KẾT LUẬN
Kinh nghiệm và khả năng ứng dụng thống
kê trong nghiên cứu khoa học của học viên nội
trú và cao học trường Đại học Y Hà Nội vẫn còn
hạn chế.Tỷ lệ các học viên có thể hoàn toàn tự tin
trong phiên giải giá trị; trong khả năng tự tin tiến
hành phân tích xử lý số liệu áp dụng các thuật
toán thống kê; trong khả năng phiên giải một số
test thống kê cơ bản và trong khả năng đánh giá
đúng sai việc ứng dụng thống kê trong các
nghiên cứu rất thấp (tất cả đều dưới 10%).
Một số yếu tố ảnh hưởng đến quan điểm liên
quan đến thống kê và khả năng hiểu về thống
kê của các học viên sau đại học
Có mối liên quan giữa đối tượng học viên
cao học và nội trú với khả năng phiên giải các
kết quả thống kê mô tả (p < 0,05); Những học
viên có đọc, tham khảo các bài báo trong nước
và quốc tế và các báo cáo khoa học có khả
năng ứng dụng thống kê tốt hơn những học
viên chưa từng đọc, tham khảo. Sự khác biệt
này có ý nghĩa thống kê (p < 0,01); Chưa tìm
thấy mối liên quan giữa các yếu tố tuổi, giới,
đối tượng (cao học hay nội trú), đã được đào
tạo về thống kê hay dịch tễ đến khả năng ứng
dụng thống kê của các học viên.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 239 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh nghiệm ứng dụng thống kê y sinh học của học viên cao học và nội trú trường Đại học Y Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 226
KINH NGHIỆM ỨNG DỤNG THỐNG KÊ Y SINH HỌC
CỦA HỌC VIÊN CAO HỌC VÀ NỘI TRÚ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Hoàng Thị Hải Vân*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Ứng dụng thống kê trong các nghiên cứu y học ngày càng được chú trọng và phát triển. Tuy
nhiên, chất lượng của các ứng dụng này vẫn là vấn đề cần được quan tâm. Điều này liên quan với kiến thức và
kinh nghiệm ứng dụng thống kê của các nhà nghiên cứu.
Mục tiêu: Mô tả kinh nghiệm và khả năng ứng dụng thống kê y sinh học của học viên cao học và nội trú
trường Đại học Y Hà Nội khóa học 2012‐2013.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang toàn bộ các học viên cao học khoá 20 và nội trú
khoá 35 của trường Đại học Y Hà Nội.
Kết quả: Có 270 học viên tham gia nghiên cứu, trong đó 80,7% là học viên cao học và 19,3% là học viên nội
trú. Hơn 50% số học viên đã được đào tạo về dịch tễ và thống kê. Đa số các học viên đều cho rằng thống kê rất
quan trọng trong việc ra quyết định, tham khảo tài liệu cũng như y học dựa vào bằng chứng với tỷ lệ trên 90%.
Tuy nhiên, chỉ 1,1 % hoàn toàn tự tin phiên giải các kết quả thống kê mô tả; 6,0% tự tin phiên giải giá trị p,
3,7% tự tin phiên giải test thống kê; 2,2% tự tin tự xử lý số liệu và 0,7% tự tin đánh giá đúng sai của ứng dụng
thống kê.
Kết luận: Khả năng ứng dụng thống kê của các học viên cao học và nội trú của trường Đại học Y Hà Nội
còn hạn chế. Có mối liên quan giữa kinh nghiệm đọc, tham khảo các bài báo với khả năng ứng dụng thống kê của
các học viên (p <0,05).
Từ khóa: ứng dụng thống kê, học viên cao học và nội trú.
ABSTRACT
EXPERIENCE IN APPLIED BIOMEDICAL STATISTICS OF POSTGRADUATE AND RESIDENT
STUDENTS IN HANOI MEDICAL UNIVERSITY
Hoang Thi Hai Van * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 226 ‐ 232
Background: The application of statistics in biomedical studies is increasing and developing. However, the
quality of the application is still a problem that needs to pay attention. It involves knowledge and experience of
researchers in applied biomedical statistics.
Objectives: Describe the experience and the ability in applied biomedical statistics of graduate students and
resident students in Hanoi Medical University school year 2012‐2013.
Methods: A cross‐sectional study was conducted with all graduate students of course 20thand resident
students of course 35thin Hanoi Medical University.
Result: There were 270 students participated in the study, of whom 80.7% werepost‐graduated students and
19.3% were resident students. Over 50% of students had been trained in epidemiology and statistics. The
majority of participants agreed that statistics is important in making decisions, referencing articles as well as in
medicine based on evidences with over 90%. However, only 1.1% was confident to interpret the results of
descriptive statistics, 6.0% could interpret p value, 3.7% was able to interpret test statistics, 2.2% could analyze
data themselves and 0.7% could evaluate the statistical results.
* Viện Đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội
Tác giả liên lạc:Ths. Hoàng Thị Hải Vân ĐT:0912693335 Email: hoangthihaivan@hmu.edu.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 227
Conclusion: The ability in applied biomedical statistics of post graduated and resident students in Hanoi
Medical University was limited. There was an association between their reading experience, reference articles
with the ability in applied statistics of the students (p < 0.05).
Key words: Applied statistics, graduate students and resident students.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thống kê có một vai trò vô cùng quan
trọng trong nghiên cứu khoa học. Theo
Campbel và Machin(2), ứng dụng thống kê có
mặt trong phần lớn các bài báo đăng tải trên
các tạp chí y học: 70% các bài báo đăng tải trên
tạp chí New England Journal of Medicine và
một tỷ lệ tương tự trên tạp chí Bristish Medical
Journal và tạp chí Lancet(3). Bên cạnh đó,
nguyên lý “y học dựa vào bằng chứng” ngày
càng được cộng đồng các nhà khoa học quan
tâm và áp dụng rộng rãi do đó chất lượng các
nghiên cứu y học đăng tải trên các tạp chí hy
vọng ngày càng được cải thiện. Nhiều tạp chí
y học ở các chuyên ngành khác nhau đã tiến
hành các nghiên cứu tổng quan có hệ thống về
các phương pháp thống kê và chất lượng ứng
dụng thống kê trong các bài báo được đăng tải
trên tạp chí như tạp chí American Journal of
Tropical Medicine, New England Journal of
Medicine, Infection and Immunity, Journal of
Infectious Diseases(7) từ năm 1966 đến nay
và kết quả cho thấy các lỗi khi áp dụng các
phương pháp thống kê vẫn còn phổ biến và là
một vấn đề đáng quan tâm bất chấp những
sáng kiến và nỗ lực được thực hiện trong quá
trình phản biện và xét duyệt bản thảo các bài
báo(10).
Nguyên nhân chính dẫn đến các lỗi thống kê
trong các nghiên cứu y học là do các nhà nghiên
cứu thiếu kiến thức hoặc có những cách hiểu
chưa đúng về các phương pháp thống kê dẫn
đến những ứng dụng sai trong các nghiên cứu
của mình(1,6,8). Mặc dù thực tế ngày càng đòi hỏi
các nhà lâm sàng phải có kiến thức về dịch tễ học
và thống kê(9). Tuy nhiên các kiến thức về thống
kê của các nhà lâm sàng vẫn còn nhiều hạn chế(5)
và các số liệu nghiên cứu trong những năm gần
đây cho thấy không có nhiều thay đổi về kiến
thức thống kê của các nhà lâm sàng(9). Vì vậy
chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Kinh nghiệm
ứng dụng thống kê của học viên cao học và nội
trú Trường Đại học Y Hà Nội” với mục tiêu: Mô
tả kinh nghiệm và khả năng ứng dụng thống
kê y sinh học của các học viên cao học, nội trú
và một số yếu tố ảnh hưởng.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Học viên cao học khóa 20 và nội trú năm học
2012 – 2013 trường Đại học Y Hà Nội.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Cỡ mẫu và cách chọn mẫu cho nghiên cứu
Chúng tôi áp dụng kỹ thuật chọn mẫu có
mục đích, nhằm tìm hiểu về kinh nghiệm và khả
năng ứng dụng thống kê của học viên cao học và
nội trú. Do đó, chúng tôi chọn toàn bộ học viên
cao học khóa 20 (326 người) và toàn bộ học viên
nội trú khóa 35 (98 người); tổng cộng là: 424
người; tuy vậy chỉ có 270 học viên phản hồi. Do
đó, cỡ mẫu thu được là 270.
Phương pháp thu thập số liệu
Sử dụng bộ câu hỏi tự điền thiết kế sẵn để
thu thập số liệu. Việc thu thập số liệu được tổ
chức bằng cách tập trung tất cả các học viên sau
đại học do Phòng Đào tạo Sau đại học và nghiên
cứu viên trực tiếp tổ chức. Các học viên được
giải thích rõ mục đích của nghiên cứu và tham
gia trên tinh thần tự nguyện. Các học viên được
hướng dẫn cụ thể cách điền phiếu, sau đó tiến
hành điền phiếu, phiếu được kiểm tra và thu lại
ngay tại chỗ. Mọi thắc mắc liên quan đến nội
dung và cách điền phiếu được Phòng Sau đại
học và nghiên cứu viên giải thích ngay tại chỗ.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 228
Xử lý số liệu
Thông tin chung của cá nhân được nhập vào
Excel và phần mềm EPI Data, xử lý số liệu bằng
phần mềm Excel và STATA 10.0.
KẾT QUẢ
Bảng 1: Đặc điểm đối tượng nghiên cứu (n=270)
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ %
Giới Nam 134 49,6
Nữ 136 50,4
Tuổi 24 – 29 101 37,4
30 – 35 129 47,7
36 – 41 40 14,9
Chương trình Cao học 218 80,7
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ %
đang theo học Nội trú 52 19,3
Đã từng được đào tạo
về dịch tễ học
Có 163 60,4
Không 107 39,6
Đã từng được đào tạo
về thống kê
Có 155 57,4
Không 115 42,6
Nhận xét: Không có sự khác biệt về tỷ lệ giữa
hai giới. Trong các nhóm tuổi thì chủ yếu tập
trung ở nhóm tuổi từ 30 – 34 tuổi với 129 học
viên, chiếm 47,7%. Tỷ lệ học viên cao học chiếm
80,7%, học viên nội trú chiếm 19,3%. Trên 50%
học viên đã từng được đào tạo về dịch tễ học
cũng như thống kê.
Hình 1: Kinh nghiệm đọc, tham khảo các nghiên cứu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 229
Nhận xét: Nhóm đối tượng cao học kinh
nghiệm đọc kết quả nghiên cứu chủ yếu là các
báo cáo khoa học hoặc các bài báo trong nước.
Còn đối tượng nội trú, mức độ tham khảo nhiều
hơn ở các bài báo quốc tế, tỷ lệ chưa từng đọc ở
nhóm này cũng ít hơn nhóm học viên cao học.
Bảng 2: Quan điểm của các học viên về các vấn đề liên quan đến thống kê
Câu hỏi
n (%)
Rất đồng ý
hoặc đồng ý Có thể
Rất không đồng ý/
không đồng ý
Anh/ chị có thể hiểu phần lớn các thuật ngữ thống kê được đưa ra trong các
bài báo
116 (43,0) 61 (22,6) 93 (34,4)
Các kết quả thống kê trong các NC đưa ra đôi khi không đáng tin cậy 133 (49,2) 113 (41,9) 24 (8,9)
Thường sử dụng các thông tin về thống kê trong việc đưa ra các quyết định
trong công việc
165 (61,1) 79 (29,3) 26 (9,6)
Để đọc và tham khảo tài liệu rất cần thiết phải có kiến thức nhất định về thống
kê
251 (92,9) 15 (5,6) 4 (1,5)
Thống kê là một phần rất quan trọng trong NC 267 (98,8) 3 (1,2) 0
Thống kê là một phần rất quan trọng của y học dựa vào bằng chứng 268 (99,3) 2 (0,7) 0
Nhận xét: Hầu hết các học viên đều đồng ý
hoặc rất đồng ý với các quan điểm đưa ra về tầm
quan trọng của thống kê đối với nghiên cứu và y
học dựa vào bằng chứng. Tuy nhiên, tỷ lệ các
học viên hiểu được phần lớn các thuật ngữ
thống kê trong các báo cáo là chưa cao (43%). Tỷ
lệ học viên sử dụng các thông tin về thống kê
trong việc đưa ra các quyết định là 61,1%.
Bảng 3: Khả năng hiểu biết về thống kê và phương pháp NCKH của các học viên
Câu hỏi n (%)
Không biết Một chút Tương đối tốt Phần lớn Hoàn toàn tự tin
Có khả năng phiên giải các số liệu TK mô tả được sử
dụng trong NC 12 (4,4) 150 (55,6) 83 (30,7) 22 (8,2) 3 (1,1)
Có khả năng phiên giải giá trị p 7 (2,6) 120 (44,4) 97 (35,9) 30 (11,1) 16 (6,0)
Có khả năng phiên giải một số test TK cơ bản 5 (1,9) 145 (53,7) 88 (32,6) 22 (8,1) 10 (3,7)
Có khả năng thiết kế được một nghiên cứu hoàn chỉnh 20 (7,4) 166 (61,5) 73 (27) 4 (1,5) 7 (2,6)
Có khả năng tự tiến hành phân tích sử lý số liệu áp
dụng các thuật toán TK 19 (7) 143 (53) 85 (31,5) 17 (6,3) 6 (2,2)
Có khả năng đánh giá đúng sai việc ứng dụng TK vào
các NC 17 (6,3) 165 (61,1) 79 (29,3) 7 (2,7) 2 (0,7)
Nhận xét: Trên 50% số học viên chỉ có khả
năng hiểu biết một chút và khoảng 30% tương
đối tốt về thống kê mô tả, phiên giải giá trị p,
phiên giải test thống kê, tự tiến hành phân tích,
xử lý số liệu và đánh giá đúng sai ứng dụng
thống kê trong các nghiên cứu và phương pháp
nghiên cứu khoa học; khả năng các học viên có
thể hoàn toàn tự tin là rất thấp chưa vượt quá
6%, trong khi các học viên không biết chiếm tỷ lệ
từ 1,9% đến 7,4%.
Bảng 4: Một số yếu tố ảnh hưởng đến khả năng ứng dụng thống kê của các học viên sau đại học
Các yếu tố Có khả năng phiên
giải các số liệu TK
mô tả được sử dụng
trong NC
Có khả năng
phiên giải giá
trị p
Có khả năng
phiên giải một số
test TK cơ bản
Có khả năng tự tiến
hành phân tích, xử lý
số liệu áp dụng các
thuật toán TK
Đánh giá được
đúng sai việc ứng
dụng TK vào các
NC
n (%) p n (%) p n (%) p n (%) p n (%) p
Giới Nam 16 (61,5) 0,16 28
(60,9)
0,06 20 (64,5) 0,06 11 (63,6) 0,13 6 (66,7) 0,26
Nữ 10 (38,5) 18
(39,1)
11 (35,5) 8 (36,4) 3 (33,3)
Tuổi 24-29 18 (69,2) 0,35 28
(62,2)
0,52 19 (63,3) 0,63 13 (59,1) 0,69 5 (55,6) 0,99
30-35 6 (23,1) 11 9 (30) 8 (36,4) 3 (33,3)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 230
Các yếu tố Có khả năng phiên
giải các số liệu TK
mô tả được sử dụng
trong NC
Có khả năng
phiên giải giá
trị p
Có khả năng
phiên giải một số
test TK cơ bản
Có khả năng tự tiến
hành phân tích, xử lý
số liệu áp dụng các
thuật toán TK
Đánh giá được
đúng sai việc ứng
dụng TK vào các
NC
n (%) p n (%) p n (%) p n (%) p n (%) p
(31,1)
36-41 2 (7,7) 3 (6,7) 2 (6,7) 1 (4,5) 1 (11,1)
Đối tượng Cao
học
17 (65,4) 0,04 34
(73,9)
0,23 22 (71) 0,16 16 (72,7) 0,35 8 (88,9) 0,51
Nội trú 9 (34,6) 12
(26,1)
9 (29) 6 (27,3) 1 (11,1)
Đã từng được
đào tạo về
dịch tễ học
Có 14 (54) 0,51 26
(56,5)
0,58 21 (65,6) 0,51 14 (63,6) 0,71 5 (62,5) 0.87
Chưa 12 (46) 20
(43,5)
11 (34,4) 8 (36,4) 3 (37,5)
Đã từng được
đào tạo về TK
y sinh học
Có 15 (60) 0,74 27 (60) 0,64 20 (62,5) 0,50 14 (60,9) 0,69 7 (77,8) 0,19
Chưa 10 (40) 18 (40) 12 (37,5) 9 (39,1) 2 (22,2)
Thường
xuyên đọc các
bài báo tham
khảo
Có 108 (42,9) 0,002 143
(56,7)
0,007 120 (47,6) 0,009 108 (42,9) 0,003 88 (34,9) 0,0002
Chưa
từng
0 3(6,5) 0 0 0
Nhận xét: Không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa các nhóm yếu tố về giới, nhóm
tuổi, thời gian công tác, việc đã từng học dịch tễ
rồi hay chưa, đã từng học thống kê rồi hay chưa
đối với khả năng ứng dụng thống kê của các học
viên. Giữa nhóm ngành cao học và nội trú có sự
khác biệt về khả năng phiên giải các số liệu
thống kê mô tả. Ngoài ra, kinh nghiệm đọc tài
liệu tham khảo có ảnh hưởng đến khả năng ứng
dụng thống kê của các học viên.
BÀN LUẬN
Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Tỷ lệ đối tượng tham gia nghiên cứu trên
tổng số mẫu dự kiến chỉ là 63,7%. Tuy nhiên
trong nghiên cứu này, cỡ mẫu được chọn là toàn
bộ học viên cao học và nội trú của một khóa chứ
không chọn mẫu nên tỷ lệ đáp ứng này là chấp
nhận được. Mặt khác, sau khi kiểm tra thấy số
lượng mẫu bị mất phân bố đều ở các chuyên
ngành nên không ảnh hưởng đến kết quả phân
tích số liệu của nghiên cứu.
Đối tượng cao học của trường chiếm 80,7%
gấp 4 lần so với đối tượng nội trú (19,3%), sự
khác biệt này là do nhu cầu đào tạo và chỉ tiêu
tuyển sinh của nhà trường. Không có sự khác
biệt giữa tỷ lệ giới nam và nữ (49,6% và 50,4%).
Các chuyên ngành của bậc học cao học và nội trú
chủ yếu tập trung vào các ngành Nội, Ngoại và
chuyên khoa lẻ. Nhóm tuổi từ 30–35 tuổi chiếm
tỷ lệ cao nhất với 47,7%.
Thực trạng về kinh nghiệm và khả năng ứng
dụng thống kê của các học viên
Dịch tễ và thống kê là hai môn học có liên
quan chặt chẽ với kiến thức và ứng dụng trong
nghiên cứu khoa học, trong đó bao gồm cả thiết
kế, tiến hành nghiên cứu, viết báo cáo, tham
khảo và đánh giá các bài báo khoa học. Tuy
nhiên, có 39,6% và 42,6% học viên chưa được
đào tạo về dịch tễ và thống kê. Điều này có thể
ảnh hưởng đến khả năng ứng dụng thống kê
của các học viên. Các học viên nội trú có xu
hướng đọc và tham khảo các bài báo nhiều hơn
và tìm hiểu nhiều các tài liệu quốc tế hơn các học
viên cao học, nhưng nhìn chung tỷ lệ tìm kiếm
tài liệu quốc tế còn chưa cao; trong khi đó
nghiên cứu của McColl A và cộng sự cho thấy
các học viên có một mức độ thấp nhận thức về
giải thích các tạp chí, ấn phẩm đánh giá và cơ sở
dữ liệu (chỉ có 40% biết về cơ sở dữ liệu
Cochrane về các tổng quan hệ thống), và ngay cả
khi biết, nhiều người đã không sử dụng chúng(4).
Lý do có thể là do các học viên nội trú đa số là
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 231
các bác sĩ lâm sàng và việc tham khảo tài liệu rất
quan trọng cho công việc lâm sàng của họ trong
việc cập nhật các phương pháp điều trị mới
trong nước cũng như quốc tế.
Chỉ có 43% các học viên có thể hiểu được
phần lớn thống kê trong các nghiên cứu, tỷ lệ
này cao hơn so với nghiên cứu của West và
cộng sự với 23,3% số người được hỏi (70/300)
cho biết họ có thể xác định chính xác các
phương pháp thống kê(9). Có đến 49,3% các học
viên cho rằng các kết quả thống kê trong các
nghiên cứu đưa ra đôi khi không đáng tin cậy,
cho thấy việc tin tưởng vào thống kê trong các
nghiên cứu còn hạn chế. Tỷ lệ các học viên cho
rằng thống kê là một phần rất quan trọng của
y học dựa vào bằng chứng là rất cao chiếm
99,2%; tương đương với nghiên cứu của West
(92,7%)(9); kết quả này cho thấy y học dựa vào
bằng chứng ngày càng trở thành xu hướng tất
yếu trong lĩnh vực y học. Tỷ lệ các học viên có
khả năng tự tiến hành phân tích xử lý số liệu
áp dụng các thuật toán thống kê hoàn toàn tự
tin chỉ là 2,2%, so với nghiên cứu của West là
14,6% cho thấy kinh nghiệm của các học viên
Việt Nam còn quá thấp so với nước ngoài nói
chung và nghiên cứu của West nói riêng.
Khả năng đánh giá đúng sai trong ứng dụng
thống kê trong các nghiên cứu là rất quan trọng
đối với người làm công tác nghiên cứu khoa học
mặc dù đây là công việc rất khó khăn. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng chỉ có 0,7%
các học viên có thể hoàn toàn tự tin đánh giá
đúng sai các ứng dụng thống kê. Khả năng
phiên giải giá trị p có được kết quả khả quan
nhất; số học viên biết và có khả năng phiên giải
là khá cao với 44,4%, 11,1% người có khả năng
phiên giải phần lớn giá trị p và có 5,9% người có
thể hoàn toàn tự tin phiên giải giá trị p, trong khi
đó chỉ có 2,6% số người không biết phiên giải.
Việc phiên giải giá trị p cho đến nay vẫn còn là
vấn đề đáng quan tâm trong giới khoa học. Theo
các nhà nghiên cứu vẫn còn có sự nhầm lẫn
trong việc phiên giải giá trị này của những người
làm khoa học. Tỷ lệ các học viên có khả năng
phiên giải một số test thống kê cơ bản cũng
tương tự như giá trị p với 32,6% và số học viên
không biết thấp hơn với 1,9%.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến khả năng ứng
dụng thống kê của các học viên sau đại học
Có sự khác biệt giữa nhóm học viên cao học
và nội trú về khả năng phiên giải các số liệu
thống kê mô tả được sử dụng trong nghiên cứu,
sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
Ngoài ra yếu tố thường đọc các bài báo trong
nước, quốc tế và các báo cáo khoa học cũng có
ảnh hưởng đến khả năng ứng dụng thống kê
của học viên ở tất cả các mặt từ có khả năng
phiên giải các kết quả thống kê mô tả, phiên giải
giá trị p, phiên giải một số test thống kê đến khả
năng tự tiến hành xử lý, phân tính số liệu có áp
dụng các thuật toán thống kê và khả năng đánh
giá kết quả thống kê trong các bài báo, báo cáo.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng có
sự khác biệt lớn giữa nhóm thường đọc, tham
khảo các bài báo và báo cáo với nhóm chưa từng
đọc, tham khảo. Nhóm chưa từng đọc, tham
khảo các bài báo hầu như chưa có khả năng ứng
dụng thống kê, chỉ một số rất ít có khả năng
phiên giải giá trị p. Và sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê (bảng 4). Chưa tìm thấy mối liên
quan giữa các yếu tố giới, đối tượng học viên,
tuổi, đã được đào tạo về dịch tễ hay thống kê với
khả năng phiên giải p, khả năng phiên giải các
test thống kê, khả năng xử lý số liệu và khả năng
đánh giá các thuật toán thống kê sử dụng trong
các bài báo. Như vậy rõ ràng thông qua việc đọc,
tham khảo các bài báo khoa học trong nước và
quốc tế hoặc các báo cáo khoa học, các học viên
có thể tự nâng cao kiến thức và khả năng ứng
dụng thống kê của mình dù họ đã được đào tạo
về thống kê hay dịch tễ hay chưa được đào tạo
về hai môn học này.
KẾT LUẬN
Kinh nghiệm và khả năng ứng dụng thống
kê trong nghiên cứu khoa học của học viên nội
trú và cao học trường Đại học Y Hà Nội vẫn còn
hạn chế.Tỷ lệ các học viên có thể hoàn toàn tự tin
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 232
trong phiên giải giá trị; trong khả năng tự tin tiến
hành phân tích xử lý số liệu áp dụng các thuật
toán thống kê; trong khả năng phiên giải một số
test thống kê cơ bản và trong khả năng đánh giá
đúng sai việc ứng dụng thống kê trong các
nghiên cứu rất thấp (tất cả đều dưới 10%).
Một số yếu tố ảnh hưởng đến quan điểm liên
quan đến thống kê và khả năng hiểu về thống
kê của các học viên sau đại học
Có mối liên quan giữa đối tượng học viên
cao học và nội trú với khả năng phiên giải các
kết quả thống kê mô tả (p < 0,05); Những học
viên có đọc, tham khảo các bài báo trong nước
và quốc tế và các báo cáo khoa học có khả
năng ứng dụng thống kê tốt hơn những học
viên chưa từng đọc, tham khảo. Sự khác biệt
này có ý nghĩa thống kê (p < 0,01); Chưa tìm
thấy mối liên quan giữa các yếu tố tuổi, giới,
đối tượng (cao học hay nội trú), đã được đào
tạo về thống kê hay dịch tễ đến khả năng ứng
dụng thống kê của các học viên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Altman DG (1998). Statistical reviewing for medical journals.
Statistics in Medicine..17. 2661‐2674.
2. Campbel MJ, Machin D (1999). Medical Statistics ‐ A
commonsense approach. Third ed. West Sussex, England. John
Wiley & Sons. Ltd. Pp.3‐5.
3. Emeson JD (1983). Use of statistical analysis in the New England
Journal of Medicine. New England Journal of Medicine. 309(12).
709‐713.
4. McColl A. et al (1998).General practitionerʹs perceptions of the
route to evidence based medicine: a questionnaire survey. BMJ. 316.
361‐365.
5. O’Donnell CA (2004). Attitudes and knowledge of primary care
professionals towards evidence‐based practice: a postal survey.
Journal Eval Clinical Practice.10. 197‐205.
6. Okeh. UM (2008). Statistical problems in medical research.
African Journal of Biotechnology. 7(25). 4819‐4826.
7. Olsen CH (2003). Review of use of statistics in infection and
immunity. Infection and Immunity. 71. (12) 6689‐6692.
8. Viện Đào tạo Y học dự phòng và Trường Đại học Y Hà Nội
(2011).Một số bất cập khi ứng dụng thống kê và tin học trong
nghiên cứu y học. Nhà xuất bản Y học. Hà Nội. Tr. 134‐143.
9. West CP. Ficalora RD (2007). Clinician attitudes towards
biostatistics. Mayo Clinic Proceeding. 82 (8) 939‐943.
10. Young J (2007). Statistical errors in medical reseach ‐ a chronic
disease? Swiss Medical Weekly. 137. 41‐43.
Ngày nhận bài báo: 7/5/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 14/6/2014
Ngày bài báo được đăng: 14/11/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kinh_nghiem_ung_dung_thong_ke_y_sinh_hoc_cua_hoc_vien_cao_ho.pdf