Kiểu gen và kiểu hình của bệnh nhân X-Linked Adrenoleukodystrophy (X-ALD)
Trong 16 bệnh nhân nam của nghiên cứu có 3
bệnh nhân thể Addison đơn thuần (AO), 12 bệnh
nhân thể não (CALD) và 1 bệnh nhân thể thần
kinh tủy thượng thận (AMN). Tác giả Marc Engelen
(2012) đã đưa ra tần suất các thể bệnh như sau: CALD
trẻ nhỏ chiếm 31 - 35%, thể AMN không có biểu
hiện não chiếm 40 - 46%, tỷ lệ thể AO giảm dần
theo lứa tuổi [4]. 12 bệnh nhân thể não có độ tuổi
khởi phát dao động từ 4 - 9,5 tuổi. Bệnh nhân thể
AMN khởi phát triệu chứng khi 14 tuổi. 3 bệnh
nhân thể AO có độ tuổi khởi phát dao động từ 1,5
tuổi - 5 tuổi. Độ tuổi chẩn đoán của 16 bệnh nhân
trong nghiên cứu dao động từ 4 đến 22 tuổi.
Lí do vào viện thường gặp là sạm da, hay các
triệu chứng thần kinh như học tập giảm sút, nhìn
mờ, giảm trí nhớ Thời gian diễn biến trước vào
viện của các bệnh nhân trong nghiên cứu rất thay
đổi, tùy thuộc vào thể lâm sàng. 10/16 bệnh nhân
có biểu hiện sạm da trước khi đến viện, 7 bệnh
nhân trong số này xuất hiện thêm các triệu chứng
thần kinh trong vòng vài năm sau đó. Đặc điểm
lâm sàng rõ ràng nhất là các triệu chứng của thoái
triển thần kinh, mất dần các chức năng của vùng
não tổn thương tương ứng. Thường gặp nhất là
suy giảm nhận thức và dấu hiệu ngoại tháp. Một
số bệnh nhân đến viện khi có các triệu chứng
thần kinh nặng nề như yếu 2 chân, liệt hoàn toàn
hoặc thường xuyên có các cơn tăng trương lực
cơ. Những bệnh nhân này thường đã có thời gian
diễn biến ngắn, triệu chứng xuất hiện rầm rộ.
Các bệnh nhân có biểu hiện sạm da trên lâm
sàng đều có nồng độ ACTH trong máu tăng cao
và nồng độ cortisol trong máu giảm. Chúng tôi
đánh giá điểm Loes cho 10 bệnh nhân thể não,
mức điểm Loes dao động từ 4 đến 16 điểm. Phần
lớn các bệnh nhân đều có tổn thương chất trắng
vùng chẩm - thái dương và thể chai, một số ít
bệnh nhân còn có tổn thương chất trắng ở thùy
trán và bao trong.
Trong nhóm thể não, 5 bệnh nhân đã tử vong
trong thời gian theo dõi (2,1 ± 1,4 năm). Các
triệu chứng thần kinh chủ yếu là mất ngôn ngữ,
liệt cứng toàn thân và tăng trương lực cơ nhiều,
co giật, rối loạn cơ tròn Bệnh nhân thường tử
vong do bệnh não giai đoạn cuối (từ 8 – 16 tuổi).
Nhóm suy thượng thận đơn thuần được điều trị
bằng liệu pháp hormon thay thế. Không có bệnh
nhân nào xuất hiện các triệu chứng thần kinh
trong thời gian theo dõi.
Dựa trên kĩ thuật giải trình tự gen, chúng tôi
đã tìm thấy 13 đột biến ở các vị trí khác nhau trên
gen ABCD1. Trong đó có 11 đột biến đã được báo
cáo trong một số nghiên cứu trước, 12 đột biến
mới. Trong 13 đột biến được tìm thấy, bao gồm
các dạng: đột biến điểm, mất đoạn lớn, mất đoạn
nhỏ. Mặc dù mang cùng một đột biến, nhưng 2
anh em trong cùng một gia đình lại có biểu hiện
lâm sàng rất khác nhau. Điều này cho thấy tính đa
dạng của kiểu gen cũng như kiểu hình của nhóm
bệnh này.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 22 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiểu gen và kiểu hình của bệnh nhân X-Linked Adrenoleukodystrophy (X-ALD), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
75
phần nghiên cứu
KIỂU GEN VÀ KIỂU HÌNH CỦA BỆNH NHÂN
X-LINKED ADRENOLEUKODYSTROPHY (X-ALD)
Nguyễn Thu Hà1, Nguyễn Ngọc Khánh1, Vũ Chí Dũng1, Bùi Phương Thảo1, Cấn Thị Bích Ngọc1,
Nobuyuki Shimozawa2, Hoàng Anh Vũ3, Nguyễn Thị Hoàn1, Nguyễn Phú Đạt1.
1. Khoa Nội tiết - Chuyển hóa - Di truyền. Bệnh viện Nhi Trung ương
2. Division of Genomics Research, Life Science Research Center, Gifu University
Department of Pediatrics, Gifu University School of Medicine, Gifu. Nhật Bản
3. Trung tâm Y sinh học phân tử, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: X-linked adrenoleukodystrophy (X-ALD) là bệnh lý di truyền do đột biến trên gen
ABCD1 [1]. Rối loạn trên chủ yếu ảnh hưởng đến vỏ thượng thận và hệ thần kinh. Tỷ lệ mắc bệnh
khoảng 1:42.000 ở nam giới và tỷ lệ của người nữ mang gen bệnh là 1:14.000. Mục tiêu: Mô tả
đặc điểm kiểu gen và kiểu hình của bệnh nhân X-ALD. Đối tượng và phương pháp: Gồm 16 bệnh
nhân đến từ 14 gia đình được chẩn đoán là bệnh X-ALD. Nghiên cứu ca bệnh mô tả. Kết quả: Tuổi
khởi phát bệnh dao động từ 1,5 tuổi đến 14 tuổi. Triệu chứng thường gặp: suy giảm nhận thức, dấu
hiệu ngoại tháp và sạm da. Nồng độ ACTH tăng cao và nồng độ cortisol máu thường giảm. Tổn
thương chất trắng tiến triển trên MRI não. 13 đột biến khác nhau trên gen ABCD1 đã được tìm
thấy. Nhóm thể não có tiên lượng nặng, tỷ lệ tử vong cao. Kết luận: Đột biến gen ABCD1 đã được
tìm thấy ở bệnh nhân X-ALD Việt Nam, song vẫn chưa giải thích được mối liên quan giữa kiểu
gen và kiểu hình.
ABSTRACT
GENOTYPE AND PHENOTYPE IN PATIENT WITH X-LINKED ADRENOLEUKODYSTROPHY
The X linked adrenoleukodystrophy (X-ALD) is a peroxisomal disease caused by defects of the
ABCD1 gene on chromosome Xq28. This disease is characterized by progressive neurologic dysfunction,
and occasionally associated with adrenal insufficiency. The estimated frequency is about 1:42000 in
male, whereas the estimated frequency for heterozygous women is 1:14000. Objective: To describe
phenotype and genotype in affected male patients in Vietnamese patients with X-ALD. Method: This
is case series study. Clinical features, biochemical finding and cerebral MRI lesions of 16 cases from 14
unrelated families were studied. Results: Age of onset was between 1.5 and 14 years. Most of patients had
symptoms including cognitive impairment, extrapyramidal signs, hyperpigmentation. Low serum
cortisol levels, and increased plasma ACTH. Neuroimaging studies (cerebral MRI) showed classical
patterns in all patients with neurological symptoms. CALD has worse prognosis, high mortality rates.
Conclusions: For the first time, mutations in ABCD1 are indentified, but we didn’t clarify the
genotype-phenotype correlations.
tạp chí nhi khoa 2017, 10, 1
76
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
X-linked adrenoleukodystrophy (X-ALD) là
bệnh lý di truyền do đột biến trên gen ABCD1
(ATP-binding cassette, dưới nhóm D ALD, member
1), dẫn tới bất thường quá trình β-oxy hóa trong
peroxisome và gây tích lũy acid béo chuỗi rất dài
(VLCFA) ở tất cả các mô [1]. Rối loạn trên chủ yếu
ảnh hưởng đến vỏ thượng thận và hệ thần kinh.
Tỷ lệ mắc bệnh khoảng 1:42.000 ở nam giới và tỷ
lệ của người nữ mang gen bệnh là 1:14.000 [2].
Gen ABCD1 nằm trên nhiễm sắc thể X, tại vị trí
Xq28, được tìm ra lần đầu tiên năm 1981 [11].
Bệnh X-ALD có thể chia thành 4 thể chính.
Thể não thường khởi phát từ 3-10 tuổi. Các triệu
chứng chủ yếu là rối loạn hành vi, suy giảm nhận
thức hay co giật, liệt cứng... Thể AMN thường khới
phát muộn (28 ± 9 tuổi), tiến triển chậm qua nhiều
thập kỷ. Bệnh liên quan tới tổn thương dây thần
kinh tuỷ là chính, các sợi trục thần kinh ngoại vi.
Một số bệnh nhân bị suy thượng thận mà không
có tổn thương não, đây gọi là thể Addison đơn
thuần của bệnh X-ALD. Qua sàng lọc các nam giới
của các gia đình có bệnh nhân X-ALD, thấy có bất
thường sinh hoá và gen nhưng không có biểu
hiện tổn thương thượng thận và thần kinh. Tổn
thương trên MRI não thường bắt đầu ở vùng đầu
thể trai và lan tới chất trắng của hồi chẩm. [29].
Chẩn đoán xác định bệnh X-ALD dựa vào xét
nghiệm VLCFA trong máu, cho thấy nồng độ cao
bất thường của C26:0 và tỷ lệ cao bất thường của
C24:0 và C26:0 so với C22:0 và phân tích đột biến
trên gen ABCD1.
Theo dõi các trẻ trai và nam giới trưởng thành
mắc X-ALD nhằm: (1) phát hiện sớm suy vỏ thượng
thận và (2) phát hiện sớm thể não, từ đó có cơ sở
để đề xuất ghép tế bào gốc tạo máu đồng loại.
Mặc dù nguy cơ tử vong lớn, song đây vẫn là can
thiệp điều trị duy nhất có thể ngăn chặn sự tiến
triển hủy myelin trong não của bệnh nhân X-ALD,
nhưng cần thực hiện từ rất sớm, từ khi chưa có
triệu chứng hoặc các triệu chứng huỷ myelin rất ít
(IQ > 80 và Loes < 9) [5], [6], [7].
Tại Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu về
bệnh X-ALD, chính vì vậy chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài với các mục tiêu sau:
Mô tả đặc điểm kiểu gen và kiểu hình của
bệnh X-ALD tại Bệnh viện Nhi Trung ương.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu bao gồm 16 bệnh
nhân đến từ 14 gia đình được chẩn đoán là bệnh
X-ALD, được theo dõi và điều trị tại khoa Nội tiết -
Chuyển hoá - Di truyền Bệnh viện nhi Trung ương
trong thời gian từ 01/01/2011 – 15/11/2015.
2.2. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô
tả. Chiết tách DNA từ bạch cầu máu ngoại vi được
thực hiện tại Bệnh viện Nhi Trung ương. Định
lượng nồng độ VLCFA và phân tích đột biến gen
ABCD1 được thực hiện tại đại học Gifu - Nhật Bản
và Trung tâm Y sinh học di truyền, Đại học Y Dược
Thành phố Hồ Chí Minh.
2.3. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
* Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân nam giới có biểu hiện thuộc cả 2
tiêu chuẩn sau [4]:
- Tiêu chuẩn 1:
+ Có biểu hiện của suy thượng thận: sạm da,
mệt mỏi và /hoặc
+ Có biểu hiện triệu chứng thoái triển thần
kinh trung ương theo thời gian:
Tổn thương não (sa sút trí tuệ, giảm thị lực,
thính lực) kết hợp với tổn thương chất trắng
tiến triển trên MRI não và/hoặc
Tổn thương thần kinh tủy: liệt, rối loạn cơ
tròn, rối loạn cảm giác.
- Tiêu chuẩn 2:
Nồng độ các acid béo chuỗi rất dài như C26:0,
C24:0, C22:0 trong máu tăng cao và / hoặc xác
định đột biến trên gen ABCD1.
* Phương pháp chọn mẫu
Chọn mẫu: Sử dụng cỡ mẫu thuận tiện, bao
gồm các bệnh nhân đủ tiêu chuẩn chẩn đoán
trong thời gian nghiên cứu (2011-2015).
77
phần nghiên cứu
3. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm kiểu hình
Bảng 1. Phân bố bệnh nhân theo lứa tuổi khởi phát của các thể lâm sàng
Thể bệnh n Tuổi khởi phát Tuổi chẩn đoán
Thể não
Dưới 8 tuổi 7
4 - 9,5 6 - 13
Từ 8 tuổi trở lên 5
Thể thần kinh tủy thượng thận 1 14 22
Thể Addison 3 1,5 - 5 4 - 10,5
Bảng 2. Chức năng tuyến thượng thận ở bệnh nhân có biểu hiện sạm da
Thể não
n (tối thiểu - tối đa)
Thể Addison
n (tối thiểu - tối đa)
Nồng độ
cortisol
Giảm 3(7 - 41,5 nmol/l)
3
(0,2 - 50 nmol/l)
Bình thường 3(261 - 957 nmol/l) 0
Nồng độ ACTH
Tăng 6(17,2 - 416,7 pmol/l)
3
(59,7 - 440 pmol/l)
Bình thường 0 0
Biểu đồ 1. Diễn biến các dấu hiệu lâm sàng theo thời gian của các bệnh nhân
tạp chí nhi khoa 2017, 10, 1
78
3.2. Đặc điểm kiểu gen
Bảng 3. Kết quả sinh học phân tử của các bệnh nhân trong nghiên cứu
Vị trí đột biến Thay đổi nucleotid Thay đổi protein Loại đột biến
Exon 1 c.46-53del insG - Mất đoạn lớn
Exon 1 c.854G>C p.R285P Đột biến điểm
Exon 1 c.292_296delTCGGC p.S98Rfs*95 Mất đoạn lớn
Exon 3 c.1202G>T p.R401L Đột biến điểm
Exon 3 c.1208 T>A p.M403K Đột biến điểm
Exon 5 c.1415_1416delAG p.Q472Rfs*83 Mất đoạn nhỏ
Exon 6 c.1552 C>T p.R518W Đột biến điểm
Exon 6 c.1628C>T p.P543L Đột biến điểm
Exon 6 c.1553 G>A p.R518Q Đột biến điểm
Exon 7 c.1668G>C p.Q556H Đột biến điểm
Exon 8 c.1825G>A p.E609K Đột biến điểm
Intron
Mất đoạn kéo dài giữa IVS1+505 và IVS2+1501, chứa toàn bộ
exon 2 (4243bp), cộng thêm 79bp từ BAP31 và 8bp không rõ
nguồn gốc
Mất đoạn lớn
IVS8+28-551bp del Mất đoạn lớn
4. BÀN LUẬN
Trong 16 bệnh nhân nam của nghiên cứu có 3
bệnh nhân thể Addison đơn thuần (AO), 12 bệnh
nhân thể não (CALD) và 1 bệnh nhân thể thần
kinh tủy thượng thận (AMN). Tác giả Marc Engelen
(2012) đã đưa ra tần suất các thể bệnh như sau: CALD
trẻ nhỏ chiếm 31 - 35%, thể AMN không có biểu
hiện não chiếm 40 - 46%, tỷ lệ thể AO giảm dần
theo lứa tuổi [4]. 12 bệnh nhân thể não có độ tuổi
khởi phát dao động từ 4 - 9,5 tuổi. Bệnh nhân thể
AMN khởi phát triệu chứng khi 14 tuổi. 3 bệnh
nhân thể AO có độ tuổi khởi phát dao động từ 1,5
tuổi - 5 tuổi. Độ tuổi chẩn đoán của 16 bệnh nhân
trong nghiên cứu dao động từ 4 đến 22 tuổi.
Lí do vào viện thường gặp là sạm da, hay các
triệu chứng thần kinh như học tập giảm sút, nhìn
mờ, giảm trí nhớ Thời gian diễn biến trước vào
viện của các bệnh nhân trong nghiên cứu rất thay
đổi, tùy thuộc vào thể lâm sàng. 10/16 bệnh nhân
có biểu hiện sạm da trước khi đến viện, 7 bệnh
nhân trong số này xuất hiện thêm các triệu chứng
thần kinh trong vòng vài năm sau đó. Đặc điểm
lâm sàng rõ ràng nhất là các triệu chứng của thoái
triển thần kinh, mất dần các chức năng của vùng
não tổn thương tương ứng. Thường gặp nhất là
suy giảm nhận thức và dấu hiệu ngoại tháp. Một
số bệnh nhân đến viện khi có các triệu chứng
thần kinh nặng nề như yếu 2 chân, liệt hoàn toàn
hoặc thường xuyên có các cơn tăng trương lực
cơ. Những bệnh nhân này thường đã có thời gian
diễn biến ngắn, triệu chứng xuất hiện rầm rộ.
Các bệnh nhân có biểu hiện sạm da trên lâm
sàng đều có nồng độ ACTH trong máu tăng cao
và nồng độ cortisol trong máu giảm. Chúng tôi
đánh giá điểm Loes cho 10 bệnh nhân thể não,
mức điểm Loes dao động từ 4 đến 16 điểm. Phần
lớn các bệnh nhân đều có tổn thương chất trắng
79
phần nghiên cứu
vùng chẩm - thái dương và thể chai, một số ít
bệnh nhân còn có tổn thương chất trắng ở thùy
trán và bao trong.
Trong nhóm thể não, 5 bệnh nhân đã tử vong
trong thời gian theo dõi (2,1 ± 1,4 năm). Các
triệu chứng thần kinh chủ yếu là mất ngôn ngữ,
liệt cứng toàn thân và tăng trương lực cơ nhiều,
co giật, rối loạn cơ tròn Bệnh nhân thường tử
vong do bệnh não giai đoạn cuối (từ 8 – 16 tuổi).
Nhóm suy thượng thận đơn thuần được điều trị
bằng liệu pháp hormon thay thế. Không có bệnh
nhân nào xuất hiện các triệu chứng thần kinh
trong thời gian theo dõi.
Dựa trên kĩ thuật giải trình tự gen, chúng tôi
đã tìm thấy 13 đột biến ở các vị trí khác nhau trên
gen ABCD1. Trong đó có 11 đột biến đã được báo
cáo trong một số nghiên cứu trước, 12 đột biến
mới. Trong 13 đột biến được tìm thấy, bao gồm
các dạng: đột biến điểm, mất đoạn lớn, mất đoạn
nhỏ. Mặc dù mang cùng một đột biến, nhưng 2
anh em trong cùng một gia đình lại có biểu hiện
lâm sàng rất khác nhau. Điều này cho thấy tính đa
dạng của kiểu gen cũng như kiểu hình của nhóm
bệnh này.
5. KẾT LUẬN
Đột biến gen ABCD1 lần đầu tiên được tìm
thấy trên các bệnh nhân X-ALD Việt Nam. Mặc
dù đã tìm thấy đột biến gen gây bệnh nhưng
chưa tìm thấy mối liên quan nào giữa kiểu gen
và kiểu hình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Korenke G.C. (1997). Variability of
endocrinological dysfunction in 55 patients with
X-linked adrenoleucodystrophy: clinical, laboratory
and genetic findings. Eur J Endocrinol, 137(1): p.
40-7.
2. Moser H.W., A. Mahmood, G.V. Raymond
(2007). X-linked adrenoleukodystrophy. Nat Clin
Pract Neurol, 3(3): p. 140-51.
3. Suzuki Y. (2005). Natural history of X-linked
adrenoleukodystrophy in Japan. Brain Dev,27(5):
p. 353-7.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
kieu_gen_va_kieu_hinh_cua_benh_nhan_x_linked_adrenoleukodyst.pdf