Kinh tế trang trại Hà Nội trong thời kỳ công nghiệp hóa
Thu nhập của trang trại ngày một tăng. Nông thôn ngoại thành Hà Nội đang
ngày càng đổi mới. Kinh tế trang trại đã và đang góp phần bê tông hóa đường làng
ngõ xóm, thay nhà tranh tre nứa lá bằng những ngôi nhà ngói và nhà cao tầng. Sau
10 năm kinh tế trang trại ở Hà Nội ra đời, nhiều hộ nông dân đã dần dần thoát khỏi
đói nghèo, thậm chí có người đã trở thành những ông chủ trang trại giàu có. Một số
tấm gương điển hình là: ông Nguyễn Văn Tuấn ở Liên Hà (đông Anh); ông Nguyễn
Mạnh Hiệp ở Phù Linh (Sóc Sơn).
Bên cạnh những thuận lợi trên có một số khó khăn mà trang trại Hà Nội đang
phải đối mặt. đó là:
- Quá trình đô thị hóa đang gây nguy cơ thu hẹp diện tích đất nông nghiệp
- Tư tưởng thiếu gắn bó với làm nông nghiệp đang nảy sinh ở nhiều vùng nông thôn
- Tuy có được Ngân hàng NN&PTNT tạo điều kiện cho vay vốn để kinh doanh
sản xuất nhưng số vốn được vay vẫn bị hạn chế, thời hạn được vay chưa dài, thủ tục thế
chấp còn rườm rà. nhiều khi là những trở ngại cho những hộ đang và sẽ làm trang trại.
- Việc thực hiện chính sách cho thuê đất để lập trang trại ở một số xã chưa thật
sự nghiêm túc dẫn đến việc tranh chấp đất đai đang trở nên phổ biến. Việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất còn chậm. đây thực sự là một trở ngại lớn cho các
trang trại hiện nay khi mà họ cần nó để vay vốn tín dụng
- Mặc dù những chủ trang trại được khuyến khích ký hợp đồng với các doanh
nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp quốc doanh nhưng môi trường để thực hiện những
hợp đồng này chưa thực sự phát triển. Một khung pháp lý thực sự cần cho người nông
dân làm trang trại để họ có thể tự chủ và năng động trên thị trường còn chưa đủ.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 274 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh tế trang trại Hà Nội trong thời kỳ công nghiệp hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khoa ðịa lý - 50 năm xây dựng và phát triển
214
KINH TẾ TRANG TRẠI HÀ NỘI
TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA
NGÔ THỊ HẢI YẾN (B)
Khoa ðịa lý, Trường ðHSP Hà Nội
I. ðẶT VẤN ðỀ
Kinh tế trang trại ở Hà Nội xuất hiện vào những năm ñầu của thập kỷ 90 thế kỷ
trước, ñó là thời ñiểm nền nông nghiệp nước ta ñang chuyển sang nền nông nghiệp
sản xuất hàng hóa dựa trên cơ sở công nghiệp hóa và hiện ñại hóa.
Năm 1995 lần ñầu tiên thuật ngữ “kinh tế trang trại” xuất hiện ở một số huyện
ngoại thành Hà Nội. So với các ñịa phương khác trong cả nước, ñặc biệt là các tỉnh
trong vùng ðồng bằng sông Hồng, trang trại ở Hà Nội ra ñời muộn hơn. Trước năm
1995, những trang trại bây giờ vẫn chỉ là những hộ nông dân chuyển từ sản xuất tự
cung tự cấp sang sản xuất nông sản hàng hóa. Con ñường ñi từ kinh tế hộ ñến kinh
tế trang trại ở Hà Nội không nằm ngoài một quy luật chung, ñó là: phải trải một thời
gian dài tích tụ ñất ñai, tiền vốn cùng với sự năng ñộng, nhanh nhạy của những
người chủ gia ñình thì những hộ nông dân sản xuất nông sản hàng hóa mới chuyển
thành trang trại và bản chất của hai hình thức sản xuất ñã thực sự khác biệt. Tuy
nhiên, trang trại ở Hà Nội vẫn có một số ñặc ñiểm riêng trong quá trình hình thành
và phát triển.
II. SỰ PHÁT TRIỂN VÀ PHÂN BỐ CÁC TRANG TRẠI
1. Trên cơ sở những lợi thế có sẵn về mặt tự nhiên cũng như về mặt kinh tế xã
hội, Hà Nội phát triển tương ñối nhanh cả về quy mô và loại hình trang trại
Hình 1. Số trang trại Hà Nội 1998 - 2005
482
446
127145140
203
181
84
0
100
200
300
400
500
600
1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
n¨m
Trang tr¹i
Nghiên cứu khoa học và ñổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy ñịa lý
215
Số lượng trang trại ở Hà Nội giảm mạnh vào thời ñiểm 2000 - 2001, sau ñó lại
tăng nhanh vào thời kỳ 2003 - 2004. Nguyên nhân của sự không liên tục này là do
năm 2002 sự quy ñịnh lại một số tiêu chuẩn trang trại của sở NN và PTNT Hà Nội
và sự xác ñịnh lại ngành nghề sản xuất của một số trang trại. Năm 2003, một số
quận mới của Hà Nội ñược thành lập, diện tích ñô thị ñược mở rộng nhiều trang trại
mới ra ñời nhưng với một hình thức mới (loại hình trang trại mới): trang trại chăn
nuối kết hợp với một ngành dịch vụ; trang trại trồng trọt và trang trại nuôi trồng thủy
sản kết hợp với du lịch sinh thái. Loại hình trang trại này ra ñời ñã ñáp ứng phần nào
nhu cầu vui chơi, du lịch của người dân Hà Nội trong những ngày nghỉ cuối tuần.
Cơ cấu trang trại (%)
Tổng số TT cây
hàng năm
TT cây lâu
năm
TT chăn
nuôi
TT lâm
nghiệp
TT nuôi
trồng thủy
sản
TT kinh
doang
tổng hợp
100 7,3 4,2 29,9 0,6 37,3 20,7
2. Sự phân bố trang trại
Trang trại phát triển mạnh nhất ở Sóc Sơn, ðông Anh và Thanh Trì, nơi có
ñiều kiện thuận lợi về diện tích ñất ñai và diện tích mặt nước. Trang trại trồng cây
hàng năm phân bố nhiều ở ðông Anh và Sóc Sơn. Sản phẩm chủ yếu của loại hình
trang trại là: rau, hoa và cây cảnh. Những tiến bộ khoa học kỹ thuật ñã có mặt ở ñây.
Nhiều giống cây mới ñã ñược ñưa vào trồng trong các trang trại. Một số trang trại
trồng hoa ở xã Tây Tựu huyện Từ Liêm ñã trồng hoa Lyly, ñời F1 ñược nhập từ Hà
Lan; hoa Loa Kèn nhập về từ Trung Quốc. Thời gian sinh trưởng của 2 giống hoa
này từ 100-105 ngày và lãi thu ñược 750 triệu ñồng/ha. Nhiều trang trại trồng rau ñã
nhập giống cà chua từ Hoa Kỳ, bắp cải từ Nhật Bản. Ưu ñiểm nổi bật của 2 giống
rau này là có tính kháng bệnh cao, chất lượng tốt và có thể thu lãi từ 30 - 50 triệu
ñồng/ha. Một số trang trại trồng rau sạch ở huyện ðông Anh như: Ba Tốt, Hợp
Tiến... ñã trồng nhiều giống rau mới, ñộ an toàn cho người tiêu dùng cao. Hàng ngày
sản phẩm của trang trại hầu hết ñược bán buôn cho hệ thống siêu thị ở Hà Nội. Họ
ñã tự xây dựng ñược thương hiệu cho mình và ñang ñược người tiêu dùng Thủ ñô
ñón nhận. Mặc dù ñiều kiện tích luỹ ñất ñai chưa thật ñủ, thời gian thuê lao ñộng
thường xuyên chưa nhiều nhưng loại hình trang trại này ñã có mức thu nhập vượt
trội so với các hộ nông dân khác trong cùng ñịa phương.
80% số trang trại cây lâu năm phân bố ở huyện Sóc Sơn và ðông Anh. Nhãn,
vải, hồng... là những cây trồng chính ở ñây. ðiều này ñược lý giải bởi những giống cây
ăn quả này phù hợp với loại ñất bạc màu, ñất ñồi ở ðông Anh và Sóc Sơn. Khi diện
tích ñất trống, ñất bạc màu ở Sóc Sơn ngày một tăng thì việc ñầu tư vào loại hình trang
trại này thực sự ñem lại hiệu quả cả về mặt kinh tế và môi trường. Trang trại trồng cây
ăn quả, trồng rừng xen lẫn trồng cây ăn quả phân bố nhiều ở những xã nằm ven ñường
quốc lộ số 3, ñường 420 như: Bắc Sơn, Nam Sơn và Phù Linh (huyện Sóc Sơn).
Khoa ðịa lý - 50 năm xây dựng và phát triển
216
Diện tích ñất rộng là cơ sở tốt ñể xây dựng hệ thống chuồng trại. Nguồn thức
ăn phong phú là cơ sở tốt cho việc phát triển ñàn gia súc gia cầm. Bởi vậy mà 21%
số trang trại chăn nuôi tập trung ở 3 huyện Sóc Sơn, ðông Anh và Hoàng Mai.
Hàng ngày nguồn thực phẩm từ những trang trại này ñược mang ñến tiêu thụ ở các
quận trong nội thành. Giống lợn nuôi theo hướng nạc, bò thịt chất lượng cao, gà siêu
trứng... ñang ñược những trang trại này ñưa vào chăn nuôi.
Thanh Trì là huyện có ñịa hình thấp, có nhiều ô ñất trũng. Từ lâu ñời người
dân nơi ñây ñã có kinh nghiệm trong việc ñào ao thả cá. Khoảng cách từ ñây ñến nơi
có thị trường tiêu thụ mạnh tương ñối gần. Sự ưu ñãi của thiên nhiên, sự cần cù năng
ñộng của người dân nơi ñây trong nền kinh tế thị trường ñã lý giải tại sao có ñến
54% số trang trại nuôi trồng thủy sản của Hà Nội phân bố ở ñây. Tả Thanh Oai, Yên
Sở, Vĩnh Quỳnh, Tứ Hiệp, Ngũ Hiệp là những xã có nhiều trang trại nuôi trồng thủy
sản nhất. Nhiều giống cá có chất lượng cao và ñược thị trường ưa chuộng như: cá
chép, cá trê phi, cá trê lai, tôm càng xanh... là sản phẩm chủ ñạo của trang trại.
Trang trại kinh doanh tổng hợp xuất hiện từ năm 2002. Cho ñến nay, loại hình
trang trại này vẫn luôn tăng về số lượng nhưng về bản chất lại thay ñổi. Nó không
còn là một trang trại cùng với một ngành dịch vụ ñi kèm phục vụ cho chính nó mà
trong những trang trại này ñã có thêm một số số ngành nghề phục vụ khách du lịch.
Nhiều trang trại trong loại hình này ñã trở thành những ñiểm du lịch sinh thái thu hút
rất nhiều khách ñến nghỉ ngơi giải trí trong những ngày nghỉ cuối tuần. ðây thực sự
là một mảng mới trong bức tranh trang trại ở Hà Nội.
III. ðẶC ðIỂM TRANG TRẠI HÀ NỘI
1. Về ñất ñai
Tổng số ñất sử dụng trong trang trại hiện nay là 1.405ha. Trong ñó, diện tích
mặt nước nuôi trồng thủy sản chiếm 63,2 %. Diện tích còn lại bao gồm ñất trồng cây
lâu năm, trồng cây hàng năm và các loại ñất khác. So với năm 2000, cơ cấu sử dụng
ñất trong trang trại ñã có sự thay ñổi. Diện tích mặt nước và ñất trồng rừng giảm, ñất
nông nghiệp và ñất ñô thị tăng lên. Nguyên nhân của sự thay ñổi này là quá trình ñô
thị hóa và sự chuyển ñổi cơ cấu cây trồng trong từng trang trại ngày càng diễn ra
mạnh mẽ. Diện tích bình quân một trang trại là 2,9 ha, trong ñó trang trại lâm nghiệp
có diện tích lớn nhất, trang trại trồng hoa có diện tích nhỏ nhất
Diện tích ñất tập trung thành trang trại ñã tạo ưu thế về sản xuất hàng hóa và
hình thành vùng sản xuất thực phẩm, chăn nuôi lớn. ðó chính là tiền ñề ñể kinh tế
trang trại chuyển biến dần ñến sự khác nhau về chất so với kinh tế hộ gia ñình.
2. Về lao ñộng
Tổng số lao ñộng trong trang trại là 3332 người, trung bình mỗi trang trại có 7
lao ñộng. Trong thời gian gần ñây, số lao ñộng thuê thời vụ trong trang trại giảm, số
lao ñộng thuê thường xuyên và số lao ñộng có trình ñộ tăng lên.
Nghiên cứu khoa học và ñổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy ñịa lý
217
Lao ñộng là chủ trang trang trại ñã có những thay ñổi. Họ không chỉ là những
lão nông tri ñiền, bộ ñội xuất ngũ mà họ còn là những công chức nhà nước (chiếm
30% số chủ trang trại hiện nay), chủ doanh nghiệp, chủ những gia ñình buôn bán
khá giả ở một số quận nội thành.
Thời gian làm việc của một lao ñộng trong trang trại khá cao. Bình quân một
lao ñộng thường xuyên làm việc 298 ngày/năm( chiếm 92.28% tổng quỹ thời gian)
và thu nhập từ 500.000 - 800.000ñ/tháng.
Như vậy, về mặt kinh tế cũng như về mặt xã hội, kinh tế trang trại ñã góp phần
giải quyết việc làm và thu nhập cho người thất nghiệp ở nông thôn nhất là lao ñộng
nghèo. ðây chính là những tác ñộng tích cực nhất của kinh tế trang trại ñối với nền
kinh tế xã hội ở các huyện ngoại thành Hà Nội.
3. Về nguồn vốn và thu nhập của trang trại
Ngoài số vốn tự có, ñể ñủ vốn sản xuất kinh doanh hầu hết các trang trại ñều
phải vay thêm từ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Quỹ xóa ñói
giảm nghèo, Quỹ Khuyến nông... Trong 3 năm qua, hơn 300 chủ trang trại ñã ñược
vay vốn từ Quỹ Khuyến nông Thành phố với số tiền là 27 tỷ ñồng.
Hiện nay, những chính sách tích cực của UBNDTP Hà Nội ñã khuyến khích
trang trại ngày càng mở rộng quy mô sản xuất.
2 0 0 0 2 0 0 1 2 0 0 2 2 0 0 3 2 0 0 4 2 0 0 5
7 .9 8 .6
1 0 .9
1 5 .3
2 1 .3
4 5 .9
Thu nhập của trang trại ngày một tăng. Nông thôn ngoại thành Hà Nội ñang
ngày càng ñổi mới. Kinh tế trang trại ñã và ñang góp phần bê tông hóa ñường làng
ngõ xóm, thay nhà tranh tre nứa lá bằng những ngôi nhà ngói và nhà cao tầng. Sau
10 năm kinh tế trang trại ở Hà Nội ra ñời, nhiều hộ nông dân ñã dần dần thoát khỏi
ñói nghèo, thậm chí có người ñã trở thành những ông chủ trang trại giàu có. Một số
tấm gương ñiển hình là: ông Nguyễn Văn Tuấn ở Liên Hà (ðông Anh); ông Nguyễn
Mạnh Hiệp ở Phù Linh (Sóc Sơn)...
Bên cạnh những thuận lợi trên có một số khó khăn mà trang trại Hà Nội ñang
phải ñối mặt. ðó là:
Hình 2. Thu nhập bình quân trang trại 2000 - 2005 (triệu ñồng)
Khoa ðịa lý - 50 năm xây dựng và phát triển
218
- Quá trình ñô thị hóa ñang gây nguy cơ thu hẹp diện tích ñất nông nghiệp
- Tư tưởng thiếu gắn bó với làm nông nghiệp ñang nảy sinh ở nhiều vùng nông thôn
- Tuy có ñược Ngân hàng NN&PTNT tạo ñiều kiện cho vay vốn ñể kinh doanh
sản xuất nhưng số vốn ñược vay vẫn bị hạn chế, thời hạn ñược vay chưa dài, thủ tục thế
chấp còn rườm rà... nhiều khi là những trở ngại cho những hộ ñang và sẽ làm trang trại.
- Việc thực hiện chính sách cho thuê ñất ñể lập trang trại ở một số xã chưa thật
sự nghiêm túc dẫn ñến việc tranh chấp ñất ñai ñang trở nên phổ biến. Việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng ñất còn chậm. ðây thực sự là một trở ngại lớn cho các
trang trại hiện nay khi mà họ cần nó ñể vay vốn tín dụng
- Mặc dù những chủ trang trại ñược khuyến khích ký hợp ñồng với các doanh
nghiệp, ñặc biệt là doanh nghiệp quốc doanh nhưng môi trường ñể thực hiện những
hợp ñồng này chưa thực sự phát triển. Một khung pháp lý thực sự cần cho người nông
dân làm trang trại ñể họ có thể tự chủ và năng ñộng trên thị trường còn chưa ñủ.
IV. KẾT LUẬN
Kể từ khi ra ñời ñến nay, kinh tế trang trại ở Hà Nội ñóng góp nhiều mặt tích
cực cho sự phát triển KT - XH. ðó là: trang trại ñã góp phần rất lớn trong việc
chuyển ñổi cơ cấu kinh tế nông thôn cả về ngành và tổ chức sản xuất; giải quyết
nhiều việc làm và tăng thu nhập cho người nghèo ở nông thôn. ðiều ñặc biệt quan
trọng là kinh tế trang trại ñã tạo nên một sự thay ñổi mạnh mẽ về tư duy, phương
pháp làm việc cho người nông dân ngoại thành Hà Nội khi nền nông nghiệp nước ta
ñang ñứng trong một thời kỳ chuyển ñổi, trước khi chúng ta gia nhập vào WTO.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Thúc ñẩy công cuộc phát triển Nông thôn ở Việt Nam (phần II). Ngân hàng thế
giới, Vụ phát triển Nông thôn và Tài Nguyên, tháng 2, năm 2006.
[2]. Niên giám thống kê 2004, 2005. Tổng cục Thống kê.
[3]. Niên giám thống kê Hà Nội 2002, 2003, 2005. Cục Thống kê Hà Nội.
[4]. Ngô Thị Hải Yến. Kinh tế trang trại ngoại thành Hà Nội - Luận văn thạc sĩ 2001
[5]. Kinh tế trang trại ở Việt Nam, phân tích từ góc ñộ ñịa lý kinh tế, sinh thái. ðề
tài cấp Bộ mã số B2004-75-107, chủ nhiệm ñề tài GS.TS Nguyễn Viết Thịnh.
Nghiên cứu khoa học và ñổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy ñịa lý
219
SUMMARY
HANOI FARM ECONOMY IN TRANSITION
NGO THI HAI YEN (B)
Farm economies in Hanoi appeared in early 90s of the last century, when
agriculture was changing into agricultural commodity production based on
industrialization and modernization. It was under changes from household’s economies
to farm economies in the context of suburban agriculture of the Capital.
Agriculture activities are so highly intensive, requiring much labor input and
advanced technology. So farm economies play important role in job creation, income
generation for the rural poor. They have modified and diversified the labor distribution
in the rural areas among the rich and the poor. Farm economies also made sharply
changes in the ways of thinking and working of farmers. In relation to the City, farms
are distributed geographically creating rings with specific production patterns.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kinh_te_trang_trai_ha_noi_trong_thoi_ky_cong_nghiep_hoa.pdf