Tỉ lệ bạo lực gia đình đối với phụ nữ từ 18 đến 60 tuổi tại tỉnh Bà Rịa‐Vũng Tàu

Phụ nữ bị bạo hành gia đình còn cao (49,2%), đặc biệt là bạo hành tinh thần 48,5% và bạo hành thể xác 14,8%. Tình trạng bạo hành gia đình có mối liên quan với trình độ học vấn thấp, nhóm nghề nghiệp lao động chân tay, thất nghiệp, tình trạng gia đình không hôn nhân; Gia đình nghèo, phụ thuộc kinh tế vào chồng, ở nhà thuê/mướn; chồng là những người nghiện thuốc lá, rượu, bia, hút sách, cờ bạc; chồng có tính hay gây hấn và thích bạo hành.

pdf6 trang | Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 387 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỉ lệ bạo lực gia đình đối với phụ nữ từ 18 đến 60 tuổi tại tỉnh Bà Rịa‐Vũng Tàu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  463 TỈ LỆ BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ TỪ 18 ĐẾN 60 TUỔI   TẠI TỈNH BÀ RỊA‐VŨNG TÀU  Nguyễn Tấn Thanh Tuyền*, Đỗ Văn Dũng**  TÓM TẮT  Đặt vấn đề: Nạn bạo hành gia đình (BHGĐ) đã và đang là vấn đề nghiêm trọng hiện nay, nó không chỉ ảnh  hưởng đến cá nhân bị bạo hành, những thành viên trong gia đình mà còn gây ra những tác động, hậu quả tiêu  cực cho xã hội.  Mục tiêu: Xác định tỉ lệ phụ nữ bị bạo hành gia đình do chồng hoặc bạn tình gây ra và các yếu tố liên quan ở  phụ nữ từ 18 đến 60 tuổi tại tỉnh Bà Rịa‐Vũng Tàu trong năm 2013  Phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu cắt ngang mô tả  Kết quả nghiên cứu: Tình trạng bạo lực xảy ra nhiều ở phụ nữ lứa tuổi 18 – 29, đa số họ ở nhà và thiếu  kinh  nghiệm  trong  cuộc  sống  hôn  nhân.  Phụ  nữ  bị  bạo  hành  tinh  thần  cao  hơn  nhiều  so  với  thể  xác  (48,5%>14,8%). Bạo hành tình dục chỉ có 2%. Quát mắng, nạt nộ, đập phá đồ đạc, tát, ném, xô đẩy, đánh là  những hình thức bạo hành thường xảy ra. Hầu hết các tình huống dẫn đến bạo hành là do người chồng nghiện  hút, cờ bạc, uống rượu. Phụ nữ nghèo và phụ thuộc chồng có khả năng bị bạo hành cao hơn.  Kết  luận: Mặc dù ở nước ta Luật Phòng, chống bạo hành gia đình đã có hiệu lực, nhưng hiện tượng bạo  hành vẫn chưa thuyên giảm, đặc biệt là bạo hành tinh thần. Tỉnh cần tạo công ăn việc làm để phụ nữ không phụ  thuộc kinh tế vào chồng và tăng cường giáo dục để mọi người hiểu biết, ý thức, và có thái độ đúng về vấn đề bình  đẳng giới.  Từ khóa: bạo hành, gia đình, phụ nữ, Vũng Tàu  SUMMARY  PERCENTAGE OF DOMESTIC VIOLENCE AGAINST WOMEN AGED 18 TO 60 YEARS IN BA RIA‐ VUNG TAU PROVINCE  Nguyen Tan Thanh Tuyen, Do Van Dung  * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 463 – 468  Background: Domestic violence has been aserious problem these days. It affects not only the individual sand  their family members, but also causes serious consequences and negative impacts for community.  Objective: To determine the percentage of women aged 18 to 60 years, living in Ba Ria‐Vung Tau in 2013  and abused by their husbands or intimate partners; and associated factors.   Method: A descriptive cross‐sectional study was conducted.  Results:  The  highest  rate  of  violence  was  among  women  aged  18‐29  years  because most  of  them  are  housewives  and  lack  of marriage  experiences. There was  a much higher  rate  of psychological violence  against  women (48.5%) than physical violence (14.8%) while sexual violence is only about 2%. Domestic violence acts  are usually shouting, fulminatory, smashing, slapping,  throwing objects, shoving and hitting. Addiction  to  drugs, gambling,  and  alcohol  of  a man was  a  common  excuse  for violence. Women who have poor  economic  conditions remains economically dependent on their husbands/partners are at higher risk of violence.   Conclusions:  Although  the  Law  on Domestic  Violence  Prevention  and  Control  has  promulgated,  but   Trung tâm CSSKSS Tỉnh BR‐VT   **Đại học Y Dược TP. HCM  Tác giả liên lạc: CN. Nguyễn Tấn Thanh Tuyền   ĐT: 01289888111   Email: thanhtuyen48@gmail.com  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 464 domestic violence is still challenging, particularly in psychological violence. Hence, local authorities need to create  more job opportunities for women and education campaigns about gender equity.  Key word: Domesticviolence, violence, violence against women.  ĐẶT VẤNĐỀ  Bạo hành gia đình đối với phụ nữ đã được  Chính phủ thừa nhận như là một vấn đề nghiêm  trọng tại Việt Nam cũng như toàn thế giới. Việt  Nam đã  thể hiện cam kết mạnh mẽ nhằm  thúc  đẩy bình  đẳng giới và  chấm dứt bạo hành  đối  với  phụ  nữ  thông  qua  việc  phê  chuẩn một  số  hiệp  định quốc  tế  cơ bản về quyền  con người,  bao gồm cả những hiệp định về quyền dân sự và  chính  trị  kinh  tế,  văn  hóa  và  xã  hội phân  biệt  chủng tộc, bình đẳng giới và quyền trẻ em(1).Tuy  nhiên, các kiến thức và nhận thức về BHGĐ của  người dân và những người có  trách nhiệm vẫn  còn hạn chế. Một trong những yếu tố góp phần  vào tình trạng này là do BHGĐ vẫn bị coi là một  vấn đề riêng tư mà xã hội không nên can thiệp  và bạo hành được chấp nhận như một hành vi  bình thường  Bà Rịa ‐ Vũng Tàu là cửa ngõ phía Đông về  cả  đường  thủy  và  đường  bộ  của miền  Đông  Nam Bộ, tiếp giáp tỉnh Đồng Nai ở phía Bắc, với  TP  Hồ  Chí  Minh  ở  phía  Tây,  với  tỉnh  Bình  Thuận  ở  phía  Đông,  còn  phía Nam  giáp  Biển  Đông, với diện tích 1.975,15 km2, có bờ biển dài  305,4 km. Hiện nay tỉnh có 8 đơn vị hành chính  gồm 01  thành phố, 01  thị xã, 05 huyện  trên đất  liền và 01 huyện đảo. Dân số toàn tỉnh 1.050.000  người, số phụ nữ tuổi 15‐ 49 tuổi 256.000 người  trong đó có 171.200 người có chồng.  Ngành du  lịch phát  triển  cùng với  sự phát  triển của các khu công nghiệp, hàng năm thu hút  hàng chục ngàn lao động tự do, lao động thời vụ  đến  từ nhiều ngành  trong  cả nước. Năm  2012,  các cơ quan chức năng trên địa bàn toàn tỉnh đã  phối hợp tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền,  giáo  dục  đạo  đức,  lối  sống  trong  gia  đình  về  phòng,  chống  BHGĐ. Nhiều  hoạt  động  tuyên  truyền, giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình  về phòng,  chống BHGĐ đã  được  tổ  chức. Tuy  nhiên,  cho  đến nay  trên  địa bàn  toàn  tỉnh vẫn  chưa có nghiên cứu quy mô rộng nào được thực  hiện để xác định tỉ lệ phụ nữ trên địa bàn tỉnh đã  và đang gánh chịu những hành vi bạo hành do  chính chồng hoặc bạn tình gây ra. Cũng như việc  xác định các yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến tỉ lệ  này  để  định  hướng  và  có  những  chính  sách  phòng chống hợp lý. Mục tiêu nghiên cứu  Xác định tỉ lệ bị bạo hành gia đình.  Xác định mối liên quan bạo hành với các đặc  tính của phụ nữ.  ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Phương  pháp  nghiên  cứu: Nghiên  cứu  cắt  ngang mô tả.  Thời gian nghiên cứu: năm 2013  Đối  tượng: Tất  cả  các phụ nữ  có  chồng  (bao  gồm những trường hợp ly thân, ly hôn, góa), đang  hoặc đã từng chung sống với bạn tình không hôn  thú, độ tuổi từ 18 đến 60 tuổi tại Bà Rịa.  Cỡ mẫu: Theo công  thức ước  lượng một  tỷ  lệ. Dùng kỹ thuật chọn mẫu cụm và lấy  p = 0,58 là trị số ước đoán tỉ lệ phụ nữ bị bạo  hành theo tổng báo cáo của Nghiên cứu quốc gia  về BHGĐ đối với phụ nữ tại Việt Nam của Tổng  cục  thống kê,  tỉ  lệ phụ nữ  từng bị  ít nhất một  trong ba loại bạo hành thể xác, tình dục và tình  thần trong cuộc đời với k = 2, cỡ mẫu của nghiên  cứu là 750  KẾT QUẢ  Đặc tính mẫu nghiên cứu (N=750)  Bảng 1: Đặc tính mẫu nghiên cứu  Đặc tính mẫu Tần số Tỉ lệ (%) Nhóm tuổi Từ 18 đến 29 tuổi 310 41,3 Từ 30 đến 39 tuổi 235 31,3 Từ 40 đến 49 tuổi 116 15,5 Từ 50 đến 60 tuổi 89 11,9 Trình độ học vấn Mù chữ 28 3,7 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  465 Đặc tính mẫu Tần số Tỉ lệ (%) Cấp 1 137 18,3 Cấp II 238 31,7 Cấp 3 210 28,0 Trên cấp 3 137 18,3 Nghề nghiệp Nội trợ, thất nghiệp 315 42,0 Lao động chân tay 264 35,2 Lao động trí óc 171 22,8 Có phụ thuộc kinh tế vào chồng 484 64,5 Có sinh hoạt trong Hội phụ nữ 146 19,5 Độ tuổi phụ nữ còn khá trẻ, trong đó độ tuổi  từ 18‐29  tuổi gần 42%. Trình độ học vấn cấp  II  chiếm đa số, tuy nhiên tỉ lệ phụ nữ có học vấn từ  cấp 3 trở lên chiếm khá cao (46,3%). Có 23% lao  động trí óc, tỉ  lệ phụ nữ nội trợ, thất nghiệp và  về hưu chiếm khá cao đến 42%. 65% phụ nữ vẫn  còn  lệ  thuộc vào kinh  tế của chồng. Phụ nữ có  tham gia sinh hoạt  trong Hội phụ nữ khá  thấp  chỉ khoảng 20% (Bảng 1).  Tỉ lệ bạo hành gia đình   Phụ nữ bị bạo hành gia đình là 381 (49,2%),  trong đó, bạo hành tinh thần là 364 (48,5%), bạo  hành thể xác là 111 (14,8%) và bạo hành tình dục  là 15 (2%).  Bạo hành thể xác (n= 111) chiếm đa số là tát  hoặc ném vật gì đó với 92,5% kế đến là đẩy, xô  thứ  gì  vào  người,  kéo  tóc  (30,2%),  đánh,  đấm  hoặc đánh bằng vật  (32,1%); gây  thương  tích  là  22,6%. Bạo hành  tinh  thần  (n=  364)  đa  số  là bị  quát mắng, đập phá đồ đạc với 86,6%, kế đến là  sỉ nhục,  lăng mạ  (18,8%) và coi  thường,  làm bẽ  mặt (10,4%), gây tổn thương tâm lý là 17,3%.  Bảng 2: Mối liên quan giữa BHGĐ 12 tháng qua với đặc điểm dân số xã hội (n = 750)  Đặc tính mẫu BHGĐ 12 tháng qua P PR (KTC 95%) Có (%) Không (%) Trình độ học vấn Mù chữ và cấp 1 51 (30,9) 114 (69,1) 1 Cấp II và cấp 3 143 (31,9) 305 (68,1) 0,812 1,03 (0,79-1,34) Trên cấp 3 24 (17,5) 113 (82,5) 0,009 0,57 (0,36-0,87) Nghề nghiệp Lao động chân tay 99 (37,5) 165 (62,5) 1 Lao động trí óc 36 (21,1) 135 (78,9) 0,001 0,56 (0,40-0,78) Nội trợ, thất nghiệp 83 (26,4) 232 (73,6) 0,004 0,70 (0,55-0,89) Tình trạng hôn nhân Sống cùng chồng 205 (28,7) 509 (71,3) 1 Sống cùng bạn tình 7 (50,0) 7 (50,0) 0,043 1,74 (1,02-2,97) Ly thân, ly hôn 6 (27,3) 16 (72,7) 0,884 0,95 (0,48-1,89) Tình trạng kinh tế Nghèo 35 (47,9) 38 (52,1) 0,001 1,77 (1,35-2,32) Không nghèo 183 (27,1) 494 (72,9) Phụ thuộc kinh tế chồng Có 155 (32,0) 329 (68,0) 0,016 1,35 (1,05-1,74) Không 63 (23,7) 203 (76,3) Phụ nữ có học vấn  trên cấp 3 bị BHGĐ chỉ  bằng 0,57  lần phụ nữ có học vấn  là mù chữ và  cấp 1 (p= 0,009). Phụ nữ lao động trí óc bị BHGĐ  chỉ bằng 0,56 lần phụ nữ lao động chân tay (p=  0,001). Phụ nữ sống cùng bạn tình bị BHGĐ gấp  1,74 lần phụ nữ sống cùng chồng (p=0,043). Phụ  nữ nghèo bị BHGĐ gấp 1,77  lần phụ nữ không  nghèo  (p=  0,001).  Phụ  nữ  phụ  thuộc  kinh  tế  chồng bị BHGĐ gấp 1,35 lần phụ nữ không phụ  thuộc kinh tế (p= 0,016).  Bảng 3: Mối liên quan giữa BHGĐ với đặc điểm dân số xã hội của chồng (n =750)  Đặc tính mẫu BHGĐ 12 tháng qua P PR (KTC 95%) Có (%) Không(%) Trình độ học vấn Mù chữ, Cấp 1 42 (33,3) 84 (66,7) 1 Cấp II, Cấp 3 148 (31,8) 318 (68,2) 0,735 0,95 (0,72-1,26) Trên cấp 3 28 (17,7) 130 (82,3) 0,003 0,53 (0,35-0,81) Nghề nghiệp Lao động chân tay 160 (31,8) 344 (68,2) 1 Lao động trí óc 43 (20,9) 163 (79,1) 0,005 0,66 (0,49-0,88) Nội trợ 15 (37,5) 25 (62,5) 0,437 1,18 (0,78-1,79) Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 466 Đặc tính mẫu BHGĐ 12 tháng qua P PR (KTC 95%) Có (%) Không(%) Hút thuốc lá Có 145 (33,1) 293 (66,9) Không 73 (23,4) 239 (76,6) Uống rượu, bia Có 157 (32,3) 329 (67,7) Không 61 (23,1) 203 (76,9) Nghiện hút, cờ bạc Có 23 (74,2) 8 (25,8) <0,001 2,73 (2,15-3,48) Không 195 (27,1) 524 (72,9) Có hành động bạo hành với người khác Có 154 (60,6) 100 (39,4) <0,001 4,69 (3,66-6,03) Không 64 (12,9) 432 (87,1) Chồng hút  thuốc  lá  có BHGĐ  cao hơn 1,41  lần chồng không hút  thuốc  lá  (p=0,004). Chông  nghiện hút,  cờ  bạc  có BHGĐ  cao hơn  2,73  lần  chồng  không  nghiện  hút,  cờ  bạc  (p<0,001).  Chồng có hành động bạo hành với người khác  có BHGĐ cao hơn 4,69  lần chồng không không  bạo hành với người khác (p<0,001).  BÀN LUẬN  Tỉ lệ bạo hành gia đình  Kết  quả  này  phù  hợp  với Nghiên  cứu  đa  quốc gia của WHO được bắt đầu từ năm 1997 về  bạo hành  đối với phụ nữ, hậu quả và nguyên  nhân sâu xa của bạo hành đối với phụ nữ ở các  quốc gia khác biệt về văn hóa và địa lý. Nghiên  cứu được triển khai chính thức từ năm 2000 đến  2005 ở 11 quốc gia.Tỉ lệ phụ nữ từng bị bạo hành  thể  xác hay  tình dục do  chồng  trong  cuộc  đời  chiếm  từ  15  đến  71%  ở  các  quốc  gia  tham  gia  nghiên  cứu  của WHO(1). Tại Việt Nam,  tỉ  lệ bị  bạo hành thể xác do người chồng gây ra cho phụ  nữ Việt Nam  từng kết hôn  là 32% bị bạo hành  thể  xác  trong  cuộc  đời.  Đối  với  bạo  hành  tình  dục:  trong số những phụ nữ  từng kết hôn,  tỉ  lệ  bạo hành trong cuộc đời 10%. Đối với bạo hành  tinh thần trong cuộc đời là 54%. Có đến 58% phụ  nữ  từng kết hôn cho biết  rằng họ đã  từng bị  ít  nhất 1  trong 3  loại bạo hành  trong cuộc đời và  27% cho biết họ từng bị cả ba loại bạo hành trên  trong vòng 12 tháng trước điều tra(5).   Tỉ lệ bạo hành tình dục thấp (2%).Theo nhận  định của Bà Henrica A.F.M. Jansen “Mặc dù bạo  hành  gia  đình  là một hiện  tượng  rất phổ  biến  nhưng vấn đề này vẫn bị giấu diếm nhiều”.Ðiều  đáng quan tâm nữa là phụ nữ‐nạn nhân của bạo  hành gia đình có tâm lý cam chịu, không muốn  tố  cáo,  sợ  “vạch áo  cho người xem  lưng”.Điều  này có thể làm cho số liệu thống kê không đúng  với  tình hình  thực  tế, ảnh hưởng đến  tầm nhìn  khách quan và đánh giá tầm quan trọng của việc  phòng chống bạo hành gia đình trong xã hội(5).  Bạo hành về tinh thần (chửi bới, lăng mạ, xỉ  nhục) không để  lại vết  thương  trên cơ  thể như  bạo hành thể xác, nhưng lại làm cho người phụ  nữ tê liệt về tinh thần, bị trầm cảm kéo dài, tổn  hại  nghiêm  trọng  đến  thần  kinh  và  thể  xác.  Không ít phụ nữ sau đó đã phải điều trị lâu dài  tại  các bệnh viện  tâm  thần,  tốn kém  thời gian,  tiền bạc mà khả năng hoàn toàn bình phục là rất  khó,  khả  năng  tái  phát  bệnh  là  rất  cao.Theo  WHO, phụ nữ đã trải qua bạo hành gia đình có  nguy cơ gia  tăng bệnh  trầm cảm và hành vi  tự  tử,  tổn  thương  về  thể  chất,  rối  loạn  tâm  thần,  mang  thai ngoài ý muốn, HIV và  các bệnh  lây  truyền qua đường tình dục(4,6).   Nguyên nhân  được  cho  là do  tư  tưởng gia  trưởng, trọng nam khinh nữ và tính cam chịu, an  phận  của  chị  em  phụ  nữ.  Chính  quyền  địa  phương nên đưa việc hoà giải tại cộng đồng hay  xử  phạt  hành  chính  thỏa  đáng,  để  răn  đe  và  nâng cao nhận  thức cho người dân. Phát  thanh  tuyên  truyền  về  nội  dung  phòng,  chống  bạo  hành  gia  đình  và  thực  hiện  bình  đẳng  giới  là  điều cần thiết để ngăn chặn BHGĐ trong xã hội  hiện nay.  Các yếu tố liên quan đến bạo hành  Bạo hành gia đình là một hiện tượng xã hội,  nó chịu sự tác động của nhiều yếu tố kinh tế, văn  hóa, xã hội khác nhau  Điều dễ nhận  thấy  là  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  467 bạo hành  trong gia đình có xu hướng phổ biến  hơn  ở  cộng  đồng  có  mức  sống  và  dân  trí  thấp(2).Thật vậy, trong nghiên cứu của chúng tôi,  có mối liên quan giữa bạo hành phụ nữ với trình  độ học vấn của phụ nữ. Cụ thể là, những phụ nữ  có  trình  độ  học  vấn  từ  cấp  3  trở  lên  có  tỉ  lệ  BHGĐ  12  tháng  qua  chỉ  bằng  0,57  lần  (KTC:  0,36‐0,87)  so với nhóm phụ nữ  có  trình  độ học  vấn từ cấp 1 trở xuống.  Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối liên quan  giữa  phụ  nữ  bị  bạo  hành  gia  đình  với  nghề  nghiệp  của  họ.  Phụ  nữ  lao  động  trí  óc  có  tỉ  lệ  BHGĐ 12 tháng qua chỉ bằng 0,56 lần (KTC: 0,4‐ 0,78)  so  với  nhóm  phụ  nữ  lao  động  chân  tay.  Theo một  số đề  tài khác cũng  tiến hành nghiên  cứu nhiều nhân  tố  có  liên quan  đến BHGĐ, và  nhận  thấy  các hành vi bạo hành  thường xảy  ra  trong gia đình không có mối tương quan đối với  tôn giáo, nhưng lại có mối liên quan với từng loại  nghề nghiệp khác nhau và trình độ học vấn(3).  Phụ nữ nghèo và phụ thuộc kinh tế chồng có  khả  năng  bị  bạo  lực  gia  đình  cao  hơn  với  p<0,001. Chính sức mạnh kinh tế làm yếu tố nền  tảng  của  đời  sống  xã hội,  có một  sự  thật  rằng  người chi phối nhiều hơn trong lĩnh vực kinh tế  thì  làm  chủ, và do vậy  để duy  trì  chế độ nam  quyền,  phụ  quyền  thì  bất  bình  đẳng  cũng  bắt  đầu xuất hiện giữa nam và nữ trong gia đình và  ngoài  xã  hội.  Nhưng  cũng  không  thể  coi  đói  nghèo là yếu tố lớn nhất đẻ ra nạn bạo hành gia  đình,  bởi  lẽ  có  rất  nhiều  cặp  vợ  chồng  quanh  năm nghèo  đói nhưng vẫn  sống với nhau hòa  thuận và đầm ấm.  Các nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ giữa các  tệ nạn xã hội và bạo hành giới  trong gia  đình.  Những mặt  trái  của quan hệ  thị  trường  đã  tác  động xấu đến quan hệ giới trong gia đình, như  đề cao một cách thái quá những giá trị vật chất  mà coi nhẹ giá trị tình cảm, đạo đức. Những mối  quan hệ tình cảm ngoài hôn nhân cũng là lý do  của bạo hành gia đình, với nam giới  thì còn có  những  tác  động  của  các  tệ nạn  xã hội  (cờ bạc,  nghiện hút,  rượu). Thật  vậy,  kết quả nghiên  cứu của chúng tôi đã cung cấp thêm bằng chứng  để  làm  sáng  tỏ  hơn  những  nhận  định  trên.  Chúng  tôi  đã  tìm  thấy  có mối  liên  quan  có  ý  nghĩa thống kê giữa tỉ lệ BHGĐ 12 tháng qua với  việc  hút  thuốc  lá  (p=0,004),  uống  rượu,  bia  (p=0,008) và nghiện hút/cờ bạc (p<0,001), có hành  động  bạo  hành  với  người  khác  (p<0,001)  của  người chồng.  KẾT LUẬN    Phụ  nữ  bị  bạo  hành  gia  đình  còn  cao  (49,2%), đặc biệt là bạo hành tinh thần 48,5% và  bạo hành thể xác 14,8%.  Tình  trạng  bạo  hành  gia  đình  có mối  liên  quan  với  trình  độ  học  vấn  thấp,  nhóm  nghề  nghiệp lao động chân tay, thất nghiệp, tình trạng  gia đình không hôn nhân; Gia đình nghèo, phụ  thuộc  kinh  tế  vào  chồng,  ở  nhà  thuê/mướn;  chồng  là  những  người  nghiện  thuốc  lá,  rượu,  bia, hút sách, cờ bạc; chồng có tính hay gây hấn  và thích bạo hành.  KHUYẾN NGHỊ  Tạo công ăn việc làm để phụ nữ có tiếng nói  hơn về mặt kinh tế xã hội. Tăng cường giáo dục để mọi người hiểu biết, ý  thức, và có thái độ đúng về vấn đề bình đẳng giới;  Hội phụ nữ cần quan tâm hơn đối với những  gia đình có chồng nghiện rượu, bia, hút sách, cờ  bạc, hoặc có tính hay gây hấn và thích bạo hành  cùng với những gia  đình có hoàn cảnh kinh  tế  khó khăn.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Garcia‐Moreno  C,  Jansen  HA, Ellsberg  M, Heise  L, Watts  CH; WHO  Multi‐country  Study  on  Womenʹs  Health  and  Domestic Violence against Women Study Team (2005) WHO  Multi‐country  Study  on  Women’s  Health  and  Domestic  Violence against Women. World Health Origanization. Geneva.  Pp. 77‐98.  2. Hoàng Bá Thịnh (2003) ʺBạo hành trong gia đình ‐ Thực trạng  và giải phápʺ. Tạp chí lý luận chính trị. 3. 65‐69.  3. Nguyễn Thị Hoàng Mai (2008) ʺThực trạng và giải pháp giảm  bạo hành gia đình đối với phụ nữ  tại  thành phố Đà Nẵngʺ.  Tuyển tập Báo cáo Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học  lần thứ 6, Đại học Đà Nẵng.Tr. 56‐78.  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 468 4. Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc  (2007) Phòng, chống bạo hành  gia đình: Hiện trạng, nhu cầu và các ưu tiên can thiệp ở Phú  Thọ và Bến Tre, Việt Nam.Tr. 78‐90.  5. Tổng cục Thống kê Việt Nam (2010) Báo cáo tóm tắt Kết quả  từ nghiên cứu quốc gia về Bạo hành gia đình với phụ nữ Việt  Nam. Tr. 13‐56.  6. Vung ND, Ostergren PO, Krantz G  (2008)  Intimate partner  violence  against  women  in  rural  Vietnam‐‐different  socio‐ demographic  factors  are  associated with  different  forms  of  violence: need  for new  intervention guidelines?. BMC Public  Health, 19 (2), 178‐182.  Ngày nhận bài báo:       11/5/2014  Ngày phản biện nhận xét bài báo:   17/6/2014  Ngày bài báo được đăng:     14/11/2014 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfti_le_bao_luc_gia_dinh_doi_voi_phu_nu_tu_18_den_60_tuoi_tai.pdf