Liên quan giữa kiến thức về phòng ngừa
TBMMN thứ phát với một số đặc tính của
mẫu
Chúng tôi tìm thấy có mối liên quan giữa
nhóm người bệnh bị TBMMN lần 2 có kiến thức
đúng cao hơn nhóm bị TBMMN lần 1 với p =
0,002. Theo Sullivan và cộng sự những người
bệnh sống sốt sau TBMMN họ thường có kiến
thức về bệnh tốt hơn vì họ đã nhận được một số
thông tin về bệnh từ NVYT đồng thời họ cũng tự
tìm hiểu về bệnh, thay đổi lối sống nhằm giảm
nguy cơ tái phát. Nhóm người bệnh nhận thông
tin về TBMMN từ các kênh thông tin truyền
thông có kiến thức cao hơn nhóm không được
nhận thông tin về TBMMN trước đó với p <
0,001. Theo Denby(5), Haghighi B.A(8) thì tình hình
thực tế tại các bệnh viện luôn trong tình trạng
qúa tải và NVYT cũng ít chú trọng vào việc
GDSK cho người bệnh, vì vậy hầu hết những
thông tin người bệnh có được chủ yếu từ các
nguồn truyền thông như tivi, sách, báo, nhờ vào
phương tiện này đã làm tăng nhận thức của
người bệnh. Điều này cho thấy tác dụng của
phương tiện truyền thông, do đó chúng ta cần
tăng cường truyền thông qua các hình thức này
khi mà các chương trình giáo dục cho người
bệnh từ NVYT còn rất hạn chế
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 200 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến thức và thái độ của người bệnh trong phòng ngừa tai biến mạch máu não thứ phát, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
71
KIẾN THỨC VÀ THÁI ĐỘ CỦA NGƯỜI BỆNH TRONG PHÒNG NGỪA
TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO THỨ PHÁT
Nguyễn Thị Thanh Tình*, Lê Văn Tuấn**, Norwood Susan***
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ người bệnh có kiến thức và thái độ phòng ngừa TBMMN thứ phát tại khoa Bệnh
lý mạch máu não Bệnh viện Nhân dân 115.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang trên 150 người bệnh TBMMN tại khoa Bệnh lý mạch máu não bệnh
viện Nhân Dân 115. Các yếu tố khảo sát gồm yếu tố nguy cơ, kiến thức và thái độ phòng ngừa TBMMN thứ
phát.
Kết quả: 18% người bệnh biết béo phì là YTNC, 44,7% người bệnh biết tiền căn TBMMN là YTNC,
70,7% người bệnh biết THA là YTNC gây TBMMN thứ phát. 23,3% người bệnh biết TBMMN là do tắc hay vỡ
mạch máu, 55,3% người bệnh có thể nhận biết được một trong các triệu chứng của TBMMN. Thái độ thuận lợi
khi phòng ngừa TBMMN thứ phát chiếm tỷ lệ là 54,7%. Thái độ về những khó khăn khi phòng ngừa TBMMN
chiếm tỷ lệ là 98%. Có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê về kiến thức với số lần bị TBMMN với p<0,001 <0,05,
nhóm người bệnh nhận được thông tin về bệnh từ NVYT có thái độ tốt hơn nhóm không nhận được
(p=0,008<0,05). Nhóm người bệnh sống chung với gia đình có thái độ tốt hơn nhóm sống một mình
(p=0,01<0,05).
Kết luận: Kiến thức và thái độ về những thuận lợi khi phòng ngừa TBMMN thứ phát của người bệnh còn
thấp. Điều này đòi hỏi cần phải đẩy mạnh công tác truyền thông giáo dục tại cộng đồng cũng như tại bệnh viện
để người bệnh chủ động trong việc phòng ngừa TBMMN thứ phát.
Từ khóa: TBMMN, yếu tố nguy cơ, kiến thức và thái độ về phòng ngừa TBMMN
ABSTRACT
KNOWLEDGE AND ATTITUDE OF PATIENTS RELATED TO SECONDARY PREVENTION
OF STROKE
Nguyen Thi Thanh Tinh, Le Van Tuan, Norwood Susan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 2 - 2014: 71 - 76
Objectives: Determining the rate of patients who have knowledge and attitude for the secondary prevention
of stroke at the Department of Cerebral vascular diseases of People hospital 115.
Materials and methods: A cross-sectional descriptive design, 150 stroke patients at People hospital 115.
The factors including risk factors, the knowledge and attitude in relation to the secondary prevention of stroke.
Results: Only 18% patients is aware of overweight as the risk factor, while the previous stroke accounting
for 44,7% of patients who have the knowledge is another risk factor, 70.7% patients is aware of hypertension as
the high risk factor for the secondary of stroke. A mere of 23.3% patients knows mechanism of stroke, 55,3%
patients recognizes warning signs of stroke. Regarding to the secondary prevention of stroke, the percentage of
patients having the helpful attitude about benefits amounts to 54.7% and the helpful attitude about barriers is
98%. There is statistically significant difference between the knowledge of stroke and the number of times of stroke
(p<0.05). Similarly, the group of patients receiving the information from healthcare providers and those living
with their family as well has the helpful attitude (p<0.05).
*Đại Học Y khoa Phạm Ngọc Thạch ** Bộ môn nội Thần kinh – Đại học Y Dược TP.HCM
*** Friendship Bridge – Group - USA
Tác giả liên lạc: ThS. Nguyễn T. Thanh Tình ĐT:01684 01 76 77 Email: ntttinh2009@yahoo.com.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014
72
Conclusion: The knowledge and the attitude about benefits of the secondary prevention of stroke are rather
low. It is required to have the educational programs in hospitals and community to promote the knowledge and
the attitude of the secondary prevention of stroke.
Keywords: stroke, risk factor, knowledge and attitude of the secondary prevention of stroke.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tai biến mạch máu não (TBMMN) hay đột
quỵ não là một tình trạng bệnh lý thần kinh
thường gặp nhất và là nguyên nhân gây tử vong
hàng đầu trong các bệnh lý về thần kinh trên thế
giới cũng như tại Việt Nam trong những năm
gần đây. TBMMN đứng hàng thứ hai trong các
nguyên nhân gây tử vong trên toàn cầu, sau các
bệnh lý về tim mạch, đồng thời cũng là nguyên
nhân hàng đầu gây tàn tật mãn tính(8,17). Mặt
khác, TBMMN có tỷ lệ tái phát cao từ 25% - 35%
trong vòng 5 năm và khoảng 49,7% trong vòng
10 năm theo một số nghiên cứu tại Việt Nam và
trên thế giới (1,2,5,9) . Do đó, việc phòng ngừa thứ
phát sau TBMMN rất quan trọng và ngày càng
được quan tâm nhiều hơn, đặc biệt về mặt nhận
thức, thái độ của người bệnh TBMMN để tự
phòng ngừa cho bản thân là rất quan trọng.
Tại Việt Nam, các nghiên cứu liên quan đến
việc phòng ngừa thứ phát sau TBMMN còn ít,
rải rác và ít được chú ý. Do tỷ lệ tái phát và mức
độ di chứng của bệnh này là rất cao, tái phát lần
sau thường nặng nề và nguy hiểm hơn lần đầu.
Nên việc nghiên cứu đánh giá nhận thức, thái độ
của người bệnh TBMMN trở nên cần thiết và có
ý nghĩa thực tiễn trên lâm sàng.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Người bệnh bị TBMMN được nhập khoa
Bệnh lý mạch máu não bệnh viện Nhân Dân 115,
tiếp xúc tốt (Glasgow 15 điểm), ≥ 18 tuổi, có khả
năng hiểu và trả lời được các câu hỏi phỏng vấn,
đồng ý tham gia cuộc phỏng vấn.
Tiêu chuẩn loại trừ
Người bệnh có Glasgow <15 điểm, người
bệnh không có khả năng hiểu và trả lời được các
câu hỏi phỏng vấn, người bệnh không đồng ý
tham gia cuộc phỏng vấn.
Cách chọn mẫu
Thu thập số liệu từ tháng 12/2012 đến tháng
04/2013 tại khoa Bệnh lý mạch máu não bệnh
viện Nhân Dân 115, chọn mẫu thuận tiện không
xác suất. Đối tượng đạt tiêu chuẩn chọn mẫu sẽ
được mời trả lời phỏng vấn trực tiếp trên bộ câu
hỏi soạn sẵn.
Xử lý và phân tích số liệu
Số liệu được mã hóa và nhập bằng phần
mềm Epidata 3.1. Xử lý bằng phần mềm thống
kê Stata 12. Khảo sát mối liên hệ giữa các biến số
bằng phép kiểm chi bình phương, được hiệu
chỉnh bằng phép kiểm Fisher Exact’s. Mọi sự
khác biệt được xem là có ý nghĩa thống kê khi
p<0,05; với khoảng tin cậy 95%.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Qua phỏng vấn 150 người bệnh về kiến thức,
thái độ và YTNC phòng ngừa TBMMN thứ phát
chúng tôi có kết quả nghiên cứu được trình bày
qua các bảng sau.
Bảng 1: Mô tả phân bố đặc điểm dân số học
Đặc tính Tần số Tỷ lệ (%)
Giới tính
Nữ 65 43,3
Nam 85 56,7
Tuổi
<60 56 37,3
60-69 46 30,7
>=70 48 32
Trình độ học vấn
≤ Cấp 1 68 45,3
Cấp 2 40 26,7
≥ Cấp 3 42 28
Nghề nghiệp
CC - VC 19 12,7
Kinh doanh, buôn bán 36 24
Nội trợ 23 15,3
* Trung bình ± độ lệch chuẩn
Về giới: Số người bệnh nam nhiều hơn người
bệnh nữ, nam chiếm 56,7% và nữ chiếm 43,3%.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
73
Tuổi trung bình của người bệnh TBMMN trong
nhóm nghiên cứu là 62±11 và dao động từ 21 - 78
tuổi, nhóm tuổi ≥ 60 chiếm 62,7% và nhóm tuổi ≤
60 chiếm 37,3%.
Về trình độ học vấn: nhóm người bệnh có
trình độ học vấn ≤ cấp 1 chiếm 45,3%, kế đến là
nhóm có trình độ học vấn cấp 2 chiếm 26,7% và
nhóm người bệnh có trình độ ≥ cấp 3 chiếm 28%.
Bảng 2: Mô tả tiền sử gia đình và số lần bị TBMMN
Đặc tính Tần số Tỷ lệ (%)
Tiền sử gia đình
có TBMMN
Có 32 21,3
Không 118 78,7
Số lần người
bệnh bị TBMMN
Lần 1 132 88
Lần 2 16 10,7
Lần 3 2 1,3
Nhóm người bệnh có tiền sử gia đình về
TBMMN chiếm 21,3%. Số lần người bệnh bị
TBMMN lần đầu chiếm 88%, người bệnh bị
TBMMN lần 2 chiếm 10,7% và người bệnh bị
TBMMN lần 3 chiếm 1,3%.
Bảng 3: Kiến thức về các YTNC
Kiến thức về các YTNC Tần số Tỷ lệ (%)
Biết các YTNC 120 80
Béo phì 27 18
Không tuân thủ điều trị 29 19,3
Uống rượu bia 37 24,7
Lớn tuổi 38 25,3
Bệnh tim 45 30
ĐTĐ 52 34,7
Hút thuốc lá 56 37,3
Tăng cholesterol 56 37,3
Tiền căn TBMMN hoặc TIA 67 44,7
THA 106 70,7
Tỷ lệ người bệnh biết một trong các YTNC
chiếm 80%, trong đó 70,7% người bệnh nhận
thức được THA là YTNC chính, 44,7% người
bệnh biết rằng tiền căn TBMMN là YTNC. Tỷ
lệ người bệnh biết không tuân thủ điều trị là
YTNC chiếm tỷ lệ thấp 19,3%, chỉ có 18%
người bệnh biết béo phì là YTNC gây
TBMMN. Ngoài ra, 20% người bệnh không
biết bất kỳ một YTNC nào.
Tỷ lệ người bệnh biết về thời gian cơn thiếu
máu não thoáng qua thấp, chỉ có 12,7% người
bệnh trả lời đúng. 23,3% người bệnh trả lời
TBMMN do tắc hay vỡ mạch máu. Có 55,3%
người bệnh biết một trong các dấu hiệu về
TBMMN. Có 60,7% người bệnh biết vị trí xảy ra
TBMMN là ở não. Tỷ lệ người bệnh biết gọi xe
cấp cứu hoặc đến bệnh viện ngay khi bị
TBMMN chiếm 78%.
Bảng 4: Kiến thức về TBMMN
Kiến thức về TBMMN Tần số Tỷ lệ (%)
Kiến thức về thời gian cơn thiếu máu
não thoáng qua
19 12,7
Kiến thức về TBMMN do tắc hay vỡ
mạch máu
35 23,3
Kiến thức về phương pháp điều trị
TBMMN
35 23,3
Kiến thức về PHCN trong TBMMN 64 42,7
Kiến thức về quá trình phục hồi
TBMMN
65 43,3
Kiến thức về dấu hiệu cảnh báo
TBMMN
83 55,3
Kiến thức về vị trí xảy ra TBMMN 91 60,7
Kiến thức về những khuyết tật do
TBMMN
98 65,3
Kiến thức về xử lý khi bị TBMMN 117 78
Bảng 5: Kiến thức về các yếu tố làm giảm TBMMN
thứ phát
Kiến thức về các yếu tố làm giảm
TBMMN thứ phát
Tần số Tỷ lệ (%)
Kiểm soát cholesterol máu 73 48,7
Kiểm soát đường huyết 76 50,7
Ngưng hút thuốc lá 92 61,3
Giảm căng thẳng 106 70,7
Tập thể dục 115 76,7
Chế độ ăn uống 116 77,3
Kiểm soát huyết áp 130 86,7
Tỷ lệ người bệnh có kiến thức về các yếu tố
làm giảm TBMMN thứ phát; trong đó người
bệnh cho rằng cần phải kiểm soát tốt huyết áp
chiếm tỷ lệ cao nhất 86,7%, kế đến có 77,3%
người bệnh cho rằng cần phải có chế độ ăn uống
hợp lý và 48,7% người bệnh cho rằng cần phải
kiểm soát cholesterol để ngừa TBMMN thứ phát.
Bảng 6: Nguồn nhận thông tin về TBMMN
Nguồn thông tin Tần số Tỷ lệ
Báo chí/sách Có 80 53,3
Không 70 46,7
Tivi Có 72 48
Không 78 52
Bạn bè Có 49 32,7
Không 101 67,3
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014
74
Nguồn thông tin Tần số Tỷ lệ
NVYT Có 8 5,3
Không 142 94,7
Trong các nguồn cung cấp thông tin về
TBMMN mà người bệnh nhận được, chủ yếu
nhất là các thông tin từ truyền thông như
sách/báo chiếm 53,3%, các chương trình từ tivi
chiếm 48%, chỉ có 5,3% người bệnh nhận thông
tin về TBMMN từ NVYT.
Thái độ của người bệnh đối với việc phòng
ngừa TBMMN thứ phát
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ người
bệnh có thái độ tốt về những thuận lợi khi
phòng ngừa TBMMN chiếm 54,7% và thái độ tốt
về những khó khăn khi thực hiện phòng ngừa
TBMMN thứ phát chiếm 98%.
Bảng 7: Mối liên quan giữa kiến thức đúng với đặc
điểm dân số học
Nội dung Có kiến
thức
Thiếu
kiến thức
p Chi –
square
Nơi ở 0,0036 8,451
TP.HCM 35(59,3) 24(40,7)
Tỉnh thành khác 32 (35,2) 59 (64,8)
Trình độ học vấn <
0,001
27,187
≤ cấp 1 22 (32,3) 46 (67,7)
Cấp 2 12 (30) 28 (70)
≥ cấp 3 33 (78,6) 9 (21,4)
Nghề nghiệp <
0,001
22,613
CC - VC 18 (94,7) 1 (5,3)
Buôn bán/Kinh doanh 12 (33,3) 24 (66,7)
Nội trợ 8 (34,8) 15 (65,2)
Khác 29 (40,3) 43 (59,7)
Kết quả phân tích khi xét mối liên quan giữa
kiến thức đúng với đặc điểm dân số học cho
thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nơi
ở với kiến thức đúng với p = 0,0036 < 0,05, giữa
trình độ học vấn, nghề nghiệp với kiến thức
đúng với p < 0,0001< 0,05.
Bảng 8: Mối liên quan giữa kiến thức đúng với số lần
bị TBMMN
Nội dung Có
kiến thức
Thiếu
kiến thức
p Chi -
square
Số lần
TBMMN
Lần 1 52 (39,4) 80 (60,6) 0,002 12,626
Lần 2 13 (81,3) 3(18,7)
Lần 3 2 (100) 0
Thông tin Có 62(52,5) 56(47,5) < 0,001 13,881
Nội dung Có
kiến thức
Thiếu
kiến thức
p Chi -
square
về
TBMMN
Không 5 (15,6) 27(84,4)
Thông tin
từ sách
báo
Có 51(63,8) 29(36,2) < 0,001 25,259
Không 16 (22,9) 54(77,1)
Thông tin
từ tivi
Có 50(69,4) 22(30,6) < 0,001 34,394
Không 17 (21,8) 61(78,2)
Kết quả phân tích khi xét mối liên quan giữa
kiến thức đúng với số lần bị TBMMN cho thấy
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa số lần bị
TBMMN với kiến thức đúng (p = 0,002 < 0,05),
giữa những người bệnh có nhận thông tin về
TBMMN từ sách/báo và tivi với kiến thức đúng
(p < 0,001< 0,05).
Thái độ
Kết quả phân tích khi xét mối liên quan giữa
thái độ thuận lợi về phòng ngừa TBMMN thứ
phát với nguồn thông tin cho thấy có mối liên
quan giữa thái độ thuận lợi với nhóm người
bệnh nhận được thông tin về TBMMN từ NVYT,
nhóm này có thái độ tốt hơn so với nhóm không
nhận được. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
với p = 0,008 < 0,05. Có mối liên quan giữa thái
độ về những khó khăn khi phòng ngừa TBMMN
thứ phát với tình trạng hôn nhân, nhóm người
bệnh sống chung với gia đình có thái độ tốt hơn
so với nhóm sống một mình. Sự khác biệt này có
ý nghĩa thống kê với p = 0,01< 0,05.
BÀN LUẬN
Giới tính
Nghiên cứu trên 150 người bệnh trong đó
có 85 nam chiếm tỷ lệ 56,7% và 65 nữ chiếm tỷ
lệ 43,3%, tỷ lệ nam cao hơn nữ, kết quả này
phù hợp với nhiều nghiên cứu trong và ngoài
nước như Mai Nhật Quang(12) tỷ lệ nam là
55,27% và nữ là 44,73%, Bùi Châu Tuệ(2) tỷ lệ
nam là 58,6% và nữ là 41,4% , Croquelois A. và
Bogousslavsky J.(4) tỷ lệ nam là 57,9% và nữ là
42,1%.... Như vậy, qua các nghiên cứu đều có
cùng nhận xét về TBMMN xảy ra ở nam chiếm
tỷ lệ cao hơn so với nữ.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
75
Tuổi
Tuổi trung bình của người bệnh trong
nghiên cứu này là 62±11 và dao động từ 21 – 78
tuổi. Số người bệnh có xu hướng tăng dần theo
tuổi, ở độ tuổi ≥ 60 chiếm tỷ lệ 62,7%. Kết quả
này tương tự như nghiên cứu của một số tác giả
như tác giả Cao Phi Phong(3), Mai Nhật Quang(12),
Jeyarai Durai Pandian(10). Tuổi là một yếu tố
không thể thay đổi được, tuổi càng cao thì sự
thích nghi với sự thay đổi của môi trường và các
biến đổi càng kém do sự lão hóa của nhiều cơ
quan trong cơ thể. Do đó, tuổi càng cao thì có
nhiều YTNC làm tăng tỷ lệ mắc TBMMN.
Kiến thức về các yếu tố nguy cơ (YTNC)
gây TBMMN thứ phát, qua khảo sát của chúng
tôi có 80% người bệnh biết một hoặc nhiều hơn
những YTNC, 20% người bệnh không biết bất kỳ
một YTNC nào gây TBMMN. Kết quả này gần
tương tự trong nghiên cứu Kris L. Koenig(11) là
17%, tác giả Croquelois A.(4) là 13,4% không biết
bất kỳ một yếu tố nguy cơ nào về TBMMN.
Trong đó người bệnh biết về THA là YTNC gây
ra TBMMN nhiều nhất với 70,7%, tiếp đến là tiền
căn về TBMMN với 44,7%, chỉ có 18% biết béo
phì và 19,3% biết không tuân thủ điều trị là
YTNC gây TBMMN tái phát.
Kiến thức về TBMMN
Kiến thức về cơ chế của TBMMN, hầu hết
người bệnh chưa có kiến thức đúng về cơ chế
của TBMMN, chỉ có 23,3% người bệnh biết
TBMMN là do tắc hay vỡ mạch máu. Kết quả
này tương tự như nghiên cứu của tác giả Vũ
Anh Nhị(17) là 22,2%. Sự hiểu biết về cơ chế của
TBMMN mà người bệnh có được thường do
NVYT cung cấp, tuy nhiên hiện nay do sự quá
tải cũng như NVYT chưa có thói quen giải thích
nhiều về bệnh cho người bệnh.
Kiến thức về dấu hiệu cảnh báo TBMMN, số
người bệnh biết các triệu chứng TBMMN còn
thấp chỉ có 55,3%. Kết quả này tương tự như
trong nghiên cứu(6,16) và một số nghiên cứu ở
nước ngoài như tác giả Sullivan K(14) là 53,8%, tác
giả Jeyaraj Durai Pandian(10).
Kiến thức về vị trí xảy ra TBMMN, có 60,7%
người bệnh biết TBMMN xảy ra ở não, 16,7%
người bệnh cho rằng TBMMN xảy ra ở tay/chân
và có tới 18% người bệnh không biết vị trí
TBMMN xảy ra ở đâu. Kết quả này gần tương tự
trong nghiên cứu của Dương Đình Chỉnh(6) là
69,1% nhưng thấp hơn trong nghiên cứu của tác
giả Vũ Anh Nhị(16) và cộng sự là 71,4% người
bệnh biết TBMMN xảy ra ở não, trong nghiên
cứu của tác giả Falavigna A(7) là 70,5% .
Kiến thức xử lý khi bị TBMMN, hầu hết
người bệnh cho biết khi nhận biết được các triệu
chứng đó là TBMMN thì gọi xe cấp cứu hoặc
đến bệnh viện ngay chiếm tỷ lệ 78%. Kết quả
này trong nghiên cứu của Vũ Anh Nhị(16) là 82%,
nhưng thấp hơn nghiên cứu của tác giả Sullivan
K(14) là 97,4%. Ngoài ra trong nghiên cứu của
chúng có tới 22,1% người bệnh chờ cho những
triệu chứng mất đi, hoặc chỉ đi khám khi có thể,
do người bệnh nghĩ rằng những triệu chứng đó
không nguy hiểm, không biết rằng đó chính là
các dấu hiệu của TBMMN và đây chính là lý do
làm họ đến bệnh viện muộn(7). Do vậy, chúng ta
cần có nhiều chương trình giáo dục hơn để giúp
người bệnh nhận thức đúng về TBMMN và đến
bệnh viện ngay khi có triệu chứng của TBMMN
xảy ra.
Kiến thức về giảm các yếu tố nguy cơ gây
TBMMN thứ phát
Theo nghiên cứu của chúng tôi có tới 86,7%
cho rằng cần phải kiểm soát tăng huyết áp,
77,3% người bệnh cho rằng cần phải có chế độ
ăn uống hợp lý, 76,7% cho biết cần có chế độ
luyện tập phù hợp, 48,7% cho rằng cần phải
kiểm soát tốt tăng cholesterol để giảm YTNC gây
TBMMN thứ phát. Kết quả này cũng tương tự
nghiên cứu của tác giả Sullivan K(14) và tác giả
Haghighi BA(8). Tỷ lệ của người bệnh có kiến
thức về giảm các yếu tố nguy cơ khá cao do
nghiên cứu được thực hiện tại bệnh viện nên ý
thức của họ tốt hơn sau khi bị TBMMN. Theo tác
giả Sullivan K(14) và cộng sự người bệnh sống sót
sau TBMMN thì kiến thức của họ tốt hơn.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014
76
Liên quan giữa kiến thức về phòng ngừa
TBMMN thứ phát với một số đặc tính của
mẫu
Chúng tôi tìm thấy có mối liên quan giữa
nhóm người bệnh bị TBMMN lần 2 có kiến thức
đúng cao hơn nhóm bị TBMMN lần 1 với p =
0,002. Theo Sullivan và cộng sự những người
bệnh sống sốt sau TBMMN họ thường có kiến
thức về bệnh tốt hơn vì họ đã nhận được một số
thông tin về bệnh từ NVYT đồng thời họ cũng tự
tìm hiểu về bệnh, thay đổi lối sống nhằm giảm
nguy cơ tái phát. Nhóm người bệnh nhận thông
tin về TBMMN từ các kênh thông tin truyền
thông có kiến thức cao hơn nhóm không được
nhận thông tin về TBMMN trước đó với p <
0,001. Theo Denby(5), Haghighi B.A(8) thì tình hình
thực tế tại các bệnh viện luôn trong tình trạng
qúa tải và NVYT cũng ít chú trọng vào việc
GDSK cho người bệnh, vì vậy hầu hết những
thông tin người bệnh có được chủ yếu từ các
nguồn truyền thông như tivi, sách, báo, nhờ vào
phương tiện này đã làm tăng nhận thức của
người bệnh. Điều này cho thấy tác dụng của
phương tiện truyền thông, do đó chúng ta cần
tăng cường truyền thông qua các hình thức này
khi mà các chương trình giáo dục cho người
bệnh từ NVYT còn rất hạn chế.
KẾT LUẬN
Từ kết quả trên cho thấy chúng ta cần phải
có nhiều chương trình giáo dục hiệu quả hơn tại
bệnh viện cũng như tại công đồng nhằm nâng
cao sự hiểu biết của người bệnh về TBMMN, từ
đó giúp người bệnh chủ động trong việc phòng
ngừa TBMMN thứ phát. Đặc biệt ở những người
bệnh có nguy cơ cao về TBMMN thứ phát giúp
họ biết được các YTNC của chính họ cũng như
có chế độ tập luyện và thay đổi lối sống cho phù
hợp để giảm các yếu tố nguy cơ gây TBMMN
thứ phát.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Brown DL, Lisabeth LD et al (2005). Recurrent Stroke Risk Is
Higher Than Cardiac Event Risk After Initial Stroke/Transient
Ischemic Attack Stroke, 36: 1285-1287.
2. Bùi Châu Tuệ (2009). Tiên lượng bệnh nhân nhồi máu não tái
phát bằng bảng điểm nguy cơ đột quỵ ESSEN. Luận văn tốt
nghiệp Bác sĩ nội trú, Đại học Y Dược TP.Hồ Chí Minh
3. Cao Phi Phong (2009). Tần suất yếu tố nguy cơ và tỷ lệ tử
vong đột quỵ não tại bệnh viện tỉnh Ninh Thuận. Y học TP.Hồ
Chí Minh, 13 (1): 399-405
4. Croquelois A., Bogousslavsky J. (2006). Risk awareness and
knowledge of patients with stroke: results of a questionnaire
survey 3 months after stroke. J Neurol Neurosurg Psychiatry, 77:
726-728.
5. Denby F et al (2003). An Educational Intervention for Stroke
Rehabilitation Patients and Their Families: Healthy Living
After Stroke. Top Stroke Rehabil 9(4): 34-45.
6. Dương Đình Chỉnh (2011) Kiến thức, thái độ và thực hành
chăm sóc bệnh nhân bị đột quỵ não tại cộng đồng tỉnh Nghệ
An. Y học Thực hành, 763 (5)
7. Falavigna A et al (2009) Awareness fo stroke risk factors and
warning signs in Southern Brazil. Arq Neuropsiquiatr 67 (4):
1076-1081.
8. Haghighi BA et al (2010). Knowledge and Attitude towards
StrokeRisk Factors, Warning Symptoms and Treatment in an
Iranian Population. Med Princ Pract 19: 468–472.
9. Hata J, Tanizaki Y, Kiyohara Y et al (2005). Ten year
recurrence after first ever stroke in a Japanese community: the
Hisayama study. J. Neurol. Neurosurg. Psychiatry, 76: 368 - 372.
10. Pandian JD, Kalra G, Jaison A, Deepak SS, Shamsher S, Singh
Y, Abraham G (2006). Knowledge of stroke among stroke
patients and their relatives in Northwest India. Neurology India
54 (2)
11. Kris LK, Ellen MW et al (2007). Stroke-Related Knowledge
and Health Behaviors Among Poststroke Patients in Inpatient
Rehabilitation. Arch Phys Med Rehabil 88 (9): 1214-1216
12. Mai Nhật Quang (2008). Tần suất các yếu tố nguy cơ và tỷ lệ
tử vong tai biến mạch máu não tại bệnh viện đa khoa trung
tâm An Giang, Luận văn thạc sỹ y học, Đại học Y Dược
TP.Hồ Chí Minh
13. Sullivan K, et al (2007). Toward the Development of the
Cerebrovascular attitudes and Beliefs Scale: a measure of
Stroke – related Health beliefs. Top Stroke Rehabi, 14 (3): 41-51.
14. Sullivan K et al (2005). Stroke Knowledge and Misconceptions
Among Survivors of Stroke and a Non-Stroke Survivor
Sample. Top Stroke Rehabil, 12 (2): 72-81.
15. Sullivan K et al (2006). The nature and predictors of stroke
knowledge amongst at risk elderly persons in Brisbane,
Australia. Disability and Rehabilitation 28 (21): 1339-1348.
16. Vũ Anh Nhị, Lê Văn Tuấn, Trần Ngọc Tài, Trần Thanh Hùng
(2003). Nghiên cứu sự hiểu biết về tai biến mạch máu não trên
thân nhân và bệnh nhân tai biến mạch máu não. Y học TP.Hồ
Chí Minh, tập 7 (1): 81-85.
17. World Health Organization (2011). Cause of death 10 the top.
Ngày nhận bài báo: 10/12/2013
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 04/01/2014
Ngày bài báo được đăng: 20/03/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kien_thuc_va_thai_do_cua_nguoi_benh_trong_phong_ngua_tai_bie.pdf