Theo dõi cân nặng của trẻ là việc làm cần
thiết. Trẻ trong độ tuổi mẫu giáo cần được
theo dõi cân nặng mỗi 3 tháng để sớm phát
hiện các dấu hiệu đứng cân hoặc sụt cân, từ đó
điều chỉnh dinh dưỡng cho hợp lý. Trẻ học ở
các trường mẫu giáo tại thành phố Mỹ Tho
được nhà trường theo dõi cân nặng mỗi 3
tháng. Tuy nhiên kết quả khảo sát có đến
12,2% các bà mẹ không biết được cân nặng của
con mình trong 3 tháng qua. Nghiên cứu trước
đó của tác giả Đoàn Thị Kim Ngân cũng có kết
quả tương tự (17,3% các bà mẹ không theo dõi
cân nặng của trẻ thường xuyên)(2). Điều này
cho thấy cũng có không ít các bà mẹ không
hiểu đúng ý nghĩa và tầm quan trọng của việc
theo dõi cân nặng của trẻ.
Ảnh hưởng của SDD đối với trẻ
Theo kết quả khảo sát thì tỉ lệ các bà mẹ
không biết SDD làm cho trẻ dễ bệnh tật là
15,1%, không biết SDD ảnh hưởng đến sự phát
triển trí thông minh của trẻ là 9,3% và 0,8% các
bà mẹ cho rằng SDD không ảnh hưởng gì
nghiêm trọng. Tính chung, tỉ lệ các bà mẹ
không biết được những ảnh hưởng của SDD
đối với trẻ là 19,2%. Điều này cho thấy cũng
không ít các bà mẹ không quan tâm đến SDD
ở trẻ em. Do đó phải tăng cường tuyên truyền
kiến thức về SDD cho các bà mẹ để họ biết
được và chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ tốt hơn,
phòng tránh được tình trạng SDD.
9 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 445 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến thức, thái độ, thực hành nuôi con của bà mẹ có trẻ ởcác trường mẫu giáo tại thành phố Mỹ Tho tỉnh Tiền Giang năm học 2013 – 2014, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi Khoa 43
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH NUÔI CON CỦA BÀ MẸ CÓ TRẺ
Ở CÁC TRƯỜNG MẪU GIÁO TẠI THÀNH PHỐ MỸ THO TỈNH TIỀN GIANG
NĂM HỌC 2013 – 2014
Tạ Văn Trầm*, Trần Quang Dư*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ bà mẹ có kiến thức, thái độ, thực hành nuôi con không đúng.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Kết quả: Tỉ lệ các bà mẹ có kiến thức chung không đúng là 29,8%, có thái độ chung không đúng là 41,4%, có
thực hành chung không đúng là 27,3%.
Kết luận: Kiến thức, thái độ, thực hành nuôi con của bà mẹ vẫn chưa cao.
Từ khóa: Suy dinh dưỡng, kiến thức, thái độ, thực hành.
ABSTRACT
KNOWLEDGE, ATTITUDE, PRACTICE OF MOTHER WITH CHILD IN NURSERY SCHOOL IN MY
THO CITY, TIEN GIANG PROVINCE IN 2013 – 2014
Tran Quang Du, Ta Van Tram * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 19 - No 3 - 2015: 42 - 50
Objectives: Determining the rate of mothers with incorrect knowledge, attitude, practice.
Methods: Cross-sectional descriptive.
Results: Percentage of mothers with incorrect knowledge was 29.8%, the general incorrect attitude is 41.4%,
the common incorrect practice is 27.3%.
Conclusion: Knowledge, attitudes and practices of mothers in raising children is not high
Key words: Malnutrition, knowledge, attitude, practice.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm qua, cùng với sự phát
triển của nền kinh tế xã hội, sự triển khai có hiệu
quả của nhiều chương trình phòng chống suy
dinh dưỡng (SDD) trẻ em, sự thay đổi về kiến
thức, thái độ, thực hành của các bậc cha mẹ trong
vấn đề nuôi dưỡng con trẻ, tỉ lệ trẻ SDD đã giảm
nhiều nhưng vẫn còn ở mức cao, đặc biệt là ở trẻ
dưới 5 tuổi.
Hiện nay SDD vẫn là vấn đề sức khỏe toàn
cầu. Năm 2011 theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế
giới (TCYTTG) và Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc
(QNĐLHQ), số trẻ dưới 5 tuổi bị SDD thể thấp
còi là 165 triệu, SDD thể nhẹ cân là 101 triệu và
trong khoảng 3 triệu trẻ tử vong trên toàn thế
giới thì hơn một phần ba số trường hợp liên
quan đến SDD. Do đó TCYTTG đã đưa ra mục
tiêu giảm tỉ lệ SDD trẻ em xuống dưới 15% vào
năm 2015. Tuy nhiên, mục tiêu này khó có thể
đạt được một cách dễ dàng vì giảm tỉ lệ SDD
không chỉ phụ thuộc vào tăng trưởng kinh tế,
giảm bớt đói nghèo mà còn phụ thuộc nhiều vào
những nỗ lực làm thay đổi nhận thức và hành vi
của cộng đồng.
Theo nhiều y văn, một trong những nguyên
nhân hàng đầu của SDD là do kiến thức và
phương pháp nuôi con của các bà mẹ chưa
đúng(12). Mục tiêu của “Chiến lược Quốc gia về
Dinh dưỡng giai đoạn 2011 - 2020” là nâng cao
* Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang.
Tác giả liên lạc: PGS.TS Tạ Văn Trầm ĐT: 0913771779, Email: tavantram@gmail.com.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015
Chuyên Đề Nhi Khoa 44
hiểu biết và tăng cường thực hành dinh dưỡng
hợp lý, trong đó nâng cao tỉ lệ nữ thanh niên
được huấn luyện về dinh dưỡng và kiến thức cơ
bản về làm mẹ đạt 60% vào năm 2015. Vì vậy
trong những năm qua, kế hoạch dinh dưỡng
quốc gia tập trung nhiều vào việc tuyên truyền,
giáo dục kiến thức, thực hành về dinh dưỡng mà
người dân có thể thực hiện được bằng khả năng
và phương tiện sẵn có tại gia đình.
Mỹ Tho là thành phố trung tâm của tỉnh Tiền
Giang, có điều kiện kinh tế, xã hội phát triển và
được tập trung đầu tư nhiều nhất của tỉnh. Năm
2013, thành phố Mỹ Tho hoàn thành chỉ tiêu phổ
cập giáo dục mầm non. Đây là một điều kiện rất
tốt để thành phố triển khai các chương trình giáo
dục, chăm sóc sức khỏe trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo
có hiệu quả hơn. Đồng thời đó cũng là điều kiện
thuận lợi để việc tuyên truyền, phổ biến kiến
thức về y tế cho các bà mẹ được tốt hơn.
Theo điều tra của Viện Dinh dưỡng, tỉ lệ trẻ
SDD thể nhẹ cân ở trẻ dưới 5 tuổi của tỉnh Tiền
Giang năm 2012 là 13,9%, thể thấp còi là 26,4%.
Mặc dù SDD trẻ em vẫn đang là vấn đề sức khỏe
cộng đồng quan trọng cần can thiệp tích cực
nhưng từ trước đến nay, tại Tiền Giang nói
chung và thành phố Mỹ Tho nói riêng, chưa có
công trình nghiên cứu về kiến thức, thái độ, thực
hành nuôi con của các bà mẹ.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỉ lệ bà mẹ có kiến thức, thái độ,
thực hành nuôi con không đúng.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Dân số chọn mẫu
Trẻ đang học ở các trường mẫu giáo tại
thành phố Mỹ Tho tỉnh Tiền Giang năm học
2013 - 2014 và bà mẹ của những trẻ này.
Tiêu chí chọn mẫu
Trẻ đang học ở các lớp được chọn trong các
trường mẫu giáo tại thành phố Mỹ Tho tỉnh Tiền
Giang năm 2014 và các bà mẹ có con được chọn.
Tiêu chí loại trừ
Trẻ có tên trong các lớp được chọn nhưng
không đi học vào thời điểm thực hiện nghiên
cứu; Bà mẹ không biết chữ; Bà mẹ không đồng ý
tham gia vào nghiên cứu.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Xử lý và phân tích dữ liệu
Phần mềm SPSS 16.0.
KẾT QUẢ
Đặc điểm kiến thức nuôi con của bà mẹ
Bảng 1: Kiến thức nuôi con của bà mẹ qua từng
nội dung khảo sát (n = 1063)
Kiến thức Tần số Tỉ lệ (%)
Loại thức ăn
tốt nhất đối
với trẻ
Sữa mẹ 1003 94,4
Sữa hộp 20 1,9
Bột 7 0,6
Thức ăn khác 24 2,3
Không biết 9 0,8
Thời gian
cho trẻ bú
mẹ sau sinh
Trong giờ đầu 887 83,4
Từ 2 – 24 giờ 140 13,2
Sau 24 giờ 31 2,9
Không biết 5 0,5
Thức ăn bổ
sung trong 6
tháng đầu
Cần thiết 266 25,0
Không cần thiết 790 74,3
Không biết 7 0,7
Thời điểm
cho trẻ ăn
dặm
Trước 6 tháng 64 6,0
Từ 6 tháng 641 60,3
Sau 6 tháng 357 33,6
Không biết 1 0,1
Thời điểm
cai sữa mẹ
Trước 12 tháng tuổi 83 7,8
Từ 12 – 24 tháng tuổi 608 57,2
Sau 24 tháng tuổi 369 34,7
Không biết 3 0,3
Nhóm
thức ăn
trong bữa ăn
(nhiều lựa
chọn)
Đường, bột 887 83,4
Đạm 1006 94,6
Béo 750 70,6
Xơ, vitamin, khoáng chất 978 92,0
Không biết 6 0,6
Bổ sung
vitamin A
cho trẻ
Cần thiết 1028 96,7
Không cần thiết 20 1,9
Không biết 15 1,4
Cách tẩy
giun cho trẻ
1 lần duy nhất 7 0,7
3 tháng một lần 79 7,4
6 tháng một lần 867 81,6
1 năm một lần 105 9,9
Không biết 5 0,4
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi Khoa 45
Kiến thức Tần số Tỉ lệ (%)
Ảnh hưởng
của SDD
(nhiều lựa
chọn)
Làm trẻ dễ bệnh tật 902 84,9
Ảnh hưởng đến sự phát
triển cơ thể
1022 96,1
Ảnh hưởng sự phát triển trí
thông minh
964 90,7
Không ảnh hưởng nghiêm
trọng
9 0,8
Không biết 8 0,7
Bảng 2: Tỉ lệ kiến thức nuôi con không đúng của bà
mẹ (n = 1063)
Nội dung
Tần
số
Tỉ lệ
%
Không biết thời điểm cho trẻ cai sữa mẹ 694 65,3
Không biết thời điểm cho trẻ ăn dặm 422 39,7
Không biết bữa ăn của trẻ có đủ 4 nhóm thức
ăn
328 30,9
Không biết chế độ dinh dưỡng của trẻ trong 6
tháng đầu
273 25,7
Không biết ảnh hưởng của SDD đối với trẻ 204 19,2
Không biết cách tẩy giun cho trẻ 196 18,4
Không biết thời gian cho trẻ bú sau sinh 176 16,6
Không biết sữa mẹ là tốt nhất đối với trẻ 60 5,6
Không biết trẻ dưới 5 tuổi cần bổ sung vitamin
A
35 3,3
Bảng 3: Kiến thức chung về cách nuôi con của bà mẹ
(n = 1063)
Biến số Tần số Tỉ lệ %
Kiến thức chung đúng (7 - 9 điểm) 746 70,2
Kiến thức chung không đúng (0 - 6 điểm) 317 29,8
Đặc điểm thái độ nuôi con của bà mẹ
Bảng 4: Thái độ của bà mẹ qua từng nội dung khảo
sát (n = 1063)
Thái độ Tần số Tỉ lệ (%)
Trẻ dưới 6 tháng chỉ
cần bú mẹ
Đồng ý 786 73,9
Không đồng ý 225 21,2
Không ý kiến 52 4,9
Cho trẻ bú mẹ ít nhất
đến 24 tháng
Đồng ý 780 73,4
Không đồng ý 222 20,9
Không ý kiến 61 5,7
Cho trẻ tiêm ngừa
đầy đủ
Đồng ý 1059 99,6
Không đồng ý 1 0,1
Không ý kiến 3 0,3
Bảng 5: Thái độ chung của bà mẹ (n = 1063)
Biến số Tần số Tỉ lệ (%)
Thái độ chung đúng (3 điểm) 623 58,6
Thái độ chung không đúng (0 - 2 điểm) 440 41,4
Đặc điểm thực hành nuôi con của bà mẹ
Bảng 6: Thực hành của bà mẹ qua từng nội dung
khảo sát (n = 1063)
Thực hành Tần số Tỉ lệ (%)
Nuôi con bằng sữa
mẹ
Có 1033 97,2
Không 30 2,8
Thời điểm cai sữa
cho trẻ
Trước 24 tháng 678 63,8
Sau 24 tháng 333 31,3
Không nhớ 52 4,9
Thêm dầu vào bữa ăn
ngày hôm qua của trẻ
Có 823 77,4
Không 206 19,4
Không nhớ 34 3,2
Cho trẻ ăn rau trong
ngày hôm qua
Có 1022 96,1
Không 33 3,1
Không nhớ 8 0,8
Đưa trẻ đi tiêm ngừa Đầy đủ 1040 97,8
Không đầy đủ 23 2,2
Tẩy giun cho trẻ trong
6 tháng qua
Có 929 87,4
Không 118 11,1
Không nhớ 16 1,5
Theo dõi cân nặng
của trẻ
Khoảng 3 tháng 899 84,6
3 tháng - 1 năm 92 8,6
Hơn 1 năm 33 3,1
Không nhớ 39 3,7
Bảng 7: Tỉ lệ bà mẹ thực hành nuôi con không đúng
Thực hành không đúng N
Tần số Tỉ lệ (%)
Cai sữa mẹ trước 24 tháng tuổi 1011 678 67,1
Không bổ sung dầu ăn 1029 206 20,0
Không theo dõi cân nặng của trẻ 1024 125 12,2
Không tẩy giun cho trẻ 1047 118 11,3
Không cho trẻ ăn rau 1055 33 3,1
Không nuôi con bằng sữa mẹ 1063 30 2,8
- Không tiêm ngừa cho trẻ 1063 23 2,2
: không tính những trường hợp bà mẹ có câu trả lời là
không nhớ.
Bảng 8: Thực hành chung về cách nuôi con của bà mẹ
(n = 952)
Biến số Tần số Tỉ lệ %
Thực hành chung đúng (6 - 7 điểm) 692 72,7
Thực hành chung không đúng
(0 - 5 điểm)
260 27,3
BÀN LUẬN
Kiến thức, thái độ, thực hành của bà mẹ qua
các nội dung khảo sát.
Sữa mẹ
Sữa mẹ là thức ăn tốt nhất và phù hợp nhất
đối với trẻ nhỏ. Trong sữa mẹ có đầy đủ chất
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015
Chuyên Đề Nhi Khoa 46
dinh dưỡng cần thiết cho trẻ với một tỉ lệ cân
đối, dễ hấp thu nhất là Protein, Lipid, vitamin A
và nhiều tố chất sinh học mà thức ăn khác không
thể có như kháng thể, Enzym sinh học, bạch cầu
giúp cơ thể trẻ chống nhiễm khuẩn trong thời kỳ
đầu khi sức đề kháng của trẻ chưa hoàn chỉnh.
Mặt khác cho trẻ bú sữa mẹ còn mang lại những
tiện lợi về kinh tế, gắn bó tình cảm mẹ con.
Trong những năm gần đây, ít có vấn đề trong
dinh dưỡng trẻ em được quan tâm nhiều bằng
nuôi con bằng sữa mẹ. TCYTTG và QNĐLHQ
đã coi nuôi con bằng sữa mẹ là một trong những
biện pháp quan trọng nhất để bảo vệ sức khỏe
trẻ em(3,12).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có đến
94,4% các bà mẹ biết sữa mẹ là thức ăn phù hợp,
tốt nhất cho trẻ và trong thực hành đã có đến
97,2% các bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ. So với
các nghiên cứu trước đây thì tỉ lệ các này đã tăng
lên đáng kể.
Điều đó cho thấy các bà mẹ ngày càng nhận
thức được tầm quan trọng của sữa mẹ đối với trẻ
và tỉ lệ bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ cũng tăng
lên. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của chúng tôi
có 5,6% các bà mẹ không có kiến thức đúng về
vấn đề này. Trong đó, tỉ lệ các bà mẹ cho rằng
thức ăn tốt và phù hợp nhất với trẻ là thức ăn
khác là 2,3%, sữa hộp là 1,9% và không biết thức
nào tốt nhất cho trẻ là 0,8%. Vì vậy vai trò của
sữa mẹ đối với trẻ vẫn là vấn đề cần quan tâm tại
địa phương, cần tiếp tục tuyên truyền, phổ biến
hơn nữa để nâng cao kiến thức cho bà mẹ và qua
đó nâng cao tỉ lệ trẻ được nuôi dưỡng bằng sữa
mẹ.
Thời điểm cho trẻ bú mẹ lần đầu sau sinh
Hiện nay theo khuyến cáo của TCYTTG nên
cho trẻ bú mẹ ngay trong vòng giờ đầu sau sinh
và càng sớm càng tốt(12). Bởi vì như vậy trẻ sẽ sử
dụng được sữa non, là loại sữa rất tốt, hoàn hảo
về dinh dưỡng và các chất sinh học thích ứng với
cơ thể trẻ. Hơn nữa, động tác bú của trẻ sẽ kích
thích sự tiết sữa của người mẹ. Trong nghiên cứu
của chúng tôi có 16,6% bà mẹ không có kiến thức
đúng về vấn đề này. Cụ thể có 13,2% các bà mẹ
cho rằng thời điểm trẻ bú mẹ lần đầu là 2 - 24 giờ
sau sinh và đặc biệt có 2,9% các bà mẹ cho rằng
thời điểm đó là vào ngày hôm sau (sau 24 giờ
sau sinh).
Các nghiên cứu trước đây cũng cho kết quả
tương tự. Kết quả nghiên cứu của tác giả Huỳnh
Văn Sơn (năm 2004, cỡ mẫu 600) thì 8,8% các bà
mẹ không biết được trẻ cần bú mẹ trong vòng
giờ đầu sau sinh(4). Tỉ lệ này trong nghiên cứu
của tác giả Thái Kim Yến (năm 2008, cỡ mẫu 802)
là 18%(13) và nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị
Như Hoa (năm 2011, cỡ mẫu 404) là 10,5%(10).
Nghiên cứu của tác giả Mohammed E. S. và cộng
sự về kiến thức, thái độ, thực hành nuôi con của
307 bà mẹ ở vùng nông thôn El-Minia,
Governorate, Ai Cập thì có 16% các bà mẹ không
đồng ý cho con bú sữa mẹ ngay sau sinh và
trong thực hành có đến 25,8% các bà mẹ không
cho trẻ bú sữa non(7). Điều này cho thấy vẫn còn
một phần lớn các bà mẹ không có kiến thức
đúng về việc cho trẻ bú mẹ sớm sau sinh. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, kiến thức cho trẻ bú
mẹ sớm sau sinh của bà mẹ có liên quan với tình
trạng SDD của trẻ. Kết quả phân tích cho thấy
con của những bà mẹ có kiến thức không đúng
sẽ có tỉ lệ SDD thấp còi cao hơn so với con của bà
mẹ có kiến thức đúng (p = 0,021). Đây là cơ sở
thực tiễn để tăng cường phổ biến kiến thức này
nâng cao hiểu biết cho bà mẹ và góp phần giảm
tỉ lệ SDD ở trẻ.
Bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu
Chiến lược toàn cầu về nuôi dưỡng trẻ sơ
sinh và trẻ nhỏ của TCYTTG và QNĐLHQ đã
đưa ra bằng chứng khoa học về tính ưu việt của
thực hành nuôi con bằng sữa mẹ và khuyến nghị
trẻ cần được nuôi dưỡng hoàn toàn bằng sữa mẹ
trong 6 tháng đầu thay vì 4 tháng như trước
đây(12).
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 25,7% các
bà mẹ có kiến thức không đúng về việc cho trẻ
bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Kết quả này
cũng tương đương với kết quả nghiên cứu của
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi Khoa 47
tác giả Nguyễn Thị Như Hoa (20,4% bà mẹ có
kiến thức không đúng)(10) và tác giả Nguyễn Lê
Thành (25,1%)(8). Nghiên cứu của tác giả Oche M.
O. và các cộng sự tại thị trấn Kware, bang
Sokoto, Nigeria năm 2011 thì có 31% trong tổng
số 179 bà mẹ có kiến thức đúng về bú mẹ hoàn
toàn trong 6 tháng đầu(11). Kiến thức của các bà
mẹ về vấn đề này là chưa tốt. Do đó trong công
tác tuyên truyền cần đặc biệt chú trọng đến kiến
thức cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu
để nâng cao kiến thức đúng cho các bà mẹ. Kết
quả phân tích cho thấy kiến thức về bú mẹ hoàn
toàn trong 6 tháng đầu có liên quan với tình
trạng SDD của trẻ. Con của những bà mẹ có kiến
thức không đúng có tỉ lệ SDD nhẹ cân cao hơn so
với con của bà mẹ có kiến thức đúng (p = 0,007).
Do đó việc nâng cao kiến thức này cho các bà mẹ
có ý nghĩa quan trọng tại địa phương.
Tỉ lệ các bà mẹ có thái độ đúng về việc cho
trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu là 73,9%
và phù hợp với sự hiểu biết của họ (74,3%). Tuy
nhiên cũng có 25,0% bà mẹ cho rằng trẻ cần
được ăn thêm thức ăn khác và do đó cũng có
21,2% bà mẹ có thái độ không đồng ý với việc
cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Có
thể thấy các bà mẹ chưa thật sự hiểu đúng và tin
tưởng vào việc cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6
tháng đầu mà không cần cho thêm bất cứ thức
ăn nào khác. Theo nghiên cứu của tác giả Huỳnh
Văn Sơn thì lý do các bà mẹ thường đưa ra là sợ
trẻ sẽ khát nếu không cho trẻ uống nước, uống
nước để rửa sạch miệng cho trẻ hoặc bú sữa mẹ
đơn thuần sẽ không cung cấp đủ chất dinh
dưỡng trẻ sẽ đói. Do đó cần phải có một chương
trình truyền thông liên tục, lâu dài, giải thích thật
khoa học, dễ hiểu về vấn đề này để các bà mẹ
hiểu và thực hiện đúng.
Một trong những nguyên nhân khác thường
gặp khác của vấn đề này là do tính chất, yêu cầu
của công việc đòi hỏi bà mẹ phải đi làm sớm nên
không có thời gian để cho trẻ bú mẹ được đầy
đủ. Hiện nay ở nước ta đã có chính sách tăng
thời gian nghỉ hậu sản cho các bà mẹ lên 6 tháng
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho bà mẹ chăm
sóc con được tốt hơn và sẽ tăng được tỉ lệ trẻ bú
mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Nghiên cứu của
tác giả Oche M. O. và các cộng sự tại thị trấn
Kware, bang Sokoto, Nigeria năm 2011 thì có
31% trong tổng số 179 bà mẹ cho trẻ bú mẹ hoàn
toàn trong 6 tháng đầu(11), còn nghiên cứu của tác
giả Wong H. J. và cộng sự thực hiện trên 274 trẻ
ở lứa tuổi mẫu giáo tại bang Terenggaru,
Malaysia năm 2012 thì tỉ lệ này là 40,1%(15). Tại
Việt Nam, theo kết quả điều tra của Viện Dinh
dưỡng năm 2010 thì tỉ lệ trẻ nhỏ dưới 6 tháng
tuổi được bú sữa mẹ hoàn toàn là rất thấp
(19,6%)(1). Do đó Chiến lược Quốc gia về dinh
dưỡng giai đoạn 2011 - 2020 đã đặt ra mục tiêu
nâng tỉ lệ này lên 27% vào năm 2015 và tiếp tục
phấn đấu đạt 35% vào năm 2020. Đây thực sự là
một thách thức đối với nước ta nói chung và với
Tiền Giang nói riêng bởi nó đòi hỏi nhiều yếu tố
và sự phối hợp của nhiều ban ngành.
Thời điểm cho trẻ ăn dặm
Thời điểm ăn dặm rất quan trọng đối với
tình trạng dinh dưỡng của trẻ em. Cho trẻ ăn
dặm sớm không có lợi cho sức khỏe của trẻ vì
trước 6 tháng tuổi trẻ chưa cần đến thức ăn
ngoài sữa mẹ, cho trẻ ăn khiến trẻ bú ít đi, sữa
mẹ cũng sẽ tiết ra ít và trẻ mất nguồn dinh
dưỡng quý giá từ sữa mẹ. Ngược lại nếu cho
trẻ ăn dặm quá trễ sẽ không đáp ứng được
nhu cầu phát triển của cơ thể trẻ và thiếu dinh
dưỡng sẽ xảy ra. Khuyến cáo hiện nay của
TCYTTG là bắt đầu cho trẻ ăn dặm từ tháng
thứ 6(12). Trong nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ
bà mẹ có kiến thức không đúng về thời điểm
cho trẻ ăn dặm là 39,7%.
Kết quả nghiên cứu của tác giả Lương Ngọc
Trương (năm 2013)(5) và của chúng tôi (năm
2014) thì tỉ lệ các bà mẹ có kiến thức không đúng
về thời điểm cho trẻ ăn dặm là gần 40%, đều cao
hơn kết quả của những nghiên cứu trước đó
(trước năm 2008). Sự khác biệt này có thể giải
thích do tiêu chuẩn đánh giá khác nhau. Trước
đây những khuyến cáo về thời điểm cho trẻ ăn
dặm là 4 - 6 tháng tuổi nhưng từ năm 2008
TCYTTG đưa ra khuyến cáo về thời điểm cho trẻ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015
Chuyên Đề Nhi Khoa 48
ăn dặm đúng là từ 6 tháng tuổi(12). Do đó những
nghiên cứu đánh giá kiến thức không đúng của
người mẹ theo tiêu chí này sẽ gặp khó khăn và sẽ
có kết quả cao hơn.
Nghiên cứu của tác giả Vyas S. và cộng sự
thực hiện từ tháng 5 năm 2009 đến tháng 4
năm 2010 với 500 bà mẹ có con dưới 3 tuổi ở
Hilly Terrain, Ấn Độ. Kết quả, tỉ lệ bà mẹ cho
trẻ ăn dặm vào thời điểm trẻ từ 4 - 6 tháng tuổi
là 48,5%(14).
Trong nghiên cứu của chúng tôi 6,0% các bà
mẹ cho rằng thời điểm cho trẻ ăn dặm là trước 6
tháng tuổi và có khoảng một phần ba (33,6%) các
bà mẹ cho rằng thời điểm này là sau 6 tháng tuổi.
Do đó có thể thấy dù đánh giá theo tiêu chí nào
thì kiến thức của các bà mẹ về vấn đề này là
chưa tốt. Vì vậy cần tăng cường tuyên truyền,
phổ biến kiến thức về thời điểm cho trẻ ăn dặm
nhiều hơn nữa để các bà mẹ biết được và thực
hành đúng.
Thời điểm cai sữa mẹ
TCYTTG khuyến cáo cho trẻ bú sữa mẹ đến
ít nhất 24 tháng tuổi(3). Tuy nhiên trong thực tế
đây còn là vấn đề khó thực hiện đối với các bà
mẹ. Theo các nghiên cứu trước đây tỉ lệ các bà
mẹ cho trẻ cai sữa mẹ đúng thời điểm là rất thấp.
Nghiên cứu của tác giả Đoàn Thị Kim Ngân năm
2004 thì có đến 80% trong tổng số 600 bà mẹ cho
con cai sữa mẹ trước 12 tháng tuổi(2). Kết quả
nghiên cứu của tác giả Lương Thị Thu Hà năm
2008 thì tỉ lệ bà mẹ cho trẻ cai sữa mẹ trước 24
tháng là 86,3% và những trẻ được cai sữa mẹ
trước 18 tháng tuổi có nguy cơ bị SDD nhẹ cân
cao gấp 2,55 lần(6). Nghiên cứu của tác giả Lương
Ngọc Trương năm 2013 trên 850 bà mẹ thì tỉ lệ
này là 86%(5). Tuy nhiên theo nghiên cứu của tác
giả Oche M. và các cộng sự tại thị trấn Kware,
bang Sokoto, Nigeria năm 2011 thì có đến 70,4%
trong 179 bà mẹ cho trẻ bú mẹ đến hơn 20 tháng
tuổi(11).
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ các bà
mẹ cho rằng thời điểm cai sữa mẹ cho trẻ trước
12 tháng tuổi là 7,8%, từ 12 - 24 tháng tuổi là
57,2% và sau 24 tháng tuổi là 34,7%. Vì vậy trong
thực hành thì đa số các bà mẹ cho trẻ cai sữa mẹ
trước 24 tháng (67,1%) và chỉ có 32,9% các bà mẹ
cho trẻ cai sữa mẹ sau 24 tháng. Tỉ lệ bà mẹ có
kiến thức không đúng và thực hành cai sữa mẹ
cho trẻ không đúng khá cao. Việc các bà mẹ cho
con cai sữa sớm hơn khuyến cáo có thể vì chưa
có kiến thức đúng, không nhận biết được tầm
quan trọng của vấn đề này hoặc do những khó
khăn, tính chất công việc nên không thể duy trì
cho trẻ bú mẹ đến 24 tháng tuổi. Do đó cần tăng
cường công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức
về thời điểm cho trẻ cai sữa mẹ, đồng thời có
những giải pháp, chế độ hỗ trợ nhằm giúp đỡ
các bà mẹ trong việc kéo dài thời gian nuôi con
bằng sữa mẹ.
Thành phần bữa ăn của trẻ
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có 30,9%
các bà mẹ không biết bữa ăn hằng ngày của trẻ
phải có đủ 4 nhóm thức ăn. Theo kết quả nghiên
cứu của tác giả Nguyễn Phước Hưng năm 2003
thì 73% trong tổng số 384 bà mẹ không có kiến
thức đúng về vấn đề này(9). Nghiên cứu của tác
giả Đoàn Thị Kim Ngân năm 2004 trên 600 bà
mẹ thì tỉ lệ này là 62%(2).
Khi xét mối liên quan giữa kiến thức về
thành phần các nhóm thức ăn trong bữa ăn với
tình trạng SDD của trẻ cho thấy những bà mẹ
không biết bữa ăn của trẻ phải có đủ 4 nhóm
thức ăn thì tỉ lệ SDD nhẹ cân của trẻ sẽ cao hơn
có ý nghĩa thống kê so với những bà mẹ có kiến
thức đúng (p < 0,001). Kết quả này cũng tương tự
như nghiên cứu của tác giả Đoàn Thị Kim Ngân,
những bà mẹ không biết về vấn đề này thì nguy
cơ SDD nhẹ cân của trẻ tăng 3,18 lần(2). Kết quả
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Phước Hưng thì
những bà mẹ không biết thành phần bữa ăn của
trẻ phải có đủ 4 nhóm thức ăn thì mức độ SDD
thể nhẹ cân của trẻ sẽ nặng hơn(9).
Khi chúng tôi khảo sát về bữa ăn trong
ngày hôm qua của trẻ thì có 3,1% các bà mẹ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi Khoa 49
không cho trẻ ăn rau và 20,0% các bà mẹ
không thêm dầu hoặc mỡ vào trong các bữa ăn
của trẻ. Kết quả này phù hợp với phần kiến
thức của bà mẹ khi có 8,0% các bà mẹ không
biết trong mỗi bữa ăn của trẻ cần có chất xơ,
vitamin và 29,4% không biết cần có chất béo
trong bữa ăn hằng ngày của trẻ. Nghiên cứu
của tác giả Nguyễn Phước Hưng về bữa ăn
hằng ngày của trẻ thì tỉ lệ bà mẹ không cho trẻ
ăn rau xanh là 15,0%, không cho ăn dầu, mỡ là
34,2%(9). Có thể thấy đa số các bà mẹ có kiến
thức và thực hành tốt về việc cho trẻ ăn rau
xanh nhưng kiến thức và thực hành về việc
cho trẻ ăn dầu, mỡ thì chưa tốt.
Kết quả phân tích cho thấy những bà mẹ
thực hành không đúng về vấn đề này thì tỉ lệ
SDD nhẹ cân của trẻ sẽ cao hơn có ý nghĩa thống
kê so với những bà mẹ có thực hành đúng (p <
0,001). Kết quả nghiên cứu của tác giả Đoàn Thị
Kim Ngân thì những trẻ không được bổ sung
dầu ăn hoặc mỡ vào các bữa ăn thì nguy cơ SDD
nhẹ cân tăng 1,48 lần(2). Điều này cho thấy việc
cho trẻ ăn thức ăn thuộc nhóm chất béo hằng
ngày là rất quan trọng. Hiện nay nhiều người
cho rằng các thức ăn thuộc nhóm chất béo như
dầu thực vật, mỡ động vật là một trong những
nguy cơ của bệnh tim mạch, ảnh hưởng xấu đến
sức khỏe nên họ không cho rằng đó là nhóm
thức ăn cần thiết và rất hạn chế sử dụng. Tuy
nhiên chất béo là nhóm thức ăn cung cấp năng
lượng, giúp hấp thụ các vitamin tan trong dầu.
Trong mỗi bữa ăn của trẻ cần phải có đủ 4 nhóm
chất cơ bản thì mới cung cấp đầy đủ các dưỡng
chất cho sự phát triển của cơ thể. Do đó cần tăng
cường tuyên truyền phổ biến hơn nữa vai trò
của chất béo đối với cơ thể cũng như việc sử
dụng nhóm thức ăn chất béo cùng các nhóm
thức ăn khác với một tỉ lệ hài hòa trong mỗi bữa
ăn của trẻ là điều rất cần thiết.
Tiêm ngừa cho trẻ
Trong nghiên cứu của chúng tôi, hầu hết các
bà mẹ đều đồng ý với việc cho trẻ đi tiêm ngừa
đầy đủ theo lịch tiêm chủng (99,6%), chỉ có 0,4%
các bà mẹ không có thái độ đúng đối với vấn đề
này. Trong phần thực hành chỉ có 2,2% các bà
mẹ không đưa trẻ đi tiêm ngừa đầy đủ. Nghiên
cứu của tác giả Thái Kim Yến thực hiện năm
2007 cũng cho kết quả tương tự khi chỉ có 2,0%
trong tổng số 802 bà mẹ không đưa con đi tiêm
ngừa đầy đủ(13). Có thể thấy hầu hết các bà mẹ
đều nhận thức được tầm quan trọng của việc
tiêm ngừa cho trẻ và đã thực hiện rất tốt.
Bổ sung vitamin A cho trẻ
Vitamin A là một thành phần dinh dưỡng
cần thiết cho cơ thể. Chất béo cần thiết cho sự
hấp thu vitamin A, chất đạm cần thiết cho việc
sử dụng vitamin A. Do đó có thể xem thiếu
vitamin A là chỉ số đánh giá chung thiếu dinh
dưỡng. Hiện nay nước ta đang triển khai
chương trình cho trẻ dưới 5 tuổi uống vitamin A
liều cao mỗi năm 2 lần để đề phòng thiếu
vitamin A. Đây là biện pháp hữu hiệu đang
được áp dụng ở nhiều nước, nhưng cần xem đây
là một biện pháp ngắn hạn còn biện pháp chính
vẫn là hướng dẫn cách nuôi con hợp lý với việc
nuôi con bằng sữa mẹ và cung cấp các thực
phẩm giàu vitamin A và Caroten. Kết quả
nghiên cứu của tác giả Đoàn Thị Kim Ngân thì
có đến 43,2% các bà mẹ không biết được lợi ích
của vitamin A và 14,7% các bà mẹ không cho trẻ
uống vitamin A mỗi 6 tháng(2). Theo nghiên cứu
của tác giả Thái Kim Yến thì tỉ lệ này chỉ là
7,0%(13). Trong nghiên cứu của chúng tôi 3,3% các
bà mẹ không có kiến thức đúng về việc bổ sung
vitamin A cho trẻ.
Tẩy giun cho trẻ
Nhiễm ký sinh trùng đường ruột cũng là
nguyên nhân quan trọng gây ra SDD, thiếu vi
chất dinh dưỡng. Đây là vấn đề sức khỏe cộng
đồng ở các nước đang phát triển do điều kiện vệ
sinh môi trường không đảm bảo. Nhiễm giun
làm cho trẻ chán ăn, giảm hấp thu các chất dinh
dưỡng, thiếu máu và gây ảnh hưởng đến tình
trạng dinh dưỡng của trẻ. Ở nước ta, chương
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015
Chuyên Đề Nhi Khoa 50
trình tẩy giun mỗi 6 tháng được áp dụng cho trẻ
trên 2 tuổi. Bộ Y tế cũng đã có hướng dẫn bổ
sung vitamin A cho trẻ 6 - 60 tháng tuổi kết hợp
với tẩy giun cho trẻ 12 - 60 tháng tuổi. Trong
nghiên cứu của chúng tôi có 18,4% các bà mẹ
không biết được cách tẩy giun cho trẻ và trong
thực hành có 11,3% các bà mẹ không tẩy giun
cho trẻ trong 6 tháng qua. Đây là một kết quả
đáng mừng, cho thấy các bà mẹ đã nhận thức
được tầm quan trọng của việc tẩy giun cho trẻ và
đã thực hành khá tốt. Kết quả phân tích cho thấy
những trẻ không tẩy giun trong 6 tháng qua có tỉ
lệ SDD nhẹ cân và SDD thấp còi đều cao hơn có
ý nghĩa thống kê so với những trẻ được tẩy giun
(p < 0,001 và p = 0,001). Điều này cho thấy tẩy
giun cho trẻ là một vấn đề quan trọng, có ý nghĩa
thiết thực tại địa phương và cần được chú trọng
phổ biến, triển khai.
Theo dõi cân nặng của trẻ
Theo dõi cân nặng của trẻ là việc làm cần
thiết. Trẻ trong độ tuổi mẫu giáo cần được
theo dõi cân nặng mỗi 3 tháng để sớm phát
hiện các dấu hiệu đứng cân hoặc sụt cân, từ đó
điều chỉnh dinh dưỡng cho hợp lý. Trẻ học ở
các trường mẫu giáo tại thành phố Mỹ Tho
được nhà trường theo dõi cân nặng mỗi 3
tháng. Tuy nhiên kết quả khảo sát có đến
12,2% các bà mẹ không biết được cân nặng của
con mình trong 3 tháng qua. Nghiên cứu trước
đó của tác giả Đoàn Thị Kim Ngân cũng có kết
quả tương tự (17,3% các bà mẹ không theo dõi
cân nặng của trẻ thường xuyên)(2). Điều này
cho thấy cũng có không ít các bà mẹ không
hiểu đúng ý nghĩa và tầm quan trọng của việc
theo dõi cân nặng của trẻ.
Ảnh hưởng của SDD đối với trẻ
Theo kết quả khảo sát thì tỉ lệ các bà mẹ
không biết SDD làm cho trẻ dễ bệnh tật là
15,1%, không biết SDD ảnh hưởng đến sự phát
triển trí thông minh của trẻ là 9,3% và 0,8% các
bà mẹ cho rằng SDD không ảnh hưởng gì
nghiêm trọng. Tính chung, tỉ lệ các bà mẹ
không biết được những ảnh hưởng của SDD
đối với trẻ là 19,2%. Điều này cho thấy cũng
không ít các bà mẹ không quan tâm đến SDD
ở trẻ em. Do đó phải tăng cường tuyên truyền
kiến thức về SDD cho các bà mẹ để họ biết
được và chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ tốt hơn,
phòng tránh được tình trạng SDD.
KẾT LUẬN
Tỉ lệ các bà mẹ có kiến thức chung không
đúng là 29,8%.
Tỉ lệ các bà mẹ có thái độ chung không đúng
là 41,4%.
Tỉ lệ các bà mẹ có thực hành chung không
đúng là 27,3%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y Tế, Viện Dinh Dưỡng, UNICEF (2010), Tổng điều tra
dinh dưỡng năm 2009-2010, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
2. Đoàn Thị Kim Ngân (2004), Tình trạng dinh dưỡng trẻ dưới 5
tuổi và kiến thức, thực hành của bà mẹ về cách nuôi con tại
quận 5 thành phố Hồ Chí Minh năm 2003, Luận văn Thạc sĩ Y
học, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh.
3. Hà Huy Khôi, Từ Giấy (2005), Dinh dưỡng hợp lý và sức
khỏe, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr.84 - 307.
4. Huỳnh Văn Sơn (2004), Kiến thức, thái độ, thực hành nuôi con
bằng sữa mẹ của bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi ở huyện
Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam năm 2003, Luận văn Thạc sĩ Y
học, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh
5. Lương Ngọc Trương (2013), "Nghiên cứu kiến thức, thực
hành nuôi dưỡng trẻ dưới 24 tháng tuổi và một số yếu tố liên
quan tới suy dinh dưỡng thấp còi tại 3 huyện Cẩm Thủy, Tĩnh
Gia, Hậu Lộc tỉnh Thanh Hóa năm 2011", Tạp chí Phụ sản, tập
11(số 3), tr.96-100.
6. Lương Thị Thu Hà (2008), Nghiên cứu thực trạng suy dinh
dưỡng thiếu protein, năng lượng ở trẻ dưới 5 tuổi tại hai xã
của huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên, Luận văn Thạc sĩ Y
học Dự phòng, Đại học Y khoa Thái Nguyên.
7. Mohammed ES, Ghazawy ER, Hassan EE (2014),
"Knowledge, Attitude, and Practices of Breastfeeding and
Weaning Among Mothers of Children up to 2 Years Old in a
Rural Area in El-Minia Governorate, Egypt", J Family Med
Prim Care, 3(2), pp. 136-140.
8. Nguyễn Lê Thành (2005), Tỉ lệ suy dinh dưỡng và mối liên
quan giữa kiến thức dinh dưỡng của người mẹ với tình trạng
dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện Dầu Tiếng tỉnh
Bình Dương, Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y Dược thành
phố Hồ Chí Minh.
9. Nguyễn Phước Hưng (2003), Kiến thức, thái độ, thực hành về
nuôi dưỡng của bà mẹ có con suy dinh dưỡng tại bệnh viện
Nhi đồng 1 năm 2002, Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y
Dược thành phố Hồ Chí Minh.
10. Nguyễn Thị Như Hoa (2011), Tình trạng dinh dưỡng và một
số yếu tố liên quan của trẻ dưới 5 tuổi huyện Yên Thủy tỉnh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi Khoa 51
Hòa Bình năm 2011, Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ đa khoa, Đại
học Y Hà Nội.
11. Oche MO, Umar AS, Ahmed H (2011), "Knowledge and
practice of exclusive breastfeeding in Kware, Nigeria", Afr
Health Sci, 11(3), pp. 518-523.
12. Saadeh R. J., Labbok M. H., Cooney K. A. et al. (1993), Breast-
feeding: The technical basis and recommendations for action,
WHO, Geneva, Switzerland, pp.1-14.
13. Thái Kim Yến (2008), Tỉ lệ suy dinh dưỡng và các yếu tố liên
quan đến suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi tại quận Bình
Thủy thành phố Cần Thơ năm 2007, Luận án Chuyên khoa
cấp II, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh.
14. Vyas S, Kandpal SD, Semwal J, et al. (2014), "Trends in
Weaning Practices among Infants and Toddlers in a Hilly
Terrain of a Newly Formed State of India", Int J Prev Med,
5(6), pp. 741-748.
15. Wong H. J., Moy F. M., Nair S. (2014), "Risk factors of
malnutrition among preschool children in Terengganu,
Malaysia: a case control study", BMC Public Health, 14, pp.
785.
Ngày nhận bài báo: 12/01/15.
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 23/01/15.
Ngày bài báo được đăng: 22/06/15.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kien_thuc_thai_do_thuc_hanh_nuoi_con_cua_ba_me_co_tre_ocac_t.pdf