Tất cả bệnh nhân trong nhóm của chúng tôi
được tiến hành nạo hạch trước khi lấy bỏ bàng
quang nhằm mục đích chờ kết quả sinh thiết
lạnh của các nhóm hạch đồng thời rút ngắn
được thời gian phẫu thuật và nguy cơ chảy máu
trong khi cắt bàng quang do chủ động bộc lộ và
cắt các nhánh động mạch cung cấp máu cho
bàng quang khi nạo vét nhóm hạch chậu trong.
Phẫu tích và bộc lộ niệu quản trong khi lấy bỏ
nhóm hạch chậu chung, giải phóng và di động
hai bên bàng quang trong khi nạo nhóm hạch bịt
và hố Marcille do vậy thời gian nạo vét hạch
rộng tăng lên so với tiêu chuẩn nhưng chúng tôi
rút ngắn được thì cắt bàng quang nên tổng thời
gian phẫu thuật không tăng lên nhiều. Tỷ lệ
hạch dương tính là 8,3% (2/24), thấp hơn so với
kết quả chung của các tác giả trong nước và thế
giới 20 -25% ,kết quả này có thể do loạt bệnh này
của chúng tôi nhập viện trong giai đoạn sớm chủ
yếu là pT2. Như vậy nếu chỉ vét nhóm hạch bịt
(vét hạch giới hạn), hoặc mở rộng lên nạo hạch
chuẩn chúng tôi sẽ bỏ qua một trường hợp di
căn hạch chậu chung. Chúng tôi có 1 trường hợp
(4,2%) phát hiện nang bạch huyết kích thước nhỏ
vùng chậu trái trên CT scan trong lần tái khám
đầu tiên, được theo dõi và điều trị nội khoa.
Heidenreich và cộng sự thống kê có khoảng 7%
biến chứng liên quan đến vét hạch chậu rộng
trong ung thư bàng quang trong đó u nang bạch
huyết là hay gặp nhất (2 -4%), còn lại là thuyên
tắc mạch sâu, tắc mạch phổi, phù bạch huyết
cũng được ghi nhận, và năm cách xử trí để hạn
chế các tai biến này cũng được ông đưa ra (1).
Bảo lưu hệ thống bạch huyết phía ngoài động
mạch chậu ngoài,(2) Kẹp clip hoặc cột đầu xa
của đường bạch huyết sau khi cắt bỏ (3). Dẫn
lưu được đặt cả 2 bên vùng chậu (4). Chỉ rút dẫn
lưu vùng chậu khi lượng dịch < 50ml dịch
(5).Tiêm Heparin trọng lượng phân tử thấp ở
cánh tay(8). Brossner và cộng sự so sánh hai
nhóm bệnh nhân nạo hạch chậu rộng và nạo
hạch chuẩn cho thấy thời gian phẫu thuật tăng
lên khi nạo hạch chậu rộng nhưng lại không có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các biến
chứng ở hai nhóm(3). Trong nhóm nghiên cứu
của chúng tôi chưa ghi nhận có những biến
chứng này có thể do số lượng bệnh nhân trong
nhóm còn ít và u chủ yếu ở giai đoạn T2 các
hạch nhỏ xâm lấn chưa xâm lấn vào mạch máu
và các tổ chức lân cận.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 49 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh nghiệm ban đầu trong nạo vét hạch rộng rãi ở các bệnh nhân cắt bàng quang tận căn điều trị ung thư bàng quang xâm lấm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học
199
KINH NGHIỆM BAN ĐẦU TRONG NẠO VÉT HẠCH RỘNG RÃI
Ở CÁC BỆNH NHÂN CẮT BÀNG QUANG TẬN CĂN
ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BÀNG QUANG XÂM LẤM
Lê Lương Vinh*, Hoàng Văn Tùng**, Trần Ngọc Khánh*, Ngô Thanh Liêm*, Trần Văn Thành***,
Lê Đình Khánh**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nạo hạch chậu tiêu chuẩn từ lâu đã được xem là một phần của phẫu thuật cắt bàng quang tận
căn điều trị ung thư bàng quang xâm lấn. Những nghiên cứu gần đây cho thấy nạo hạch chậu bẹn rộng rãi giúp
tăng tỉ lệ sống còn cho các bệnh nhân ung thư bàng quang.
Mục Tiêu: Trình bày những kinh nghiệm bước đầu trong phẫu thuật nạo vét hạch chậu rộng rãi.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu 24 bệnh nhân được nạo vét hạch chậu rộng
rãi trong khi cắt bàng quang tận căn từ tháng 01/2013 đến 05/2015 tại Bệnh viện trung ương Huế.
Kết quả: Nạo hạch chậu rộng thành công 24/24 bệnh nhân. Tuổi trung bình: 58,77 ± 11,5 (48 - 77). Tỷ lệ
nữ /nam: 3/21. Tỷ lệ di căn hạch 2/24 bệnh nhân trong đó 1 di căn hạch bịt và 1 di căn hạch chậu chung bên trái.
Thời gian nạo hạch: 82 ± 40ph (70 - 90). Lượng máu mất trong mổ: 80ml ± 65 (50 -150).
Kết luận: Nạo hạch chậu rộng nên được thực hiện trên tất cả các bệnh nhân cắt bàng quang tận căn và có
thể thực hiện thành công tại các trung tâm ngoại khoa lớn với các phẫu thuật viên có kinh nghiệm.
Từ khoá: Nạo hạch chậu rộng; Ung thư bàng quang xâm lấn; Cắt bàng quang tận căn.
ABTRACT
INITIAL EXPERIENCES OF EXTENDED PELVIS LYMPHADENECTOMY IN RADICAL
CYSTECTOMY PATIENTS FOR TREATMENT INVASIVE BLADDER CANCER
Le Luong Vinh , Hoang Van Tung, Tran Ngoc Khanh,Ngo Thanh Liem, Tran Van Thanh,
Le Dinh Khanh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - No 4 - 2015: 199 - 204
Background: For long time the standard lymphadenectomy is the part of radical cystectomy surgery for
treatment invasive bladder cancer. Some new research shows the good result of extended pelvic lymphadenectomy
in improving postoperative survival.
Purpose: Report initial experiences of extended pelvic lymphadenectomy in radical cystectomy for invasive
bladder cancer.
Material and method: Prospective descriptive study on 24 extended pelvic lymphadenectomy patients from
January 2013 to may 2015 at Hue Centre Hospital.
Results: Mean of age: 58,77 ± 11,5 (48 - 77) years old. Female /man: 3/21. Lymph nodes metastasis 2/24
patients, 1 obturator lymph node positive and 1 common iliac vessels lymph node positive. Mean time of pelvic
lymphadenectomy: 82 ± 40ph (70 - 90). Mean of blood loss during extended pelvic lymphadenectomy : 80ml ± 65
(50 -150).
Conclusion: Extended pelvic lymphadenectomy should be performing for all patients radical cystectomy to
improve postoperative survival and It is safe when perform at a good surgery center with experienced surgeon.
* Bệnh viện Trung ương Huế. ** Trường Đại học Y Dược Huế – Đại học Huế.
*** Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Nam.
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Lê Đình Khánh ĐT: 0913453945 Email: ledinhkhanh@hotmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
200
Key words: Extended pelvic lymphadenectomy; Invasive bladder cancer; Radical cystectomy
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư bàng quang là một bệnh lý ác tính
đứng hàng đầu của hệ tiết niệu và đứng vị trí
thứ 4 trong các ung thư nam giới. Bệnh ít gặp
hơn ở nữ giới tỉ lệ mắc phải ¼ so với nam giới.
90% ung thư bàng quang là ung thư tế bào
chuyển tiếp khoảng 70% là ung thư bàng quang
nông còn lại 30% đã xâm lấn cơ. Trong những
nghiên cứu gần đây cho thấy yếu tố phẫu thuật
kết hợp nạo vét hạch và hóa trị bổ trợ có vai trò
quan trọng lên kết quả điều trị và tỉ lệ sống còn.
Có khoảng 25% di căn hạch tại thời điểm cắt
bàng quang, phẫu nghiệm tử thi cho thấy tỷ lệ di
căn hạch thực sự cao hơn khoảng 30 - 40%, như
vậy di căn hạch là dấu hiệu xấu của nguy cơ
bệnh tiến triển , tái phát và phẫu thuật nạo vét
hạch đóng vai trò quan trọng(7,3,5). Những thay
đổi trong phân độ AJCC – TMN 2010 của ung
thư bàng quang cho thấy tầm quan trọng của
việc mở rộng vị trí nạo vét hạch, những bệnh
nhân có một hạch vùng dương tính được xếp
pN1, nhiều hạch vùng dương tính được xếp
pN2 và khi di căn đến hạch chậu chung được
xếp pN3 vậy nạo vét hạch rộng giúp phân độ
chính xác giai đoạn di căn hạch để có tiên lượng
và điều trị bổ trợ sau phẫu thuật cho bệnh
nhân(8,10). Đối với các trường hợp hạch âm tính
thì số lượng hạch lấy được và sự mở rộng của
vùng nạo vét hạch theo nhiều tác giả là thước đo
quan trọng đánh giá kết quả phẫu thuật và có
giá trị tiên lượng(14,15,17).
Cắt bàng quang tận căn và nạo vét hạch tiêu
chuẩn đã được thực hiện như một phẫu thuật
chuẩn tại BVTW Huế từ 2003, trong khi nạo vét
hạch chậu rộng chỉ mới được thực hiện gần đây
do yêu cầu kỹ thuật phức tạp và thời gian mổ
kéo dài. Những nghiên cứu quốc tế gần đây cho
thấy nhiều ưu điểm của nạo hạch rộng, các
nghiên cứu trong nước còn ít nên chúng tôi thực
hiện nghiên cứu này nhằm trình bày những kinh
nghiệm ban đầu về nạo vét hạch chậu rộng rãi ở
các bệnh nhân cắt bàng quang tận căn điều trị
ung thư bàng quang xâm lấn.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán ung
thư bàng quang xâm lấn (T2a – T4a), có chỉ định
cắt bàng quang tận căn và nạo hạch chậu rộng
rãi từ tháng 01/2013 đến 05/2015 tại Bệnh viện
trung ương Huế.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu và mô tả cắt ngang.
Kỹ thuật phẫu thuật
Giới hạn của nạo vét hạch chậu rộng rãi
được quy định như sau: Giới hạn trên tối thiểu
là vị trí phân chia của động mạch chủ bụng.
Ranh giới ngoài là thần kinh sinh dục đùi. Giới
hạn dưới là hạch bẹn sâu cao nhất (Cloquet).
Thành bên là bó mạch hạ vị, nền hố bịt. Phía
trong là bàng quang, các hạch cạnh tạng được
lấy nguyên khối cùng với bàng quang và tổ
chức liên kết cạnh bàng quang kèm phúc mạc
tạng phủ bàng quang. Các hạch được phân
làm chín nhóm và ba tầng theo vị trí giải phẫu
như hình 1(1).
Cụ thể nạo vét hạch cho từng vùng như sau:
Hạch cạnh động mạch chủ bụng và hạch
cạnh TM chủ dưới được lấy từ vị trí chia đôi của
ĐM chủ bụng lên trên 1 -2 cm kèm tổ chức mỡ
và bao xơ của bó mạch, tối thiểu phải lấy đến vị
trí phân đôi. Các nhóm hạch khác thống nhất với
phân nhóm của tác giả Nguyễn Văn Ân, riêng
nhóm hạch bịt và chậu trong được đưa vào cùng
một nhóm(13,6,18).
Hạch chậu chung: Nơi chia của động mạch
chủ bụng – nguyên uỷ của động mạch chậu
trong và động mạch chậu ngoài – dây thần kinh
sinh dục đùi.
Hạch chậu ngoài: Giới hạn bởi nơi chia của
động mạch chậu chung, sàn chậu, thần kinh sinh
dục đùi và động mạch chậu ngoài.
Hạch chậu trong – hạch bịt : Giới hạn bởi
động mạch chậu ngoài dây thần kinh bịt – sàn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học
201
chậu – thành chậu bên – bàng quang – bó mạch
chậu trong.
Hạch trước xương cùng: Các hạch nằm trước
ụ nhô xương cùng giới hạn bởi nơi chia của
động mạch chủ - động mạch chậu chung.
Chúng tôi nạo vét toàn bộ hạch, tổ chức mỡ
và bao xơ của bó mạch gởi giải phẫu bệnh
nguyên khối theo nhóm như trên, so sánh thời
gian nạo vét hạch rộng so với nạo hạch tiêu
chuẩn, đánh giá và theo dõi những biến chứng
trong và sau mổ liên quan đến nạo hạch rộng,
đánh giá kết quả di căn hạch sau nạo hạch chậu
rộng.
Hình 1. Vùng nạo hạch. Nhóm 1 hạch cạnh TMC dưới, 2
hạch cạnh ĐMC bụng. Nhóm 3,4: Hạch chậu chung P,T.
Nhóm 5: Hạch trước xương cùng. Nhóm hạch chậu ngoài
T và P. Nhóm 8,9: Nhóm hạch chậu trong/ bịt T và P
Hình 2. Nạo hạch vung 6,8
Hình 3. Nạo hạch vùng 3,4 Hình 4. Nạo hạch vùng 3,4
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
202
Hình 5. Hạch vùng 1,2
Hình 6. Hạch vùng 1,2
KẾT QUẢ
Đặc điểm chung
Tuổi trung bình: 58,77 ± 11,5 (48 - 77).
Tỷ lệ nữ /nam: 3/21.
Thời gian nạo hạch: 82 ± 40ph (70 - 90).
Số hạch trung bình lấy được: 9 ± 4 (7 - 13).
Thời gian phẫu thuật: 275,5 ± 35,5 ph (235-
290).
Lượng máu mất trong mổ: 80ml ± 65 (50 -
150).
Trong loạt bệnh nghiên cứu của chúng tôi có
hai bệnh nhân phải truyền máu trong mổ (250ml
hồng cầu khối) do mất máu trong quá trình
phẫu thuật cắt bàng quang do u quá lớn, tăng
sinh mạch máu nhiều, không phải mất máu
trong quá trình nạo hạch rộng.
Kết quả giải phẫu bệnh sau mổ
Toàn bộ 24 bệnh nhân được nạo vét hạch
rộng rãi thành công trong quá trình cắt bàng
quang tận căn và nạo vét đủ chín nhóm theo
phân nhóm và ba tầng của Dorin.
Bảng 1. Giai đoạn u theo TNM (UICC – EAU 2010)
TMN N = 24
T2aNoMo 8
T2bNoMo 9
T2bN1Mo 1
T2bN3Mo 1
T3aNoMo 2
T3bNoMo 1
T4aNoMo 2
Bảng 2. Một số đặc điểm của u trong loạt nghiên
cứu.
Đặc điểm u n=24
Loại mô bệnh học UT tế bào chuyển 23
UT tế bào vảy 1
Độ biệt hoá tế bào Grade 1 5
Grade 2 19
Di căn hạch Bịt T (+3/5) 1
Chậu chung T(+1/2) 1
Số lượng U Một u 13
Nhiều u 11
Kích thước U < 3 15
≥ 3 9
Tình trạng U Mới xuất hiện 9
Tái phát 15
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học
203
Kết quả mô bệnh học chủ yếu là u tế bào
chuyển tiếp, chỉ có 1/24 là ung thư tế bào vảy. Di
căn hạch bịt 1 trường hợp (+ 3/5 hạch)và di căn
hạch chậu chung 1 (+1/2).
BÀN LUẬN
Phát hiện di căn hạch trong phẫu thuật cắt
bàng quang tận căn và nạo vét hạch chậu điều trị
ung thư bàng quang xâm lấn là một dấu hiệu
tiên lượng xấu, phẫu thuật nạo hạch giúp loại bỏ
những hạch có di căn vi thể. Việc nạo vét hạch
tiêu chuẩn được nhiều tác giả thống nhất là lấy
hạch đến vị trí đầu xa của động mạch chậu
chung hai bên hay là vị trí niệu quản bắt chéo bó
mạch chậu, bao gồm cả hạch ở hố Marcille(6,14).
Sự mở rộng của vùng nạo vét hạch lên đến bó
mạch chậu chung, vùng trước xương cùng và vị
trí phân đôi của động mạch chủ cùng với việc
lấy đi càng nhiều hạch đóng vai trò quan trọng
trong kết quả phẫu thuật nạo vét hạch điều trị
ung thư bàng quang xâm lấn, tuy nhiên mở rộng
đến đâu thì vẫn còn nhiều tranh cãi. Leadbetter
và Cooper ban đầu cho rằng không cần thiết
phải nạo vét hạch chậu rộng đến ngang mức
động mạch chủ bụng và coi nó không phải là
một phần của phẫu thuật cắt bàng quang, nhiều
tác giả khác e ngại sự mở rộng lên đến vị trí
động mạch mạc treo tràng dưới làm tăng đáng
kể thời gian phẫu thuật và các tai biến như chảy
máu, tổn thương hệ thần kinh thực vật, u nang
bạch huyết..v.v(1,4,8,19). Nhưng thực tế nhiều
nghiên cứu cho thấy rằng nạo vét hạch rộng đến
ngang mức động mạch mạc treo tràng dưới có
thể thực hiện an toàn, hơn nữa có bằng chứng
bệnh lý cho thấy rằng vùng bạch huyết trải rộng
từ vị trí phân chia của động mạch chủ đến động
mạch mạc treo tràng dưới là vị trí di căn thông
thường và nó được loại bỏ một cách hiệu quả
bằng phẫu thuật. Tầm quan trọng của nạo hạch
mở rộng cũng được chứng thực trong một
nghiên cứu của Bochner, trong đó một phần ba
bệnh nhân đã di căn hạch chậu chung vi thể tại
thời điểm cắt bàng quang. Dù vị trí nạo vét hạch
mở rộng đến đâu còn nhiều tranh cãi nhưng các
tác giả đi đến thống nhất chung rằng vị trí lên
càng cao thì số hạch lấy đi càng nhiều và số bệnh
nhân có di căn hạch càng tăng. Leissner so sánh
số hạch trung bình lấy đi khi vét hạch rộng và
vét hạch chuẩn là 25 hạch so với 14 hạch, trong
nghiên cứu này ông cũng so sánh thời gian sống
còn sau 5 năm không tái phát đối với u còn khu
trú là 85% cho nạo hạch rộng và 63% cho nạo
hạch tiêu chuẩn, và tỷ lệ sống còn sau nạo vét
hạch rộng cũng được cải thiện cho cả nhóm bệnh
nhân có di căn hạch và chưa di căn hạch, tỷ lệ tái
phát tại chỗ càng giảm khi số hạch lấy đi càng
nhiều(12,15,16,17,8,11).
Tất cả bệnh nhân trong nhóm của chúng tôi
được tiến hành nạo hạch trước khi lấy bỏ bàng
quang nhằm mục đích chờ kết quả sinh thiết
lạnh của các nhóm hạch đồng thời rút ngắn
được thời gian phẫu thuật và nguy cơ chảy máu
trong khi cắt bàng quang do chủ động bộc lộ và
cắt các nhánh động mạch cung cấp máu cho
bàng quang khi nạo vét nhóm hạch chậu trong.
Phẫu tích và bộc lộ niệu quản trong khi lấy bỏ
nhóm hạch chậu chung, giải phóng và di động
hai bên bàng quang trong khi nạo nhóm hạch bịt
và hố Marcille do vậy thời gian nạo vét hạch
rộng tăng lên so với tiêu chuẩn nhưng chúng tôi
rút ngắn được thì cắt bàng quang nên tổng thời
gian phẫu thuật không tăng lên nhiều. Tỷ lệ
hạch dương tính là 8,3% (2/24), thấp hơn so với
kết quả chung của các tác giả trong nước và thế
giới 20 -25% ,kết quả này có thể do loạt bệnh này
của chúng tôi nhập viện trong giai đoạn sớm chủ
yếu là pT2. Như vậy nếu chỉ vét nhóm hạch bịt
(vét hạch giới hạn), hoặc mở rộng lên nạo hạch
chuẩn chúng tôi sẽ bỏ qua một trường hợp di
căn hạch chậu chung. Chúng tôi có 1 trường hợp
(4,2%) phát hiện nang bạch huyết kích thước nhỏ
vùng chậu trái trên CT scan trong lần tái khám
đầu tiên, được theo dõi và điều trị nội khoa.
Heidenreich và cộng sự thống kê có khoảng 7%
biến chứng liên quan đến vét hạch chậu rộng
trong ung thư bàng quang trong đó u nang bạch
huyết là hay gặp nhất (2 -4%), còn lại là thuyên
tắc mạch sâu, tắc mạch phổi, phù bạch huyết
cũng được ghi nhận, và năm cách xử trí để hạn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
204
chế các tai biến này cũng được ông đưa ra (1).
Bảo lưu hệ thống bạch huyết phía ngoài động
mạch chậu ngoài,(2) Kẹp clip hoặc cột đầu xa
của đường bạch huyết sau khi cắt bỏ (3). Dẫn
lưu được đặt cả 2 bên vùng chậu (4). Chỉ rút dẫn
lưu vùng chậu khi lượng dịch < 50ml dịch
(5).Tiêm Heparin trọng lượng phân tử thấp ở
cánh tay(8). Brossner và cộng sự so sánh hai
nhóm bệnh nhân nạo hạch chậu rộng và nạo
hạch chuẩn cho thấy thời gian phẫu thuật tăng
lên khi nạo hạch chậu rộng nhưng lại không có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các biến
chứng ở hai nhóm(3). Trong nhóm nghiên cứu
của chúng tôi chưa ghi nhận có những biến
chứng này có thể do số lượng bệnh nhân trong
nhóm còn ít và u chủ yếu ở giai đoạn T2 các
hạch nhỏ xâm lấn chưa xâm lấn vào mạch máu
và các tổ chức lân cận.
KẾT LUẬN
Nạo hạch chậu rộng trong cắt bàng quang
tận căn là có thể thực hiện an toàn ở những
trung tâm lớn với phẫu thuật viên có kinh
nghiệm.
Nạo vét hạch chậu rộng nên đuợc thực
hiện thường quy ở các bệnh nhân ung thư
bàng quang xâm lấn vì vị trí nạo vét hạch lên
càng cao thì số hạch lấy được càng nhiều và số
bệnh nhân có di căn hạch được phát hiện tăng
thêm. Nạo vét hạch rộng giúp tăng thời gian
sống ở nhưng bệnh nhân ung thư bàng quang
xâm lấn do loại bỏ được những tổn thương di
căn vi thể và có kế hoạch điều trị bổ trợ cho
bệnh nhân sớm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ather M.H, Alam Z, Jamshaid A, Siddiqui K.M
(2008).”Separate Submission of Standard Lymphadenectomy
in 6 Packets Versus En Bloc Lymphadenectomy in Bladder
Cancer”. Urology Journal, (5) ,2, 94 -98.
2. Bochner B.H, Herr H.W, Reuter V.E (2001). “ Impact of
separate versus en bloc pelvic lymph node disection on the
number of lymph nodes retrieved in cystectomy specimens”, J
Urol, 166(6), 2295 -2296.
3. Brossner C, Pycha A, Mian C,(2004) .Does extended
lymphadenectomy increase the morbidity of radical
cystectomy?. BJU International, 93, 64–66.
4. Buscarini M, Josephson DJ, Stein JP, (2007).
“Lymphadenectomy in Bladder cancer: A Reveiw”. Urol Int,
79, pp:191–199.
5. Dhar NB, Klein EA, Reuther AM,Thalmann GN, (2008)
Outcome After Radical Cystectomy With Limited or
Extended Pelvic Lymph Node Dissection. The Journal of
Urology, Vol. 179,873-878.
6. Dorin RR, Daneshmand S, Eisenberg MS., Et al .,(2011),
“Lymph node dissection technique is more important than
lymph node count in identifying nodal metastases in radical
cystectomy patients: A Comperative mapping study”,
European Urology ,60, pp: 946–952.
7. Đào Quang Oánh, (2011), “ Vai trò của nạo hạch trong cắt
bàng quang tận gốc”, Y học TP Hồ Chí Minh, (15),3, tr:4 -8.
8. Gakis G, Efstathiou J, Lerner SP, et al (2013), “ICUD -EAU
International Consultation on Bladder Cancer 2012 : Radical
Cystectomy and Bladder Preservation for Muscle-Invasive
Urothelial Carcinoma of the Bladder”, European Urology ,63,
pp. 45-57.
9. Heidenreicha A, Ohlmanna C.H, Polyakovb S. “Anatomical
Extent of Pelvic Lymphadenectomy in Bladder and Prostate
Cancer”. European Urology Supplements 4 (2005); 15–24.
10. Herr H, Bochner BH, Dalbagni G, (2002). Impact of the
number of lymph nodes retrieved on outcome in patients wit
muscle invasive bladder cancer. The Journal of Urology, Vol.
167, 1295–1298.
11. Hurle R, Naspro R. (2010) “Pelvic lymphadenectomy during
radical cystectomy: A review of the literature”. Surgical
Oncology,19 , 208 -220.
12. Leissner J, Hohenfellner R, Thuroff J.W, Wolf H.K.
“Lymphadenectomy in patients with transitional cell
carcinoma of the urinary bladder: significance for staging and
prognosis”. BJU Int 2000;85:817–21.
13. Nguyễn Văn Ân, Phạm Hữu Đoàn, (2012), “Nạo hạch chậu
rộng trong cắt bàng quang tận gốc - Những kinh nghiệm ban
đầu”, Y học T.P Hồ Chí Minh, tập 16, PB của số 3, tr: 146 – 150.
14. Roth B, Burkhard F.C, (2010) “The Role of Lymphadenectomy
in Radical Cystectomy”. European urology supplements 9, 19-24.
15. Stein JP, Cai J, Groshen S, Skinner DG. “Risk factors for
patients with pelvic lymph node metastases following radical
cystectomy with en-bloc pelvic lymphadenectomy: the
concept of lymph node density”. J Urol 2003;170:35.
16. Stein JP, Cai J, Donald G, Skinner DG (2005), “The Role of
Lymphadenectomy in High-grade Invasive Bladder Cancer”.
Urol Clin N Am ,32, (2005) 187–197.
17. Stein JP (2006) Lymphadenectomy in bladder cancer: How
high is “high enough”?, Urologic Oncology: Seminars and
Original Investigations ,24, (2006) 349 –355
18. Tarin TV, Power NE, Ehdaie B,(2012) “Lymph Node-Positive
Bladder Cancer Treated With Radical Cystectomy and
Lymphadenectomy: Effect of the Level of Node Positivity”.
European Urology ,61; 1025–1030.
19. Vazina A, Dugi D, Shariat S.F, Evans J, Link R,(2004). “Stage
specific lymph node metastasis mapping in radical
cystectomy specimens” .The Jounal of Urology, 171, 1830 -1834.
Ngày nhận bài báo: 10/05/2015
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 01/06/2015
Ngày bài báo được đăng: 05/08/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kinh_nghiem_ban_dau_trong_nao_vet_hach_rong_rai_o_cac_benh_n.pdf