Chính sách hiệu quả năng lượng
NAPE giúp thúc đẩy sự tham gia của tất cả các thành phần xã hội thực hiện
việc sử dụng năng lượng kinh tế hơn từ các chính quyền địa phương, doanh
nghiệm cho tới người tiêu dùng. Người dân, doanh nghiệp và các cơ quan chính
quyền địa phương chỉ có thể cải thiện việc sử dụng năng lượng một cách hiệu quả
khi họ thực sự biết được họ có thể tiết kiệm tiền ở đâu.
NAPE cũng nhấn mạnh vào việc cung cấp thông tin và tư vấn. Một ưu tiên
nữa đó chính là đẩy mạnh các ưu đãi đầu tư sử dụng hiệu quả năng lượng. Bên
cạnh việc ban hành các ưu đãi thuế đối với các giải pháp hiệu quả năng lượng
trong các tòa nhà dân cư, và các khoản hỗ trợ đặc biệt cho các phương tiện sử dụng
điện thương mại.
Các nguyên tắc của NAPE chính là kêu gọi ngành công nghiệp đóng góp
trong việc sử dụng hiệu quả năng lượng. Kế hoạch hành động quy định bắt buộc
cho các doanh nghiệp thực hiện kiểm toán năng lượng và hình thành các tiêu chuẩn
áp dụng cho các tòa nhà và các trạm lắp máy. Có gần 500 doanh nghiệp, mạng lưới
sử dụng năng lượng hiệu quả được trông đợi sẽ đề ra mục tiêu kết hợp sử dụng
năng lượng hiệu quả của mình và triển khai các mục tiêu theo từng nhóm giải
pháp.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
29 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 467 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kinh tế xanh ở cộng hòa Liên Bang Đức và một số bài học rút ra, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
........................... 24 
3.3.1 Chính sách thuế năng lượng ......................................................... 24 
3.3.2 Chính sách hiệu quả năng lượng .................................................. 26 
3.3.3 Một số vấn đề khác ....................................................................... 26 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 2	
  
 1. Bối cảnh thực hiện kinh tế xanh ở Đức 
Ứng phó với biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn của thế kỷ 
21. Nhiệt độ trung bình trái đất liên tục tăng do sự gia tăng khí nhà kính và tác 
động của việc tăng nhiệt độ trái đất ngày càng rõ ràng. Nếu nhiệt độ trái đất vẫn 
tiếp tục gia tăng không kiểm soát và nó có thể vượt quá khả năng thích ứng của các 
hệ thống tự nhiên, quản lý và xã hội. 
Đức và Liên minh Châu Âu tiếp tục nỗ lực cho một thỏa thuận khí hậu toàn 
diện nhằm hạn chế sự nóng lên toàn cầu dưới 2°C so với thời kỳ tiền công nghiệp. 
Trên bình diện quốc tế, Chính phủ Đức đóng một vai trò quan trọng trong việc 
thúc đẩy quá trình thực hiện các chính sách khí hậu quốc tế. Đức đã tổ chức thành 
công đối thoại khí hậu Petersburg hàng năm. Đây là một sáng kiến do bà Angela 
Merkel đưa ra sau các cuộc đàm phán khí hậu tại Copenhagen năm 2009. Đối 
thoại Petersburg quy tụ các bộ trưởng môi trường từ các nước phát triển, vừa được 
công nghiệp hóa cũng như các nước đang phát triển cho các cuộc thảo luận mở 
nhằm mục đích thúc đẩy mạnh mẽ những kết quả đàm phán khí hậu quốc tế. 
Trong những thập kỷ qua, Đức là trung tâm công nghiệp của châu Âu và là 
một nền kinh tế lớn thứ ba trong các nước OECD, đã chủ động phát triển các chính 
sách môi trường đầy tham vọng trên cả phương diện trong nước và quốc tế. Khung 
pháp lý về môi trường mạnh của Đức tạo vị thế cho đất nước này không chỉ tiên 
phong trong việc bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, mà còn là một ví dụ 
điển hình về thúc đẩy nền kinh tế carbon thấp có tính cạnh tranh so với các nền 
kinh tế phát triển khác. Mô hình phát triển kinh tế xanh ở Đức là sự hài hòa giữa 
bảo vệ tài nguyên và môi trường, khí hậu với phát triển kinh tế và công bằng xã hội 
(GIZ, 2012). Chính phủ khuyến khích hỗ trợ nền kinh tế xanh tạo ra việc làm xanh, 
thúc đẩy tăng trưởng bền vững. Các chính sách tăng trưởng xanh ở Đức được phát 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 3	
  
triển trên nền tảng thực hiện phát triển bền vững phối hợp với các chính sách khí 
hậu nhằm thực hiện các mục tiêu tham vọng về giảm phát thải khí nhà kính của 
mình, góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh 
tế thông qua các chính sách phát triển năng lượng tái tạo. Đức đang thực hiện việc 
chuyển đổi hệ thống năng lượng của mình và đã đặt ra mục tiêu đầy tham vọng 
trong việc giảm lượng khí thải: giảm phát thải khí nhà kính tác động 40% vào năm 
2020, 55% vào năm 2030, 70% vào năm 2040 và mục tiêu giảm phát thải 80-95% 
vào năm 2050, so với năm 1990. Khái niệm năng lượng dài hạn được đưa ra nhằm 
xác định cách thức để đạt được các mục tiêu đề ra. Khái niệm năng lượng này 
được công nhận trên toàn thế giới như là một công cụ độc đáo và được coi như một 
hướng dẫn chính sách năng lượng giúp hiện thực hóa những nỗ lực thực hiện cam 
kết khí hậu của các quốc gia khác và mang ý nghĩa cả về kinh tế cũng như về mặt 
chính sách. 
Chính phủ Đức cũng hỗ trợ các mục tiêu tham vọng của liên minh Châu Âu. 
Với vai trò chủ tịch Liên minh Châu Âu nửa đầu của năm 2007, Liên minh Châu 
Âu đã cam kết giảm 20% lượng phát thải so với năm 1990 và mục tiêu sẽ tăng lên 
30% nếu các nước công nghiệp khác thực hiện các nỗ lực tương tự và các nền kinh 
tế mới nổi cũng như các nước đang phát triển có đóng góp đầy đủ thực hiện cam 
kết quốc tế về khí hậu. 
Năm 1989, khái niệm kinh tế xanh lần đầu tiên được đưa ra trong các cuộc 
thảo luận chính trị quốc gia, với 05 mục tiêu cụ thể: 
- Giảm phát thải khí nhà kính 
- 100% tái chế theo chu trình khép kín 
- Giảm mạnh tiêu thụ tài nguyên thông qua tăng cường sử dụng hiệu quả tài 
nguyên và năng lượng cũng như thay thế năng lượng hóa thạch bằng nguồn 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 4	
  
năng lượng mới 
- Hướng tới sử dụng 100% năng lượng tái tạo trong tương lai 
- Bảo tồn đa dạng sinh học và cải thiện và giảm thiểu các tác động tiêu cực tới 
môi trường 
Nước Đức đã xây dựng một loạt các chính sách môi trường hỗ trợ tăng trưởng 
xanh, sử dụng các công cụ kinh tế để cải thiện định giá môi trường đối với các tác 
nhân bên ngoài và triển khai các quy định môi trường nghiêm ngặt theo phương 
thức truyền thống song song với thực hiện cam kết quốc tế về phát triển bền vững 
và biến đổi khí hậu. 
Một số chính sách chính liên quan tới tăng trưởng xanh, ứng phó biến đổi khí 
hậu và thực hiện phát triển bền vững ở Đức, cụ thể: 
- Chiến lược quốc gia về phát triển bền vững, do Chính phủ Liên bang phụ 
trách, được ban hành năm 2002; 
- Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học do Bộ môi trường, bảo tồn, xây 
dựng và an toàn hạt nhân ban hành năm 2007; 
- Chương trình lồng ghép khí hậu và năng lượng do Bộ môi trường, bảo tồn, 
xây dựng và an toàn hạt nhân ban hành năm 2007; 
- Chiến lược thích ứng với biến đổi khí hậu do Bộ môi trường, bảo tồn, xây 
dựng và an toàn hạt nhân ban hành năm 2008; 
- Khái niệm năng lượng do Bộ môi trường, bảo tồn, xây dựng và an toàn hạt 
nhân ban hành năm 2010; 
- Chương trình sử dụng hiệu quả tài nguyên do Bộ môi trường, bảo tồn, xây 
dựng và an toàn hạt nhân ban hành năm 2012; 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 5	
  
- Kế hoạch hành động quốc gia về sử dụng năng lượng hiệu quả 
Tăng trưởng xanh trong bối cảnh phát triển bền vững ở Đức dựa trên cơ sở 
phát triển hơn nữa kinh tế thị trường xã hội và nhận thức tầm quan trọng của thiên 
nhiên và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên (BMZ, 2011). Quản lý tài nguyên có trách 
nhiệm là động lực chính cho phát triển kinh tế ít phụ thuộc vào nhập khẩu tài 
nguyên với chi phí cao. Nhiều sáng kiến và công nghệ môi trường được gắn mác 
bởi nước Đức và những kinh nghiệm thành công của nước này trong các lĩnh vực 
năng lượng tái tạo, tái chế, công nghệ sử dụng hiệu quả tài nguyên và trang trại 
hữu cơ, đặc biệt thúc đẩy lĩnh vực tư nhân tham gia thực hiện xanh hóa nền kinh tế 
song song với thực hiện phát triển bền vững, thúc đẩy kiến tạo thịnh vượng quốc 
gia và nâng cao giá trị vốn xã hội và vốn tự nhiên đang là bài học quý giá cho các 
nước đang phát triển. 
 2. Chính sách kinh tế xanh và những kết quả đạt được 
 2.1 Báo cáo kinh tế môi trường năm 2011 
Đây là báo cáo được thực hiện bởi Bộ Môi trường liên bang và Cơ quan môi 
trường liên bang (Buhner, 2012). Báo cáo này bao gồm một số dữ liệu thống kê 
phức tạp và toàn diện về kinh tế và môi trường ở Đức cũng như hướng phát triển 
mới, thách thức và triển vọng của nền kinh tế môi trường ở Đức. Báo cáo cho thấy 
Đức đã đạt được tiến bộ đáng kể trên con đường hướng tới tăng trưởng mới thân 
thiện với môi trường – một nền kinh tế tăng trưởng sử dụng ít tài nguyên, tối đa 
hóa hiệu quả sử dụng đất và tăng hiệu quả sử dụng năng lượng, và giảm phát thải ô 
nhiễm so với thời kỳ phát triển mười năm trước. 
Báo cáo là một tài liệu quan trọng đóng góp cho sự phát triển nền kinh tế Đức 
nói chung và khẳng định vai trò tiên phong của các công ty Đức trong chính lĩnh 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 6	
  
vực này. Trong báo cáo môi trường này đã nêu rõ nền kinh tế môi trường là một 
nền kinh tế thúc đẩy phát triển công nghiệp liên ngành trong đó các công ty sản 
xuất và cung cấp hàng hóa và dịch vụ môi trường. Ở Đức sản xuất hàng hóa môi 
trường đạt mức tăng trưởng trên trung bình, với tổng khối lượng sản xuất chiếm 
gần 76 tỷ euro. Đức đang là nước đứng đầu trong việc xuất khẩu hàng hóa môi 
trường, với thị phần thương mại chiếm 15,4% thị phần toàn cầu. Theo tính toán 
gần đây nhất, Đức đã tạo lên một kỷ lục mới trong việc tạo ra gần 2 triệu lao động 
trong nền kinh tế môi trường. Chính vì vậy, việc chuyển đổi hệ thống năng lượng 
của Đức sẽ góp phần thúc đẩy nhanh hơn xu hướng phát triển kinh tế môi trường. 
Báo cáo này một lần nữa nhấn mạnh việc xây dựng và phát triển các chính sách 
hướng tới lối sống và các hoạt động kinh tế sử dụng hiệu quả tài nguyên và bền 
vững hay nói cách khác sức mạnh sáng tạo của nền kinh tế môi trường chính là dấu 
hiệu của sự thành công của các chính sách môi trường và năng lượng (Buhner, 
2012; Ralph Buehler, 2011). 
Báo cáo kinh tế môi trường 2011 cho thấy Đức ngày càng chú trọng tới việc 
đạt mục tiêu giảm phát thải các chất độc hại với môi trường, sử dụng hiệu quả tài 
nguyên. Việc chuyển đổi hệ thống năng lượng của Đức chính là một yếu tố mang 
tính quyết định trong việc thực hiện phát triển kinh tế thân thiện với môi trường, 
giúp thúc đẩy mạnh mẽ tiềm lực nền kinh tế và là nền tảng thúc đẩy hơn nữa tái 
cấu trúc hệ thống cung cấp năng lượng, ngành công nghiệp và xã hội của Đức một 
cách bền vững. Bản thân nước Đức luôn muốn duy trì là một quốc gia công nghiệp 
hàng đầu có thế mạnh cạnh tranh đối với các sản phẩm công nghệ cao, tiên tiến. 
Đạo luật quản lý chất thải và tái sử dụng chất thải cũng như chương trình sử dụng 
tài nguyên hiệu quả chính là các bước tiếp theo cần thực hiện trong con đường thực 
hiện phát triển kinh tế thân thiện với môi trường (Buhner, 2012). 
Báo cáo về kinh tế môi trường 2011 của Đức đã cho thấy bảo vệ môi trường 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 7	
  
chính là động lực để phát triển kinh tế và tạo ra những cơ hội lớn trong việc tạo ra 
công ăn việc làm trong các lĩnh vực bảo vệ khí hậu và tăng hiệu quả sử dụng tài 
nguyên. Đây cũng là một triển vọng tuyệt vời cho Đức trong lĩnh vực xuất khẩu 
công nghệ hiệu quả và thân thiện với môi trường do nhu cầu của thị trường toàn 
cầu đối với những loại hình công nghệ này đã và đang gia tăng trong tương lai gần. 
Do vậy, việc theo đuổi một nền kinh tế xanh xuất phát từ chính những lý do tăng 
trưởng kinh tế là một phương thức tiên quyết, quan trọng của chính phủ Đức và 
đây cũng là phương thức mà một số quốc gia khác cũng nhận thức và theo đuổi. 
Một điểm đáng chú ý của Báo cáo là đưa ra các chỉ số mang tính thực tiễn cao 
nhằm đánh giá thế nào là một nền kinh tế xanh như: 
Hiệu suất năng lượng 
Một chỉ số quan trọng của phát triển bền vững nền kinh tế là hiệu suất năng 
lượng, biểu thị mối quan hệ giữa GDP và tiêu thụ năng lượng sơ cấp. Thông qua 
chỉ số này, có thể định tính được chính khoản thu nhập của một thực thể và tổng 
lượng năng lượng tiêu thụ để đạt được thu nhập của thực thể đó. Đức đặt mục tiêu 
tăng gấp đôi hiệu suất năng lượng của mình trong 30 năm, từ năm 1990 đến năm 
2020. Trong giai đoạn 1999-2010, một số vấn đề tồn tại khi hiệu suất năng lượng 
tăng lên 39%. Trong 10 năm qua, hiệu suất năng lượng chỉ tăng 1,1%, do đó để đạt 
được mục tiêu đặt ra đến năm 2020, chỉ số này sẽ phải tăng ít nhất 3,7% mỗi năm. 
Hiệu suất sử dụng tài nguyên 
Một chỉ số quan trọng khác được đưa ra chính là hiệu suất sử dụng tài nguyên, 
biểu thị mối quan hệ giữa GDP và sử dụng nguyên liệu thô. Nguyên liệu thô được 
đề cập trong chỉ số này chính là tất cả các nguyên liệu thô vô cơ được khai thác 
trong nước và nhập khẩu. Mục tiêu phát triển bền vững của Đức cũng đưa ra 
những dự báo cho giai đoạn 1994-2020, hiệu suất sử dụng tài nguyên của nước này 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 8	
  
tăng gấp đôi. Thực tế, trong giai đoạn 1994-2009 chỉ số này đã tăng 47%. Một 
cách để tăng hiệu suất sử dụng nguyên liệu thô chính là tăng tuổi thọ của sản phẩm, 
và tái sử dụng nguyên liệu thành phần khi chúng bị lỗi thời. 
Tổng lượng phát thải khí nhà kính 
Một chỉ số quan trọng khác là tổng lượng phát thải khí nhà kính. Mục tiêu của 
Đức là giảm phát thải khí nhà kính xuống 40% trong giai đoạn 2011-2020. 
Một số các chỉ số khác 
Một chỉ số khác như chuyển đổi mục đích sử dụng đất do đô thị hóa và giao 
thông, được đo bằng diện tích không gian bị chuyển đổi mục đích sử dụng hàng 
ngày, và chất lượng không khí, đo bằng tổng lượng phát thải các chất ô nhiễm 
hàng năm. 
- Các nhân tố tác động ngoại lai được cân nhắc đưa vào chi phí thực tế 
Việc trợ cấp cho năng lượng tái tạo ở Đức cũng có nhiều ý kiến trái chiều. 
Một trong số ý kiến trái chiều cho rằng việc trợ cấp này quá tốn kém và do đó đối 
với các khoản trợ cấp này nên được tính bao gồm trong cả chi phí trực tiếp và gián 
tiếp, ví dụ như chi phí phát điện. Thông thường các chi phí gián tiếp hầu hết là các 
chi phí dài hạn. Chẳng hạn như các chi phí về sức khỏe do tác động của phát thải 
từ các hoạt động kinh tế. Chi phí này không được tính cho chính đối tượng phát 
thải mà được tính vào chi phí chung của xã hội. Những chi phí này được hiểu là 
các chi phí ngoài phát sinh từ chính hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhưng 
không được tính vào chi phí của doanh nghiệp đó. Vì vậy, khi tiến hành so sánh 
chi phí thực của việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch so với việc sử dụng thay thế 
bằng năng lượng tái tạo, cần thiết phải có một phương pháp tiếp cận toàn diện, 
trong đó chi phí thực của từng loại năng lượng tiêu thụ thực tế. 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 9	
  
Tuy nhiên, trong thực tế tổn thất đa dạng sinh học không được xét đến như 
một nhân tố tác động ngoại lại do những khó khăn trong việc tính toán chuyển đổi 
ra chi phí (bằng tiền). Chẳng hạn như thủy điện sẽ tạo ra chi phí nhiều hơn so với 
chi phí được hiển thị trên 0,1 cent/kWh do những tác động môi trường, tác động 
trực tiếp đến sự phá hủy cân bằng hệ sinh thái sông ngòi và mất môi trường sống 
của nhiều loài và thậm chí cả con người khi tiến hành xây dựng và vận hành nhà 
máy thuỷ điện. Mặt khác, những tác động này nếu đem so sánh với chi phí sử dụng 
nhiên liệu hóa thạch lại được cho là không đáng kể. Một điểm đáng lưu tâm là chi 
phí ngoại lai cho việc sản xuất điện từ than đá khoảng 8-9 cent/KWh. Nếu chi phí 
này được tính vào trong hóa đơn tiền điện thì rõ ràng sử dụng năng lượng tái tạo 
(chẳng hạn như năng lượng điện gió) sẽ rẻ hơn so với nhiên liệu hóa thạch và hoàn 
toàn có tính cạnh tranh trên thị trường. 
- Lợi ích của Hệ thống Quản lý Môi trường 
Hệ thống quản lý môi trường như ISO 14001 hay EMAS không chỉ là những 
công cụ đánh giá mức độ bảo vệ môi trường nói chung mà còn mang lại lợi ích cho 
chính doanh nghiệp. Khi triển khai hệ thống quản lý môi trường, việc giảm phát 
thải sẽ được tự động kiểm soát, bên cạnh đó, chi phí nguyên liệu thô và năng lượng 
cũng được giảm theo hệ thống. Do đó, việc áp dụng hệ thống quản lý môi trường 
cũng giúp cải thiện mối quan hệ của doanh nghiệp với tất cả các bên liên quan, và 
đặt nền tảng cho một doanh nghiệp có thể cạnh tranh và phát triển trong kỷ nguyên 
mới hạn chế phụ thuộc vào dầu khí và nhiên liệu hóa thạch. 
- Phân tích chi phí vòng đời sản phẩm đối với các hoạt động mua sắm công 
Mua sắm công hàng năm ở Đức chiếm khoảng 260 tỷ euro. Khi đưa ra đề xuất 
mua sắm công, các chi phí mua sắm không được tính vào chi phí chung, nhưng chi 
phí vòng đời sản phẩm nên được xem như một yếu tố quyết định. Tất cả các chi 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 10	
  
phí đối với hoạt động mua sắm, sử dụng và xử lý sản phẩm được tính trong chi phí 
cả vòng đời của sản phẩm. 
2.2 Chiến lược quốc gia về phát triển bền vững 
Năm 2002, Đức đã thông qua Chiến lược quốc gia về phát triển bền vững 
“Triển vọng cho nước Đức – Chiến lược phát triển bền vững”, coi bền vững một 
nguyên tắc định hướng cho các chính sách quốc gia. Chiến lược phát triển bền 
vững được xây dưng với các mục tiêu cụ thể và các chỉ số phát triển bền vững, 
được đánh giá trong báo cáo thường xuyên về phát triển bền vững. Đức cũng đã 
đưa ra các sáng kiến liên ngành lớn về đa dạng sinh học, biến đổi khí hậu, năng 
lượng và hiệu quả tài nguyên. 
Chiến lược phát triển bền vững đóng vai trò như kim chỉ nam cho một chương 
trình nghị sự bền vững và toàn diện, đảm bảo hài hòa phát triển triển kinh tế, xã hội 
và đảm bảo cân bằng sinh thái cho các thế hệ mai sau. Tính đến thời điểm hiện này 
đã có 03 báo cáo đánh giá chuyên sâu, đánh giá về tình hình thực hiện chiến lược 
phát triển bền vững ở Đức. Thông qua các báo cáo này, chiến lược phát triển bền 
vững tiếp tục được cập nhật, hoàn thiện. Báo cáo năm 2012 đưa ra một cái nhìn 
tổng quan, trong đó nguyên tắc phát triển bền vững được phản ánh rõ nét qua các 
chính sách của liên bang. Cụ thể, phát triển bền vững dựa trên 04 nguyên tắc: đảm 
bảo công bằng giữa các thế hệ, chất lượng cuộc sống, gắn kết xã hội, trách nhiệm 
quốc tế. Phát triển bền vững đòi hỏi phương pháp tiếp cận toàn diện và lồng ghép 
dựa trên 3 khía cạnh được cân nhắc trong bối cảnh toàn cầu. 
Quản lý phát triển bền vững cũng được đưa ra như một khái niệm bao gồm 10 
nguyên tắc quản lý và các yêu cầu liên quan, các chỉ số chính cho 21 lĩnh vực hành 
động liên quan trực tiếp tới 38 mục tiêu mà hầu hết các chỉ số có thể định lượng 
được. 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 11	
  
Chương trình nghị sự 2030 vì phát triển bền vững được phê chuẩn vào tháng 
6/2016 vừa qua là tiền đề cho nước Đức đề xuất khung chiến lược phát triển bền 
vững mới và cập nhật nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững do liên hợp 
quốc đề ra. 
Một trong những chính sách hiệu quả hướng tới phát triển bền vững quốc gia 
của Đức chính là gói chính sách thúc đẩy nông nghiệp hữu cơ. Sản xuất các sản 
phẩm hữu cơ thân thiện với môi trường và bảo tồn bền vững tài nguyên, góp phần 
giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu và bảo tồn đa dạng sinh học cũng như tạo 
việc làm cho khu vực nông thôn. Một số chính sách về thúc đẩy nông nghiệp hữu 
cơ, cụ thể gồm Luật canh tác hữu cơ được phê chuẩn vào tháng 7 năm 2002 và 
được điều chỉnh cho phù hợp với luật EU sửa đổi, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 
năm 2009 nhằm cải thiện và thúc đẩy phát triển thực phẩm nông nghiệp hữu cơ và 
các hình thức khác của nông nghiệp bền vững ở Đức. Các cơ quan chức năng của 
Đức đã đưa ra một loạt các giải pháp khác nhau áp dụng cho tất cả các khâu của 
chuỗi sản xuất từ sản xuất nông nghiệp, thu hoạch và xử lý đến hoạt động thương 
mại, tiếp thụ và người tiêu dùng như Giải pháp hỗ trợ tài chính trong khâu sản xuất 
hữu cơ ở các nông trại gồm gói hỗ trợ tài chính để chuyển đổi và duy trì canh tác 
hữu cơ, hỗ trợ tài chính cho giáo dục về canh tác hữu cơ; Triển khai các dịch vụ tư 
vấn về canh tác hữu cơ, hỗ trợ quá trình sản xuất hữu cơ; Quảng bá và chế biến sản 
phẩm hữu cơ; Tiêu dùng sản phẩm hữu cơ ngoài hộ gia đình; Nghiên cứu và 
chuyển giao công nghệ 
Một số kết quả đạt được: tính đến cuối năm 2014, tại Đức đã có 23.398 công 
ty sản xuất hữu cơ canh tác trên 1.047.633 ha đất hữu cơ phù hợp với luật pháp 
của EU về canh tác hữu cơ, chiếm khoảng 6,3% tổng diện tích nông nghiệp sử 
dụng. Theo số liệu thống kê, tính toán của Bộ Nông nghiệp và Lương thực của 
Đức thì trung bình mỗi trang trại hữu cơ thử nghiệm đã thu lợi nhuận trên mỗi đơn 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 12	
  
vị lao động trong năm thị trường 2013/14 là 32.709 Euro, tăng 6% so với năm 
trước đó, mặc dù vẫn thấp hơn so với trang trại truyền thống khoảng 10%. 
2.3. Chương trình hiệu quả tài nguyên 
Chương trình hiệu quả tài nguyên được phê chuẩn ngày 29/2/2012, chính 
quyền liên bang cam kết thực hiện báo cáo 4 năm/lần về thực hiện hiệu quả tài 
nguyên của Đức, đánh giá tiến trình và cập nhật chương trình. Bản cập nhật đầu 
tiên của chương trình với tên gọi Chương trình hiệu quả tài nguyên của Đức lần 
thứ II đã được phê chuẩn vào ngày 2/3/2016. 
Mục tiêu của chương trình hiệu quả tài nguyên của Đức hướng tới khai thác 
và sử dụng tài nguyên thiên nhiên bền vững và thúc đẩy trách nhiệm của thế hệ 
hiện tại đối với thế hệ tương lai cũng như góp phần đảm bảo nền tảng thiên nhiên 
cho một cuộc sống lâu dài. Trong bối cảnh như vậy, chính phủ liên bang Đức phấn 
đấu thúc đẩy tăng trưởng gắn kết với việc tiêu thụ tài nguyên hợp lý nhằm giảm 
gánh nặng môi trường do việc khai thác tài nguyên, đồng thời tăng cường tính cạnh 
tranh cho chính nền công nghiệp của Đức, qua đó thúc đẩy việc làm bền vững và 
gắn kết xã hội. Các biện pháp thực hiện thử nghiệm và các ưu đãi tiếp tục đóng vai 
trò quan trọng trong chương trình này. Chính sách hiệu quả tài nguyên của Đức 
cũng hướng tới việc giúp Đức hiện thực hóa trách nhiệm toàn cầu đối với các tác 
động xã hội và sinh thái từ việc sử dụng tài nguyên. Mục tiêu đặt ra là phải giảm 
thường xuyên tổng thể tiêu thụ tài nguyên ở Đức. 
Báo cáo tiến trình thực hiện phát triển bền vững lần thứ II của Đức đặt trọng 
tâm vào sử dụng nguyên liệu thô hữu cơ và vô cơ. Việc sử dụng nguyên liệu thô 
gắn kết với việc sử dụng các tài nguyên khác như nước, không khí, đất, đa dạng 
sinh học và hệ sinh thái. 
Bên cạnh đó, các chỉ số và mục tiêu cũng được đánh giá và mở rộng. Chương 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 13	
  
trình hiệu quả tài nguyên sau khi đánh giá và cập nhật tiếp tục tập trung vào các ưu 
đãi thị trường, thông tin, tư vấn, giáo dục, nghiên cứu và sáng tạo và tăng cường 
các biện pháp và sáng kiến tự nguyện, trong đó bao gồm tư vấn hiệu quả cho doanh 
nghiệp nhỏ và vừa, hỗ trợ hệ thống quản lý môi trường, tích hợp các khía cạnh tài 
nguyên vào quá trình tiêu chuẩn kỹ thuật, đặt trọng tâm nhiều hơn vào các sản 
phẩm và dịch vụ tài nguyên hiệu quả trong mua sắm công, tăng cường nhãn mác 
sản phẩm tự nguyện, chứng nhận hệ thống và tăng cường quản lý chu trình khép 
kín, lồng ghép hiệu quả sử dụng tài nguyên trong thể chế và tiến trình thực hiện 
của EU và quốc tế. 
Thông qua các chương trình này, hiệu quả sử dụng năng lượng, tài nguyên và 
phát triển kinh tế các-bon của Đức đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Theo 
Đánh giá môi trường của OECD, Đức đã đạt được một trong những mức cao nhất 
về năng suất tài nguyên trong các nước OECD và là một trong số ít các quốc gia 
đạt được giảm phát thải khí nhà kính hoàn toàn, trong khi GDP tiếp tục tăng trong 
phần lớn những năm 2000. 
Đồng thời, chính sách tăng trưởng xanh của Đức đã tạo một động lực quan 
trọng cho sự đổi mới về môi trường và ra đời hàng hóa, dịch vụ môi trường cạnh 
tranh quốc tế và khu vực. Văn phòng thống kê liên bang ước tính doanh thu của 
ngành hàng hóa và dịch vụ môi trường (EGS) ở Đức đóng góp khoảng 2% GDP 
trong năm 2009, chủ yếu là do sự phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, thực 
hiện bởi hệ thống thuế quan nhằm đảm bảo nguồn năng lượng tái tạo có giá bán ưu 
đãi và tạo điều kiện tiếp cận lưới điện. Theo xu hướng gia tăng trên thị trường toàn 
cầu đối với năng lượng nhiệt mặt trời, pin mặt trời và năng lượng gió trong thập kỷ 
tới, EGS được đánh giá chính là một lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế và việc 
làm ở Đức. 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 14	
  
2.4. Chính sách khí hậu quốc gia 
Các nhà hoạch định chính sách và ngành công nghiệp ở Đức sử dụng tổng hợp 
các giải pháp và công cụ triển khai thực hiện hành động khí hậu. Thực hiện cam 
kết Kyoto và các mục tiêu của cộng đồng quốc tế về việc hạn chế sự nóng lên toàn 
cầu ở mức dưới 2oC so với mức trước thời kỳ công nghiệp, Đức đã cần nhắc các 
bước đóng góp giảm phát thải khí nhà kính. Các mục tiêu của chính phủ Đức giảm 
phát thải tối thiểu 40% vào năm 2020 và 80-90% đến năm 2050 so với mức năm 
1990 thông qua việc phát triển năng lượng tái tạo và thúc đẩy sử dụng hiệu quả 
năng lượng. Các mục tiêu này đã đề cập chi tiết trong “khái niệm năng lượng 
2010”. Ở Đức, một loạt các công cụ chính sách nhằm đảm bảo đạt được các mục 
tiêu khí hậu. Cùng với các cơ chế quốc tế như buôn bán phát thải, các chính sách 
chủ yếu của Đức hướng tới một xã hội không phát thải thể hiện dưới các luật và 
các văn bản dưới luật cũng như các chương trình. Chính sách khí hậu chủ động 
cũng tạo ra các cơ hội kinh tế cho nước Đức. Đầu tư vào các hành động khí hậu và 
sử dụng hiệu quả năng lượng giúp các công ty của Đức cạnh tranh hơn và phù hợp 
với xu thế tương lai hơn, cũng như giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu năng lượng. 
2.4.1 Chương trình hành động khí hậu 2020 của Đức 
Chương trình hành động khí hậu dược ban hành ngày 3/12/2014, nhằm đảm 
bảo hoàn thành mục tiêu đặt ra về cắt giảm khí nhà kính. Theo những dự báo mới 
nhất, nếu không triển khai các chương trình mới thì mục tiêu của Đức sẽ bị giảm 
xuống 5-8%. Do đó, đây chính là gói các giải pháp chính sách toàn diện nhất từ 
trước tới nay của chính phủ về khí hậu. 
Chính phủ Đức cũng đưa các nguyên tắc của phát triển bền vững, đó là thực 
hiện trách nhiệm hướng tới các thế hệ tương lai. Theo đó, chính sách khí hậu có 
trách nhiệm phải luôn luôn dựa vào 2 cực. Thứ nhất, chính sách khí hậu phải là 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 15	
  
một nhân tố đảm bảo sự nóng lên toàn cầu bình quân không vượt quá 2 độ C. Thứ 
hai, chính sách phải nhận biết được các rủi ro và chuẩn bị ứng phó với các tác động 
của biến đổi khí hậu sẽ xảy ra khi kịch bản nóng lên toàn cầu ở mức vừa phải. 
Chương trình hành động khí hậu 2020 bao gồm 100 giải pháp riêng lẻ được 
thiết kế nhằm bảo đảm mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính ở Đức tối thiểu 40% 
so với mức năm 1990 vào năm 2020. Chính phủ Đức cũng quyết định giám sát 
việc thực hiện các giải pháp chính sách đề ra trong chương trình và ban hành báo 
cáo hành động khí hậu hàng năm, trong đó có chi tiết tiến trình thực hiện, xu thế 
phát thải mới nhất và các giả định giảm phát thải. 
2.4.2 Kế hoạch hành động một nước Đức không phát thải khí nhà kính 
vào năm 2050 
Để đạt được các thỏa thuận khí hậu Paris 2015, chính quyền liên bang của 
Đức phê duyệt kế hoạch hành động một nước Đức không phát thải vào năm 2050 
vào hè năm 2016. Để thực hiện kế hoạch hành động khí hậu dài hạn được sự chấp 
thuận của xã hội và doanh nghiệp, chính quyền liên bang đã cho tham vấn cộng 
đồng vào mùa hè năm 2015. Các cấp chính quyền và cộng đồng doanh nghiệp cũng 
như người dân, các tổ chức xã hội được khuyến khích đề xuất giải pháp chiến lược 
cho chính phủ nhằm đạt được các mục tiêu khí hậu dài hạn. Chính quyền liên bang 
sẽ cân nhắc các đề xuất khi dự thảo kế hoạch hành động 2050 và có ý kiến hợp lý 
với các đề xuất. Chính quyền liên bang sau đó sẽ đánh giá định kỳ và cập nhật vào 
kế hoạch. 
2.5. Kế hoạch hành động quốc gia về hiệu quả năng lượng 
Ý thức hơn về vấn đề sử dụng điện và hệ thống làm nóng hiệu quả giúp tiết 
kiệm chi phí đồng thời cải thiện an ninh điện lưới và thực hiện các mục tiêu khí 
hậu, chương trình hiệu quả năng lượng đã tạo ra lưỡng cực trong mở rộng năng 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 16	
  
lượng tái tạo trong chuyển đổi năng lượng ở Đức. Mục tiêu của kế hoạch là giảm 
được 20% tiêu thụ năng lượng quan trọng tới năm 2020 so với năm 2008 và giảm 
một nửa vào năm 2050. 
Để đạt được mục tiêu này, chính quyền liên bang đã ban hành một chiến lược 
toàn diện vào ngày 3/12/2014 về Kế hoạch hành động quốc gia về sử dụng năng 
lượng hiệu quả (NAPE). Tất cả các giải pháp của NAPE gắn kết theo một nguyên 
tắc chung: cung cấp thông tin – hỗ trợ và hành động theo cung thị trường. 
2.6. Các chính sách phát triển kinh tế xanh 
Các định hướng phát triển kinh tế xanh của Đức cũng tuân theo một định 
hướng phát triển chung của các nước EU đó là “Chiến lược Châu Âu 2020”. Chiến 
lược này đặt ra mục tiêu quan trọng là tạo việc làm, gắn kết xã hội và phát triển 
bền vững. Với nguồn ngân sách đầu tư hơn 105 tỉ Euro cho tăng trưởng xanh mà 
EU đưa ra trong chương trình dài hạn “Chính sách gắn kết Châu Âu” được ban 
hành tháng 3/2009 đã thể hiện rõ quyết tâm thực hiện phát triển kinh tế xanh của 
khối này. Trước đó, EU đã chi hơn 30 tỉ Euro cho các dự án phát triển kinh tế xanh 
tại các nước thành viên của khối này. Năm 2008, gói kích thích kinh tế năng lượng, 
khí hậu của EU dành khoảng 15% cho đầu tư trong năm lĩnh vực trọng yếu là (1) 
tiết kiệm năng lượng trong các tòa nhà cũ và mới; (2) Công nghệ năng lượng tái 
tạo như năng lượng gió, năng lượng mặt trời, địa nhiệt và sinh khối; (3) Công nghệ 
giao thông vận tải bền vững, ví dụ như đường sắt cao tốc và hệ thống xe buýt vận 
chuyển cao tốc (4) Cơ sở hạ tầng sinh thái của hành tinh, bao gồm nước ngọt, 
rừng, đất và các rạn san hô; (5) Bền vững nông nghiệp, bao gồm cả sản xuất hữu 
cơ. 
Trong Khái niệm năng lượng quốc gia, Đức đã xây dựng hướng dẫn nguồn 
cung cấp năng lượng thân thiện với môi trường, đáng tin cậy và định giá hợp lý và 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 17	
  
tiếp tục mở rộng hướng dẫn cho sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo và tăng hiệu 
quả sử dụng năng lượng. Trong sản xuất điện, Đức đặt mục tiêu nâng tỷ lệ năng 
lượng tái tạo từ 17% lên hơn 80% vào năm 2050, trong khi từng bước loại bỏ hoàn 
sản xuất điện từ các nhà máy điện hạt nhân vào năm 2022. Cắt giảm khí nhà kính 
(GHG) xuống 40% vào năm 2020 và ít nhất 80% vào năm 2050. Trong lĩnh vực 
năng lượng hiệu quả, Đức dự định để giảm tiêu thụ năng lượng sơ cấp bằng 20% 
năm 2020 và 50% vào năm 2050 so với mức tiêu thụ năm 2008. Nhìn chung, “khái 
niệm năng lượng” bao gồm hơn 100 biện pháp cụ thể trong lĩnh vực điện, nhiệt và 
vận chuyển. 
Khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo được coi như là một lĩnh vực điển 
hình của Đức trong triển khai kinh tế xanh. Giống như nhiều nước trên thế giới, 
Đức đã thực hiện chiến lược chuyển đổi hệ thống năng lượng thành “Nền kinh tế 
năng lượng xanh”. Mục tiêu tổng quát của việc chuyển đổi này là để giảm phát thải 
khí nhà kính và giảm sự phụ thuộc lớn vào nhập khẩu năng lượng. 
Năm 2009, một phần chủ yếu của luật năng lượng tái tạo đã được thông qua 
như là gói chính sách tổng thể năng lượng và khí hậu. Hướng dẫn năng lượng tái 
tạo của Liên minh châu Âu yêu cầu mỗi nước thành viên tăng thị phần năng lượng 
tái tạo như năng lượng mặt trời, năng lượng gió, sinh khối, hoặc thủy điện trong 
tổng năng lượng tiêu thụ từ 8,5% năm 2010 lên 20% năm 2020 trên tất cả các lĩnh 
vực (như phát điện, sưởi ấm và làm mát, và các nhiên liệu vận chuyển). 
Tuy nhiên, ở Đức, loại bỏ dần điện hạt nhân vào năm 2020 được đưa ra sau vụ 
tai nạn Fukushima, do đó đã gia tăng áp lực về thời gian và thách thức trong quá 
trình chuyển đổi. Hay nói các khác, đây là cách thức chuyển đổi điện hạt nhân và 
nhiệt liệu hydrocarbon trong sơ đồ sử dụng điện truyền thống. Để phá vỡ sự phụ 
thuộc của hệ thống năng lượng, phát triển năng lượng tái tạo, được thúc đẩy bởi 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 18	
  
các chương trình hỗ trợ tài chính khác nhau. Hiện nay “khái niệm năng lượng hiện 
tại” của Đức hướng tới mục đích chuyển đổi toàn bộ hệ thống năng lượng 
('Energiewende') thành ngành năng lượng không các bon và phi hạt nhân vào năm 
2050. Cùng với việc chuyển đổi toàn bộ hệ thống năng lượng, chính phủ Đức có 
giới thiệu bộ chỉ tiêu hiệu quả năng lượng đầy tham vọng. Tiêu thụ năng lượng thứ 
cấp sẽ được giảm 20% vào năm 2020 và 50% vào năm 2050 so với mức của năm 
2008. Ở cấp độ châu Âu, Đức Chính phủ đã cam kết đạt các mục tiêu của EU như 
giảm 20% mức tiêu thụ năng lượng vào năm 2020 và 27% vào năm 2030 so với dự 
đoán năng lượng EU. 
Luật về năng lượng tái tạo của CHLB Đức đã được thông qua tháng 9 năm 
2000, đã đặt ra một khung chính sách chung cho năng lượng của Đức đến năm 
2050 và Kế hoạch hành động quốc gia về năng lượng tái tạo. Chính sách năng 
lượng tái tạo đặt ra các mục tiêu tham vọng trung hạn và dài hạn về giảm mức tiêu 
thụ năng lượng 20% vào năm 2020 so với mức tiêu thụ thiết yếu năm 2008 và ít 
nhất 50% vào năm 2050; tỉ lệ năng lượng tái tạo chiếm 18% mức tiêu thụ năng 
lượng vào năm 2020 và ít nhất 80% điện năng tiêu thụ trong năm 2050; tiết kiệm 
hơn 20% năng lượng các hoạt động làm ấm, sưởi vào năm 2020, giảm 80% tiêu 
thụ năng lượng sơ cấp đến năm 2050, xây dựng tòa nhà thân thiện với khí hậu và 
tăng gấp đôi tốc độ hiện đại hóa năng lượng lên 2% mỗi năm; tăng sản xuất năng 
lượng bình quân 2,1% tới năm 2050. 
2.7 Những kết quả đạt được 
2.7.1 Lĩnh vực năng lượng tái tạo 
Đức được xem như là một điển hình về việc mở rộng khai thác và sử dụng 
hiệu quả năng lượng tái tạo. Thị phần năng lượng tái tạo trong tổng sơ đồ sản xuất 
điện năng đã tăng từ 6% năm 2000 lên 16% năm 2009. Theo từng giai đoạn cụ thể, 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 19	
  
Chính phủ Đức đã điều chỉnh các mục tiêu quốc gia trước đây gấp hai lần, trong đó 
các mục tiêu được chính phủ đưa ra trước đây đã đạt vượt kế hoạch. Chính phủ 
Đức đặt kỳ vọng thị phần điện năng lượng tái tạo vào năm 2020 đã đạt 38% và tiếp 
tục định hướng chuyển đổi năng lượng Đức thành một hệ thống năng lượng dựa 
hoàn toàn vào các nguồn năng lượng tái tạo trong tương lai. 
Những lợi ích kinh tế của việc phát triển năng lượng tái tạo ở Đức thực sự ấn 
tượng. Năm 2010, chỉ riêng ngành năng lượng tái tạo đã tạo ra khoảng 340.000 
việc làm, hầu hết từ năng lượng sinh khối, năng lượng gió và năng lượng mặt trời 
so với ngành công nghiệp than non chỉ tạo ra 50.000 việc làm từ các hoạt động 
khai thác mỏ cho tới các nhà máy điện. Chính sách quan trọng đóng góp cho thành 
công này chính là đạo luật năng lượng tái tạo, ban hành vào tháng 4/2000. 
Chính sách giá ưu đãi năng lượng tái tạo được lồng ghép vào trong khung 
chính sách năng lượng và khí hậu nhằm thúc đẩy các công nghệ sử dụng hiệu quả 
năng lượng và năng lượng tái tạo, bao gồm các luật khuyến khích các nhà máy 
điện và nhiệt điện, hệ thống buôn bán phát thải, cải cách thuế năng lượng, và một 
số biện pháp khác. Tiếp đến sẽ là việc sửa luật nhằm khuyến khích năng lượng tái 
tạo tiếp cận hòa lưới điện và cải thiện điện lưới, năng lượng gió ngoài khơi, và các 
công nghệ quản lý điện giờ cao điểm và trữ điện. 
- Gia tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo trong tổng nguồn năng lượng cung cấp 
hàng năm 
Năm 2014, năng lượng tái tạo đã cung cấp khoảng 160,6 tỉ kwh tương đương 
26,6% tổng lượng điện năng của Đức. Tỷ lệ tiêu thụ điện năng từ năng lượng tái 
tạo đã tăng từ 5% những năm 1990 lên 27,8% năm 2014. 
- Giảm phát thải khí nhà kính 
Theo thống kê của Đức, việc sử dụng năng lượng tái tạo ở Đức đã giúp cắt 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 20	
  
giảm một lượng đáng kể khí nhà kính qua các năm. Năm 2011, tổng lượng phát 
thải khí nhà kính giảm được từ việc thúc đẩy sử dụng năng lượng tái tạo là 129,3 
triệu tấn CO2. Năm 2014 tổng lượng này đã tăng lên 148 triệu tấn. 
Bảng 1 Tổng lượng phát thải khí nhà kính giảm được do sử dụng năng 
lượng tái tạo năm 2011 
Lĩnh vực Lượng phát thải khí nhà kính giảm 
(Tương đương triệu tấn CO2) 
Thủy điện 15, 5 
Năng lượng gió 34,2 
Sinh khối 24,7 
Quang điện 12,9 
Địa nhiệt 35,4 
Năng lượng mặt trời 1,8 
Năng lượng sinh học 4,8 
Nguồn: Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội, 2016 
- Tạo ra nhiều việc làm mới từ thúc đẩy năng lượng tái tạo 
Đến năm 2013, thúc đẩy năng lượng tái tạo ở Đức đã tạo ra gần 371.400 việc 
làm, tập trung chủ yếu vào năng lượng gió, mặt trời và sinh khối. Đức hiện là quốc 
gia hàng đầu EU trong việc tạo việc làm trong lĩnh vực năng lượng tái tạo. 
Bảng 2 Số việc làm tạo ra từ lĩnh vực năng lượng tái tạo tại Đức 
Lĩnh vực Số việc làm được tạo ra theo lĩnh vực 
(nghìn việc làm) 
Thủy điện 13 
Năng lượng gió 138 
Sinh khối 52 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 21	
  
Quang điện 56 
Địa nhiệt 17 
Năng lượng mặt trời 27 
Năng lượng sinh học 49 
Nguồn: Nghiên cứu Châu Âu 2016 (Xuân, 2016) 
- Khuyến khích hạ tầng xanh 
Đức là quốc gia hàng đầu trong việc triển khai sáng tạo và ứng dụng công 
nghệ xanh nhằm cải thiện môi trường đô thị. Các công nghệ này cũng có thể là hạ 
tầng xanh hoặc phát triển các-bon thấp, bao gồm các công nghệ mái nhà xanh, mặt 
tiền xanh và vỉa hè có khả năng thẩm thấu. Những sáng tạo được mô phỏng dựa 
trên quá trình tự nhiên của đất và thực vật nhằm cung cấp “dịch vụ môi trường” 
như quản lý nước mưa sau bão, làm mát đô thị và nơi cư trú, thậm chí có thể áp 
dụng ở các khu vực đô thị mật độ dân cư đông. Rõ ràng, việc gia tăng mái nhà 
xanh và hạ tầng xanh khác ở Đức được hỗ trợ tổng phức hợp các chính sách ưu đãi 
và các quy định của chính quyền các cấp. Đáng kể đến là luật bảo vệ thiên nhiên 
liên bang và mã hóa các tòa nhà yêu cầu “mức bồi thường”, hoặc phục hồi đối với 
những hư hại do con người gây ra đối với cảnh quan thiên nhiên và dịch vụ môi 
trường trong phát triển lĩnh vực xanh (phát triển trên vùng đất chưa khai thác trước 
đây). Trong nhiều trường hợp, kỹ thuật hạ tầng xanh có thể được sử dụng đáp ứng 
các yêu cầu này. Luật liên bang cũng yêu cầu các bang của Đức phải tạo lập các kế 
hoạch tạo phong cảnh. Do vậy, các bang ở Đức đã sáng kiến một loạt các phương 
pháp tiếp cận bảo vệ môi trường, nhiều trong số đó có sự tham gia của các thành tố 
lúc đầu được ưu đãi và sau yêu cầu bắt buộc phải kiến tạo và bảo hành cơ sở hạ 
tầng xanh. 
Hơn nữa, một loạt tòa án bang và liên bang ở Đức quy định ngay từ những 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 22	
  
năm 1970 yêu cầu sự minh bạch và cấu trúc tỷ lệ công bằng của các dịch vụ nước 
từ mưa bão. Do vậy, phần đa các hộ gia đình ở Đức phải trả phí cho dịch vụ nước 
mưa bão dựa trên một ước tính chi phí nước mưa bão phát sinh trong khuôn khổ 
gia đình mình. Từ khi phương pháp đánh giá lô đất cá nhân được sử dụng để đánh 
giá các phí liên quan trực tiếp tới các điều kiện trong từng thửa đất cụ thể, và do 
các quyết định sử dụng đất (như làn sóng đường dẫn xe vào nhà hay lắp đặt mái 
xanh) có tác động chủ yếu tới tổng lượng nước mưa giữa lại trong mỗi thửa đất 
hoặc căn nhà. Phương pháp tiếp cận này tạo ra các ưu đãi cho các cá nhân trong 
việc hợp tác cơ sở hạ tầng xanh trên tài sản đất của họ. 
Ở Berlin, sự tham gia của cộng đồng trong việc đánh giá IPA đã được ghi 
nhận thông qua việc cải thiện nhận thức cộng đồng trong kết nối giữa các quyết 
định sử dụng đất trên chính tài sản của học với các vấn đề môi trường trong các 
sông, hồ của khu vực dân cư sinh sống. IPA cũng cung cấp thông tin không gian 
chi tiết bề mặt không thấm và kết nối với hệ thống cống thoát nước mưa bão. Các 
thông tin này có thể cải thiện công tác lập kế hoạch lưu vực sống và phát triển các 
mô hình thiết kế tối ưu hóa hiệu quả của các hệ thống cống hiện tại. 
- Thực hiện giao thông bền vững 
Chính quyền liên bang, các bang và các cấp cơ sở ở Đức xác định thực hiện 
phát triển hệ thống giao thông xanh, bền vững. Các loại thuế xăng dầu liên bang, 
thuế bán xăng dầu và các quy định áp dụng thuế cáo đối với đối tượng sử dụng và 
sở hữu xe máy và khuyến khích gia tăng nhu cầu sử dụng xe ô tô nhỏ ít gây ô 
nhiễm môi trường. Năm 2008, thuế buôn bán xe máy ở Đức cao gấp 3 lần ở Mỹ, và 
thuế xăng dầu gấp 9 lần. Tuy nhiên, thuế xăng dầu không áp dụng cao hơn đối với 
các chi phí giao thông của các hộ gia đình. 
Người dân Đức cũng sở hữu ít xe ô tô hơn và các xe thường sử dụng năng 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 23	
  
lượng hiệu quả hơn. Do vậy, giao thông chiếm khoảng 14% chi phí của các hộ gia 
đình ở Đức. Chính phủ liên bang Đức cung cấp một quỹ đầu tư cho giao thông 
công cộng địa phương. Quỹ này hỗ trợ cải thiện giao thông địa phương thông qua 
hỗ trợ các dự án về phương tiện giao thông công cộng, đường đi bộ và phát triển 
xe đạp. Các bang của Đức phân bổ các quỹ liên bang vào cải thiện hệ thống đường 
sắt khu vực và điều phối các dịch vụ giao thông công cộng toàn bang. Nhiều bang 
ở Đức đặt ra yêu cầu tối thiểu chỗ đỗ xe trong quy hoạch phát triển địa phương. 
Chính quyền bang và liên bang đưa ra khung giao thông bền vững hơn, nhưng các 
thành phố đóng vai trò quan trọng trong phát triển và thực hiện các chính sách đổi 
mới, sáng tạo. 
 3. Một số bài học về thực hiện kinh tế xanh ở Đức 
3.1 Thực hiện phát triển bền vững 
Trong quá trình thực hiện phát triển bền vững ở Đức, chính phủ kêu gọi các đề 
xuất, đặc biệt trước khi sửa luật và khuyến khích đối thoại với các bên liên quan và 
các đảng. Điều này tạo cơ hội cho chính phủ giải thích rõ hơn về các đề xuất giải 
pháp chính sách cũng như cho phép các bên liên quan tham gia đóng góp ý tưởng, 
phản hồi ý kiến với các đề xuất của chính phủ và gợi ý cải thiện chính sách. Chính 
việc đối thoại chính sách giữa chính phủ và các bên liên quan giúp cải thiện chất 
lượng của các hành động chính sách của chính phủ và gia tăng sự chấp nhận của 
công chúng đối với các quyết định của chính phủ. 
Để xây dựng chiến lược phát triển bền vững trong bối cảnh mới, nhiều cuộc 
đối thoại công khai đã được tổ chức ở Đức, các bộ trưởng từ các bang ở Đức, thư 
ký các bang và các đại diện chính quyền liên bang, các bang và các cấp ở địa 
phương được khuyến khích tham gia cùng với lĩnh vực tư nhân, học thuật và các tổ 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 24	
  
chức xã hội dân sự cùng thảo luận về các yêu cầu cho chiến lược mới. 
Trong nhiều năm, chính phủ Đức cũng tổ chức đối thoại 3-4 lần trong năm, 
trong các cuộc đối thoại đó các ý tưởng và thông tin về chương trình nghị sự phát 
triển bền vững quốc tế với đại diện là các tổ chức phi chính phủ, nhà thờ, chính 
quyền địa phương, cộng đồng khoa học và học thuật cũng như lĩnh vực tư nhân 
cùng được đưa ra trao đổi. 
3.2 Chính sách hiệu quả tài nguyên 
Việc phê duyệt Chương trình hiệu quả tài nguyên của Đức đã đánh dấu một 
sự khởi đầu một quá trình thúc đẩy hiệu quả tài nguyên và đề ra một khung hướng 
dẫn thực hiện trong lĩnh vực này. Điều này đóng vai trò quan trọng trong thực hiện 
các chính sách đề ra trong chương trình, và cũng đòi hỏi sự sáng tạo cao hơn nữa 
của nhiều người, trong đó các bên tham gia hợp tác chặt chẽ với các nhà hoạch 
định chính sách, ngành công nghiệp, khoa học và xã hội dân sự. Chương trình 
cũng đòi hỏi phải có sự cam kết của cộng đồng. Đây là một chương trình mang 
tính khuyến khích cao, đóng góp đáng kể thực hiện trọng tâm hơn nữa vào việc sử 
dụng tài nguyên trong các chính sách môi trường và thúc đẩy nhiều sáng kiến trong 
lĩnh vực này. 
3.3 Lĩnh vực năng lượng 
3.3.1 Chính sách thuế năng lượng 
Ở nhiều quốc gia có quy trình lập pháp khác nhau, việc áp dụng cải cách thuế 
năng lượng có thể khó áp dụng thực tế. Tuy nhiên, thâm hụt ngân sách của Đức 
ngày càng tăng cũng tác động đáng kể tới sự thay đổi quan điểm của các bên chính 
trị ở Đức, đặc biệt là những người đã từng phản bác thuế môi trường. Do vậy, việc 
tăng nguồn thu từ chính thuế năng lượng vô hình chung đã có những bước thuận 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 25	
  
lợi đáng kể từ chính những lý do và lợi ích của cải cách thuế mang lại, đặc biệt là 
sự gia tăng chi phí năng lượng. 
Kinh nghiệm cho thấy, nếu thực hiện tốt công tác truyền thông kết hợp với 
việc trao đổi chặt chẽ cởi mở dưới nhiều hình thức trong các tầng lớp nhân dân 
ngay từ những giai đoạn sơ khai thực hiện cải cách thuế có thể sớm làm giảm bớt 
những ý kiến trái chiều. Hơn nữa, việc định hình cải cách thuế như một loại thuế 
thúc đẩy bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế thân thiện với môi trường sẽ có 
thể tránh được những xung đột xảy ra. Việc tập trung vào đổi mới và lợi ích trong 
việc tạo ra công ăn việc làm từ chính cải cách thuế cũng coi như là một chiến lược 
phù hợp với Đức trong giai đoạn này. Và rõ ràng, thực hiện quy trình áp dụng cải 
cách thuế minh bạch và có lộ trình đóng vai trò quan trọng trong việc các chính 
sách cải cách thuế bước đầu được chấp nhận. Những kết quả tích cực trong việc 
thực hiện cải cách thuế chính là một bài học kinh nghiệm hay của Đức cho các 
quốc gia khác trên thế giới nghiên cứu, học hỏi và áp dụng phù hợp với hoàn cảnh 
của mình. Trái với những lo ngại ban đầu khi đề xuất cải cách thuế, việc thay đổi 
hành vi và thực hiện đổi mới do tác động từ việc tăng giá năng lượng thực chất đã 
củng cố nền kinh tế Đức. Các công nghệ sử dụng hiệu quả năng lượng tính đến 
thời điểm hiện tại đang chính là những sản phẩm xuất khẩu phát triển mạnh của 
Đức. Hơn nữa, khuyến khích giảm sử dụng năng lượng đã tăng khả năng thích ứng 
của nền kinh tế nước này đối với sự biến động về giá xăng dầu thế giới. Nhìn 
chung, hiệu quả lớn hơn cả đối với nền kinh tế của Đức chính là hạ mức chi phí 
năng lượng thấp hơn cho các hộ gia đình và ngành công nghiệp. Mặc dù mức thuế 
suất năng lượng cao hơn đáng kể, các hóa đơn thông thường và các khoản chi phí 
tiêu thụ nhiên liệu bình quân của Đức có xu hướng tương đương hoặc thấp hơn 
các khoản chi tương tự ở Mỹ. Cơ quan Môi trường Liên bang đã kết luận, Luật Cải 
cách thuế sinh thái đã thực hiện đúng tôn chỉ đưa ra bàn đầu đó là điều kiện lao 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 26	
  
động được cải thiện hơn và bền vững hơn và góp phần làm nên khái niệm "cân 
bằng kinh tế vĩ mô tích cực" của nền kinh tế Đức. 
3.3.2 Chính sách hiệu quả năng lượng 
NAPE giúp thúc đẩy sự tham gia của tất cả các thành phần xã hội thực hiện 
việc sử dụng năng lượng kinh tế hơn từ các chính quyền địa phương, doanh 
nghiệm cho tới người tiêu dùng. Người dân, doanh nghiệp và các cơ quan chính 
quyền địa phương chỉ có thể cải thiện việc sử dụng năng lượng một cách hiệu quả 
khi họ thực sự biết được họ có thể tiết kiệm tiền ở đâu. 
NAPE cũng nhấn mạnh vào việc cung cấp thông tin và tư vấn. Một ưu tiên 
nữa đó chính là đẩy mạnh các ưu đãi đầu tư sử dụng hiệu quả năng lượng. Bên 
cạnh việc ban hành các ưu đãi thuế đối với các giải pháp hiệu quả năng lượng 
trong các tòa nhà dân cư, và các khoản hỗ trợ đặc biệt cho các phương tiện sử dụng 
điện thương mại. 
Các nguyên tắc của NAPE chính là kêu gọi ngành công nghiệp đóng góp 
trong việc sử dụng hiệu quả năng lượng. Kế hoạch hành động quy định bắt buộc 
cho các doanh nghiệp thực hiện kiểm toán năng lượng và hình thành các tiêu chuẩn 
áp dụng cho các tòa nhà và các trạm lắp máy. Có gần 500 doanh nghiệp, mạng lưới 
sử dụng năng lượng hiệu quả được trông đợi sẽ đề ra mục tiêu kết hợp sử dụng 
năng lượng hiệu quả của mình và triển khai các mục tiêu theo từng nhóm giải 
pháp. 
3.3.3 Một số vấn đề khác 
Để thực hiện xanh hóa nền kinh tế, chính phủ Đức đã khuyến khích người dân 
tham gia vào quá trình thúc đẩy kinh tế xanh ở tất cả các cấp, thúc đẩy các sáng 
kiến xanh trong không chỉ sản xuất mà trong cả nghiên cứu và phát triển, trong giai 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 27	
  
đoạn giới thiệu sản phẩm ra trường, và thông qua việc chuyển giao công nghệ cho 
các quốc gia khác. Việc theo đuổi một nền kinh tế xanh cùng đòi hỏi các công ty 
tham gia vào thực hiện xanh hóa nền kinh tế cần thiết phải đầu tư vào đào tào 
nguồn nhân lực của mình. Bản thân các ngân hàng của Đức cũng cần thiết phải xây 
dựng một mô hình tài chính dễ tiếp cận hơn cho những nhà đầu tư trong lĩnh vực 
kinh tế xanh. Để hiện thực hóa được xanh hóa nền kinh tế, việc đưa ra một khung 
chính sách là rất cần thiết, cho phép tất cả các bên liên quan cùng có một cách tư 
duy và nhận thức về phát triển nền kinh tế xanh. 
- Ưu tiên lựa chọn các dự án có sự đồng thuận nhất trí cao. Thực hiện thí điểm 
chính sách và sau đó nhân rộng mô hình ở các phạm vi rộng hơn. 
- Triển khai chính sách trong thực tế và điều chỉnh các mục tiêu chính sách 
thường xuyên. 
- Đồng bộ hóa hệ thống giao thông từ vận tải, xe đạp và các giải pháp thay thế 
xe máy bằng việc khuyến kích đường dành cho người đi bộ và tăng chi phí đi lại 
bằng xe ô tô. Cải thiện chất lượng và dịch vụ của các hình thức vận tải thay thế và 
triển khai các biện pháp giảm sử dụng xe ô tô. 
- Sự tham gia của người dân là một nhân tố chính trong lập kế hoạch giao 
thông và sử dụng đất. 
- Thực hiện thay đổi giao thông vận thải, hệ thống sử dụng đất và hành vi giao 
thông. 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 28	
  
Tài liệu tham khảo 
1. Germany Green growth in action: OECD, 2016 
2. BMUB - The Federal Ministry for the Environment, Nature Conservation, 
Building and Nuclear Safety. 2016. truy cập tháng 10 
2016.  
3. Chính sách thúc đẩy tăng trưởng xanh - Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn 
Việt Nam, Trần Ngọc Ngoạn, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, 2016. 
4. Chuyển đổi sang nền kinh tế xanh ở một số nước EU và gợi mở cho Việt 
Nam, Lê Thị Thu Hương, 2012. 
5. Future made in Germany: Germany's growth is becoming incresingly 
sustainable, Federal Environment Agency, 2011,  
6. Global Green Growth: Clean Energy Indistrial Investment and Expanding 
Job Opportunities, UNDP and GGGI, 2015, Volume II. 
7. Green Economy, BMZ. The Federal Ministry for Economic Cooperation and 
Development, February 2011. 
8. Greening the Budget: Pricing Carbon and Cutting Energy Subsidies to 
reduce the financial deficit in Germany, Damian Ludewig Bettina Meyer, and Kai 
Schlegelmilch, Washington D.C, September 2010. 
9. Hướng tới nền kinh tế xanh - Lựa chọn chính sách cho Việt Nam, Trần Ngọc 
Ngoạn và Hà Ngọc Huy, Tạp chí khoa học xã hội Việt Nam, 2012. 
10. Hỗ trợ tăng trưởng xanh: kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam, 
Trần Thị Vân Anh và Phạm Văn Nghĩa, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 
(95), 2015. 
11. How Germany became europes green leader – A look at four decades of 
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU 2017 29	
  
sustainable policy making, Ralph Buehler Arne Jungjohann, Melissa Keeley, 
Michael Mehling, 2011, The solution journal, 
https://www.thesolutionsjournal.com/article/how-germany-became-europes-green-
leader-a-look-at-four-decades-of-sustainable-policymaking/. 
12. Sharing experience for sustainability and productivity, Buhner 
Moritz, Know the flow, 2012, https://www.ifu.com/knowtheflow/2012/the-path-
to-a-green-economy-lessons-from-germany/. 
13. Thực tiễn áp dụng và giải pháp thúc đẩy tăng trưởng xanh, Nguyễn 
Tuấn Anh, tạp chí Trung tâm con người và thiên nhiên, 2/9/2016, 
tang-truong-xanh/. 
14. Towards a green economy in Germany? The role of energy efficiency, Marc 
Ringel Barbara Scholoman, Micheal Krail, Clemens Rohde, Applied Energy, 2016. 
15. Towards Green Growth, OECD, 2011. 
16. Xây dựng kinh tế xanh – Kinh nghiệm của Cộng hòa Liên bang Đức và bài 
học cho Việt Nam, Vũ Thị Thanh Xuân, Nghiên cứu Châu Âu, Tạp chí Châu Âu, 
Viện Nghiên cứu Châu Âu, Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt, 2016. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
kinh_te_xanh_o_cong_hoa_lien_bang_duc_va_mot_so_bai_hoc_rut.pdf