Chính vì vậy, trong thời gian tới, các khu
kinh tế cửa khẩu của Việt Nam vẫn sẽ hoạt
động một cách độc lập, nhưng chính phủ và
chính quyền địa phương ở Việt Nam cần tập
trung hơn vào xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ
tầng giao thông, phát triển logistics vùng biên
giới [6], phát triển theo cả chiều rộng và chiều
sâu các hoạt động hợp tác kinh tế giữa BEZ ở
hai bên biên giới, tạo đà cho việc hình thành
CBEZ linh hoạt, bền vững với những ưu điểm
là khu phi thuế quan lớn, bố trí đầy đủ các chức
năng theo yêu cầu và đảm bảo dây chuyền tập
trung; giao thông luồng hàng, luồng người riêng
biệt; kết nối tốt với các dự án đã được phê
duyệt; khu kiểm soát trên cầu đạt cao.
Thứ hai, đối với các BEZ khác. Chính
quyền địa phương cần có quy hoạch cụ thể các
phân khu chức năng để kêu gọi đầu tư đầu tư
phát triển cơ sở hạ tầng và phát triển sản xuất.
Trên cơ sở đó, mới mở rộng khả năng trao đối
hàng hóa, dịch vụ với các địa phương bên kia
bên giới. Từ chiến lược phát triển SBEZ của
Thái Lan cho thấy, chính phủ Thái Lan cam kết
chú trọng nhiều hơn vào các dự án xây dựng
đường sắt kết nối các vùng tiếp giáp biên giới
để thúc đẩy thương mại và đầu tư xuyên
biên giới.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 323 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh nghiệm phát triển đặc khu kinh tế biên giới của Thái Lan và một số hàm ý chính sách đối với Việt Nam trong phát triển khu kinh tế cửa khẩu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 4 (2019) 18-29
18
Original Article
Thailand’s Experience of Developing Special Border
Economic Zones and Some Policy Implications for Vietnam
in Developing Border Economic Zones
Nguyen Tien Minh, Ha Van Hoi*
VNU University of Economics and Business,
144 Xuan Thuy Str., Cau Giay Dist., Hanoi, Vietnam
Received 25 November 2019
Revised 04 December 2019; Accepted December 2019
Abstract: Thailand is one of the first countries in South East Asia establishing the
proposed Special Border Economic Zone with Malaysia, Myanmar, Laos, and Cambodia.
However, Thai government has to adjust development strategy after 5 years. This research clarifies
the purposes, process, and Thailand’s SBEZ model before the strategic adjustment, and
simultaneously, offers a comparison with Vietnam’s BEZ in order to suggest policies for
developing Vietnam’s BEZ in the future.
Keywords: Development, Special Border Economic Zone (SBEZ), border economic zone (BEZ),
cross-border economic zone (CBEZ).
*
_______
* Corresponding author.
E-mail address: hoihv@vnu.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4274
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 4 (2019) 18-29
19
Kinh nghiệm phát triển đặc khu kinh tế biên giới của Thái Lan
và một số hàm ý chính sách đối với Việt Nam
trong phát triển khu kinh tế cửa khẩu
Nguyễn Tiến Minh, Hà Văn Hội*
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 25 tháng 11 năm 2019
Chỉnh sửa ngày 04 tháng 12 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày tháng 12 năm 2019
Tóm tắt: Thái Lan là một trong những quốc gia sớm nhất ở khu vực Đông Nam Á có kế hoạch
thành lập các đặc khu kinh tế ở biên giới (SBEZ) của nước này với các nước khác gồm Malaysia,
Myanmar, Lào và Campuchia. Tuy nhiên, sau 5 năm theo đuổi kế hoạch này, Chính phủ Thái Lan
buộc phải điều chỉnh chiến lược phát triển SBEZ. Nghiên cứu này làm rõ mục đích, lộ trình thực
hiện và mô hình SBEZ của Thái Lan trước khi có sự điều chỉnh mang tính chiến lược, đồng thời có
sự so sánh với khu kinh tế cửa khẩu (BEZ) của Việt Nam, từ đó đưa ra một số gợi ý chính sách
nhằm thúc đẩy phát triển BEZ của Việt Nam thành khu hợp tác kinh tế qua biên giới (BCEZ) trong
thời gian tới.
Từ khóa: Phát triển, đặc khu kinh tế biên giới (SBEZ), khu kinh tế cửa khẩu (BEZ), khu hợp tác
kinh tế qua biên giới (CBEZ).
1. Mở đầu *
Trong bối cảnh Việt Nam đang tích cực đẩy
mạnh quan hệ hợp tác nhiều mặt với các nước
láng giềng, trong đó có Trung Quốc, thì việc
thành lập Khu hợp tác kinh tế qua biên giới
(CBEZ) Việt Nam - Trung Quốc sẽ là khu chức
năng quan trọng và là một trong những động
lực chính cho sự phát triển kinh tế - xã hội của
các tỉnh biên giới, góp phần thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế của cả nước. Nhận
thức rõ điều đó, chính phủ Việt Nam đang
_______
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: hoihv@vnu.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4274
nghiên cứu, hiện thực hóa mô hình CBEZ nhằm
đạt những mục đích quan trọng về kinh tế và
các vấn đề liên quan trên cơ sở hợp tác hai bên
cùng có lợi, phát triển kinh tế gắn với ổn định
về an ninh quốc phòng và đối ngoại. Chính vì
vậy, việc học hỏi, tham khảo kinh nghiệm của
Thái Lan để có định hướng phát triển các khu
kinh tế cửa khẩu (Border Economic Zone - BEZ),
thành Khu hợp tác kinh tế qua biên giới (Co-
oporation Boder Economic Zone - CBEZ), là cần
thiết.
2. Khái quát về đặc khu kinh tế biên giới của
Thái Lan
2.1. Quan niệm của chính phủ Thái Lan về SBEZ
N.T. Minh, H.V. Hoi / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 4 (2019) 18-29
20
Đặc khu kinh tế biên giới, theo quan điểm
của chính phủ Thái Lan, dựa trên nền tảng khu
kinh tế đặc biệt nhưng rộng hơn về phạm vi và
nội dung hoạt động. SBEZ được biết đến như
một khu vực địa lý được phân định ở biên giới
giữa Thái Lan và các nước láng giềng hoặc nằm
ở cả hai bên, được đảm bảo về mặt vật lý (có
rào chắn) với cơ chế và chính sách riêng.
Những ưu đãi đặc biệt dành cho các doanh
nghiệp thuộc SBEZ cùng với một khu vực hải
quan riêng biệt cùng với quy trình thủ tục gọn
nhẹ. SBEZ sẽ hướng tới một số các hoạt động
như phát triển cơ sở hạ tầng, xây dựng các trung
tâm vận tải và hậu cần, và tạo thuận lợi chung cho
việc giao thương và đầu tư xuyên biên giới, góp
phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của khu
vực biên giới. Trong một vài trường hợp, SBEZ
còn có thể bao gồm một CBEZ.
SBEZ được vận hành theo những nguyên
tắc giống như SEZ: (i) các nhà đầu tư được
phép xuất nhập khẩu hàng hóa miễn thuế và
không bị kiểm soát hối đoái; (ii) thủ tục giấy
phép và những quy trình theo luật định khác
được tạo điều kiện thuận lợi; và (iii) các doanh
nghiệp được miễn giảm nghĩa vụ thuế GTGT,
thuế doanh nghiệp và các loại phí địa Phương.
Tuy nhiên, SBEZ còn có thể gồm một số thành
phần hỗ trợ như thông tin, năng lượng, và các
cơ sở hạ tầng mềm liên quan đến (a) quản trị
(luật kinh doanh và những quy định ảnh hưởng
tới thuận lợi thương mại, đầu tư và tài chính);
(b) cơ sở hạ tầng kinh tế (các tiện ích tiện và hệ
thống hậu cần, tài chính, các phương tiện sản
xuất, lưu trữ); và (c) hạ tầng xã hội (thành phố
biên giới, hệ thống giáo dục, đào tạo và nghiên
cứu, hệ thống phúc lợi xã hội và chăm sóc sức
khỏe) [1].
2.2. Mục đích thành lập SBEZ của Thái Lan
Chiến lược phát triển SBEZ của chính phủ
Thái Lan nhằm đạt được mục đích sau:
(i) Thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài
nước vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh
cùng với sự chuyển giao bí quyết và công nghệ,
nhằm tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp tham
gia vào chuỗi giá trị khu vực, từ đó kích thích
các hoạt động giao thương và đầu tư xuyên biên
giới. Đồng thời, việc đào tạo và phát triển kỹ
năng cho lực lượng lao động địa phương của
các nhà đầu tư sẽ góp phần thay đổi và nâng
cao hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp trong SBEZ, bằng việc
chuyển đổi từ phụ thuộc vào lao động chân tay
và sản xuất cần nhiều tài nguyên thiên nhiên
sang việc tận dụng nguồn lao động có tay nghề
và sử dụng nguồn vốn. Kết quả là, khu vực biên
giới sẽ nhận được lợi ích từ việc tập trung vào
các hoạt động sản xuất và dịch vụ có giá trị gia
tăng cao hơn ở một số lĩnh vực như công nghệ
thông tin liên lạc, các dịch vụ hỗ trợ kinh
doanh, các hoạt động dựa trên nền tảng tri thức,
nghiên cứu và phát triển hơn là việc phụ thuộc
vào các SEZ truyền thống vốn dựa vào những
yếu tố đầu vào sơ cấp và nguồn lao động rẻ,
thiếu tay nghề dọc biên giới [1].
(ii) Tạo việc làm và phát triển các kỹ năng
cho người dân địa phương, góp phần thiện phúc
lợi kinh tế và xã hội cho người dân sống dọc
các tỉnh biên giới;
(iii) Tạo chất xúc tác cho thương mại dọc
hành lang biên giới Thái Lan với các nước láng
giềng, hỗ trợ giao thương và đầu tư xuyên biên
giới, đặc biệt là dọc các khu vực hành lang;
(iv) Nâng cao phát triển kinh tế và xã hội cho
các tỉnh biên giới nhằm thúc đẩy hòa bình, ổn
định và thịnh vượng cho dân cư địa phương; và
(v) Đóng vai trò như một “khu vực kiểu
mẫu” và hướng đến sự hội nhập rộng hơn giữa
tiểu vùng và khu vực.
2.3. Lựa chọn mô hình SBEZ
Trong chiến lược phát triển SBEZ, chính
phủ Thái Lan đã tiếp cận theo các cấp độ sau:
Cấp độ 1: Thiết lập các phương tiện và
hoạt động hỗ trợ cho SBEZ tại một trong hai
hoặc cả hai phía biên giới
Ở cấp độ này, SBEZ dựa trên một mô hình
thương mại đơn giản, căn cứ vào những lợi thế
so sánh của khu vực tiếp giáp giữa Thái Lan và
các nước láng giềng và có thể mở rộng giao
thương với các quốc gia khác. Chính vì vậy,
việc hình thành một SBEZ ở biên giới mang
tính khả thi hơn, dựa trên những điều kiện về cơ
sở hạ tầng, sự phát triển của các hoạt đông giao
N.T. Minh, H.V. Hoi / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 4 (2019) 18-29
21
thương hiện có. Với cấp độ này, SBEZ chỉ
mang tính chất hoạt động của một khu kinh tế
bình thường ở khu vực biên giới.
Cấp độ 2: Phát triển các chuỗi giá trị xuyên
biên giới và cơ sở hạ tầng cứng/mềm để hỗ
trợ SBEZ
Ở cấp độ này, hợp tác xuyên biên giới có
thể dưới hình thức những thỏa thuận chính thức
hoặc không chính thức trong việc phát triển
hoặc nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông đường
sắt hoặc đường bộ, nhằm hỗ trợ cho phát triển
thương mại ở khu vực biên giới. Ở cấp độ chính
sách, việc thực thi một hiệp định thương mại
xuyên biên giới (Cross Border Trade
Agreement - CBTA) ) ở Tiểu vùng sông Mê
Kong (Greater Mekong Subregion - GMS)
nhằm đơn giản hóa các thủ tục và giảm bớt các
rào cản giữa các quốc gia [1]. Ở cấp độ này,
mỗi bên có thể hình thành một ủy ban hoặc hội
đồng quản lý và được hỗ trợ bởi một nhóm các
chuyên gia để điều phối và kết nối giữa chính
phủ và doanh nghiệp.
Cấp độ 3: Mở rộng giao thương , đầu tư
xuyên biên giới, phát triển các dịch vụ
trong SBEZ
Ở cấp độ này, là một mô hình toàn diện hơn
gồm việc mở rộng và phát triển các hoạt động
giao thương và đầu tư xuyên biên giới; Hình
thành cơ sở sản xuất công nghiệp, các trung tâm
tài chính, các trung tâm các dịch vụ, trung tâm
đào tạo. Đồng thời, cần hình thành một khung
khổ pháp lý để điều chỉnh các lĩnh vực hoạt
động của SBEZ.
2.4. Các lĩnh vực hoạt động của SBEZ
Theo Kế hoạch thành lập các SBEZ của
Thái Lan, SBEZ sẽ được thành lập dựa trên mô
hình SEZ. Các hoạt động sẽ được triển khai tại
SBEZ gồm:
1) Các chuỗi giá trị xuyên biên giới
SBEZ sẽ mang lại những cơ hội mới cho
việc phát triển chuỗi giá trị xuyên biên giới giữa
Thái Lan và các nước láng giềng, từ đó hình
thành nên một phần của các chuỗi giá trị trong
khu vực hoặc toàn cầu. Các doanh nghiệp nằm
trong SBEZ có điều kiện gia tăng sự tham gia
của họ vào các chuỗi giá trị trong khu vực và
toàn cầu, bằng cách tạo ra giá trị gia tăng qua
xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ ra các nước láng
giềng và các nước khác trên thế giới (4). Đồng
thời, các liên kết thượng nguồn và hạ nguồn trong
chuỗi giá trị sẽ góp phần nâng cao năng lực sản
xuất của các cơ sở sản xuất tại các địa phương
vùng biên giới. Đặc biệt là sản xuất, khai thác và
chế biến nông, lâm sản, góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội vùng biên giới.
2) Dịch vụ Logistics
Hoạt động của SBEZ sẽ kém hiệu quả, nếu
thiếu đi một hệ thống logistics, bởi vai trò của
logistics ngày càng trở nên quan trọng, hệ thống
logistics là công cụ liên kết các hoạt động
trong chuỗi giá trị toàn cầu từ hoạt động cung
cấp, sản xuất, lưu thông phân phối cho đến mở
rộng thị trường cho các hoạt động kinh tế. Khi
thị trường toàn cầu phát triển với các tiến bộ
công nghệ, đặc biệt là việc mở cửa thị trường,
logistics được coi như là công cụ, một phương
tiện liên kết các lĩnh vực khác nhau trong phát
triển kinh tế của một quốc gia.
Tại các SBEZ, logistics cửa khẩu sẽ tận
dụng ưu thế quốc tế hoá của cửa khẩu, phát huy
tối đa ưu điểm của tuyến đường lưu thông hàng
hoá quốc tế cửa khẩu và đặc điểm là trung tâm
trung chuyển hàng hoá của khu vực, trên cơ sở
các hoạt động sản xuất, kinh doanh tại cửa
khẩu, lấy kỹ thuật thông tin làm chỗ dựa, đẩy
mạnh tác dụng đầu tàu và sức lan toả của các
hoạt động kinh tế cửa khẩu, tạo nên một hệ
thống dịch vụ tổng hợp có tính quốc tế và khả
năng kết nối mạnh mẽ.
Các cửa khẩu biên giới của Thái Lan với ưu
thế là đầu mối giao thông đường bộ, đường sắt,
đường thuỷ, kết nối, phạm vi và tầm ảnh hưởng
của hệ thống logistics cửa khẩu sẽ ngày càng
mở rộng. Logistics cửa khẩu sẽ thúc đẩy mạnh
mẽ gia công xuất nhập khẩu và thương mại cửa
khẩu phát triển, đưa SBEZ của Thái Lan tham
gia sâu hơn vào chuỗi giá trị khu vực, góp phần
giúp Thái Lan trở thành một cực tăng trưởng
trong khu vực.
3) Xây dựng khung pháp lý và cải tiến thủ
tục hành chính
Việc thành lập một SBEZ cũng đồng nghĩa
với việc là đơn giản hóa các thủ tục hành chính
và minh bạch hóa các quy định có tính pháp lý.
N.T. Minh, H.V. Hoi / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 4 (2019) 18-29
22
Đó chính là một trong các nhân tố quan trọng
thúc đẩy thu hút đầu tư vào khu vực biên giới.
Việc đơn giản hóa các quy định hành chính bao
gồm quy trình phê duyệt đầu tư, giấy phép lao
động cho người nước ngoài, loại bỏ một số giấy
phép nhập khẩu và xuất khẩu theo quy định (4).
4. Chiến lược phát triển vùng
Sự khác biệt giữa SBEZ và SEZ thông
thường là có sự kết hợp chặt chẽ giữa kế hoạch
phát triển dài hạn của SBEZ với chiến lược phát
triển KTXH của các địa phương trong vùng. Đi
đôi với việc cải thiện các điều kiện kinh tế, xã
hội ở các địa phương tại khu vực biên giới,
chiến lược phát triển SBEZ sẽ chú trọng tới
việc đào tạo và bồi dưỡng nâng cao kỹ năng
cho lực lượng lao động địa phương, góp phần
tạo ra giá trị gia tăng cao cho các hoạt động
trong các lĩnh vực khác nhau của SBEZ. Đồng
thời, việc đảm bảo an ninh biên giới, giảm thiểu
rủi ro trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh
là rất cần thiết trong việc thu hút đầu tư vào
SBEZ, nên vấn đề này cũng được chính phủ
Thái Lan chú trọng trong Kế hoạch phát
triển SBEZ.
5) Phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Một SEZ thông thường sẽ ưu tiên các doanh
nghiệp lớn với năng lực kinh doanh tốt, trên nền
tảng cơ sở hạ tầng đầy đủ, để có thể tham gia
chuỗi giá trị với quy mô lớn. Cùng với những
ưu đãi, các doanh nghiệp lớn sẽ có được thuận
lợi trong việc nhập khẩu nguyên liệu và xuất
khẩu sản phẩm trung gian hoặc các thành phẩm.
Tuy nhiên, đối với SBEZ, các mối liên kết cung
ứng các yếu tố đầu vào có thể thông qua hình
thức thầu phụ, bởi các doanh nghiệp lớn luôn
phải cần đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ, với
vai trò là các nhà thầu phụ, trong việc cung ứng
một số yếu tố đầu vào.
Do đó, nhà nước và chính quyền địa
phương có trách nhiệm tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại địa phương tham
gia sân chơi cùng với những doanh nghiệp lớn.
Ngoài ra, một số doanh nghiệp vừa và nhỏ nằm
ngoài SBEZ cũng có thể bị cản trở bởi một số
quy định pháp lý khi liên kết kinh doanh với
các doanh nghiệp nằm trong SBEZ (chẳng hạn
như mua bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ).
Chính vì vậy, chính phủ cần có các chương
trình ưu đãi phù hợp và cho phép các doanh
nghiệp vừa và nhỏ có thể tiếp cận tốt hơn với
các nguồn lực để nâng cao năng lực hoạt động,
tạo thành mối liên kết chặt chẽ với các doanh
nghiệp lớn trong SBEZ một cách bền vững.
Chính phủ có thể sẽ thành lập một khu công
nghiệp dành riêng cho các ngành phụ trợ và vận
hành song song với SBEZ, để tạo điều kiện cho
việc quản lý và điều hành các lĩnh vực hoạt
động của SBEZ.
6) Các trung tâm dịch vụ phát triển kinh doanh
Ở giai đoạn đầu, chính phủ có thể sẽ tập
trung vào việc thực hiện các chương trình và
chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp trong
SBEZ nhằm hình hành một phần các chuỗi giá
trị đã được xác định trong chiến lược phát triển
của SBEZ như đã nêu trên. Ở giai đoạn tiếp
theo, một trung tâm Dịch vụ Phát triển Kinh
doanh (Business Development Service - BDS)
có thể được thiết lập để cung cấp một cách
chính thức các dịch vụ khai hải quan, kiểm
dịch; các dịch vụ như tài chính, bảo hiểm, viễn
thông, vận tải và hậu cần, kiểm toán, tư vấn và
tư vấn thuế; môi giới; dịch vụ về tài chính, tiền
tệ[1]
2.5. Lộ trình triển khai thành lập SBEZ của
Thái Lan
Từ đầu 2013, Thái Lan bắt đầu thử nghiệm
thành lập những SBEZ tại các tỉnh biên giới với
Malaysia, Myanmar và Campuchia. Chính phủ
Thái Lan đã thành lập Ủy ban chuyên về đầu tư,
chịu trách nhiệm đưa ra các sáng kiến thành lập
SBEZ và đưa ra những chính sách ưu đãi thuế
và các đặc quyền đầu tư khác có liên quan đến
SBEZ. Chẳng hạn, các nhà đầu tư đủ điều kiện
được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp lên đến
8 năm; Khấu trừ kép từ chi phí vận chuyển,
điện và nước; Giảm 25% chi phí xây dựng cơ
sở; Miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc,
nguyên liệu đầu vào; Được phép sử dụng lao
động không có tay nghề ở nước ngoài...
Những lĩnh vực kinh doanh được khuyến
khích đầu tư tại các SBEZ rất đa dạng, từ nông
nghiệp, ngư nghiệp, gốm, dệt may, da giầy,
trang sức đến đồ nội thất, thiết bị y tế, ô tô, đồ
điện tử, nhựa, dược phẩm, du lịch Mỗi SBEZ
N.T. Minh, H.V. Hoi / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 4 (2019) 18-29
23
được phát triển thế mạnh theo vị trí địa lý. Ví
dụ, đặc khu ở tỉnh phía nam Songkhla được lập
kế hoạch trở thành trung tâm chế biến hải sản
và cao su, đặc khu ở tỉnh Tak và Mukdahan vốn
nằm dọc trên Hành lang Kinh tế Đông Tây sẽ
tập trung phát triển dệt may và logistics (dịch
vụ hậu cần)
Chính phủ Thái Lan cũng lên kế hoạch tạo
lập 5 đặc khu kinh tế ở vùng giáp biên giới với
các nước láng giềng nhằm tạo ra nguồn thu qua
biên giới hàng tỷ USD trong vòng 1 năm.
Các đặc khu kinh tế này sẽ được thành lập ở
tỉnh Mukdaharn giáp Lào, Srakaew và Trat giáp
Campuchia, huyện Sadao thuộc tỉnh Songkla
giáp Malaysia và Mae Sot thuộc tỉnh Tak giáp
với biên giới Myanmar. Cụ thể:
Thứ nhất, SBEZ tại biên giới Thái Lan và
Malaysia. Trong các ý tưởng thành lập các
SBEZ, SBEZ Thái Lan – Malaysia được chính
phủ Thái Lan chú trọng nhất. Đây là một phần
quan trọng trong các chính sách kinh tế của
chính phủ Thái Lan với kỳ vọng sẽ giúp tăng
cường an ninh biên giới, giảm buôn lậu trong
đó có cả nạn buôn người đang xảy ra tại biên
giới giữa hai nước. Trong những năm 1980,
Thái Lan là nền kinh tế phát triển nhanh nhất
thế giới và Malaysia cũng là một “con hổ kinh
tế”, tập trung vào hiện đại hóa nền kinh tế và
trở thành một quốc gia Hồi giáo hàng đầu. Sau
những vụ xung đột biên giới Thái Lan -
Malaysia, chính phủ Thái Lan đã rất chú trọng
đến việc quản lý khu vực biên giới với
Malaysia. Các quan chức cấp cao hai nước đã
gặp nhau để thảo luận về nhiều đề xuất thúc đẩy
thương mại biên giới như một phần của Cộng
đồng Kinh tế ASEAN. Đồng thời, trong Kế
hoạch thực hiện của Tam giác phát triển Thái
Lan - Malaysia - Indonesia (2012 - 2016) chính
phủ hai nước cũng nhấn mạnh tầm quan trọng
của sự hợp tác trong tiểu vùng, coi đó như một
bộ phận có sẵn cho sự hình thành AEC. Kế
hoạch này cũng được ADB hỗ trợ kỹ thuật
nhừm thúc đảy sự phát triển thương mại cho
Tam giác này và các chương trình hợp tác Tiểu
vùng sông Mê Kông. Những hỗ trợ về kỹ thuật
nhắm tới Tam giác này, cùng với nỗ lực của
chính phủ Thái Lan sẽ tạo thuận lợi cho mậu
dịch xuyên biên giới, góp phần tạo ra sự thành
công của SBEZ này.
Thứ hai, SBEZ tại biên giới của Thái Lan
và Myanmar. Nửa cuối tháng 1/2013, chính
phủ Thái Lan đã thông qua dự án phát triển
một khu kinh tế đặc biệt vùng biên tại huyện
Mae Sot, tỉnh Tak, đối diện với huyện
Kawkareik, tỉnh Kayin của Myanmar. Dự án
do Ủy ban phát triển kinh tế xã hội quốc gia
Thái Lan đề xuất trong tiến trình hình thành
AEC 2015 và phát triển hành lang kinh tế
Đông-Tây của nước này. Khu kinh tế đặc biệt
ban đầu sẽ được xây dựng trên địa bàn hai xã
Mae Pa và Tha Sai Luad, với diện tích khoảng
8,96 km2. Trong đó có kế hoạch xây cây cầu
hữu nghị thứ hai tại biên giới Thái Lan-
Myanmar để giảm tình trạng ùn tắc giao thông
trên cầu hữu nghị Thái Lan-Myanmar. Đồng
thời, hệ thống dịch vụ một cửa tương thích với
hệ thống một cửa của ASEAN sẽ được thiết lập,
theo sáng kiến liên kết dữ liệu và thuế quan
ASEAN để chuẩn bị sẵn sàng cho hội nhập kinh
tế khu vực vào năm 2015. Đồng thời, khu công
nghiệp, khu vực miễn thuế, các trung tâm vận
chuyển phân phối hàng hóa, kho ngoại quan,
dịch vụ một cửa, trạm kiểm tra hải quan một
lần, cùng hạ tầng giao thông thuận tiện sẽ được
xây dựng đồng bộ cho khu kinh tế đặc biệt này.
Bên cạnh đó, các dự án phát triển khác cho
huyện Mae Sot, bao gồm dự án xây dựng đường
sắt, đường cao tốc bốn làn Mea Sot-Tak, sân
bay và các khu công nghiệp cũng đã được chính
phủ Thái Lan thông qua về nguyên tắc. Nội các
Thái Lan cũng nhất trí đầu tư ban đầu 51 tỷ
baht để xây dựng cơ sở hạ tầng tại nhiều tỉnh
miền Trung và miền Bắc.
Theo đánh giá của Văn phòng Kinh tế Công
nghiệp Thái Lan, Mae Sot nằm trên tuyến
đường thông thương quan trọng với Myanmar
nên có tiềm năng phát triển kinh tế mạnh mẽ.
SEZ này sẽ mang lại lợi ích cho nhiều ngành
nghề lao động chuyên ngành như công nghiệp
dệt may, các nhà máy đóng hộp rau quả và trái
cây, cũng như các doanh nghiệp chế biến gỗ và
sản xuất đồ nội thất. Giá trị thương mại mậu
biên ở Mae Sot đã đạt 30 tỷ baht (hơn 100 triệu
USD) trong năm 2012, mức cao nhất ở khu vực
phía Bắc Thái Lan.
N.T. Minh, H.V. Hoi / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 4 (2019) 18-29
24
Thứ ba, SBEZ tại biên giới của Thái Lan và
Cam-pu-chia. Giữa tháng 6/2013, tại cuộc họp
Ủy ban chung Thái-lan - Campuchia về kết nối
và phát triển khu vực biên giới diễn ra tại Thủ
đô Phnom Penh (Campuchia, hai bên nhất trí
hợp tác hướng tới thành lập hai đặc khu kinh tế
tại khu vực biên giới nhằm thúc đẩy thương
mại, đầu tư và cải thiện đời sống của người dân
dọc biên giới hai nước. Hai SBEZs ẽ được
thành lập, một nằm tại tỉnh Banteay Meanchey
giáp tỉnh biên giới Sa Kaeo của Thái Lan và
một đặc khu khác tại tỉnh Koh Kong giáp tỉnh
Trat của Thái Lan hai đặc khu kinh tế ở khu vực
biên giới giữa tỉnh Sa Kaeo và Trat (Thái-lan)
với Banteay Meancheay và Koh Kong
(Campuchia), phát triển cơ sở hạ tầng các tuyến
đường 5, 8 và 48 ở Thái-lan nối với Koh Kong
và tuyến đường sắt nối tỉnh Sa Kaeo với
Banteay Meancheay. Hai đặc khu kinh tế này sẽ
đóng vai trò rất quan trọng trong việc tăng
cường và mở rộng quan hệ kinh tế, thương mại
giữa hai nước láng giềng.
Thứ tư, bên cạnh kế hoạch hình thành các
SBEZ tại biên giới của Thái với các nước
Malaysia, Myanar, Campuchia, chính phủ Thái
Lan cũng có kế hoạch nâng cấp và xây dựng cơ
sở hạ tầng như đường bộ và đường sắt nhằm kết
nối năm đặc khu kinh tế trên với các nước láng
giềng cũng như với các vùng miền của nước
này. Chẳng hạn như tuyến đường sắt kết nối
khu vực biên giới Aranyaprathet của Thái Lan
với Poi Pet của Campuchia, một sân bay tại
Mae Sot, tuyến đường cao tốc và đường sắt nối
Hat Yai của Songkla với Padang Besar của
Malaysia; một tuyến đường sắt tốc độ trung
bình cũng sẽ được xây dựng để nối tỉnh Vân
Nam phía Nam Trung Quốc với tỉnh Nong Khai
của Thái Lan, chạy xuyên qua thủ đô Vientiane
của Lào.
2.6. Đánh giá chiến lược phát triển SBEZ của
Thái Lan
Mặc dù kế hoạch thành lập các SBEZ đã
hình thành từ đầu năm 2013, nhưng cho đến
nay, SBEZ vẫn chưa đi vào hoạt động. Chính
phủ Thái cũng đã tiến hành điều chỉnh chiến
lược phát triển các SBEZ theo hướng tăng
cường đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng, tăng
cường hợp tác kinh tế biên giới. Nguyên nhân
là do tình trạng đầu cơ, sốt đất đã đẩy chi phí
xây dựng vượt ngoài dự tính ban đầu. Đồng
thời, mô hình đặc khu ở các tỉnh biên giới cũng
không đảm bảo khả năng cạnh tranh với những
nước láng giềng dọc sông Mekong. Hàng hóa từ
những nền kinh tế đang phát triển như
Myanmar, Lào, Campuchia và Việt Nam có thể
được miễn thuế nhập khẩu vào Liên minh Châu
Âu (EU). Trong khi đó, Thái Lan với vị thế một
nền kinh tế phát triển hơn phải đối diện với mức
thuế gần 30% đa số các mặt hàng nhập khẩu
vào EU. Một số mặt hàng có thể chịu thuế lên
đến 100%. Trước tình hình đó, chính phủ Thái
Lan buộc phải cân nhắc lại những dự án SBEZ
ở vùng biên giới theo hướng học hỏi từ các
nước láng giềng và đẩy mạnh hợp tác hơn là
cạnh tranh. Theo đó, Chính phủ sẽ tiến hành
nhiều cuộc hội đàm cấp cao với các nước
CLMV về hợp tác xây dựng SBEZ tại khu vực
biên giới. Bên cạnh đó, Chính phủ nước này
đang lên kế hoạch phát triển những khu vực
biên giới thay vì tiếp tục theo đuổi mô hình xây
dựng SBEZ. Chiến lược này nhằm thúc đẩy
xuất khẩu, đồng thời tạo tại thêm việc làm cho
người dân, thu hẹp sự chênh lệch giữa nông
thôn và thành thị. Đồng thời, chính phủ Thái
Lan đã có kế hoạch và chú trọng nhiều hơn vào
các dự án xây dựng đường sắt kết nối khu vực,
cải thiện giao thông và hậu cần ở các vùng tiếp
giáp biên giới để thúc đẩy thương mại và đầu tư
tại các đặc khu của những nước láng giềng. Đầu
tư của doanh nghiệp Thái Lan vào hàng hóa
xuất khẩu từ các nước láng giềng cũng tránh
được hàng rào thuế quan của EU. Trước mắt
nước này sẽ đầu tư vào cơ sở hạ tầng phục vụ
hậu cần tại tỉnh Mukdahan. Khu vực này nằm
sát biên giới với Lào, gần đặc khu kinh tế Savan
Seno của nước láng giềng, bởi việc cải thiện cơ
sở hạ tầng phục vụ hậu cần sẽ tạo điều kiện để
nhà đầu tư Thái Lan quan tâm đến các dự án
của Lào và hàng xuất khẩu từ nước này, giúp
tận dụng lợi thế thuế nhập khẩu 0% vào thị
trường EU. Chính phủ Thái Lan cũng dự tính
đầu tư vào các cơ sở phục vụ thương mại và
hậu cần ở những tỉnh biên giới phía tây và phía
bắc, gần 2 thành phố Dawei và Myawaddy của
N.T. Minh, H.V. Hoi / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 4 (2019) 18-29
25
Myanmar. Cả hai thành phố đều có những dự
án đặc khu kinh tế. Thái Lan kỳ vọng thương
mại với Myanmar sẽ tăng gấp đôi từ giờ đến
năm 2026, đạt 12 tỷ USD.
3. Định hướng phát triển BEZ của Việt Nam
và một số gợi ý chính sách
3.1. Định hướng phát triển BEZ của Việt Nam
Thuật ngữ khu kinh tế cửa khẩu (Border
Economic Zone - BEZ) mới được sử dụng ở
Việt Nam vào cuối những năm 1990, khi quan
hệ kinh tế - thương mại Việt Nam và Trung
Quốc đã có những bước phát triển mới, đòi hỏi
phải có mô hình kinh tế phù hợp nhằm khai
thác các tiềm năng, thế mạnh kinh tế của hai
nước thông qua các cửa khẩu biên giới.
Theo Nghị định số: 82/2018/NĐ-CP
ngày 22 tháng 5 năm 2018: Khu kinh tế cửa
khẩu là khu kinh tế hình thành ở khu vực biên
giới đất liền và địa bàn lân cận khu vực biên
giới đất liền có cửa khẩu quốc tế hoặc cửa khẩu
chính và được thành lập theo các điều kiện,
trình tự và thủ tục quy định.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong Đề án
quy hoạch phát triển BEZ Việt Nam đến năm
2020: BEZ là một loại hình khu kinh tế, lấy
giao lưu kinh tế biên giới qua cửa khẩu (cửa
khẩu quốc tế hoặc cửa khẩu chính) làm nòng
cốt, có ranh giới xác định, được thành lập bởi
cấp có thẩm quyền, có cơ chế hoạt động riêng,
mô hình quản lý riêng và có quan hệ chặt chẽ
với khu vực xung quanh và nội địa phía sau [2].
Trên cơ sở đó, có thể hiểu khu BEZ là một
khu vực không gian kinh tế xác định, gắn với
cửa khẩu (quốc tế hoặc quốc gia), được cấp có
thẩm quyền ra quyết định thành lập, được áp
dụng các chính sách riêng về thương mại, xuất
nhập khẩu, xuất nhập cảnh, du lịch, thu hút vốn
đầu tư trong và ngoài nước, xây dựng kết cấu
hạ tầng, quản lý tài chính, tiền tệ và phát triển
xã hội, để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh
doanh, giao lưu kinh tế, thương mại, dịch vụ
với các nước láng giềng, nhằm đẩy mạnh phát
triển kinh tế xã hội gắn với bảo vệ an ninh vùng
biên giới. Đặc trưng hoạt động kinh tế của BEZ
là thương mại, xuất nhập khẩu, dịch vụ, đầu tư,
xây dựng, gia công chế biến...BEZ được cấp có
thẩm quyền thành lập và quản lý bằng cơ chế,
chính sách riêng phù hợp với điều kiện cụ
thể [3].
Ở Việt Nam, tháng 10/2005, Chính phủ
Việt Nam chính thức cho phép thành lập khu
bảo thuế trong BEZ, cam kết sẽ hỗ trợ có mục
tiêu cho ngân sách địa phương trong công tác
phát triển cơ sở hạ tầng của BEZ. Đầu năm
2008, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Quy
hoạch phát triển các BEZ của Việt Nam đến
năm 2020”. Theo đó, đến năm 2020, cả nước sẽ
có 30 BEZ. Cuối năm 2015, chính phủ Việt
Nam đã lựa chọn 9 khu kinh tế cửa khẩu trọng
điểm để tập trung đầu tư phát triển từ nguồn
ngân sách nhà nước giai đoạn 2016 - 2020 gồm:
Khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái; Khu kinh tế
cửa khẩu Đồng Đăng; Khu kinh tế cửa khẩu
Lào Cai; Khu kinh tế cửa khẩu Quốc tế Cầu
Treo; Khu kinh tế cửa khẩu Bờ Y; Khu kinh tế -
thương mại đặc biệt Lao Bảo; Khu kinh tế cửa
khẩu Mộc Bài; Khu kinh tế cửa khẩu Đồng
Tháp; Khu kinh tế cửa khẩu tỉnh An Giang.
Quan điểm của Chính phủ Việt Nam là phát
triển các BEZ một cách bền vững và gắn liền
với việc xây dựng và phát triển mối quan hệ
chính trị hữu nghị, ổn định, bền vững giữa nước
ta với các nước Trung Quốc, Lào và
Campuchia.
Đối với các khu kinh tế cửa khẩu tại các
tỉnh biên giới giáp Trung Quốc:
Chính phủ cùng với các địa phương xây
dựng và phát triển các khu kinh tế cửa khẩu trở
thành trung tâm thương mại, dịch vụ, du lịch
của vùng trung du và miền núi phía Bắc, đầu
mối của hành lang kinh tế Hà Nội - Lạng Sơn -
Nam Ninh, Hà Nội - Lào Cai - Vân Nam và Hà
Nội - Móng Cái - Phòng Thành. Đẩy mạnh hợp
tác phát triển trong quy hoạch phát triển hành
lang kinh tế Hải Phòng - Hà Nội - Lào Cai -
Côn Minh và Hải Phòng - Hà Nội - Lạng Sơn -
Nam Ninh, vành đai kinh tế vịnh Bắc Bộ;
Chính phủ Việt Nam cũng hướng tới nâng
cao chất lượng hoạt động và đẩy mạnh sự hợp
tác giữa các địa phương vùng biên giới của hai
nước để hình thành khu hợp tác kinh tế qua biên
giới (Co-oporation Boder Economic Zone -
N.T. Minh, H.V. Hoi / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 4 (2019) 18-29
26
CBEZ), theo mô hình “hai nước một khu, tự do
thương mại, vận hành khép kín” và bao gồm
các phân khu chức năng như khu vực chế tạo,
gia công; khu vực thông quan hàng hóa; khu
vực kho bãi; các trung tâm thương mại, khu vui
chơi giải trí. Chính phủ hai nước sẽ cùng phối
hợp quản lý, khai thác, phân chia lợi nhuận, áp
dụng các chính sách ưu đãi để thu hút doanh
nghiệp [4]
Ở cấp tỉnh:
Tháng 1/2007, chính quyền tỉnh Lạng Sơn
(Việt Nam) và khu tự trị Quảng Tây (Trung
Quốc) ký kết “Bản ghi nhớ xây dựng khu hợp
tác kinh tế qua biên giới Việt - Trung”, hình
thành Khu hợp tác kinh tế Đồng Đăng (Việt
Nam) - Bằng Tường (Trung Quốc).
Tháng 11/2007, tỉnh Quảng Ninh và Quảng
Tây ký kết “Hiệp định khung khu hợp tác kinh
tế qua biên giới Móng Cái (Việt Nam) - Đông
Hưng (Trung Quốc)”. Đến năm 2012, hai bên
đã ký hiệp định về xây dựng khu hợp tác kinh tế
Móng Cái - Đông Hưng.
Tháng 11/2007, tỉnh Cao Bằng và khu tự trị
Quảng Tây đã ký “Hiệp định hợp tác kinh tế
biên giới khu cửa khẩu Trà Lĩnh (Việt Nam) -
Long Bang (Trung Quốc)”. Đến tháng 6-2008,
khu hợp tác kinh tế qua biên giới Trà Lĩnh -
Long Bang được hai nước đồng ý đưa vào quy
hoạch năm năm phát triển kinh tế thương mại
Việt Nam - Trung Quốc.
Tháng 8/2012, tỉnh Lào Cai và Vân Nam đã
ký kết văn bản “Khu hợp tác kinh tế qua biên
giới Lào Cai (Việt Nam) - Hồng Hà (Trung
Quốc)”.
Ở cấp quốc gia, trên cơ sở các bản ghi nhớ
cấp tỉnh, tháng 10/2011, Việt Nam và Trung
Quốc đã ký kết sáu văn bản quan trọng, trong
đó có “Quy hoạch phát triển năm năm 2012-
2016 về hợp tác kinh tế thương mại giữa nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa”. Đây là cơ sở quan
trọng để các bên đàm phán thành lập các CBEZ.
Tháng 10/2013, hai nước ký kết “Bản ghi
nhớ hiểu biết về xây dựng khu hợp tác kinh tế
qua biên giới Việt - Trung”, sau đó đã cùng
nhau soạn thảo “Phương án tổng thể khu hợp
tác kinh tế qua biên giới Việt - Trung” để tiến
hành các đàm phán mang tính kỹ thuật đối với
việc xây dựng khu hợp tác kiểu mới như vậy.
Bộ Công Thương Việt Nam và Bộ Thương mại
Trung Quốc được giao ký kết Bản ghi nhớ về
xây dựng các khu hợp tác kinh tế tại các cặp
cửa khẩu Móng Cái - Đông Hưng; Đồng Đăng -
Bằng Tường; Lào Cai - Hà Khẩu.
Tháng 11/2017, hai nước đã ký Bản ghi nhớ
về việc đẩy nhanh tiến độ đàm phán thỏa thuận
khung về xây dựng các khu hợp tác kinh tế qua
biên giới.
Đối với các khu kinh tế cửa khẩu tại các
tỉnh biên giới giáp Lào: Xây dựng và phát triển
các khu kinh tế cửa khẩu nhằm thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội của miền Tây các tỉnh
miền Trung; trở thành những trung tâm giao lưu
kinh tế, thương mại của vùng biên giới các tỉnh
miền Trung với các tỉnh Bôlykhămxay, Xiêng
Khoảng, Hủaphăn, Savanakhét và một số tỉnh
khác của nước bạn Lào. Đầu mối xuất, nhập
khẩu hàng hoá và dịch vụ vào thị trường các
tỉnh Trung, Bắc Lào, vùng Đông Bắc Thái Lan
và Myanma. Đẩy mạnh hợp tác phát triển trong
quy hoạch phát triển hành lang kinh tế Đông -
Tây và hợp tác phát triển trong Tiểu khu vực
Mê Kông mở rộng; phát triển thương mại, xuất
nhập khẩu hàng hoá và dịch qua cửa khẩu;
Đối với các khu kinh tế cửa khẩu biên giới
giáp Campuchia: Xây dựng các khu kinh tế cửa
khẩu trở thành một trong những khu vực trọng
điểm kinh tế của từng tỉnh, góp phần phân bố
lại dân cư và lao động, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân địa phương gắn
kết chặt chẽ với củng cố an ninh quốc phòng,
giữ vững biên giới của Tổ quốc và bảo vệ môi
trường sinh thái. Hợp tác phát triển trong quy
hoạch phát triển 3 nước Việt Nam - Lào -
Campuchia và hành lang kinh tế đường
Xuyên Á;
3.2. So sánh SBEZ của Thái Lan, BEZ của Việt
Nam và một số gợi ý đối với Việt Nam (Bảng 1)
Từ những phân tích trên, kết hợp với những
nội dung so sánh trong bảng 1, cho thấy, có sự
tương đồng giữa SBEZ của Thái Lan và BEZ
của Việt Nam, cả về bản chất, mục đích, nội
dung hoạt động, và một phần của mô hình mà
Việt Nam có thể lựa chọn. Tuy nhiên kể từ khi
N.T. Minh, H.V. Hoi / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 4 (2019) 18-29
27
có ý tưởng thành lập các SBEZ, cho đến năm
2018, do nhiều nguyên nhân, chính phủ Thái
Lan đã phải điều chỉnh chiến lược phát triển các
SBEZ theo mô hình mới và đẩy mạnh đầu tư
phát triển cơ sở hạ tầng vùng biên giới, tăng
cường hợp tác kinh tế biên giới thay vì cạnh
tranh [5]. Chính vì vậy, trong định hướng phát
triển các BEZ, Việt Nam cần xác định rõ mô
hình phát triển mà các BEZ cần hướng tới.
Cụ thể:
Thứ nhất, đối với các BEZ có định hướng
phát triển thành CBEZ.
Như đã phân tích ở trên, từ năm 2007, một
số tỉnh biên giới của Việt Nam với Trung Quốc,
đã được chính phủ hai nước Việt Nam và Trung
Quốc định hướng xây dựng 04 khu hợp tác kinh
tế qua biên giới bao gồm: Móng Cái - Đông
Hưng; Đồng Đăng - Bằng Tường; Trà Lĩnh -
Long Bang và Lào Cai - Hà Khẩu. Tuy nhiên,
cho đến nay, chính phủ hai nước Việt Nam và
Trung Quốc vẫn đang trong quá trình đàm phán
để xây dựng CBEZ. Nguyên nhân là do việc
thành lập CBEZ đang gặp một số trở ngại, trong
đó, vướng mắc lớn nhất đến từ “điểm nghẽn về
chính sách” bởi: hai nước Việt Nam và Trung
Quốc vẫn chưa thể thống nhất được cách thức
quản lý phù hợp. Nếu đồng ý với mô hình “hai
nước một khu” thì áp dụng luật pháp của Việt
Nam hay Trung Quốc; giải quyết thế nào với
các vấn đề về an ninh, môi trường của từng
nước? Nếu xây dựng khu hợp tác nói trên theo
mô hình luật bên nào bên đó áp dụng, thì các
khu này thực chất chỉ là “BEZ” [4].
Từ kinh nghiệm của Thái Lan cho thấy, với
mục tiêu ban đầu là theo đuổi các dự án đặc khu
kinh tế tại các vùng xa xôi, nghèo khó dọc biên
giới (SBEZ) nhằm đẩy mạnh xuất khẩu và tăng
việc làm để thu hẹp khoảng cách giữa nông
thôn và thành thị và muốn chứng minh vai trò
một người chơi lớn nằm ở trung tâm khu vực,
nhưng kế hoạch này đã thất bại do những
nguyên nhân như đã nêu trên, và chính phủ
Thái Lan đã phải chuyển hướng, thay vì xây
dựng đặc khu riêng, Thái Lan muốn chuyển
sang phát triển cơ sở hạ tầng kết nối với đặc
khu các nước láng giềng. Chính phủ Thái Lan
cũng khẳng định mong muốn hợp tác, phát triển
cùng các nước sông Mekong thay vì cạnh tranh.
Điều này, tương tự với việc hình thành CBEZ ở
một số tỉnh biên giới Việt Nam với Trung Quốc
như đã nêu ở trên.
Bảng 1. So sánh SBEZ của Thái Lan và BEZ của Việt Nam
Tiêu chí SBEZ của Thái Lan BEZ của Việt Nam
Bản chất Là khu vực địa lý nằm dọc theo một biên
giới quốc tế của một nước, hướng tới một số
các hoạt động như phát triển cơ sở hạ tầng,
xây dựng các trung tâm vận tải và hậu cần,
và tạo thuận lợi chung cho việc giao thương
và đầu tư xuyên biên giới, khuyến khích sự
phát triển kinh tế, xã hội của một khu vực
dọc biên giới giữa các quốc gia.
Là một khu vực không gian kinh tế xác
định, gắn với cửa khẩu quốc tế hoặc quốc
gia, được cấp có thẩm quyền ra quyết định
thành lập, được áp dụng các chính sách
riêng về thương mại, xuất nhập khẩu, xuất
nhập cảnh, du lịch, thu hút vốn đầu tư
trong và ngoài nước, xây dựng kết cấu hạ
tầng, quản lý tài chính, tiền tệ và phát triển
xã hội.
Mục đích Thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước
Tạo việc làm và phát triển các kỹ năng cho
người dân địa phương.
Tạo chất xúc tác cho thương mại dọc hành
lang biên giới; hỗ trợ giao thương và đầu tư
xuyên biên giới;
Phát triển kinh tế và xã hội cho các tỉnh biên
giới và kiểm soát an ninh vùng biên giới, đặc
biệt là biên giới với Malaysia
Đóng vai trò như một “khu vực kiểu mẫu”
và hướng đến sự hội nhập rộng hơn giữa tiểu
Thu hút đầu tư trong và ngoài nước
Tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho
người dân địa phương.
Phát triển sản xuất và các loại hình dịch
vụ, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa tại các
tỉnh biên giới.
Tạo thành trung tâm giao lưu kinh tế quốc
tế
Mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế và hữu
nghị với nước láng giềng, phát triển và mở
rộng hội nhập kinh tế quốc tế của cả nước
N.T. Minh, H.V. Hoi / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 4 (2019) 18-29
28
vùng và khu vực. và đảm bảo an ninh quốc phòng.
Các lĩnh vực
hoạt động
Hình thành chiến lược phát triển vùng.
Tham gia chuỗi giá trị xuyên biên giới.
Phát triển dịch vụ Logistics
Phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tăng cường các dịch vụ phát triển kinh
doanh.
Trao đổi thương mại qua biên giới
Thu hút đầu tư trong nước và ngoài nước,
thực hiện đầu xuyên biên giới.
Phát triển các dịch vụ hỗ trợ thương mại
Phát triển không gian lãnh thổ và các khu
dân cư.
Mô hình tổ chức (i) Cấp độ 1: Thiết lập các phương tiện và
hoạt động hỗ trợ cho SBEZ tại một trong hai
hoặc cả hai phía biên giới
Đây là mô hình đơn giản căn cứ vào những
lợi thế so sánh của hai khu vực tiếp giáp
giữa Thái Lan và các nước láng giềng và có
thể giao thương bên ngoài với các quốc gia
khác.
(ii) Cấp độ 2: Phát triển các chuỗi giá trị
xuyên biên giới và cơ sở hạ tầng cứng/mềm
để hỗ trợ SBEZ
Sự hợp tác xuyên biên giới thể hiện ở việc
phát triển hoặc nâng cấp cơ sở hạ tầng giao
thông như đường sắt hoặc đường bộ hỗ trợ
cho thương mại dọc một khu vực biên giới
cụ thể.
(iii) Cấp độ 3: Cấp độ 3: Mở rộng giao
thương, đầu tư xuyên biên giới, phát triển
các dịch vụ trong SBEZ
Là mô hình toàn diện hơn gồm giao thương
và đầu tư xuyên biên giới, các dịch vụ, trung
tâm đào tạo, sự phát triển buôn bán và công
nghiệp, và tài chính.
Mô hình khu BEZ biệt lập
Là Khu BEZ có hàng rào cứng cách ly với
bên ngoài, không có dân sinh sống, thường
là có quy mô nhỏ. Quan hệ trao đổi hàng
hóa, dịch vụ giữa BEZ và thị trường trong
và ngoài nước là quan hệ xuất khẩu, nhập
khẩu; có tổ chức Hải quan thực hiện việc
kiểm tra, giám sát.
Mô hình khu BEZ thông thường
BEZ này có dân cư sinh sống, thường có
quy mô lớn, không có hàng rào cứng cách
ly với bên ngoài. Có nhiều phân khu chức
năng. Phía bên kia biên giới có thể có hoặc
không có khu kinh tế đối xứng.
Mô hình khu hợp tác kinh tế biên giới
Được thành lập trên cơ sở hai khu BEZ đối
xứng nhau qua cửa khẩu biên giới, có diện
tích rộng lớn, có dân cư sinh sống, được
cách ly với bên ngoài bởi địa hình tự nhiên
hoặc (có thể kết hợp cả với những bức
tường rào cứng) và hoạt động theo cơ chế,
chính sách chung.
8
Chính vì vậy, trong thời gian tới, các khu
kinh tế cửa khẩu của Việt Nam vẫn sẽ hoạt
động một cách độc lập, nhưng chính phủ và
chính quyền địa phương ở Việt Nam cần tập
trung hơn vào xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ
tầng giao thông, phát triển logistics vùng biên
giới [6], phát triển theo cả chiều rộng và chiều
sâu các hoạt động hợp tác kinh tế giữa BEZ ở
hai bên biên giới, tạo đà cho việc hình thành
CBEZ linh hoạt, bền vững với những ưu điểm
là khu phi thuế quan lớn, bố trí đầy đủ các chức
năng theo yêu cầu và đảm bảo dây chuyền tập
trung; giao thông luồng hàng, luồng người riêng
biệt; kết nối tốt với các dự án đã được phê
duyệt; khu kiểm soát trên cầu đạt cao.
Thứ hai, đối với các BEZ khác. Chính
quyền địa phương cần có quy hoạch cụ thể các
phân khu chức năng để kêu gọi đầu tư đầu tư
phát triển cơ sở hạ tầng và phát triển sản xuất.
Trên cơ sở đó, mới mở rộng khả năng trao đối
hàng hóa, dịch vụ với các địa phương bên kia
bên giới. Từ chiến lược phát triển SBEZ của
Thái Lan cho thấy, chính phủ Thái Lan cam kết
chú trọng nhiều hơn vào các dự án xây dựng
đường sắt kết nối các vùng tiếp giáp biên giới
để thúc đẩy thương mại và đầu tư xuyên
biên giới.
4. Kết luận
Thực tiễn trong thời gian qua cho thấy, cho
dù tồn tại dưới hình thức nào đi nữa, vai trò của
khu kinh tế biên giới đối với phát triển kinh tế -
xã hội vùng biên giới của mỗi quốc gia là
không thể phủ nhận. Trường hợp của Thái Lan
cho thấy, kế hoạch thành lập SBEZ với mục
tiêu thông qua các SBEZ để thu hút vốn đầu tư
N.T. Minh, H.V. Hoi / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 4 (2019) 18-29
29
từ các nền kinh tế lớn trong khu vực như Trung
Quốc và Nhật Bản, được coi là hướng đi đúng
hướng. Mặc dù, kế hoạch thành lập SBEZ của
Thái Lan, cho đến nay đã phải điều chỉnh. Tuy
nhiên, nó vẫn có giá trị tham khảo đối với Việt
Nam trong việc định hướng phát triển các khu
kinh tế cửa khẩu nhằm phát triển BEZ và hình
thành các CBEZ phù hợp với đặc điểm kinh
tế - xã hội của địa phương.
Tài liệu tham khảo
[1] Montague Lord, Pawat Tangtrongita, Scoping
Study for the Special Border Economic Zone
(SBEZ) in the Indonesia-Malaysia-Thailand
Growth Triangle (IMT-GT) Final Report 15 May
2014, 2014.
[2] Ministry of Planning and Investment, Synthesis
report of Project of development planning of BEZ
Vietnam to 2020, Hanoi, 2008. (in Vietnamese).
[3] Tran Bau Ha, State management of Cau Treo
international border-gate economic zone, Doctoral
thesis in Economics, 2017. (in Vietnamese).
[4] Pham Si Thanh, “Economic cooperation zones
across the border with China: How does the
model of ‘two countries one zone’ work”,
2017, https://www.thesaigontimes.vn/266349/khu
-hop-tac-kinh-te-qua-bien-gioi-voi-trung-quoc-
mo-hinh-hai-nuoc-mot-khu-dang-di-toi-dau.html/,
accessed on 15 November 2018. (in Vietnamese).
[5] Doan Cong Khanh, “Vietnam - China cross-
border economic cooperation zone: The current
situation and prospects”, 2017,
ngoai-va-hoi-nhap/2017/43021/Khu-hop-tac-kinh-
te-qua-bien-gioi-Viet-Nam-Trung.aspx, accessed
on 15 November 2018. (in Vietnamese).
[6] Nikkei Asian Review, “Thailand scraps the
ambition of SEZ cause of inefficiency”, 2018,
[7] https://ndh.vn/vi-mo/thai-lan-tu-bo-tham-vong-ac-
khu-kinh-te-vi-kem-hieu-qua-1239066.html/,
2018 (accessed on 15 November 2018).
(in Vietnamese).
F
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kinh_nghiem_phat_trien_dac_khu_kinh_te_bien_gioi_cua_thai_la.pdf