Thứ ba, cơ chế pháp lý phòng,
chống mua bán người cần phải được vận
hành lồng ghép với các chương trình
mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội,
chú trọng công tác phòng ngừa
Mua bán người là hành vi không
những được xác định là tội phạm mà còn
phải được xác định và nhìn nhận là vấn đề xã
hội cần phải giải quyết. Tội phạm nảy sinh
từ những vấn đề cấp bách của đời sống xã
hội, từ vấn đề đói nghèo, từ động cơ mong
muốn thoát nghèo, từ những nhân tố bất ổn,
bất bình đẳng tồn tại trong xã hội. Do vậy,
việc giải quyết nó cũng phải đi từ xã hội, giải
quyết những tồn tại, vướng mắc nảy sinh
trong lòng xã hội. Bên cạnh việc nâng cao
dân trí, trang bị kỹ năng nhận biết, phòng
tránh cũng như đầu tư cho lực lượng chuyên
trách thì không thể không thể đến việc triển
khai và thực hiện các chương trình, chính
sách phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo
bền vững, phòng tránh các hình thức di cư
không an toàn. Các quốc gia cần phối kết
hợp triển khai các mô hình phòng ngừa các
hành vi mua bán người và các chương trình
liên kết giữa các quốc gia thúc đẩy phát triển
kinh tế, bình đẳng giới và đẩy mạnh hoạt
động giáo dục, nâng cao nhận thức cộng
đồng về tội phạm mua bán người.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 235 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng cơ chế pháp lý phòng, chống mua bán người: Bài học đối với Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
58 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG XÂY DỰNG CƠ CHẾ
PHÁP LÝ PHÒNG, CHỐNG MUA BÁN NGƯỜI: BÀI HỌC
ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Đỗ Thị Lý Quỳnh*
Ngày tòa soạn nhận được bài báo:5/9/2019
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 5/3/2020
Ngày bài báo được duyệt đăng: 25/3/2020
Tóm tắt: Hiện nay, tội phạm mua bán người đang diễn biến hết sức phức tạp. Đây
không chỉ là vấn đề của mỗi quốc gia, mỗi khu vực mà còn là vấn đề của quốc tế. Điều này,
đòi hỏi mỗi quốc gia phải hình thành những cơ chế pháp lý hữu hiệu đồng bộ và tương thích
với quy định quốc tế trong đấu tranh với tội phạm buôn bán người. Việc nghiên cứu kinh
nghiệm của các quốc gia, trong đó có các quốc gia có mối liên quan chặt chẽ tới tình hình
mua bán người ở Việt Nam như là Trung Quốc, Philipin và Thái Lan, là kênh tham khảo để
Việt Nam có thể hoàn thiện cơ chế pháp lý (CCPL) phòng, chống mua bán người trong thời
gian tới.
Từ khóa: mua bán người, cơ chế pháp lý, vấn đề quốc gia và quốc tế, Việt Nam.
* Học Viện An ninh Nhân dân
Đặt vấn đề
Nghị định thư về phòng ngừa, trấn
áp và trừng trị buôn bán người, đặc biệt
là phụ nữ và trẻ em (Nghị định thư TIP)
bổ sung cho Công ước của Liên Hợp quốc
về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc
gia (Công ước TOC) là văn bản có ý nghĩa
tiến bộ nhất cả về mặt chính trị và pháp
lý, là cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng
cho việc tăng cường hợp tác quốc tế trong
lĩnh vực đấu tranh phòng, chống buôn bán
người cũng như trong việc bảo vệ nạn
nhân. Nghị định này được Liên hiệp quốc
thông qua vào ngày 15/11/2000 và là cơ
sở để các quốc gia soi chiếu và hoàn thiện
pháp luật về phòng, chống mua bán người.
Tuy nhiên, hiện nay mỗi quốc gia đã hình
thành nên các cơ chế pháp lý riêng biệt
để phòng, chống mua bán người. Do vậy,
việc nghiên cứu CCPL của các quốc gia
trong đó nổi bật là Trung Quốc, Thái Lan,
Philipin là một trong những kênh soi chiếu
để vận dụng vào việc hoàn thiện CCPL
phòng, chống mua bán người ở Việt Nam.
Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Mở Hà Nội 65 (3/2020) 58-64
59Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
1. Cơ chế pháp lý phòng, chống
mua bán người của một số quốc gia trên
thế giới
1.1. Tại Trung Quốc
Tại Điều 240 BLHS nước Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa 1997 quy định các
mức phạt đối với từng hành vi buôn bán
phụ nữ, trẻ em trong đó mức phạt cao nhất
lên đến tử hình và tịch thu toàn bộ tài sản
của đối tượng phạm tội.
Tuy nhiên, hiện nay Trung Quốc chỉ
coi hành vi bóc lột tình dục, cưỡng bức lao
động, lấy nội tạng là mua bán người mà
không coi hành vi giao người, nhận tiền
thông qua việc cưới là mua bán người.
Trong khi nhu cầu chủ yếu của Trung Quốc
là mua bán cô dâu nhằm giải quyết sự thiếu
hụt nữ giới ở nước này. Đây cũng là một
khó khăn trong công tác phối hợp cũng
như ngăn chặn các hành vi mua bán người
từ Việt Nam.
Ngoài ra, pháp luật Trung Quốc tại
Điều 241 BLHS còn quy định về hành vi
mua phụ nữ, trẻ em bị đem bán thì bị xử
phạt từ 3 năm, cải tạo lao động hoặc bị
quản chế. Nhưng nếu không ngăn cản họ
trở về nơi cư trú cũ theo nguyện vọng của
họ, không có hành vi lạm dụng trẻ em bị
đem bán, không ngăn cản các nỗ lực giải
thoát cho họ thì có thể không bị truy cứu
trách nhiệm hình sự.
Điều 242 quy định về hành vi dùng
bạo lực hoặc uy hiếp ngăn cản nhân viên
thi hành công vụ nhà nước giải thoát cho
phụ nữ, trẻ em bị đem bán.
Điều 416 quy định trách nhiệm của
nhân viên trong các cơ quan nhà nước trong
giải cứu phụ nữ và trẻ em. Nếu không tiến
hành giải cứu khi có thông tin sẽ bị phạt tù
đến 5 năm hoặc cải tạo lao động. Nếu ngăn
cản việc giải cứu sẽ phạt tù từ 2 năm đến 7
năm hoặc cải tạo lao động.
Như vậy, rõ ràng mặc dù quy định
pháp luật về tội buôn bán phụ nữ trẻ em
khá nặng với hình phạt cao nhất là tử hình
nhưng nhìn chung quy định này còn những
khác biệt cơ bản so với nghị định thư ở cả
hành vi, phương thức và mục đích.
Ngoài ra, luật Trung Quốc còn có
thiếu sót khi nam giới không được đề cập
là nạn nhân và Trung Quốc mặc dù là đích
đến của tội phạm mua bán người và các
hành vi mua bán người trong quốc gia
diễn biến phức tạp nhưng Trung Quốc vẫn
chưa có luật phòng, chống mua bán người
như các nước trong khu vực và các nhà
quản lý Trung Quốc thường xây dựng các
kế hoạch, phương án phòng chống mua
bán người qua các từng giai đoạn và hiện
nay là giai đoạn 2013-2020.
Trẻ em vị thành niên theo quy định
pháp luật Trung Quốc là dưới 18 tuổi.
1.2. Tại Thái Lan
Thái Lan đã ban hành Luật phòng,
chống buôn bán người từ năm 2008 gồm
57 điều trong đó đưa ra khái niệm về buôn
bán người, về mức hình phạt cụ thể đối
với từng hành vi, về hỗ trợ nạn nhân và
hợp tác quốc tế cũng như thành lập Ủy
ban chống buôn bán người và quỹ buôn
bán người. Định nghĩa về buôn bán người
60 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
của Thái Lan tương đồng với các cách
định nghĩa của Nghị định thư về hành vi
tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp, mua
bán, chuyển giao cùng phương thức như
ép buộc, cưỡng bức, bắt cóc, lừa gạt, sử
dụng vũ lực và nhấn mạnh yếu tố bóc lột.
Về hình phạt, pháp luật Thái Lan quy định
hình phạt dựa vào độ tuổi của nạn nhân
cũng như đối tượng thực hiện hành vi
phạm tội. Cụ thể như sau:
Mua bán người phạt tù từ 4 - 10
năm, phạt tiền từ 56 triệu đến 140 triệu
đồng (quy ra tiền Việt Nam);
Nạn nhân từ 15 - 18 tuổi: phạt tù từ
6 - 12 năm, phạt tiền từ 84 triệu đến 168
triệu đồng;
Nạn nhân dưới 15 tuổi: phạt tù từ 8
đến 15 năm, phạt tiền từ 112 triệu đến 210
triệu đồng.
Đặc biệt, nếu là tội phạm có tổ chức
thì các thành viên phải chịu hình phạt
năng hơn gấp 1/2 lần hình phạt mà pháp
luật quy định.
Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới Thái
Lan, hoặc tội phạm được thực hiện bởi các
cán bộ nhà nước thì xử phạt gấp 2 lần hình
phạt mà pháp luật quy định.
Cán bộ trực tiếp làm công tác chống
buôn bán người, cán bộ làm công tác thực
thi pháp luật tham gia buôn bán người thì
sẽ bị xử phạt gấp 3 lần hình phạt mà pháp
luật quy định.
Thái Lan quy định khá chặt chẽ, cụ
thể và hướng tới tăng nặng hình phạt đối
với những hành vi được thực hiện bởi tội
phạm có tổ chức, bởi đưa nạn nhân ra khỏi
biên giới, bởi người trong bộ máy nhà
nước. Thái Lan cũng quy định trách nhiệm
hình sự của các pháp nhân.
Ngoài ra, luật này còn quy định các
chế tài cụ thể nhằm ngăn ngừa việc lộ bí
mật của nạn nhân. Bên cạnh đó, cá nhân,
tổ chức cung cấp tài sản, nơi hội họp cho
những đối tượng buôn bán người thì có
thể sẽ bị xét thêm tội trong Luật chống rửa
tiền và tịch thu hết tài sản thu được.
Thái lan đã thành lập 2 Ủy ban
về vấn đề này, đó là Ủy ban quốc gia
chống buôn bán người và Ủy ban điều
phối và giám sát công tác phòng, chống
buôn bán người với những nhiệm vụ cơ
bản như: ủy ban quốc gia chống buôn
bán người có trách nhiệm tư vấn cho
chính phủ trong ban hành pháp luật,
tổ chức bộ máy, hợp tác quốc tế. Ủy
ban điều phối và giám sát có nhiệm vụ
giám sát việc thực hiện chính sách pháp
luật, giám sát việc tổ chức và thực hiện
nhiệm vụ, thúc đẩy nâng cao nhận thức
và đào tạo cán bộ đáp ứng yêu cầu. Ủy
ban quốc gia chống buôn bán người
do Thủ tướng làm chủ tịch và các bộ
trưởng khác là thành viên. Ủy ban điều
phối và giám sát do Phó Thủ tướng làm
chủ tịch và Phó Chủ tịch là Bộ trưởng
bộ an ninh con người và phát triển xã
hội, vận hành đường dây nóng 1300
hoạt động 24/7.
Ngoài ra, Thái Lan cũng thành lập
quỹ buôn bán người từ việc tịch thu tài sản
do phạm tội buôn bán người có và sự ủng
hộ của các xã hội để từ đó hỗ trợ cho các
nạn nhân của buôn bán người.
61Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
1.3. Tại Philippin
Ngày 30/9/2003 luật chống buôn
bán người - đạo luật số 9208 ra đời đánh
dấu quyết tâm của chính phủ Philipin trong
việc đảm bảo quyền con người và phòng,
chống mua bán người. Luật này đã đưa ra
định nghĩa về buôn bán người tại Điều 3 -
định nghĩa khá tương đồng với định nghĩa
của Nghị định thư với 3 dấu hiệu về hành
vi, phương thức và mục đích. Định nghĩa
các hành vi cụ thể từ giới thiệu, môi giới,
lợi dụng hợp đồng hôn nhân, tổ chức các
tour du lịch, nhận nuôi trẻ em, lừa gạt bắt
cóc nhằm mục đích mua bán người.
Tuy nhiên, luật này còn quy định về
các hành vi thúc đẩy việc buôn bán người
(Điều 5) như cung cấp nhà ở, lưu trú; cung
cấp giấy tờ giả; quảng cáo, in ấn tài liệu
phục vụ mua bán người; và đáng chú ý là
việc coi hành vi “cố ý thu lợi về tài chính
hoặc lợi ích khác từ lao động hoặc dịch vụ
của một người trong tình trạng như nô lệ,
lao động cưỡng bức hoặc nô lệ, hoặc lợi
dụng lao động hoặc dịch vụ đó”.
Tại Điều 6, quy định các hành vi mua
bán người được coi là nghiêm trọng khi
mua bán trẻ em; tội phạm có tổ chức hoặc
với 3 nạn nhân trở lên; đối tượng phạm tội
là bố mẹ, anh chị em, cán bộ công chức.
Điều 7 quy định về việc bảo vệ nạn
nhân, bảo mật thông tin nạn nhân
Điều 10 quy định về các hình phạt
cụ thể như: hành vi mua bán người bị phạt
tù 20 năm, phạt tiền từ 1 - 2 triệu pesos;
các hành vi thúc đẩy bị phạt tù 15 năm và
phạt tiền từ 5 trăm nghìn - 1 triệu pesos;
các hành vi mua bán người nghiêm trọng
sẽ bị tù chung thân và phạt tiền từ 2-5
triệu pesos; hành vi vi phạm về bảo mật
thông tin nạn nhân bị phạt đến 6 năm và
phạt tiền từ 5 trăm nghìn - 1 triệu pesos.
Vi phạm điều 6 hình phạt có thể lên đến
chung thân, phạt tiền từ 2 - 5 triệu pesos.
Vi phạm điều 7 hình phạt lên tới 6 năm tù,
phạt tiền từ 500 nghìn - 1 triệu pesos.
Ngoài ra, pháp luật Philipin còn
quy định rõ trách nhiệm của các pháp
nhân tập đoàn hiệp hội, công ty, câu lạc
bộ hay bất kỳ pháp nhân nào vi phạm thì
chủ công ty, người quản lý cũng phải chịu
hình phạt, tước giấy phép kinh doanh
vĩnh viễn. Hoặc cán bộ không tuân thủ
các quy định trong luật sẽ bị đuổi việc và
chấm dứt mọi quyền lợi.
Đặc biệt, tại Điều 11 quy định nếu
sử dụng nạn nhân, dịch vụ do hành vi buôn
bán người gây ra vì mục đích mại dâm nếu
phạm tội lần đầu sẽ bị phạt 6 tháng lao
động công ích, 50.000 pesos; phạm tội
lần thứ hai trở lên sẽ bị phạt 1 năm tù và
100.000 pesos.
Năm 2012, bằng đạo luật số 10364,
chính phủ Philipin đã sửa đổi bổ sung một
số điều trong luật phòng, chống mua bán
người năm 2003 nhưng những vấn đề cốt
lõi nêu trên không bị thay đổi.
Đạo luật này cũng cho phép
Philipin thành lập ủy ban liên ngành
phòng chống buôn bán người do Bộ
trưởng Bộ Tư pháp và bộ trưởng Bộ
Phúc lợi và phát triển xã hội đồng chủ
tịch, có trách nhiệm phối kết hợp với tất
cả các bộ ban ngành khác trong chính
62 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
phủ nhằm thực hiện nhiệm vụ phòng,
chống buôn bán người, đề ra chương
trình, xây dựng pháp luật, giám sát, điều
phối hoạt động, tuyên truyền giáo dục,
giải đáp vướng mắc và triển khai các
chương trình tái hòa nhập cho nạn nhân.
Ngoài ra, Philipin còn thành lập các đội
đặc nhiệm phòng, chống buôn bán người
ở những nơi có nguy cơ cao về hoạt động
buôn bán người như ở bến cảng, sân
bay và khu vực biên giới và vận hành
Trung tâm tội phạm xuyên quốc gia là
đấu mối thống nhất tiếp nhận tin tức, lưu
trữ thông tin và điều phối hoạt động về
phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia.
Đặc biệt, luật chống buôn người của
Philipin rất chú trọng tới việc bảo vệ nạn
nhân hỗ trợ nạn nhân tái hòa nhập cộng
đồng thông qua việc thành lập quỹ ủy thác
từ số tiền thu được trong cuộc đấu tranh
chống buôn bán người và số tiền do các cá
nhân tổ chức ủng hộ để tập trung vào tái
hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân, đào tạo
dạy nghề cũng như tư vấn, khám sức khỏe
cho nạn nhân. Cấp phép cho các tổ chức
nước ngoài tham gia vào hoạt động tái hòa
nhập cộng đồng cho nạn nhân và coi giấy
chứng nhận nạn nhân của các tổ chức này
cấp là cơ sở để thực hiện các biện pháp hỗ
trợ nạn nhân.
2. Các giá trị tham khảo đối với
Việt Nam
Sau khi tham khảo từ hệ thống pháp
luật, tổ chức bộ máy, cách thức tổ chức
vận hành lực lượng phòng, chống mua
bán người ở Trung Quốc, Thái Lan và
Philippin. Sự khác biệt trong quy định pháp
luật, trong tổ chức bộ máy đã cho thấy sự
phức tạp, khó khăn trong hoạt động hợp
tác quốc tế. Bên cạnh những khác biệt thì
việc nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn từ
các quốc gia này đã mang lại những giá trị
tham khảo nhất định cho Việt Nam trong
việc hoàn thiện CCPL phòng chống mua
bán người trong thời gian tới.
Thứ nhất, cần xây dựng hệ thống
pháp luật phòng, chống tội phạm mua bán
người đồng bộ với quy định quốc tế trong
đó phát huy hiệu quả hoạt động của các
tổ chức phi chính phủ cũng như xây dựng
quỹ ủy thác dành cho nạn nhân.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội
nhập sâu rộng như hiện nay, việc đồng
bộ và phù hợp với pháp luật quốc tế là
nền tảng cơ bản trong mọi quá trình hợp
tác và đặc biệt quan trọng trong đấu tranh
với tội phạm xuyên quốc gia trong đó có
tội phạm mua bán người. Việc nội luật
hóa các công ước và nghị định thư mà
Việt Nam ký kết không những là đòi hỏi
có tính nguyên tắc được quy định trong
Công ước Viên 1969 mà Việt Nam ký kết
tham gia mà còn là hoạt động phù hợp
với pháp luật Việt Nam (Luật điều ước
quốc tế 2016). Hệ thống pháp luật đồng
bộ với quy định quốc tế nhưng cũng cần
đồng bộ phù hợp với hệ thống pháp luật
hiện hành từ hình sự hóa các hành vi
trong mua bán người đến tổ chức bộ máy,
cách thức vận hành, hoạt động công vụ,
biện pháp hợp tác quốc tế, trình tự thủ
tục giải cứu, xác minh, tiếp nhận và tái
hòa nhập cộng đồng cùng việc đồng bộ
với các luật liên quan như luật lao động,
63Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
luật hôn nhân và gia đình, luật xuất nhập
cảnh....Cần xây dựng cơ chế để các tổ
chức có tư cách pháp nhân cũng phải chịu
trách nhiệm do những hành vi mua bán
người và thu lợi từ hành vi này gây ra.
Cần gắn trách nhiệm của mỗi các nhân,
tổ chức trong việc cung ứng và thu lợi
từ hoạt động này. Việt Nam cần nghiên
cứu tạo dựng nguồn kinh phí từ việc tịch
thu tài sản do hoạt động phạm tội mà có
để trợ giúp nạn nhân, cũng như nghiên
cứu mô hình cấp phép cho các tổ chức
phi chính phủ được quyền giám hộ các
nạn nhân được giải cứu. Cần phải thống
nhất độ tuổi trẻ em là dưới 18 tuổi để có
cơ sở thực hiện hợp tác đấu tranh. Đồng
thời, cũng cần xem xét trách nhiệm hình
sự của các pháp nhân có liên quan đến
hành vi mua bán người.
Tuy nhiên, trong giai đoạn tới nạn
nhân Việt Nam vẫn chủ yếu bị mua bán
và đưa sang Trung Quốc, trong khi đó
Trung Quốc có hệ thống pháp luật khác
biệt không tương đồng với quy định của
Nghị định thư cũng như quy định pháp
luật Việt Nam, đáng chú ý là Trung Quốc
không coi hành vi giao người nhận tiền
thông qua việc cưới là mua bán người
đã gây trở ngại rất lớn trong việc phối
hợp đấu tranh. Việc này trong thời gian
ngắn cũng khó được cải thiện như mong
muốn vì những vấn đề nội tại trong chính
xã hội Trung Quốc. Vì vậy, dẫn đến có
vụ việc Việt Nam xác định là mua bán
người, nhưng Trung Quốc lại cho rằng
hợp pháp. Do vậy, lực lượng chức năng
cần tích cực triển khai các biện pháp, các
phương án đấu tranh thích hợp như thực
hiện tốt hơn nữa việc tuyên tuyền giáo
dục nâng cao nhận thức cộng đồng, quản
lý đối tượng cũng như tăng cường hoạt
động tuần tra kiểm soát biên giới nhằm
đẩy mạnh ngăn chặn hành vi mua bán
người từ trong nội địa.
Thứ hai, cần nghiên cứu thành lập
các lực lượng chuyên trách có chức năng
đấu tranh với tội phạm xuyên quốc gia
trong đó có tội phạm mua bán người.
Để vận hành hiệu quả CCPL phòng,
chống mua bán người, hệ thống cần được
vận hành thông suốt từ trung ương đến địa
phương do một trong những người đứng
đầu chính phủ phụ trách nhằm huy động
được tối đa các nguồn lực, phân bổ lực
lượng, tổ chức từ việc ra chủ trương, kế
hoạch, chương trình đến vận hành, kiểm tra
và giám sát, từ tổ chức thực hiện đến hợp
tác quốc tế. Do vậy, để cơ chế vận hành
có hiệu quả trên thực tế tránh phân tán
lực lượng cần thành lập lực lượng chuyên
trách phụ trách đấu tranh với tội phạm
xuyên quốc gia trong đó có tội phạm mua
bán người nhằm tạo đầu mối điều phối các
hoạt động đấu tranh, hợp tác quốc tế.
Để tạo dựng một CCPL toàn diện,
đồng bộ, phù hợp có hiệu quả cao không
thể không kể đến những cán bộ có năng
lực, có kinh nghiệm được đào tạo bài bản,
chuyên sâu. Việc đào tạo này cần được tiến
hành nhiều cấp từ đào tạo tại các trường
chuyên biệt, đào tạo qua trao đổi kinh
nghiệm, trong tập huấn nâng cao tay nghề,
đào tạo qua hội thảo trong và ngoài nước.
Đặc biệt trong đấu tranh với tội phạm có
tổ chức, xuyên quốc gia thì việc đào tạo
64 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
nâng cao nhận thức về pháp luật quốc tế
cũng như pháp luật nước liên quan, cách
thức kỹ năng trong quan hệ quốc tế được
đặc biệt coi trọng. Mặt khác, do địa bàn
phạm tội, địa bàn trung chuyển của tội
phạm chủ yếu là vùng biên giới, hải đảo
địa bàn phức tạp với chủ yếu là người dân
tộc thiểu số trình độ nhận thức thấp cũng
như điều kiện kinh tế khó khăn do vậy để
hoạt động hiệu quả trong vùng này cán bộ
làm công tác phòng, chống cần biết tiếng
dân tộc, phong tục tập quán, tâm tư của
đồng bào cùng những kỹ năng truyền tải
vận động người có uy tín, già làng, trưởng
bản cùng người dân trong phong trào toàn
dân bảo vệ an ninh trật tự. Các kỹ năng
này cần được đào tạo không chỉ với những
cán bộ trực tiếp tham gia đấu tranh phòng,
chống mua bán người mà còn cả hệ thống
chính trị, các đoàn thể trong đó tập trung
vào hội phụ nữ, đoàn thanh niên...
Thứ ba, cơ chế pháp lý phòng,
chống mua bán người cần phải được vận
hành lồng ghép với các chương trình
mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội,
chú trọng công tác phòng ngừa
Mua bán người là hành vi không
những được xác định là tội phạm mà còn
phải được xác định và nhìn nhận là vấn đề xã
hội cần phải giải quyết. Tội phạm nảy sinh
từ những vấn đề cấp bách của đời sống xã
hội, từ vấn đề đói nghèo, từ động cơ mong
muốn thoát nghèo, từ những nhân tố bất ổn,
bất bình đẳng tồn tại trong xã hội. Do vậy,
việc giải quyết nó cũng phải đi từ xã hội, giải
quyết những tồn tại, vướng mắc nảy sinh
trong lòng xã hội. Bên cạnh việc nâng cao
dân trí, trang bị kỹ năng nhận biết, phòng
tránh cũng như đầu tư cho lực lượng chuyên
trách thì không thể không thể đến việc triển
khai và thực hiện các chương trình, chính
sách phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo
bền vững, phòng tránh các hình thức di cư
không an toàn. Các quốc gia cần phối kết
hợp triển khai các mô hình phòng ngừa các
hành vi mua bán người và các chương trình
liên kết giữa các quốc gia thúc đẩy phát triển
kinh tế, bình đẳng giới và đẩy mạnh hoạt
động giáo dục, nâng cao nhận thức cộng
đồng về tội phạm mua bán người.
Tài liệu tham khảo:
[1]. Đinh Bích Hà dịch (2007), Bộ luật hình
sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa,
Nxb Tư Pháp, Hà Nội. tr.159
[2]. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Luật phòng, chống mua bán người 2011
[3]. Bộ Tư pháp (2013), hội thảo “Quy định của
Bộ luật hình sự 1999 về tội mua bán người, tội
mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em -
thực trạng và kiến nghị hoàn thiện”
[4]. Liên hiệp quốc (2000), Nghị định thư
Phòng ngừa, trừng trị, trấn áp tội buôn bán
người, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em.
[5].
Philippines/RA%209208%20-%20Anti-
Traffi cking%20Law.pdf
[6]. https://www.offi cialgazette.gov.ph/2013/
02/06/republic-act-no-10364/
Địa chỉ tác giả: Trung tâm Lưu trữ và Thư
viện - Học viện ANND
Email: doquynh83@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kinh_nghiem_quoc_te_trong_xay_dung_co_che_phap_ly_phong_chon.pdf