BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy mặc dù hiện
nay đái tháo đường và cao huyết áp là một trong
những bệnh mãn tính không lây phổ biến trong
cộng đồng, nhưng kiến thức về dinh dưỡng của
cộng đồng về những bệnh lý này còn rất nghèo
nàn. 48% đối tượng khảo sát không biết và thậm
chí còn thực hiện chế độ ăn cho người bệnh sai,
ví dụ như ăn khoai lang trừ cơm cho chỉ số
đường ổn định, thay thế bằng 1kg khoai cho 1
ngày và có một số người lại cho rằng không ăn
cơm, thế 3 bữa ăn sáng, trưa, chiếu bằng 1 kg
bún tươi ăn với nước tương, điều này thật đáng
lo ngại, vì dinh dưỡng không tốt bệnh sẽ ngày
nặng thêm, dễ dàng đưa đến những biến chứng
nguy hiểm, số người biết và thực hiện khẩu
phần ăn rất ít chỉ có 3%, nhưng cũng có những
ngày không thực hiện như nhà có đám giỗ, tiệc
cưới, thôi nôi, đầy tháng
Chế biến thức ăn thì hầu như 100% trong
mẩu khảo sát không có chế biến riêng, vấn đề
này có thể lệ thuộc rất nhiều về kinh tế gia đình,
mô hình gia đình.
Về kinh tế: thường gia đình tiết kiệm chi phí
sinh hoạt, vì nếu chế biến thức ăn theo khẩu
phần cho người bệnh mất thời gian, tốn thêm chi
phí mua thực phẩm, nên chọn việc chế biến
chung cả gia đình vừa thuận tiện vừa cân bằng
chi tiêu trong gia đình, trong quan sát bữa ăn
của gia đình người bệnh, tác giả nhận thấy
không có sự phân chia người bệnh phải kiêng
khen thức ăn này, thức ăn kia, chỉ nhắc người
bệnh ăn lạt, đừng ăn thêm nước chấm, nhưng
thức ăn người bệnh, không bệnh như nhau, điều
này làm ảnh hưởng liên quan đến người bệnh và
không bệnh, chế biến ăn cùng chế độ ăn, thì tốt
cho người bệnh, nhưng làm ảnh hưởng đến
những thành viên khác trong gia đình, đặc biệt
là trẻ em và phụ nữ mang thai, cho con bú. Qua
quan sát 5 gia đình
Gia đình 1: Bữa ăn trưa, chiều: ruột heo xào
dưa chua, cá hấp chiên, canh cải nấu tôm khô.
Gia đình 2: Bữa ăn trưa, chiều: lỗ tai heo kho
tiêu, mắm bằm chưng hột vịt, canh súp nấu giò
heo
Gia đình 3: Bữa ăn trưa, chiều: Cá điêu hồng
kho tương, canh rau ngót nấu thịt bầm
Gia đình 4: Bữa ăn trưa, chiều: Hột vịt chiên,
rau muống xào, cá trê kho
Gia đình 5: Bữa ăn trưa, chiều: Cá biển kho,
canh chua, mắm thái.
Về mô hình gia đình: Nếu người bệnh là
người phụ nữ trong gia đình hạt nhân, vợ chồng
con cái, thì việc tách khẩu phần ăn càng khó, vì
người bệnh là người trực tiếp chế biến thức ăn
cho cà nhà, là người quán xuyến chi tiêu, nên
việc nấu ăn chung, nêm thức ăn lạt chút để
“giảm bệnh” hầu như những phụ nữ trong mẫu
khảo sát đều cho như thế. Còn nếu là ông bà
trong gia đình có con, cháu, thì lệ thuộc hẳn vào
con cháu, nấu gì ăn nấy, ăn ít chút cho “ đỡ
bệnh”. Còn nếu người bệnh thuộc về gia đình
neo đơn thì lúc khỏe nấu cơm ăn, lúc mệt ăn mì
gói hay ăn đỡ bánh qua bữa ăn sáng, trưa.
Điều trị bệnh tại gia đình ngoài việc dùng
thuốc, dinh dưỡng đúng cách góp phần quan
trọng giúp cho người bệnh có được chỉ số đường
huyết và huyết áp ổn định, nhưng trong mẫu
khảo sát, người bệnh cũng như người thân trong
gia đình chưa nhận biết được tầm quan trọng
của thói quen ăn uống hàng ngày không điều
chỉnh sẽ làm cho bệnh năng hơn và đi đến
những tai biến liên quan rất dễ dàng và đôi lúc
người bệnh mất khả năng tự chăm sóc điều
khiển bản thân.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 25/01/2022 | Lượt xem: 411 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến thức và thực hành về dinh dưỡng của bệnh nhân bệnh mạn tính không lây tại huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương 2014 30
KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH VỀ DINH DƯỠNG CỦA BỆNH NHÂN
BỆNH MẠN TÍNH KHÔNG LÂY TẠI HUYỆN BÌNH CHÁNH‐TP. HCM
Lê Thị Hoàng Liễu*
TÓM TẮT
Dinh dưỡng không chỉ đóng vai trò quan trọng trong phòng ngừa các bệnh mạn tính không lây mà còn hỗ
trợ quá trình điều trị giúp kiểm soát tốt bệnh, đẩy lùi diễn tiến bệnh và các biến chứng.
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát kiến thức, thái độ và thực hành về dinh dưỡng của các bệnh nhân mắc đái
tháo đường và tăng huyết áp, 2 bệnh mạn tính không lây phổ biến trong cộng đồng.
Phương pháp: 100 đối tượng từ 45 tuổi trở lên được phỏng vấn về kiến thức và chế độ dinh dưỡng, cách
chế biến món ăn cũng như diễn biến bệnh.
Kết quả: Kiến thức hiểu biết về dinh dưỡng cho bệnh nhân bệnh tiểu đường và cao huyết áp vẫn còn thấp
trong cộng đồng. Hầu hết bệnh nhân chưa chú trọng chế độ ăn phù hợp bệnh lý, điều này có thể dẫn đến kết quả
điều trị chưa ổn định, tiến triển bệnh nhanh hơn và tăng nguy cơ biến chứng. Bàn luận: Dinh dưỡng cho bệnh
nhân tiểu đường cao huyết áp thực hiện tốt khi bệnh nhân đang điều trị tại các bệnh viện có khoa dinh dưỡng‐
tiết chế, bệnh nhân được thực hiện khẩu phần ăn theo bệnh lý, nhưng khi bệnh nhân điều trị tại gia đình thì hầu
như thiếu hụt sự quan tâm thực hiện chế độ ăn điều trị vì nhiều lý do: thói quen gia đình, kinh tế gia đình, mức
độ nhận thức của bệnh nhân,
Kết luận: Cần tăng cường công tác truyền thông giáo dục dinh dưỡng trực tiếp để bệnh nhân nâng cao
nhận thức và thực hành chế độ ăn bệnh lý, để kiểm soát tốt các bệnh mạn tính không lây khi điều trị tại gia đình.
Từ khóa: Bệnh mạn tính không lây, chế độ ăn bệnh lý, kiến thức, thực hành, huyện Bình Chánh.
ABSTRACT
KNOWLEDGE AND PRACTICE OF NUTRITION OF NCD PATIENTS IN BINH CHANH DISTRICT,
HCMC
Le Thi Hoang Lieu * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 30 – 34
Introduction: Nutrition plays an important role not only in the prevention of non‐communicable chronic
diseases, but also in the treatment of disease, to delay disease process and complications.
Objectives: To investigate the knowledge and practice of nutrition in patients with type 2 diabetes and
hypertension, the two common chronic non‐communicable diseases in the community.
Methods: 100 subjects from 45 years and older were interviewed about knowledge and nutrition, the food
processing as well as disease progression.
Results: Nutrition knowledge of patients with diabetes and high blood pressure is still low in the
community. Most patients have not know appropriate diet therapy, this may lead to unstable treatment outcome,
faster disease progression and complications. Diet therapy could be easily applied when patients are being treated
in the hospital. However, when the patients are treated at home, they lack of sufficient diet control because of
many reasons: family dietary pattern and practice, economic status, awareness of the patients...
Conclusion: We should provide direct nutrition education for patients to improve knowledge and practice of
diet therapy, for better control of non‐communicable chronic patients who are being treated at home.
* Bệnh viện huyện Bình Chánh
Tác giả liên lạc: Ths.BS Lê Thị Hoàng Liễu, ĐT: 0908303596 Email: gatlieu@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương 2014 31
Keywords: Chronic non‐communicable diseases, diet therapy, knowledge, practice, Binh Chanh district.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Các bệnh mạn tính không lây liên quan đến
dinh dưỡng đang có chiều hướng gia tăng
nhanh chóng tại TP. HCM. Theo số liệu khảo sát
của Trung tâm Dinh dưỡng TPHCM, tình trạng
tăng triglyceride máu và tăng huyết áp ‐ những
nguy cơ đối với bệnh tim mạch chiếm tỉ lệ cao
đáng lo ngại, lần lượt khoảng 38,7% và 37,7% ở
người trưởng thành(1). Tỷ lệ đái tháo đường tăng
gần gấp đôi trong vòng 7 năm (7% năm 2008 so
với 3,8% năm 2001)(2).
Sự gia tăng nhanh chóng của các bệnh mạn
tính không lây có liên quan chặt chẽ đến những
thay đổi về thói quen ăn uống và vận động theo
một chiều hướng không có lợi, chủ yếu do nhận
thức về dinh dưỡng hợp lý của cộng đồng còn
thấp. Hậu quả là, không chỉ gây ra gánh nặng
bệnh tật, mà còn là gánh nặng biến chứng, di
chứng, ảnh hưởng tuổi thọ và chất lượng cuộc
sống nếu bệnh không được điều trị và kiểm soát
tốt(3). Phần lớn bệnh nhân ở giai đoạn sớm
thường được quản lý tại nhà, chính vì vậy hiểu
biết và thực hành của bệnh nhân, đặc biệt về chế
độ dinh dưỡng và luyện tập tại nhà, hết sức
quan trọng trong việc kiểm soát bệnh, hỗ trợ
điều trị. Để trả lời câu hỏi bệnh nhân đái tháo
đường, tăng huyết áp, khi điều trị tại gia đình,
họ thực hiện dinh dưỡng, bửa ăn hàng ngày như
thế nào, vì sao họ đang điều trị nhưng không
giảm, có liên quan đến dinh dưỡng không, tác
giả thực hiện đề tài nghiên cứu “KIẾN THỨC
VÀ THỰC HÀNH VỀ DINH DƯỠNG CỦA
BỆNH NHÂN BỆNH MẠN TÍNH KHÔNG
LÂY TẠI HUYỆN BÌNH CHÁNH‐TP. HCM”
tiến hành từ tháng 01 đến tháng 6 năm 2013. Vì
lý do nguồn lực, nghiên cứu này chỉ tập trung
vào người dân có bệnh tiểu đường và huyết áp
đang điều trị tại nhà với mục tiêu cụ thể là đánh
giá kiến thức và thực hành về dinh dưỡng của
người dân cho bệnh đái tháo đường và tăng
huyết áp.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tương nghiên cứu
Người dân trong độ tuổi từ 45 tuổi đến 70
tuổi đang điều trị bệnh tiểu đường, huyết áp tại
nhà, đủ năng lực hành vi trả lời các câu hỏi của
phỏng vấn viên.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu định tính, mô tả cắt ngang.
Cỡ mẫu: 100 người.
Đối tượng: người dân tại các hộ gia đình
được chọn ngẩu nhiên. Tại mỗi hộ gia đình chọn
một hoặc nhiều đối tượng từ 45 tuổi trở lên trả
lời phỏng vấn bằng bộ câu hỏi được soạn sẵn.
Người được phỏng vấn có thể là chủ hộ hoặc
thành viên trong gia đình, ưu tiên đối tượng
đang điều trị bệnh tiểu đường, cao huyết áp tại
gia đình mà không mắc các bệnh tâm thần, câm,
điếc hoặc các bệnh ảnh hưởng đến kết quả trả lời
các câu hỏi.
KẾT QUẢ
Đặc điểm của đối tượng khảo sát được trình
bày tại bảng 1. Toàn bộ đối tượng khảo sát là
dân tộc Kinh (100%), trong đó đông nhất ở
nhóm tuổi > 60 (45%), giới nam (82%) và bệnh lý
đái tháo đường/ cao huyết áp đơn thuần (77%).
Bảng 1: Đặc điểm của đối tượng khảo sát phân bố theo nhóm tuổi, dân tộc, giới và loại bệnh lý
Tuổi n (%)
Đặc điểm 45-50 tuổi 51-55 tuổi 56-60 tuổi > 60 tuổi Tổng
Dân tộc Kinh 23 (23%) 17 (17%) 15 (15%) 45 (45%) 100 (100%)
Khác 0 (0) 0 (0) 0 (0) 0 (0) 0 (0)
Giới Nam 4 (4%) 1 (1%) 1 (1%) 12 (12%) 18 (16%)
Nữ 19 (19%) 16 (16%) 14 (14%) 33 (33%) 82 (82%)
Loại bệnh Đái tháo đường/ cao huyết áp 17 (17%) 12 (12%) 10 (10%) 38 (38%) 77 (77%)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương 2014 32
Tuổi n (%)
Đặc điểm 45-50 tuổi 51-55 tuổi 56-60 tuổi > 60 tuổi Tổng
Đái tháo đường/ cao huyết áp kèm
theo bệnh khác (thoái hóa khớp gối,
đau dạ dày, bệnh thận )
6 (6%) 5 (5%) 5 (5%) 7 (7%) 23 (23%)
Kiến thức, hiểu biết về dinh dưỡng cho bệnh
đái tháo đường và cao huyết áp của bệnh nhân
được trình bày tại bảng 2.Trong số đối tượng
được phỏng vấn có đến 48% không biết về dinh
dưỡng cho bệnh nhân đái tháo đường và cao
huyết áp, 49% biết ít và chỉ có 3% biết tương đối
đầy đủ. Điều này cho thấy những người bệnh
đang được điều trị tại gia đình chưa có kiến thức
về đinh dưỡng hay nói cách khác là thực phẩm,
khẩu phần ăn cho người bệnh đái tháo đường và
cao huyết áp, dẫn đến việc hiểu sai, ăn uống
không phù hợp với người bệnh.
Bảng 2: Kiến thức hiểu biết về dinh dưỡng cho bệnh
đái tháo đường và cao huyết áp
45-50 51-55 56-60 >60 n Tỷ lệ%
Không biết 11 7 11 19 48 48
Biết it 12 10 2 25 49 49
Biết tương đối
đầy đủ 0 0 2 1 3 3
Bảng 3: Cách thức chế biến thức ăn cho người bệnh đái tháo đường và cao huyết áp
Tuổi
Chế biến thức ăn cho người bệnh 45-50 51-55 56-60 >60 n Tỷ lệ (%)
Chế biến thức ăn chung cả gia đình 13 13 7 34 67 67
Chế biến thức ăn chung, xong để riêng nêm gia vị 10 4 8 11 33 33
Chế biến thức ăn riêng 0 0 0 0 0 0
Cách thức chế biến thức ăn cho người bệnh
đái tháo đường và cao huyết áp được trình bày
tại bảng 3. Trong 100 người được phỏng vấn về
cách thức chế biến thức ăn cho người bệnh đái
tháo đường và cao huyết áp có 67 người cho biết
ăn chung bình thường, chiếm tỷ lệ 67% đây là
một tỷ lệ khá cao trong nghiên cứu này. Chế
biến thức ăn chung cho cả gia đình xong, múc
riêng ra nêm gia vị cho người bệnh chiếm 33%,
không có chế biến riêng hay làm riêng khẩu
phần cho người bệnh..
Bảng 4: Các nguồn thông tin cung cấp kiến thức về dinh dưỡng
Nguồn cung cấp thông tin Nam Nữ n Tỷ lệ
Ti vi 18 75 93 93%
Phát thanh truyền thanh 11 52 63 63%
Báo viết 13 48 61 61%
Tờ rơi,áp phích 3 11 14 14%
Cán bộ y tế 7 35 42 93%
Họp đoàn thể 1 18 19 19%
Người thân 9 9 9%
Qua người bán thức ăn 6 9 9 9%
Các nguồn thông tin cung cấp kiến thức về
dinh dưỡng cho người bệnh đái tháo đường và
cao huyết áp được trình bày tại bảng 4. 93% đối
tượng nhận thông tin dinh dưỡng cho người
bệnh đái tháo đường và cao huyết áp qua ti vi;
63% qua phát thanh; 61% qua báo viết; 42% qua
cán bộ y tế; và 27% qua người bán thực phẩm.
Kết quả này cho chúng ta thấy kiến thức người
dân có được chủ yếu qua ti vi kế tiếp qua đài
phát thanh, báo và cán bộ y tế. Điều này phù
hợp với đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu là
truyền thông đại chúng cung cấp kiến thức cho
người dân nhiều hơn so với truyền thông trực
tiếp, trong khi truyền thông trực tiếp trong giáo
dục sức khỏe cộng đồng làm thay đổi hành vi tốt
hơn so với truyền thông đại chúng.
Về diễn tiến bệnh, trong 100 đối tượng khảo
sát khi theo dõi đơn thuốc, sổ khám bệnh: 77%
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương 2014 33
đang điều trị bệnh đái tháo đường/ cao huyết áp
có trị số huyết áp không đạt kết quả ổn định lâu
dài, trị số đường huyết luôn thay đổi: lúc ổn
định, lúc chỉ số đường huyết cao hoặc thấp quá.
BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy mặc dù hiện
nay đái tháo đường và cao huyết áp là một trong
những bệnh mãn tính không lây phổ biến trong
cộng đồng, nhưng kiến thức về dinh dưỡng của
cộng đồng về những bệnh lý này còn rất nghèo
nàn. 48% đối tượng khảo sát không biết và thậm
chí còn thực hiện chế độ ăn cho người bệnh sai,
ví dụ như ăn khoai lang trừ cơm cho chỉ số
đường ổn định, thay thế bằng 1kg khoai cho 1
ngày và có một số người lại cho rằng không ăn
cơm, thế 3 bữa ăn sáng, trưa, chiếu bằng 1 kg
bún tươi ăn với nước tương, điều này thật đáng
lo ngại, vì dinh dưỡng không tốt bệnh sẽ ngày
nặng thêm, dễ dàng đưa đến những biến chứng
nguy hiểm, số người biết và thực hiện khẩu
phần ăn rất ít chỉ có 3%, nhưng cũng có những
ngày không thực hiện như nhà có đám giỗ, tiệc
cưới, thôi nôi, đầy tháng
Chế biến thức ăn thì hầu như 100% trong
mẩu khảo sát không có chế biến riêng, vấn đề
này có thể lệ thuộc rất nhiều về kinh tế gia đình,
mô hình gia đình.
Về kinh tế: thường gia đình tiết kiệm chi phí
sinh hoạt, vì nếu chế biến thức ăn theo khẩu
phần cho người bệnh mất thời gian, tốn thêm chi
phí mua thực phẩm, nên chọn việc chế biến
chung cả gia đình vừa thuận tiện vừa cân bằng
chi tiêu trong gia đình, trong quan sát bữa ăn
của gia đình người bệnh, tác giả nhận thấy
không có sự phân chia người bệnh phải kiêng
khen thức ăn này, thức ăn kia, chỉ nhắc người
bệnh ăn lạt, đừng ăn thêm nước chấm, nhưng
thức ăn người bệnh, không bệnh như nhau, điều
này làm ảnh hưởng liên quan đến người bệnh và
không bệnh, chế biến ăn cùng chế độ ăn, thì tốt
cho người bệnh, nhưng làm ảnh hưởng đến
những thành viên khác trong gia đình, đặc biệt
là trẻ em và phụ nữ mang thai, cho con bú. Qua
quan sát 5 gia đình
Gia đình 1: Bữa ăn trưa, chiều: ruột heo xào
dưa chua, cá hấp chiên, canh cải nấu tôm khô.
Gia đình 2: Bữa ăn trưa, chiều: lỗ tai heo kho
tiêu, mắm bằm chưng hột vịt, canh súp nấu giò
heo
Gia đình 3: Bữa ăn trưa, chiều: Cá điêu hồng
kho tương, canh rau ngót nấu thịt bầm
Gia đình 4: Bữa ăn trưa, chiều: Hột vịt chiên,
rau muống xào, cá trê kho
Gia đình 5: Bữa ăn trưa, chiều: Cá biển kho,
canh chua, mắm thái.
Về mô hình gia đình: Nếu người bệnh là
người phụ nữ trong gia đình hạt nhân, vợ chồng
con cái, thì việc tách khẩu phần ăn càng khó, vì
người bệnh là người trực tiếp chế biến thức ăn
cho cà nhà, là người quán xuyến chi tiêu, nên
việc nấu ăn chung, nêm thức ăn lạt chút để
“giảm bệnh” hầu như những phụ nữ trong mẫu
khảo sát đều cho như thế. Còn nếu là ông bà
trong gia đình có con, cháu, thì lệ thuộc hẳn vào
con cháu, nấu gì ăn nấy, ăn ít chút cho “ đỡ
bệnh”. Còn nếu người bệnh thuộc về gia đình
neo đơn thì lúc khỏe nấu cơm ăn, lúc mệt ăn mì
gói hay ăn đỡ bánh qua bữa ăn sáng, trưa.
Điều trị bệnh tại gia đình ngoài việc dùng
thuốc, dinh dưỡng đúng cách góp phần quan
trọng giúp cho người bệnh có được chỉ số đường
huyết và huyết áp ổn định, nhưng trong mẫu
khảo sát, người bệnh cũng như người thân trong
gia đình chưa nhận biết được tầm quan trọng
của thói quen ăn uống hàng ngày không điều
chỉnh sẽ làm cho bệnh năng hơn và đi đến
những tai biến liên quan rất dễ dàng và đôi lúc
người bệnh mất khả năng tự chăm sóc điều
khiển bản thân.
KẾT LUẬN
Dinh dưỡng cho bệnh nhân tiểu đường cao
huyết áp thực hiện tốt khi bệnh nhân đang điều
trị tại các bệnh viện có khoa dinh dưỡng‐ tiết
chế, bệnh nhân được thực hiện khẩu phần ăn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương 2014 34
theo bệnh lý, nhưng khi bệnh nhân điều trị tại
gia đình, thực hiện dinh dưỡng theo thói quen
sở thích của gia đình, thì hầu nhu bệnh nhân
không áp dụng theo bệnh lý nữa, mà chỉ theo
thói quen và thuận tiện của gia đình. Điều này lệ
thuộc vào kinh tế, sự hiểu biết của người dân.
Kiến thức hiểu biết về dinh dưỡng cho bệnh
nhân bệnh tiểu đường và cao huyết áp vẫn còn
thấp trong cộng đồng, điều này đã được chứng
minh qua số liệu bệnh nhân mắc bệnh tiểu
đường và cao huyết áp theo thời gian điều trị
không đạt ổn định mà từ giai đoạn nhẹ dần
chuyển sang nặng và đi đến những kết thúc
nặng nề. Vì vậy, cần tăng cường công tác truyền
thông giáo dục dinh dưỡng trực tiếp để bệnh
nhân nâng cao nhận thức và thực hành chế độ
ăn bệnh lý, để kiểm soát tốt các bệnh mạn tính
không lây khi điều trị tại gia đình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Thị Ngọc Diệp, Phan Nguyễn Thanh Bình, Trần Quốc
Cường và Lê Thị Kim Quí (2012). “Dịch tễ học bệnh rối loạn
chuyển hóa tại TPHCM: xu hướng gia tăng và trẻ hóa”. Tạp
chí Dinh dưỡng và Thực phẩm8 (3), tr.1‐6.
2. Đỗ Thị Ngọc Diệp, Phan Nguyễn Thanh Bình, Trần Quốc
Cường, Lê Thị Kim Quí và Lê Nguyễn Trung Đức Sơn (2012).
“Dịch tễ học bệnh đái tháo đường tại TPHCM và một số yếu
tố liên quan”. Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm8 (4), tr.73‐
79.
3. Ebrahim S, Pearce N, Smeeth L, Casas JP, Jaffar S, et al. (2013)
“Tackling Non‐Communicable Diseases In Low‐ and Middle‐
Income Countries: Is the Evidence from High‐Income
Countries All We Need?” PLoS Med 10(1): e1001377.
doi:10.1371/journal.pmed.1001377
Ngày nhận bài báo: 20/10/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/11/2014
Ngày bài báo được đăng: 05/12/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kien_thuc_va_thuc_hanh_ve_dinh_duong_cua_benh_nhan_benh_man.pdf