hình sự
là họ rất lo sợ bị trả thù, ngại lộ danh tính
và không muốn phải đối chất với bị can,
đặc biệt là người làm chứng dưới 18 tuổi.
Vì vậy, việc người làm chứng dưới 18 tuổi
phải đối chất với bị can, bị cáo sẽ gây ra
những căng thẳng, lo lắng, hoảng sợ, ảnh
hưởng tâm lý lâu dài đối với họ.
Cũng cần hạn chế việc đối chất giữa
bị can là người dưới 18 tuổi với bị can đã
thành niên trong cùng một vụ án. Thực tế
tình hình tội phạm cho thấy, có tình trạng
các đối tượng phạm tội dụ dỗ, mua chuộc,
xúi giục, ép buộc người dưới 18 tuổi phạm
tội, thậm chí còn ép buộc con cháu mình
phạm tội5, sử dụng người dưới 18 tuổi
như một dạng “công cụ phạm tội”. Đối
với vụ án có cả bị can đã thành niên và
cả bị can dưới 18 tuổi, nhiều trường hợp
bị can dưới 18 tuổi là người có hoàn cảnh
đặc biệt như mồ côi cha mẹ, bị bỏ rơi, bị
khuyết tật, phải bỏ học kiếm sống, bị tổn
hại thể chất, tinh thần do bạo lực, bị bóc lột,
bị mua bán v.v. Việc những đối tượng này
phải đối chất với bị can đã thành niên, đặc
biệt là người mà bị can dưới 18 tuổi phụ
thuộc như bố mẹ, người đã ép buộc, xúi
giục mình chắc chắn sẽ gây áp lực về tâm
lý, gây ra những sang chấn, tổn thương về
tinh thần đối với họ.
Vì những lý do nêu trên, theo chúng
tôi, nên sửa đổi quy định ở khoản 6 Điều
421 theo hướng không cho bị hại, người
làm chứng, bị can dưới 18 tuổi đối chất với
bị can đã thành niên. Mặt khác, đối chất
là hoạt động điều tra được thực hiện đối
với bị can mà không thực hiện đối với bị
cáo, vì vậy, khoản 6 Điều 421 BLTTHS quy
định về việc đối chất với bị cáo là không
cần thiết. Cụ thể, khoản 6 Điều 421 nên sửa
đổi như sau:
Điều 421. Lấy lời khai người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt,
người bị tạm giữ, người bị hại, người làm
chứng; hỏi cung bị can; đối chất
5 SOS tình trạng ép trẻ em phạm tội,
baodienbienphu.info.vn/tin-tuc/phap-luat/171257/
sos-tinh-trang-ep-tre-em-pham-toi, truy cập ngày
15/2/2020.
21Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2020
PHAN THỊ THANH MAI
6. Không tiến hành đối chất giữa người
dưới 18 tuổi với bị can đã thành niên.
3. Về việc thống nhất và hướng dẫn
một số quy định liên quan đến việc người
đại diện của người dưới 18 tuổi
Thứ nhất, hiện nay, các quy định trong
BLTTHS về địa vị pháp lý của người đại
diện của người dưới 18 tuổi chưa thống
nhất với nhau, dẫn đến việc nhận thức và áp
dụng chưa thống nhất. Điều 420 BLTTHS
về việc tham gia tố tụng của người đại
diện, nhà trường, tổ chức quy định: Người
đại diện của người dưới 18 tuổi có quyền
và nghĩa vụ tham gia tố tụng theo quyết
định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án. Người đại diện của người dưới 18
tuổi được tham gia việc lấy lời khai, hỏi
cung người dưới 18 tuổi; đưa ra chứng cứ,
tài liệu, đồ vật, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo...
Ngoài ra, quyền của người đại diện
của người dưới 18 tuổi còn được quy định
ở một số điều luật khác như quy định người
đại diện của người bị buộc tội dưới 18 tuổi
có quyền mời người bào chữa (Điều 75); có
quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người
bào chữa (khoản 3 Điều 77); quy định
quyền của người đại diện của người bị hại
tại Điều 62; quyền kháng cáo của người
đại diện của bị cáo và người bị hại dưới
18 tuổi tại khoản 1 Điều 331 Việc quy
định không tập trung như vậy về mặt lập
pháp là chưa rõ ràng, có thể dẫn đến việc
xác định quyền của người đại diện không
thống nhất, gây khó khăn cho người đại
diện của người dưới 18 tuổi khi thực hiện
quyền của họ, đồng thời gây khó khăn cho
cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo
đảm quyền của người đại diện. Vì vậy, cần
phải bổ sung thêm Điều 420 BLTTHS cho
đầy đủ các quyền của người đại diện của
người dưới 18 tuổi.
Thứ hai, Điều 420 BLTTHS quy định
đại diện của người dưới 18 tuổi có quyền
đưa chứng cứ, tài liệu, đồ vật. Tuy nhiên,
lời khai của người đại diện của người dưới
18 tuổi không được BLTTHS quy định là
nguồn chứng cứ và cũng không quy định
về hoạt động điều tra lấy lời khai của người
đại diện của người dưới 18 tuổi. Thực tiễn
tiến hành hoạt động này trong giai đoạn
điều tra có nhiều ý kiến khác nhau.6
Có ý kiến cho rằng, có thể chuyển hóa
lời khai của người đại diện của người bị
hại thành lời khai của người mà họ đại
diện. Việc chuyển hóa này không hợp lý
vì người dưới 18 tuổi và người đại diện
của họ đều có quyền cung cấp chứng cứ
với tư cách riêng, những thông tin mà họ
đưa ra cũng mang tính chủ thể riêng biệt,
không thể chuyển hóa cho nhau. Ý kiến
khác lại coi đó là lời khai của người làm
chứng, nhưng lại không xác định tư cách
tố tụng của họ là người làm chứng khi lấy
lời khai thì cũng không hợp lý. Không nên
xác định người đại diện của người bị buộc
tội và người bị hại là người dưới 18 tuổi
đồng thời là người làm chứng vì người
làm chứng có nghĩa vụ phải khai báo trung
thực, nếu khai gian dối hoặc từ chối khai
báo không vì lý do bất khả kháng hoặc
không do trở ngại khách quan thì phải chịu
trách nhiệm hình sự. Trong khi đó, người
đại diện của người bị buộc tội, người bị hại
dưới 18 tuổi phải vì lợi ích của người mà
họ đại diện, coi lợi ích đó là mối quan tâm
hàng đầu nên việc buộc họ phải khai báo
trung thực, khách quan, không được nghi
ngờ, suy diễn chủ quan là không hợp lý.
Trong giai đoạn xét xử, việc thu
thập thông tin từ lời trình bày của người
đại diện của người bị hại được quy định
6 Những ý kiến này do tác giả tham khảo ý kiến
một số chuyên gia làm công tác thực tiễn trong
ngành công an, tòa án.
22
KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2020
là hoạt động xét hỏi người đại diện của
người bị hại (Điều 310 BLTTHS) nhưng
không có quy định về việc xét hỏi đại diện
của người bị hại, người làm chứng dưới 18
tuổi. Để giải quyết các bất cập trên, chúng
tôi kiến nghị cần bổ sung quy định lời khai
của người đại diện của người dưới 18 tuổi
là nguồn chứng cứ và bổ sung thêm quy
định về hoạt động điều tra “lấy lời khai
của người đại diện của người bị buộc tội,
bị hại, người làm chứng”; bổ sung thêm
quy định về xét hỏi người đại diện của bị
cáo, xét hỏi đại diện của người làm chứng.
Thứ ba, cần có hướng dẫn cụ thể về việc
xác định người đại diện cho người dưới 18
tuổi. Theo Điều 3 TTLT số 06/2018, người
đại diện của người tham gia tố tụng là
người dưới 18 tuổi được xác định theo thứ
tự: cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi; người giám hộ;
người do Tòa án chỉ định. Việc xác định
người đại diện của người tham gia tố tụng
dưới 18 tuổi chưa được quy định còn có
một số bất cập sau:
Một là, việc xác định thẩm quyền cử
người giám hộ của Ủy ban nhân dân cấp
xã nơi người chưa thành niên dưới 18 tuổi
cư trú còn chưa rõ ràng. Theo quy định tại
Điều 12 Luật Cư trú năm 2006, nơi cư trú
của công dân là nơi thường trú hoặc nơi
tạm trú. Trong thực tiễn, có nhiều trường
hợp người tham gia tố tụng là người dưới
18 tuổi đăng ký thường trú một nơi nhưng
sinh sống ở nơi khác. Như vậy, trong
trường hợp này, Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi người dưới 18 tuổi đăng ký thường trú
hay nơi người dưới 18 tuổi có trách nhiệm
cử người giám hộ cho họ chưa được xác
định rõ. Và nếu xảy ra tranh chấp trong
việc cử người giám hộ thì việc Tòa án nơi
người tham gia tố tụng là người dưới 18
tuổi đăng ký thường trú hay tạm trú có
thẩm quyền chỉ định người giám hộ cũng
chưa được xác định rõ.
Hai là, trình tự, thủ tục Tòa án chỉ định
người giám hộ hoặc chỉ định người đại
diện cho người tham gia tố tụng là người
dưới 18 tuổi chưa được quy định rõ. Theo
khoản 3, Điều 136 Bộ luật dân sự năm 2015,
trong trường hợp không xác định được
người đại diện là cha mẹ của người chưa
thành niên, người giám hộ cho người chưa
thành niên (bao gồm người giám hộ đương
nhiên, người giám hộ do Ủy ban nhân dân
cấp xã cử hoặc do Tòa án chỉ định) thì Tòa
án chỉ định người đại diện cho người chưa
thành niên. Tuy nhiên, trình tự, thủ tục để
Tòa án chỉ định người giám hộ hoặc chỉ
định người đại diện cho người tham gia
tố tụng là người dưới 18 tuổi được thực
hiện như thế nào; Tòa án sẽ chỉ định ai là
người giám hộ hoặc là người đại diện cho
người tham gia tố tụng là người dưới 18
tuổi; hoặc là khi có sự tranh chấp về thẩm
quyền giữa các Tòa án trong việc chỉ định
người giám hộ, chỉ định người đại diện thì
việc giải quyết như thế nào lại chưa được
quy định rõ. Những vướng mắc nêu trên
do chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nên
trong thực tiễn, các cơ quan tiến hành tố
tụng đã lúng túng hoặc không thống nhất
quan điểm với nhau. Thiết nghĩ, những
vướng mắc này cơ quan có thẩm quyền
cần sớm hướng dẫn để việc áp dụng pháp
luật trong thực tiễn được thống nhất.7
4. Về bào chữa đối với của người bị
buộc tội là người dưới 18 tuổi
Khoản 1 Điều 422 BLTTHS năm 2015
quy định “người bị buộc tội là người dưới
7 Dương Tấn Thanh (2019), Người đại diện của
người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi trong
tố tụng hình sự, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/
xet-xu/nguoi-dai-dien-cua-nguoi-tham-gia-to-
tung-la-nguoi-duoi-18-tuoi-trong-to-tung-hinh-
su, truy cập ngày 05/02/2020
23Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2020
PHAN THỊ THANH MAI
18 tuổi có quyền tự bào chữa hoặc nhờ
người người khác bào chữa”. Quy định
này không thống nhất với nguyên tắc bảo
đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội
quy định tại Điều 16 BLTTHS năm 2015
với nội dung người bị buộc tội đồng thời
có cả quyền tự bào chữa và quyền nhờ
người khác bào chữa, họ có thể thực hiện
cả quyền tự bào chữa và quyền nhờ người
khác bào chữa; cũng có thể không nhờ
người khác bào chữa. Khoản 2, Điều 422
BLTTHS năm 2015 quy định trách nhiệm
chỉ định người bào chữa cho người bị buộc
tội dưới 18 tuổi thuộc về Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát và Tòa án là chưa bao hàm
hết các chủ thể có trách nhiệm bảo đảm
quyền bào chữa theo quy định tại Điều 16
BLTTHS. Vì vậy, cần sửa đổi quy định tại
khoản 1 và khoản 2 Điều 422 BLTTHS năm
2015 cho phù hợp với quy định tại Điều
16 BLTTHS năm 2015. Trên cơ sở phân tích
trên, chúng tôi kiến nghị sửa đổi Điều 422
BLTTHS năm 2015 cụ thể như sau:
Ðiều 422. Bào chữa
1. Người bị buộc tội là người dưới 18
tuổi có quyền tự bào chữa, (bỏ chữ hoặc và
thay bằng dấu phẩy) nhờ người khác bào chữa.
2. (Giữ nguyên)
3. Trường hợp người bị buộc tội là
người dưới 18 tuổi không có người bào
chữa hoặc người đại diện của họ không
lựa chọn người bào chữa thì cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định
người bào chữa theo quy định tại Điều 76
của Bộ luật này.
Như vậy, quy định về thủ tục tố tụng
đối với người dưới 18 tuổi trong BLTTHS
năm 2015 là một bước tiến lớn trong hoạt
động lập pháp của Nhà nước ta nhằm bảo
đảm ngày càng tốt hơn lợi ích của người
dưới 18 tuổi; phù hợp và đáp ứng các
chuẩn mực quốc tế về quyền trẻ em. Tuy
nhiên, quy định của BLTTHS năm 2015
vẫn còn một số hạn chế nhất định cần tiếp
tục sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hơn
nữa chế định này./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Xuân Thiên An, Tìm hiểu về việc xác định tuổi
của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18
tuổi theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015, đăng ngày 3/7/2017,
vn/tin-tuc/tim-hieu-ve-viec-xac-dinh-tuoi-cua-nguoi-
bi-buoc-toi-nguoi-bi-hai-la-nguoi-duoi-18-tuoi-theo-
quy-dinh-cua-bltths-nam-2015-3273.html, truy cập
ngày 8/2/2020.
2. Nguyễn Hòa Bình chủ biên (2016), Những nội
dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015,
Nxb Chính trị quốc gia.
3. Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa Luật (2010),
Quyền con người, tập hợp những bình luận/khuyến
nghị chung của Ủy ban công ước Liên hợp quốc,
Nxb Công an nhân dân.
4. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Trung
tâm nghiên cứu quyền con người, Các văn kiện
quốc tế về quyền con người, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh.
5. Nguyễn Thị Lộc (2017), Vấn đề xác định tuổi của
người bị hại là người dưới 18 tuổi theo quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Tạp chí Khoa học
Kiểm sát, số 1/2017.
6. Đinh Văn Quế, Xác định tuổi của người bị hại -
Những vấn đề lý luận và thực tiễn,Tạp chí Kiểm
sát số 10/2018,
tuoi-cua-nguoi-bi-hai-50249.html, đăng ngày
10/7/2018, truy cập ngày 8/2/2020.
7. Tòa án nhân dân tối cao, Viện khoa học xét xử
(2010), Báo cáo tổng quan về cơ sở lý luận và thực
tiễn của sự cần thiết thành lập Tòa án chuyên
trách đối với người chưa thành niên ở Việt Nam.
8. Dương Tấn Thanh (2019), Người đại diện của
người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi trong
tố tụng hình sự, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/
xet-xu/nguoi-dai-dien-cua-nguoi-tham-gia-to-
tung-la-nguoi-duoi-18-tuoi-trong-to-tung-hinh-
su, truy cập ngày 5/2/2020
9. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Quyền của
người chưa thành niên trong pháp luật hình sự một
số nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam.
10. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Tập bài
giảng Tư pháp đối với người chưa thành niên.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kien_nghi_sua_doi_bo_sung_mot_so_quy_dinh_cua_bo_luat_to_tun.pdf