Kiến thức về chế độ ăn của bệnh nhân đái tháo đường type 2 tại Việt Nam

Có tổng cộng 385 bệnh nhân ĐTĐ tham gia nghiên cứu và hầu hết bệnh nhân là nữ. Phần lớn bệnh nhân là người cao tuổi (tuổi trung bình là 61,69 ± 9,94) và đã lập gia đình (77,14%). Các dữ liệu dân số khác cho thấy bệnh nhân chủ yếu có trình độ học vấn thấp và điều kiện kinh tế cũng thấp. Một điểu lưu ý là tỷ lệ bệnh nhân tham gia lớp tập huấn, đào tạo về kiến thức chế độ ăn cho người ĐTĐ rất thấp. Có thể kết luận rằng kiến thức về chế độ ăn của bệnh nhân thấp. Ngoại trừ kiến thức về lập chế độ ăn và phương pháp chế biến thực phẩm, các kiến thức khác đều có tỷ lệ nhận biết rất thấp. Phân tích mối liên quan giữa kiến thức chế độ ăn và đặc điểm bệnh nhân cho thấy một số phân nhóm bệnh nhân cần phải nhận được sự quan tâm hơn bao gồm bệnh nhân nữ, người lớn tuổi, bệnh nhân có trình độ học vấn thấp, điều kiện kinh tế thấp, có tiền sử gia đình mắc ĐTĐ và bệnh nhân có thời gian điều trị và thời gian mắc ĐTĐ ngắn. Từ các phát hiện trên, tác giả nghiên cứu khuyến cáo bệnh viện đa khoa quận 11 thành lập đơn vị tư vấn, đào tạo về dinh dưỡng và chế độ ăn cho bệnh nhân ĐTĐ

pdf7 trang | Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 472 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến thức về chế độ ăn của bệnh nhân đái tháo đường type 2 tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 486 KIẾN THỨC VỀ CHẾ ĐỘ ĂN   CỦA BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 TẠI VIỆT NAM  Nguyễn Thị Ngọc Cần*, Chiung – Man Wu**, Nguyễn Duy Hùng*, Nguyễn Ngọc Duy***  TÓM TẮT  Đặt vấn đề: Kiểm soát chế độ ăn là một thành phần không thể thiếu trong kiểm soát và chăm sóc đái tháo  đường (ĐTĐ) và ngày nay càng được quan tâm trong bối cảnh tại Việt Nam. Tuy nhiên một số nghiên cứu cho  thấy kiến thức của bệnh nhân về ĐTĐ trong đó có kiến thức về chế độ ăn tương đối kém. Thực trạng này cũng  xảy ra đối với bệnh nhân mắc ĐTĐ tại bệnh viện đa khoa quận 11. Tuy nhiên cho đến thời điểm thực hiện đề tài  này chưa có một nghiên cứu nào khảo sát kiến thức về dinh dưỡng và kiểm soát chế độ ăn của bệnh nhân ĐTĐ  tại bệnh viện quận 11. Xuất phát từ thực tế đó, việc tiến hành một nghiên cứu khảo sát kiến thức về kiểm soát chế  độ ăn của bệnh nhân ĐTĐ tại bệnh viện đa khoa quận 11 là điều cần thiết.  Mục tiêu: Mục tiêu của nghiên cứu này là khảo sát mối liên quan giữa kiến thức về chế độ ăn và đặc điểm  dân số học của bệnh nhân ĐTĐ điều trị tại bệnh viện đa khoa quận 11.  Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang thực hiện tại bệnh viện đa khoa quận 11 từ tháng 1/3 đến  15/3/2014. Tổng cộng 385 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu và phỏng vấn với bộ câu hỏi cấu trúc liên quan  đến 5 khía cạnh của kiến thức chế độ ăn bao gồm kiến thức về thành phần dinh dưỡng chính, kiến thức về vai trò  của nhóm thực phẩm, kiến thức về lập chế độ ăn, kiến thức về quy tắc nấu thức ăn và kiến thức về đọc nhãn dinh  dưỡng. Mối liên quan giữa các biến số được kiểm bằng các phép kiểm t‐test, ANOVA một chiều với mức ý nghĩa  thống kê p=0,05. Các phép kiểm được thực hiện bằng phần mềm SPSS v.16.   Kết quả: Trong số 385 bệnh nhân tham gia nghiên cứu có 269 (69,87%) bệnh nhân là nữ. Tuổi trung bình  của bệnh nhân  là 61,69 ± 9,94, và 77,14% đã lập gia đình. Kinh là dân tộc chiếm tỷ lệ chủ yếu (71,95%), và  48,6% là nội trợ. 87,79% bệnh nhân có trình độ học vấn từ tiểu học đến trung học cơ sở. Hầu như tất cả bệnh  nhân  (90.39%) có  thu nhập gia đình <3  triệu đồng. Điểm kiến  thức chế độ ăn chung  trung bình của các đối  tượng là 30.94 ± 13.82 (0‐73). Giới có mối tương quan mạnh với kiến thức chế độ ăn trong đó nam bệnh nhân có  kiến thức cao hơn so với nữ bệnh nhân (p = 0.02). Ngoài ra bệnh nhân có độ tuổi từ 45 ‐ 54 có điểm kiến thức cao  nhất, trong khi bệnh nhân tuổi từ 35 ‐ 44 có điểm kiến thức thấp nhất. Bệnh nhân có trình độ học vấn cao hơn có  nhiều khả năng có kiến thức chế độ ăn cao hơn so với những bệnh nhân có trình độ học vấn thấp (p< 0.001). Bệnh  nhân có thu nhập cao có nhiều khả năng có kiến thức cao hơn so với những bệnh nhân có thu nhập thấp hơn (p<  0.001). Thời gian mắc ĐTĐ có tác động đến kiến thức của bệnh nhân trong đó bệnh nhân càng có thời gian mắc  ĐTĐ càng lâu sẽ có kiến thức càng cao (p = 0.003). Bệnh nhân có anh/chị/em mắc ĐTĐ cũng có kiến thức cao  nhất (p 5 năm cũng có kiến thức cao hơn so với các nhóm khác và sự khác  biệt này cũng có ý nghĩa thống kê (p=0.003).  Kết  luận: Có thể thấy rằng kiến thức về chế độ ăn của bệnh nhân ĐTĐ không cao. Từ các phát hiện của  nghiên cứu này chúng tôi khuyến cáo cần thành lập một nhóm tư vấn dinh dưỡng tại bệnh viện với mục đích đào  tạo và tư vấn kiến thức về chế độ ăn cho bệnh nhân ĐTĐ.  Từ khóa: kiến thức về đái tháo đường, đái tháo đường  * Bệnh viện đa khoa quận 11  **: Đại học Meiho, Đài Loan  ***: Viện Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: Ths. Nguyễn Thị Ngọc Cần   ĐT: 0903389529  Email: cantrang69@gmail.com  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  487 ABSTRACT  DIETARY KNOWLEDGE OF PATIENTS WITH TYPE 2 DIABETES IN VIETNAM  Nguyen Thi Ngoc Can, Chiung – Man Wu, Nguyen Duy Hung, Nguyen Ngoc Duy  * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 486 – 492  Background: Dietary management is an integral part of diabetes care and management and it is currently  received more  concerns  in  health  care  services  among  regions  around Vietnam. However,  studies  have  been  showed that knowledge of patients with diabetes, including dietary knowledge, was relatively poor. The situation  in General Hospital District 11 was the same. Nevertheless until the time of doing the present study there are not  any  surveys  on  assessment  of  knowledge  of  nutrition  and  diet  control  of  diabetes  patients  conducted  in  the  General Hospital District 11. From that point of view, it is necessary to conduct a study to investigate knowledge  on dietary management of diabetic patients in General Hospital District 11.   Objectives:  To  explore  the  relationships  between  dietary  knowledge  and  demographic  characteristics  of  diabetic patients who were treated at General Hospital District 11.   Methods: A cross‐sectional study was carriedout at General Hospital District 11 from March 1 to April 15,  2014.  In  total,  a  random  sample  of 385 patients wasinterviewed with  a  structured  questionnaire designed  to  assess five aspects of dietary knowledge, including knowledge about key nutrients, the role of food groups, meal  planning, cooking rules and nutritional label reading. The significance of the results was assessed by t‐test or one  way ANOVAat p‐value of 0.05 using SPSS version 16.   Result: Among 385 participants, 269  (69.87%) patients were  female. The mean  age  of participants was  61.69 ± 9.94, and 77.14% were married. Kinh constituted the majority of the population (71.95%), and 48.6%  were housewives. Regarding to level of education, 87.79% patients had finished education from primary school to  high school. Nearly all of patients  (90.39%) had  family  income under 3 million dong. The mean  total dietary  knowledge score among patients was 30.94 ± 13.82 (0‐73). Gender had strong association with dietary knowledge  in which male patients had higher knowledge than female patients (p=0.02). Furthermore, patients aged from 45  to 54 years old had the highest score of knowledge, meanwhile patients aged from 35 to 44 years old had lowest  score. Patients who had higher education were likely to have higher dietary knowledge than patients with lower  education  (p <0.001). Patients with higher  income had higher knowledge  than  low  income patients as well  (p  <0.001). Duration of diabetes had an impact on dietary knowledge in which patients had longer duration would  have higher knowledge (p=0.003). Patients who had siblings with diabetes had the highest score of knowledge (p  <0.001). Patients who had  treatments more  than  five years had higher  knowledge  score  than  other groups  of  patients, and these differences had a statistically significance (p=0.003).  Conclusion: It could be concluded that the dietary knowledge among participants was not high. From the  findings,  establishing  a  nutritional  team  within  the  hospital  to  hold  training  course  and  consult  dietary  knowledge toward patients with diabetes was necessary.   Keywords: dietary knowledge, diabetes.  ĐẶT VẤN ĐỀ  ĐTĐ hiện nay  là vấn đề y  tế công cộng nổi  cộm trên thế giới. Năm 2011, số người mắc ĐTĐ  trên thế giới là 366 và ước tính con số này sẽ lên  đến  552  triệu  người  vào  năm  2030(4).  Tại  Việt  Nam Vào năm 2012, số hiện mắc ĐTĐ chiếm 4%  tổng dân số còn số mắc  tiền ĐTĐ  lên đến 10%  dân số chung. Ước  tính rằng đến năm 2025, số  hiện mắc ĐTĐ trên toàn quốc sẽ là 3 triệu người.  Kiểm soát chế độ ăn là một phần không thể  thiếu trong chăm sóc và kiểm soát ĐTĐ. Chế độ  ăn hợp lý đã từ lâu được chứng minh là có khả  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 488 năng cải  thiện  lượng đường huyết  trong cơ  thể  thông  qua  việc  làm  giảm  lượng  glycated  hemoglobin (A1C) từ 1,0% đến 2,0%. Tuy nhiên,  nhiều  nghiên  cứu  cho  thấy  rằng  bệnh  nhân  thường  thực hành không  đầy  đủ về kiểm  soát  chế độ ăn và điều này thường  là do bệnh nhân  có kiến  thức kém về kiểm soát chế độ ăn dành  cho người ĐTĐ(1,2,3).   Tại bệnh viện  đa khoa quận  11,  có khoảng  26,292  bệnh  nhân  đến  khám  và  điều  trị  ĐTĐ  trong năm 2012,  trong  đó  có 26.203 bệnh nhân  ngoại trú và 89 bệnh nhân nội trú. Những thông  tin  bệnh  nhân  nhận  được  chủ  yếu  là  các  lời  khuyên căn bản về dinh dưỡng từ bác sĩ và điều  dưỡng  trong  suốt  quá  trình  điều  trị  tại  bệnh  viện.  Tuy  nhiên  cho  đến  thời  điểm  khảo  sát  nghiên cứu này chưa có bất kỳ cuộc khảo sát hay  nghiên  cứu  nào  đánh  giá  kiến  thức  về  dinh  dưỡng cũng như kiểm soát chế độ ăn của bệnh  nhân ĐTĐ tiến hành tại bệnh viện đa khoa quận  11. Từ quan điểm đó, việc tiến hành một nghiên  cứu khảo sát kiến  thức về kiểm soát chế độ ăn  của bệnh nhân ĐTĐ tại bệnh viện đa khoa quận  11  là điều hết sức cần thiết. kết quả của nghiên  cứu sẽ được sử dụng  làm cơ sở dữ  liệu để ban  lãnh  đạo  bệnh  viện  xây  dựng  một  đội  ngũ  chuyên viên tư vấn về các vấn đề dinh dưỡng và  chế độ ăn cho bệnh nhân ĐTĐ.  Mục tiêu nghiên cứu  Xác  định kiến  thức về  chế  độ  ăn  của bệnh  nhân ĐTĐ và mối  liên quan giữa kiến  thức và  các  đặc  điểm  dân  số  học,  tiền  sử  bệnh  lý  của  bệnh nhân.  ĐỐI  TƯỢNG – PHƯ ƠNG PHÁP NGHIÊN  CỨU  Thiết kế cắt ngang mô  tả  tại bệnh viện đa  khoa  quận  11  từ  1/3‐15/4/2014.  Đối  tượng  nghiên  cứu  là  385  bệnh  nhân  ĐTĐ  >18  tuổi  điều  trị  tại bệnh viện  trong khoảng  thời gian  nghiên cứu. Những bệnh nhân bị  loại ra khỏi  nghiên  cứu  khi  có  các  rối  loạn  về  tâm  thần  hoặc  tâm  lý  hoặc  các  bệnh  ngăn  trở  họ  thực  hiện  cuộc  phỏng  vấn. Ngoài  ra,  những  bệnh  nhân không thể thực hiện phỏng vấn vì có các  khuyết  tật  thể  chất  như mù,  câm,  điếc  cũng  được loại ra khỏi nghiên cứu.  Kỹ  thuật  lấy mẫu ngẫu nhiên đơn được áp  dụng trong nghiên cứu này để thu thập mẫu. Có  tổng  cộng  1765  bệnh  nhân  ĐTĐ  đến  khám  tại  bệnh viện từ 1/3‐1/4 năm 2014. Mỗi bệnh nhân sẽ  được  đánh mã số  thứ  tự  (số  ID). Chúng  tôi sử  dụng bảng số ngẫu nhiên để chọn  ra 385 bệnh  nhân từ 1765 bệnh nhân. Mỗi số chọn ra từ bảng  ngẫu nhiên sẽ  tượng  trưng cho một bệnh nhân  có số ID trùng khớp. Nếu số được chọn từ bảng  số vượt quá 1765  thì sẽ bỏ và chọn  lại số khác.  Quá trình chọn số sẽ kết thúc khi lấy đủ 385 số.  Phương pháp phỏng vấn mặt  đối mặt  sẽ được  sử dụng để thu thập thông tin từ bệnh nhân. Đối  với những bệnh nhân ngoại trú, nếu họ đến tái  khám  tại bệnh viện  trong  thời gian nghiên cứu  sẽ  được  phỏng  vấn  tại  chỗ  tái  khám. Nếu  họ  không đến tái khám sẽ được nhân viên đến tận  nhà phỏng vấn.  Đối với những bệnh nhân nội  trú, cuộc phỏng.   Bộ  câu hỏi phỏng vấn  được xây dựng dựa  trên các đề  tài nghiên cứu  trước đó, các hướng  dẫn quốc tế về chế độ ăn cho bệnh nhân ĐTĐ và  ý kiến  của  các  chuyên gia dinh dưỡng. Bộ  câu  hỏi bao gồm 51 chia làm 3 phần: 12 câu hỏi liên  quan  đến  các  đặc  điểm dân  số  xã hội học  của  bệnh nhân: Tuổi,  tình  trạng hôn nhân,  trình độ  học vấn, thu nhập hàng tháng, giới tính, dân tộc,  tham  dự  lớp  tập  huấn/hội  thảo  về  kiểm  soát  ĐTĐ),  các  chỉ  số  nhân  trắc  học,  4  câu  hỏi  bao  gồm  loại ĐTĐ, thời gian ĐTĐ, tiền sử gia đình,  loại điều trị, gồm 35 câu hỏi liên quan đến 5 khía  cạnh về kiến thức chế độ ăn bao gồm dưỡng chất  chính và nhóm thực phẩm (12 câu), vai trò nhóm  thực phẩm trong kiểm soát ĐTĐ (2 câu), lập chế  độ ăn (12 câu), phương pháp nấu ăn (4 câu), và  đọc nhãn dinh dưỡng (5 câu).   Nghiên cứu sử dụng phần mềm SPSS v16 để  nhập liệu và phân tích số liệu. Đối với thống kê  mô  tả,  dùng  bảng  phân  phối  tần  suất  đối  với  biến định tính và trung bình, độ lệch chuẩn với  biến  định  lượng.  Đối  với  thống  kê  phân  tích,  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  489 dùng  kiểm  định  t‐test/ANOVA  để  kiểm  định  mối  liên quan giữa các kiến  thức chế độ ăn và  đặc điểm bệnh nhân. P <0,05 được chọn làm mức  có ý nghĩa thống kê.  KẾT QUẢ  Đặc điểm của mẫu nghiên cứu  Bảng 1: Các đặc điểm của mẫu nghiên cứu (n=385)  Biến số n % Giới Nam 116 30,13 Nữ 269 69,87 Tuổi [TB ± ĐLC (khoảng)] tuổi 61,69 ± 9,94 (35-88) Tình trạng hôn nhân Lập gia đình 297 77,14 Độc thân 25 6,49 Góa bụa 57 14,81 Ly dị/ly thân 6 1,56 Dân tộc Kinh 277 71,95 Hoa 108 28,05 Nghề nghiệp Nhân viên văn phòng 16 4,16 Công nhân 38 9,87 Lao động phổ thông 30 7,79 Nội trợ 187 48,57 Thất nghiệp 54 14,03 Kinh doanh 46 11,95 Hưu trí 14 3,64 Trình độ học vấn Thất học 29 7,53 Tiểu học 140 36,36 Trung học cơ sở 114 29,61 Trung học phổ thông 84 21,82 Đại học 17 4,42 Sau đại học 1 0,26 Thu nhập gia đình <1 triệu đồng 89 23,12 1 -3 triệu đồng 259 67,27 >3 triệu đồng 37 9,61 Dự lớp tập huấn về chế độ ăn cho người ĐTĐ 38 9,97 Cơ quan y tế tổ chức lớp tập huấn (n=38) Bệnh viện quận 11 22 57,89 Trạm y tế 7 18,42 Khác 9 23,68 BMI 23,63 ± 3,39 (13,22- 39,96) Thời gian mắc ĐTĐ <1 năm 49 12,73 1-5 năm 246 63,90 >5 năm 90 23,38 Biến số n % Tiền sử gia đình mắc ĐTĐ Cha/mẹ 67 17,4 Ông bà 8 2,08 Anh/chị/em 76 19,74 Khác 74 19,22 Loại điều trị Insulin 10 2,60 Thuốc đường uống 344 89,35 Insulin & thuốc đường uống 31 8,05 Thời gian điều trị <1 năm 50 12,99 1-5 năm 249 64,68 >5 năm 86 22,34 Có  tổng  cộng  385  bệnh  nhân  tham  gia  nghiên  cứu.  Trong  số  này  269  (69.87%)  bệnh  nhân là nữ. Tuổi trung bình của các đối tượng là  61.69 ± 9.94. Có 77.14% bệnh nhân lập gia đình,  trong khi  tỷ  lệ góa bụa  chiếm  14,81%. Dân  tộc  Kinh chiếm tỷ lệ lớn nhất trong nghiên cứu này  (71,95%). Nội  trợ,  thất nghiệp và kinh doanh  là  ba  ngành  nghề  chiếm  tỷ  lệ  cao  nhất  (48,57%,  14,03%,  và  11,95%).  Đối  với  trình  độ  học  vấn  87,79%  bệnh  nhân  đã  tốt  nghiệp  tiểu  học  và  trung học. Hầu như tất cả bệnh nhân (90,39%) có  thu  nhập  gia  đình  <3  triệu  đồng,  trong  đó  có  67,27%  có  thu  nhập  từ  1‐3  triệu  đồng. Chỉ  có  38/385 bệnh nhân  (9,97%) đã  từng  tham dự các  lớp tập huấn/hội thảo liên quan đến kiến thức về  chế độ ăn dành cho bệnh nhân ĐTĐ. Cơ sở y tế  tổ chức các buổi tập huấn, hội thảo này là bệnh  viện  đa  khoa  quận  11  (57,89%)  và  trạm  y  (18,42%); các cơ quan khác bao gồm  trung  tâm  dinh dưỡng thành phố Hồ Chí Minh, bệnh Chợ  Rẫy, bệnh viện Hùng Vương.   Chỉ  số  BMI  trung  bình  của  bệnh  nhân  là  23,63 ± 3,39. Phân lớn bệnh nhân đã mắc ĐTĐ >  1 năm trong đó có 63,90% mắc ĐTĐ từ 1‐5 năm.  Cha mẹ (17,4%) và anh/chị/em (19,74%) là những  người thân bệnh nhân có tiền sử mắc ĐTĐ nhiều  nhất.  Thuốc  điều  trị  ĐTĐ  đường  uống  là  phương pháp  điều  trị  ĐTĐ phổ  biến nhất  của  các bệnh nhân (89,35%) và > 85% bệnh nhân đã  điều trị ĐTĐ > 1 năm.  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 490 Kiến thức về chế độ ăn của bệnh nhân đái  tháo đường   Bảng 2: Các kiến thức khía cạnh và kiến thức chung  về chế độ ăn của bệnh nhân (n=385)  Kiến thức TB ± ĐLC (KGT) Kiến thức về dưỡng chất chính và nhóm thực phẩm 8,44 ± 6,96 (0-31) Kiến thức về vai trò nhóm thực phẩm 6,21 ± 4,15 (0-15) Kiến thức về phương pháp lập chế độ ăn 11,94 ± 4,00 (0-19) Kiến thức về phương pháp nấu thức ăn 4,04 ± 1,95 (0-7) Kiến thức về đọc nhãn dinh dưỡng 0,31 ± 1,61 (0-10) Kiến thức chung về chế độ ăn 30,94 ± 13,82 (0-73) Kết  quả  cho  thấy  bệnh  nhân  có  điểm  kiến  thức về phương pháp nấu thức ăn tương đối cao  11,94 ± 4,00 (0‐19). Bệnh nhân chỉ có điểm thấp ở  các khía cạnh còn lại của kiến thức về chế độ ăn.  Kết  quả  là  kiến  thức  chung  về  chế  độ  ăn  của  bệnh nhân là 30,94 ± 13,82 (0‐73).  Mối liên quan giữa kiến thức chung về chế  độ ăn và các đặc điểm của bệnh nhân   Bảng 3: Mối liên quan giữa kiến thức chung về chế  độ ăn và đặc điểm dân số học của bệnh nhân (n=385)  Đặc điểm dân số học TB ± ĐLC p Giới Nam 33,41 ± 14,10 0,02 Nữ 29,88 ± 13,58 Tuổi 35-44 24,91 ± 13,71 0,01 45-54 33,46 ± 14,83 55-64 32,23 ± 12,73 ≥ 64 28,51 ± 13,89 Tình trạng hôn nhân Lập gia đình 30,80 ± 14,02 0,33 Độc thân 27,24 ± 14,99 Góa bụa 33,17 ± 12,39 Ly dị/ly thân 32,33 ± 10,13 Dân tộc Kinh 31,34 ± 13,88 0,37 Hoa 29,92 ± 13,66 Nghề nghiệp Nhân viên văn phòng 33,12 ± 13,52 0,23 Công nhân 28,05 ± 13,59 Lao động phổ thông 30,97 ± 13,98 Nội trợ 29,69 ± 13,70 Thất nghiệp 33,35 ± 14,18 Kinh doanh 33,61 ± 13,13 Hưu trí 34,93 ± 15,65 Đặc điểm dân số học TB ± ĐLC p Trình độ học vấn Thất học 26,41 ± 11,51 <0,001 Tiểu học 28,09 ± 13,52 Trung học cơ sở 31,32 ± 13,16 Trung học phổ thông 34,32 ± 14,31 Đại học 42,71 ± 12,59 Sau đại học 35,00 ± 0,00 Thu nhập gia đình <1 triệu đồng 25,08 ± 13,09 <0,0011-3 triệu đồng 32,34 ± 13,46 >3 triệu đồng 35,3 ± 14,16 Dự lớp tập huấn về chế độ ăn cho người ĐTĐ Có 34,71 ± 14,11 0,07 Không 30,53 ± 13,74 Kết quả cho thấy nam có kiến thức cao hơn  nữ (33,41 ± 14,10 so với 29,88 ± 13,58), và sự khác  biệt này có ý nghĩa thống kê (p=0,02). Bệnh nhân  có độ tuổi từ 45‐54 có kiến thức cao nhất (33,46 ±  14,83),  trong khi bệnh nhân có  tuổi  từ 35‐44 có  kiến thức thấp nhất (24,91 ± 13,71). Dữ liệu cũng  cho thấy bệnh nhân có trình độ học vấn cao cũng  sẽ có kiến thức cao hơn (p <0,001). Ngoài ra bệnh  nhân có thu nhập cao sẽ có điểm kiến thức cao  hơn  so  với  bệnh  nhân  có  thu  nhập  thấp  (p  <0,001).  Bảng 4: Mối liên quan giữa kiến thức chung về chế  độ ăn và tiền sử bệnh lý của bệnh nhân (n=385)  Đặc điểm TB ± ĐLC p Tình trạng dinh dưỡng Nhẹ cân 29,52 ± 12,88 0,06 Bình thường 30,00 ± 14,52 Tiền béo phì 32,50 ± 12,18 Béo phì 38,46 ± 11,72 Thời gian mắc ĐTĐ <1 năm 25,10 ± 14,21 0,003 1-5 năm 31,21 ± 13,61 >5 năm 33,39 ± 13,39 Tiền sử gia đình mắc ĐTĐ Cha/mẹ 30,68 ± 14,96 <0,001 Ông bà 22,37 ± 13,07 Anh/chị/em 36,05 ± 12,19 Khác 21,99 ± 11,99 Loại điều trị Insulin 39,2 ± 17,52 0,1 Thuốc đường uống 30,91 ± 13,51 Insulin & thuốc đường uống 28,613 ± 15,36 Thời gian điều trị <1 năm 26,16 ± 13,74 0,003 1-5 năm 30,72 ± 13,69 >5 năm 34,38 ± 13,46 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  491 Kết quả cũng cho thấy những bệnh nhân có  thời gian mắc ĐTĐ dài hơn sẽ có điểm kiến thức  cao hơn so với bệnh nhân có thời gian mắc ĐTĐ  ngắn hơn (p=0,003). Ngoài ra bệnh nhân có anh  chị  em mắc  ĐTĐ  có  điểm  kiến  thức  cao  nhất  trong  khi  bệnh  nhân  có  người  thân  khác mắc  ĐTĐ  có  kiến  thức  thấp  nhất  (p  <0,001).  Cuối  cùng bệnh nhân  có  thời gian  điều  trị dài  sẽ  có  điểm kiến thức cao hơn so với người có thời gian  điều trị ngắn (p=0,003).  BÀN LUẬN  Có  5  khía  cạnh  kiến  thức  được  khảo  sát  trong nghiên cứu này. Chúng bao gồm kiến thức  về dưỡng chất chính và nhóm thực phẩm, vai trò  của nhóm  thực phẩm đối với kiểm soát đường  huyết, kiến  thức về  lập chế độ ăn, kiến  thức về  phương pháp chế biến thực phẩm và kiến thức  về đọc nhãn dinh dưỡng. Mỗi loại kiến thức cấu  thành nên kiến thức chung về chế độ ăn và được  đánh giá qua các câu hỏi trong bảng câu hỏi cấu  trúc soạn sẵn.  Kiến  thức  về  dưỡng  chất  và  nhóm  thực  phẩm  bao  gồm  6  kiến  thức  thành  phần  về  carbonhydrate,  protein,  chất  béo  bão  hòa,  chất  béo  trans, chất béo không bão hòa đa, chất béo  không  bão  hòa  đơn.  Trong  số  các  dưỡng  chất  này,  thì  bệnh  nhân  có  kiến  thức  tương  đối  về  carbonhydrate và protein trong khi có kiến thức  thấp về 4  loại  chất béo. Kết quả  là  điểm  trung  bình  kiến  thức  về  dưỡng  chất  chính  và  nhóm  thực phẩm chỉ đạt 8,44 ± 6,96 (0‐31).  Để đánh giá kiến thức về vai trò nhóm thực  phẩm đối với kiểm soát đường huyết, chúng tôi  tập  trung khảo sát kiến  thức của bệnh nhân về  các loại thực phẩm làm tăng nhanh đường huyết  (thực phẩm có chỉ số đường huyết cao) và thực  phẩm  làm  tăng chậm đường huyết (thực phẩm  có chỉ số đường huyết  thấp). Nhìn chung bệnh  nhân có kiến thức cao hơn về các thực phẩm có  chỉ số đường huyết cao nhưng  lại có kiến  thức  thấp về thực phẩm có chỉ số đường huyết  thấp  bởi  vì một  số  thực  phẩm  trong  nhóm  đường  huyết thấp không được nhận biết bởi bệnh nhân.  Do đó, kiến thức chung của bệnh nhân về vai trò  nhóm thực phẩm chỉ đạt mức trung bình là 6,21  ± 4,15 (0‐15).  Kiến  thức về  lập  chế độ ăn bao gồm nhiều  thành  phần. Có  các  câu  hỏi dùng  để  kiểm  tra  kiến  thức  của  bệnh  nhân  về  khẩu  phần  các  dưỡng  chất  trong  bữa  ăn  hằng  ngày  (carbonhydrate,  chất  xơ,  trái  cây,  sản  phẩm  từ  sữa và protein). Ngoài ra số bữa ăn, ăn đúng giờ  và uống rượu bia cũng được đánh giá để kiểm  tra kiến  thức về  lập  chế  độ  ăn  của bệnh nhân.  Hai  thành phần khác  là  thực phẩm không nên  ăn và thực phẩm nên ăn cũng rất quan trọng đối  với bệnh nhân ĐTĐ  trong kiểm soát chế độ ăn  hàng ngày. Kết quả cho thấy rằng hầu hết bệnh  nhân  đều nhận biết khẩu phần  carbonhydrate,  chất  xơ  và  trái  cây,  trong  khi  sữa  và  protein  không  được  nhận  biết  nhiều. Các  thành  phần  kiến  thức  khác  cũng  có  điểm  kiến  thức  cao,  ngoại trừ kiến thức về số bữa ăn và uống rượu  bia. Kiến  thức về  lập  chế  độ  ăn vì vậy  chỉ  đạt  11,94 ± 4,00 (0‐19).  Kiến  thức  về  phương  pháp  chế  biến  thực  phẩm được đánh giá dựa trên các phương pháp  nấu  thức  ăn  và  cách  nấu mà  bệnh  nhân  nên  tránh khi chế biến thực phẩm. Nhìn chung trên  một nửa số bệnh nhân biết các kiến thức  thành  phần và điều này có thể giải thích là do đa số đối  tượng là phụ nữ. Kiến thức về phương pháp chế  biến  thực  phẩm  đạt  điểm  tương  đối  cao  với  điểm trung bình là 4,04 ± 1,95 (0‐7).  Có thể nói rằng đọc nhãn dinh dưỡng có tỷ  lệ bệnh nhân có kiến thức thấp nhất vì một thực  tế  là  sự hiểu biết  tiếng Anh  của bệnh nhân  có  giới hạn và bệnh nhân đa số chưa được đào tạo  về cách đọc nhãn thực phẩm. Thực vậy, có < 4%  bệnh nhân biết về  tất  cả  các  thành phần  trong  nhãn  thực  phẩm  (serving  size,  serving  per  container,  calories,  %  daily  value,  total  fat,  sodium, dietary fiber) và cách chọn lựa loại thức  ăn phù hợp  theo  calori,  chất  xơ và  đường  cho  chế độ ăn của mình. Kết quả là điểm trung bình  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 492 kiến  thức về đọc nhãn dinh dưỡng rất  thấp chỉ  có 0,31 ± 1,61 (0‐10).   Tổng điểm kiến thức chung về chế độ ăn sẽ  là  tổng  trung  bình  cộng  của  5  khía  cạnh  kiến  thức nêu trên. Trung bình điểm kiến thức chế độ  ăn của bệnh nhân là 30,94 ± 13,82 (0‐73). Điều đó  cho  thấy kiến  thức chung về chế độ ăn của các  bệnh nhân quá thấp và kết quả này phù hợp với  một số ít nghiên cứu về kiến thức chế độ ăn của  bệnh nhân ĐTĐ.   Trong nghiên cứu này chúng tôi cũng khảo  sát mối liên quan giữa kiến thức chế độ ăn và  đặc  điểm  của  bệnh  nhân.  Kết  quả  cho  thấy  nam  bệnh  nhân  có  kiến  thức  cao  hơn  so  với  bệnh  nhân  nữ.  Tuổi  là  một  yếu  tố  có  mối  tương  quan  thuận  với  kiến  thức  chế  độ  ăn  trong đó bệnh nhân càng lớn tuổi càng có kiến  thức hơn so với người nhỏ tuổi, ngoại trừ bệnh  nhân  có  độ  tuổi  >64. Hơn  nữa  bệnh  nhân  có  trình  độ  học  vấn  cao  cũng  có  kiến  thức  cao  hơn. Bệnh nhân có  điều kiện kinh  tế cao hơn  có nhiều khả năng có kiến thức tốt hơn so với  người  có  điều  kiện  kinh  tế  thấp.  Thời  gian  ĐTĐ  cũng  có  mối  tương  quan  có  ý  nghĩa  thống kê với kiến  thức về chế độ ăn  trong đó  bệnh nhân có thời gian mắc bệnh dài sẽ có kiến  thức cao hơn. Tương tự như vậy bệnh nhân có  tiền  sử  gia  đình  có  người mắc  bệnh  cũng  có  mối tương quan với kiến thức về chế độ ăn.  KẾT LUẬN‐KIẾN NGHỊ  Có tổng cộng 385 bệnh nhân ĐTĐ tham gia  nghiên  cứu và hầu hết bệnh nhân  là nữ. Phần  lớn bệnh nhân là người cao tuổi (tuổi trung bình  là 61,69 ± 9,94) và đã lập gia đình (77,14%). Các  dữ liệu dân số khác cho thấy bệnh nhân chủ yếu  có  trình  độ học  vấn  thấp  và  điều kiện kinh  tế  cũng  thấp. Một  điểu  lưu  ý  là  tỷ  lệ  bệnh  nhân  tham gia lớp tập huấn, đào tạo về kiến thức chế  độ ăn cho người ĐTĐ rất thấp.  Có thể kết luận rằng kiến thức về chế độ ăn  của bệnh nhân thấp. Ngoại trừ kiến thức về lập  chế độ ăn và phương pháp chế biến thực phẩm,  các  kiến  thức  khác  đều  có  tỷ  lệ  nhận  biết  rất  thấp. Phân tích mối liên quan giữa kiến thức chế  độ ăn và đặc điểm bệnh nhân cho  thấy một số  phân nhóm bệnh nhân  cần phải nhận  được  sự  quan tâm hơn bao gồm bệnh nhân nữ, người lớn  tuổi, bệnh nhân có  trình độ học vấn  thấp, điều  kiện kinh tế thấp, có tiền sử gia đình mắc ĐTĐ  và bệnh nhân có  thời gian điều  trị và  thời gian  mắc  ĐTĐ  ngắn. Từ  các phát  hiện  trên,  tác  giả  nghiên cứu khuyến cáo bệnh viện đa khoa quận  11  thành  lập  đơn  vị  tư  vấn,  đào  tạo  về  dinh  dưỡng và chế độ ăn cho bệnh nhân ĐTĐ.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Ali ZH (2011). Health and Knowledge Progress among Diabetic  Patients after Implementation of a Nursing Care Program Based  on Their Profile. Journal of Diabetes & Metabolism, 2(121), 245‐256.  2. Moodley LM, Rambiritch V. (2007). An assessment of the level  of knowledge about diabetes mellitus among diabetic patients  in a primary healthcare setting. South African Academy of Family  Practice, 49(10), 16b.  3. NDEP  (2006)  Helping  the  student  with  diabetes  succeed:  a  guide  for  school  personnel. Archives  of Pediatrics & Adolescent  Medicine, 160(1), 45  4. Wild  S,  Roglic  G,  Green  A,  Sicree  R,  King H  (2004)  Global  Prevalence  of  Diabetes.  Estimates  for  the  year  2000  and  projections for 2030. Diabetes Care, 27, 1047–1053.  Ngày nhận bài báo:       14/5/2014  Ngày phản biện nhận xét bài báo:   20/6/2014  Ngày bài báo được đăng:     14/11/2014 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkien_thuc_ve_che_do_an_cua_benh_nhan_dai_thao_duong_type_2_t.pdf
Tài liệu liên quan