Kỹ năng đặt câu hỏi chất vấn và đưa kiến nghị khi chất vấn

Một là, chất vấn thể hiện bản lĩnh, trách nhiệm và năng lực tổng hợp của ĐBQH; năng lực chất vấn của ĐBQH phụ thuộc lớn vào các thông tin và năng lực xử lý thông tin mà ĐBQH thu nhận được. Do đó, ĐBQH phải được cung cấp thông tin một cách đầy đủ, toàn diện và kịp thời về những vấn đề mà đại biểu quan tâm chất vấn.Tuy nhiên, cần có những thông tin đã được xử lý thông qua chính ĐBQH, bằng chuyên gia phân tích, tư vấn, bằng thảo luận, tranh luận tại kỳ họp. Chất vấn của ĐBQH phải thật “đắt”, làm rõ được trách nhiệm của đối tượng bị chất vấn, tạo cơ sở để Quốc hội buộc họ nhận thức ra và sửa chữa, khắc phục những yếu kém. Đây là khâu còn yếu, cần phải được hoàn thiện trong thời gian tới. Hai là, sau khi nghe báo cáo công tác của Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và các báo cáo khác (nếu có), các ĐBQH gửi chất vấn đến Chủ tịch Quốc hội. Đoàn thư ký kỳ họp có trách nhiệm tổng hợp các chất vấn. UBTVQH dự kiến và trình Quốc hội quyết định những vấn đề chất vấn phải trả lời tại hội trường, những chất vấn cần được trả lời bằng văn bản, những chất vấn cần được chuẩn bị để trả lời tại kỳ họp khác của Quốc hội hoặc trả lời tại các phiên họp của UBTVQH. Ba là, sau khi nghe trả lời chất vấn, Quốc hội cần có kết luận hoặc ra nghị quyết làm rõ trách nhiệm của từng đối tượng bị chất vấn và giao nhiệm vụ cụ thể cho Chính phủ, từng thành viên của Chính phủ, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao. trong việc khắc phục những yếu kém, hạn chế mà ĐBQH chất vấn. Đây là cơ sở pháp lý để biến chất vấn của ĐBQH thành giám sát tối cao của Quốc hội tại kỳ họp và có giá trị pháp lý buộc chủ thể bị chất vấn phải thực hiện, đồng thời để tiếp tục giám sát, đánh giá tại các kỳ họp tiếp theo. Trên thực tế, việc ra nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn chưa thực hiện theo đúng quy định tại Điều 15 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Việc ra nghị quyết của Quốc hội về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn phải được xem như một hoạt động bình thường, thể hiện tính cương quyết, công khai, minh bạch trong hoạt động giám sát của ĐBQH.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 124 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kỹ năng đặt câu hỏi chất vấn và đưa kiến nghị khi chất vấn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TS. Nguyễn Đình Quyền* * Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp Nguyên phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Đại biểu Quốc hội khóa XII, XIII KỸ NĂNG ĐẶT CÂU HỎI CHẤT VẤN VÀ ĐƯA KIẾN NGHỊ KHI CHẤT VẤN 1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kỹ năng đặt câu hỏi chất vấn của đại biểu quốc hội ở Việt Nam - Để thực hiện vai trò giám sát của mình, ĐBQH không chỉ tham gia vào hoạt động của Quốc hội trong việc xem xét các báo cáo của Chủ tịch nước, UBTVQH, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các báo cáo giám sát của các cơ quan Quốc hội mà còn được thực hiện ở hoạt động chất vấn. Chất vấn của ĐBQH là hình thức giám sát tối cao tại kỳ họp. Điều 80 của Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước”. Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ đều quy định các ĐBQH có quyền chất vấn. Từ Hiến pháp 1946 đến Hiến pháp năm 2013, đối tượng bị chất vấn ngày càng được mở rộng. Hiến pháp 1946 chỉ dừng lại ở quy định Nghị viện chất vấn đối với Bộ trưởng. Hiến pháp năm 1959 quy định ĐBQH có quyền chất vấn Hội đồng Chính phủ, các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ. Hiến pháp năm 1980 quy định ĐBQH có quyền chất vấn Hội đồng Bộ trưởng và các thành viên của Hội đồng Bộ trưởng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 mở rộng và cá thể hóa trách nhiệm của người bị chất vấn, theo đó, ĐBQH có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước. - Chất vấn là quyền và là hình thức giám sát riêng và quan trọng nhất của ĐBQH. Chất vấn là yêu cầu của đại biểu với tư cách là người đại diện có thẩm quyền của nhân dân đối với người bị chất vấn trong việc làm rõ trách nhiệm của người bị chất vấn, buộc người bị chất vấn phải báo cáo, giải trình trước cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất về những vấn đề liên quan đến trách nhiệm của họ trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Chất vấn do cá nhân ĐBQH thực hiện nhưng khi tiến hành tại kỳ họp Quốc hội trở thành một trong những hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội. Các ĐBQH khi thực hiện quyền chất vấn thì không còn nhân danh cá nhân nữa mà nhân danh quyền lực tối cao của nhân dân, hay còn gọi là quyền lực gốc, quyền NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 3Số 10(362) T5/2018 lực do dân bầu và ủy nhiệm, thay mặt nhân dân yêu cầu người bị chất vấn phải trả lời về những vấn đề liên quan đến trách nhiệm pháp lý của mình, quy trách nhiệm pháp lý đối với người bị chất vấn. Đặc điểm quyền chất vấn của ĐBQH là chất vấn đối với cá nhân những người đứng đầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thực hiện quyền chất vấn giúp cho ĐBQH thay mặt nhân dân xem xét tính đúng đắn trong hoạt động của bộ máy nhà nước và có thêm cơ sở để thực hiện quyền bầu, phê chuẩn, bãi nhiệm, miễn nhiệm và lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người lãnh đạo, những người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Khi nghiên cứu về quyền chất vấn, một vấn đề cần lưu ý trong việc phân biệt rõ giữa quyền này với quyền của ĐBQH yêu cầu trả lời về những vấn đề mà ĐBQH quan tâm, theo đó quyền chất vấn và quyền yêu cầu trả lời về những vấn đề mà ĐBQH quan tâm về mặt hình thức thường giống nhau ở chỗ đều là dạng đặt câu hỏi nhưng khác nhau ở mục đích, chủ thể, trình tự, thủ tục tiến hành và đặc biệt là hậu quả pháp lý. Việc yêu cầu trả lời những vấn đề mà ĐBQH quan tâm thường chỉ đặt ra nhằm thu thập thông tin để phục vụ cho hoạt động của ĐBQH, trong khi đó, chất vấn là một hoạt động quyền lực nhằm làm rõ và quy kết trách nhiệm, kết quả trả lời chất vấn dẫn đến việc có áp dụng hay không áp dụng các hình thức chế tài của Nhà nước đối với người bị chất vấn và buộc người bị chất vấn phải đưa ra, thực hiện cho được giải pháp khắc phục yếu kém. Hơn nữa, đối với quyền chất vấn, đối tượng bị chất vấn được xác định cụ thể và có phạm vi nhất định, còn quyền yêu cầu trả lời về những vấn đề mà ĐBQH quan tâm không hạn chế đối với bất kỳ đối tượng, lĩnh vực nào. Ở các nước đối tượng và thẩm quyền giám sát, chất vấn của Nghị viện, đại biểu Nghị viện phụ thuộc vào hình thức chính thể. Đối với chính thể cộng hòa tổng thống, đại biểu Nghị viện thường ít chất vấn, điều trần, giám sát hoạt động của Chính phủ, thành viên Chính phủ; các nước theo chính thể đại nghị dù là cộng hòa hay dân chủ, Chính phủ được thành lập trên cơ sở Nghị viện, được sự tín nhiệm của Nghị viện, chịu sự chi phối về mặt pháp lý của Nghị viện, theo đó, đại biểu Nghị viện có thể thực hiện những quyền hạn nhất định trong giám sát, chất vấn Chính phủ, thành viên của Chính phủ, đồng thời xác định trách nhiệm về pháp lý, chính trị của Chính phủ đối với Nghị viện. Bởi suy cho cùng ở chính thể này, Nghị viện và Chính phủ đều nằm trong tay của đảng chiếm đa số hoặc liên minh các đảng cầm quyền, thực hiện chính sách, đường lối của đảng chính trị đó. Nên với kỷ luật đảng, các đại biểu là đảng viên phải tuân theo chính sách, đường lối của đảng, trách nhiệm của các đại biểu Nghị viện và Chính phủ đều hướng tới mục tiêu đó, vì vậy sự phân quyền về mặt pháp lý giữa Nghị viên và Chính phủ trong chính thể này nhiều khi trở thành hình thức, khi đó Nghị viện của đảng đối lập đóng vai trò quan trọng trong chất vấn và gây áp lực, đề nghị bỏ phiếu tín nhiệm Chính phủ. Kết quả giám sát của Nghị viện đối với Chính phủ thể hiện ở những chất vấn, yêu cầu, kiến nghị của đại biểu nghị viện và Nghị viện đối với Chính phủ, các thành viên của Chính phủ và trường hợp Chính phủ không còn tín nhiệm thì vấn đề bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ có thể được các đại biểu nghị viện đặt ra theo một tỷ lệ đại biểu do pháp luật quy định. - Đặc điểm quyền chất vấn của ĐBQH theo Hiến pháp năm 1992 và năm 2013 là các đại biểu không chất vấn cơ quan nhà nước nói chung mà chất vấn cá nhân người đứng đầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đây là điều khác biệt so với quyền chất vấn của ĐBQH đã được quy định tại các Hiến pháp trước đây. Về hình thức chất vấn, nếu trước đây chất vấn chỉ là đối thoại trực tiếp thì Hiến pháp năm 1992 trở đi, ĐBQH có thể chất vấn trực tiếp hoặc gửi phiếu chất vấn qua UBTVQH để chuyển tới người bị chất vấn. Và được thực hiện không chỉ tại kỳ họp mà ĐBQH có thể gửi chất vấn trong thời gian giữa hai kỳ họp. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 4 Số 10(362) T5/2018 Trong mấy nhiệm kỳ gần đây, chất vấn và trả lời chất vấn đã được tiến hành thường xuyên. Tại mỗi kỳ họp, Quốc hội dành khoảng ba đến bốn ngày để tiến hành chất vấn. Các hoạt động chất vấn đã được truyền hình trực tiếp để người dân theo dõi. Các nội dung mà ĐBQH chất vấn thường đề cập tới những vấn đề nóng bỏng, bức xúc, liên quan tới trách nhiệm của nhiều cơ quan, người đứng đầu các cơ quan thuộc mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội và đã được các thành viên của Chính phủ, người đứng đầu Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan khác trả lời nghiêm túc. Thông qua chất vấn, trả lời chất vấn, nhiều vấn đề được làm sáng tỏ, nhất là trách nhiệm của các cơ quan, người đứng đầu các cơ quan hữu quan trong công tác của mình. Hình thức đối thoại trực tiếp tạo không khí dân chủ cởi mở, nghiêm túc giữa người chất vấn và người trả lời chất vấn đã mang lại kết quả thiết thực, được nhân dân quan tâm theo dõi và hoan nghênh. Trên thực tế đang có sự lẫn lộn giữa chất vấn và đặt câu hỏi để nắm thông tin. Trong nhiều câu hỏi mà ĐBQH chất vấn cho thấy có không ít câu hỏi được nêu ra không phải là chất vấn mà chỉ để muốn biết về các thông tin cụ thể. Điều này vừa làm cho hoạt động chất vấn kém hiệu quả, vừa làm cho người bị chất vấn lúng túng. Nếu không trả lời thì băn khoăn trước yêu cầu của ĐBQH, nhưng trả lời thì lại không đúng với ý nghĩa, mục đích của chất vấn, trong khi thời gian dành cho hoạt động chất vấn là hết sức quý báu và không thể kéo dài. Vấn đề rất đáng quan tâm hiện nay đó là hậu quả pháp lý của hoạt động chất vấn. Lâu nay, đây là vấn đề chưa được làm rõ và quan tâm đúng mực. Thời gian gần đây, các ĐBQH khi chất vấn đã bắt đầu căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội về chất vấn và trả lời chất vấn, lời hứa của người bị chất vấn tại kỳ họp trước để xác định rõ trách nhiệm và việc thực hiện lời hứa của họ. Tuy nhiên, việc thông qua hoạt động chất vấn để xem xét lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm, để miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc ra nghị quyết của Quốc hội về trả lời chất vấn để thể hiện rõ hậu quả pháp lý của việc chất vấn vẫn chưa có sự kết nối chặt chẽ giữa các phương thức giám sát này. Việc trả lời chất vấn trong thời gian gần đây về cơ bản được thực hiện nghiêm túc mang tính xây dựng với tinh thần phê và tự phê. Thái độ cởi mở khi đối thoại tại phiên họp chất vấn thể hiện tinh thần hợp tác, dân chủ vừa để làm rõ trách nhiệm của người đại diện của nhân dân, vừa đề cao trách nhiệm của những người đứng đầu các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, việc trả lời chất vấn của một số người còn không đi thẳng vào vấn đề, nhất là phần trách nhiệm của mình mà còn vòng vo; nhiều khi lại còn liệt kê thành tích của ngành, né tránh trách nhiệm hoặc thanh minh, đổ lỗi cho khách quan hoặc cơ quan khác. Trong trường hợp như vậy, Quốc hội cũng chưa có cơ chế để làm rõ và xử lý. Đây là tồn tại cần sớm được khắc phục. - Để tăng cường vai trò giám sát của Quốc hội, ĐBQH, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 quy định quyền của ĐBQH trong việc kiến nghị UBTVQH xem xét, trình Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Khi có ít nhất hai mươi phần trăm trên tổng số ĐBQH kiến nghị, UBTVQH xem xét, trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ các chức vụ này. Đây là quyền được thực hiện chủ động từ phía các ĐBQH. Quyền của ĐBQH đề nghị với UBTVQH xem xét, trình Quốc hội việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội do chưa được quy định cụ thể nên tại một số nhiệm kỳ Quốc hội trước đây, khi ĐBQH sử dụng quyền đề nghị bỏ phiếu tín nhiệm thì gặp lúng túng về cơ chế thực hiện, bởi vì cách tính hội đủ kiến nghị của 20% tổng số ĐBQH, nhưng hiện nay Điều 33 Luật Tổ chức Quốc hội đã quy định rõ về cơ chế này để góp phần khắc phục hạn chế đã kéo dài thời gian qua. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 5Số 10(362) T5/2018 2. Kỹ năng cụ thể trong việc đặt câu hỏi chất vấn và đưa kiến nghị khi chất vấn 1. Như trên đã trình bày, ĐBQH là chủ thể duy nhất theo luật định thực hiện quyền giám sát bằng hình thức chất vấn. Do đó, ĐBQH không thể ủy quyền cho chủ thể khác (ĐBQH, Đoàn ĐBQH hoặc HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội) thực hiện quyền này. 2. Muốn đặt câu hỏi chất vấn về vấn đề gì cần thiết phải thu thập thông tin liên quan tới nội dung câu hỏi (đây là yếu tố quan trọng quyết định thành công của việc chất vấn). Thông tin có thể từ báo chí, các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội và các tổ chức khác, từ cử tri, qua việc xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của tổ chức, công dân, qua kết quả khảo sát và nhất là qua hoạt động giám sát chuyên đề, giám sát các vụ việc cụ thể, phiên giải trình của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn ĐBQH hoặc hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp... 3. Bất luận trong câu hỏi chất vấn nhất thiết phải có nội dung về việc làm rõ trách nhiệm của người bị chất vấn; tốt hơn nữa là làm rõ địa chỉ cụ thể, mức độ chịu trách nhiệm của người đó theo nhiệm vụ, quyền hạn do luật định hoặc được giao. 4. Khi đặt câu hỏi cần biết rõ, chính xác theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, nhất là phân cấp thẩm quyền quản lý nhà nước thì người bị chất vấn có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn gì; phạm vi lĩnh vực mà người bị chất vấn có trách nhiệm phụ trách, lãnh đạo, quản lý tới đâu? Trách nhiệm nào là trách nhiệm độc lập, trách nhiệm nào là trách nhiệm liên đới? 5. Câu hỏi chất vấn được đặt ra để làm rõ trách nhiệm trong việc hoạch định chính sách hay trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, trong tổ chức thực hiện chính sách. Trong trường hợp hoạch định chính sách thì phải xem xét cơ quan mà người bị chất vấn phụ trách làm việc theo nguyên tắc gì, phạm vi thẩm quyền đến đâu; trường hợp tổ chức thực hiện chính sách thì nên xem xét kỹ việc phân cấp, giao thẩm quyền quản lý, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. 6. Hiểu và nắm rõ các nội dung quản lý nhà nước mà người bị chất vấn phụ trách lãnh đạo, quản lý, điều hành, nhất là hiện nay trong điều kiện hầu hết các bộ, cơ quan ngang bộ đều thực hiện chức năng quản lý nhà nước đa ngành, đa lĩnh vực thì đây là vấn đề rất cần lưu ý khi chất vấn. 7. Cần biết được vấn đề mình đặt câu hỏi chất vấn đã được cơ quan có thẩm quyền yêu cầu làm rõ và xử lý chưa; đã có ĐBQH nào chất vấn trước đó không hoặc đã có HĐDT, Ủy ban của Quốc hội điều trần, giám sát về vấn đề mà mình nêu câu hỏi không? 8. Câu hỏi chất vấn phải ngắn gọn, trực diện thẳng vào trách nhiệm của người bị chất vấn trên cơ sở khái quát tất cả các thông tin mà ĐBQH thu thập được, tránh diễn giải thông tin sự kiện dài dòng, làm loãng mục tiêu của câu hỏi chất vấn; có đưa thông tin sự kiện thì thật “đắt”, thật ngắn gọn và thông tin đó phải quan hệ mật thiết, nhân quả với trách nhiệm của người bị chất vấn. 9. Cần khai thác thông tin trong chính các báo cáo do người bị chất vấn trình bày trước Quốc hội, UBTVQH, HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn ĐBQH, trong trường hợp báo cáo sai thì thường là những thông tin thiếu cơ sở thực tiễn, mâu thuẫn nhau, không logic hoặc báo cáo một cách hình thức cho qua, không thuyết phục, rất dễ nhận biết. 10. Cần liên kết các thông tin, sự kiện, kết luận từ các nguồn báo chí, tiếp NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 6 Số 10(362) T5/2018 xúc cử tri, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, giám sát chuyên đề, các phiên giải trình của các cơ quan của Quốc hội, của Đoàn ĐBQH và HĐND để khái quát thành vấn đề lớn về mặt vĩ mô quản lý nhà nước liên quan tới trách nhiệm của người bị chất vấn. 11. Tổng hợp các lời hứa của người bị chất vấn trước Quốc hội, UBTVQH, trước cử tri hoặc trước cơ quan, tổ chức hữu quan, đối chiếu với nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của họ để đặt câu hỏi chất vấn làm rõ trách nhiệm, kết quả đạt được trong việc thực hiện các lời hứa đó. 12. Các kiến nghị khi chất vấn cũng cần đặt trong phạm vi vấn đề đang chất vấn và trong phạm vi trách nhiệm của người bị chất vấn; các kiến nghị phải rõ ràng, cụ thể mang tính khả thi và xây dựng, không lấn sân sang lĩnh vực thuộc nghiệp vụ thanh tra, điều tra, kiểm sát. 13. Khi đối thoại với người bị chất vấn cần nắm rõ quyền chất vấn của mình; liên kết giữa quyền chất vấn với quyền đề nghị Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. 14. Để chất vấn được “đắt”, các ĐBQH cần chọn các chủ đề thật bức xúc, thời sự của đời sống kinh tế- xã hội, những điều mà đa số người dân, cử tri đang khát khao gửi gắm tới Quốc hội và ĐBQH phải chuyển tải được ý nguyện đó của cử tri, nhân dân; tạo dư luận xã hội gây sức ép về mặt trách nhiệm và việc thực hiện lời hứa của người bị chất vấn. 15. Khi đưa kiến nghị sau câu hỏi chất vấn, người chất vấn cần xem xét một cách toàn diện những khó khăn chủ quan, khách quan của người bị chất vấn khi thực hiện kiến nghị, phải nắm thật rõ phạm vi trách nhiệm quản lý nhà nước, lãnh đạo, chỉ đạo của họ. Kiến nghị phải thật rõ, cụ thể, hướng tới khắc phục những hạn chế đã được ĐBQH chất vấn hoặc góp phần hoàn thiện cơ chế, pháp luật trong lĩnh vực do người bị chất vấn quản lý, như vậy thì người bị chất vấn mới tâm phục khẩu phục. 3. Một số kiến nghị Chất vấn các thành viên Chính phủ, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước và các chủ thể khác là phương thức thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội do ĐBQH tiến hành, thể hiện quyền lực thuộc về nhân dân và dân chủ thực sự trong hoạt động của Quốc hội. Đồng thời bảo đảm cho Quốc hội thực hiện đúng chức năng, vai trò của cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Qua các kỳ họp của Quốc hội khóa X, khóa XI, khóa XII, khóa XIII, hoạt động chất vấn của ĐBQH không ngừng được đổi mới cả về phương pháp, nội dung chất vấn, được dư luận nhân dân đánh giá cao, bước đầu có hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, hoạt động chất vấn vẫn còn không ít bất cập, hạn chế. Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động chất vấn tại kỳ họp cần hoàn thiện phương thức chất vấn và trả lời chất vấn theo hướng sau: Một là, chất vấn thể hiện bản lĩnh, trách nhiệm và năng lực tổng hợp của ĐBQH; năng lực chất vấn của ĐBQH phụ thuộc lớn vào các thông tin và năng lực xử lý thông tin mà ĐBQH thu nhận được. Do đó, ĐBQH phải được cung cấp thông tin một cách đầy đủ, toàn diện và kịp thời về những vấn đề mà đại biểu quan tâm chất vấn.Tuy nhiên, cần có những thông tin đã được xử lý thông qua chính ĐBQH, bằng chuyên gia phân tích, tư vấn, bằng thảo luận, tranh luận tại kỳ họp... Chất vấn của ĐBQH phải thật “đắt”, làm rõ được trách nhiệm của đối tượng bị chất vấn, tạo cơ sở để Quốc hội buộc họ nhận thức ra và sửa chữa, khắc phục những yếu kém. Đây là khâu còn yếu, cần phải được hoàn thiện trong thời gian tới. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 7Số 10(362) T5/2018 Hai là, sau khi nghe báo cáo công tác của Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và các báo cáo khác (nếu có), các ĐBQH gửi chất vấn đến Chủ tịch Quốc hội. Đoàn thư ký kỳ họp có trách nhiệm tổng hợp các chất vấn. UBTVQH dự kiến và trình Quốc hội quyết định những vấn đề chất vấn phải trả lời tại hội trường, những chất vấn cần được trả lời bằng văn bản, những chất vấn cần được chuẩn bị để trả lời tại kỳ họp khác của Quốc hội hoặc trả lời tại các phiên họp của UBTVQH. Ba là, sau khi nghe trả lời chất vấn, Quốc hội cần có kết luận hoặc ra nghị quyết làm rõ trách nhiệm của từng đối tượng bị chất vấn và giao nhiệm vụ cụ thể cho Chính phủ, từng thành viên của Chính phủ, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao... trong việc khắc phục những yếu kém, hạn chế mà ĐBQH chất vấn. Đây là cơ sở pháp lý để biến chất vấn của ĐBQH thành giám sát tối cao của Quốc hội tại kỳ họp và có giá trị pháp lý buộc chủ thể bị chất vấn phải thực hiện, đồng thời để tiếp tục giám sát, đánh giá tại các kỳ họp tiếp theo. Trên thực tế, việc ra nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn chưa thực hiện theo đúng quy định tại Điều 15 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Việc ra nghị quyết của Quốc hội về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn phải được xem như một hoạt động bình thường, thể hiện tính cương quyết, công khai, minh bạch trong hoạt động giám sát của ĐBQH. Bốn là, không nên bố trí chất vấn và trả lời chất vấn vào cuối kỳ họp, vì dễ tâm lý buông xuôi, cho qua. Nên bố trí vào khoảng thời gian từ giữa kỳ họp đến khoảng 2/3 kỳ họp. Căn cứ vào nội dung chất vấn và trả lời chất vấn, UBTVQH quyết định những vấn đề cần báo cáo, giải trình hoặc những biện pháp mà người trả lời chất vấn phải khắc phục và báo cáo Quốc hội. Đương nhiên, tùy vấn đề và mức độ trách nhiệm mà xác định thời hạn báo cáo để đánh giá hoặc có thể tiến hành lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm nhưng cần báo cáo về biện pháp khắc phục đã làm tại kỳ họp tiếp theo của Quốc hội. Như vậy, để người bị chất vấn thực sự nêu cao trách nhiệm, có những biện pháp hữu hiệu giải quyết những vấn đề bức xúc mà ĐBQH đã chất vấn. Năm là, nâng cao trách nhiệm, chất lượng chất vấn của ĐBQH. Chất vấn phải có địa chỉ cụ thể về trách nhiệm, cần hướng vào các vấn đề mà cử tri đòi hỏi để làm rõ trách nhiệm, khuyết điểm của người bị chất vấn và yêu cầu họ phải thực hiện các biện pháp khắc phục. Tránh tình trạng nêu chất vấn không rõ hoặc chỉ để biết thông tin, không liên quan tới thẩm quyền, trách nhiệm của người bị chất vấn. Sáu là, đối với những vấn đề bức xúc mà cử tri nêu ra, ĐBQH phải nghiên cứu trước, yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan cung cấp thông tin hoặc tự mình thu thập, xử lý thông tin về những vấn đề liên quan đến chất vấn. Chất lượng và hiệu quả của hoạt động chất vấn phụ thuộc vào chất lượng, đúng bản chất sự việc, buộc đối tượng bị chất vấn phải “tâm phục, khẩu phục” sẽ làm cho cử tri cả nước có điều kiện để đánh giá hoạt động của cơ quan nhà nước và thêm tin tưởng Quốc hội. Bảy là, đối với người trả lời chất vấn phải nghiên cứu kỹ yêu cầu chất vấn, chuẩn bị đầy đủ dữ liệu, trả lời tập trung, chính xác, súc tích vấn đề đã nêu. Không báo cáo vòng vo, liệt kê thành tích ngành, né tránh trách nhiệm hoặc thanh minh, đổ lỗi cho ngành khác, cho khách quan; sau trả lời chất vấn phải đề ra và thực hiện cho được biện pháp khắc phục các hạn chế, khuyết điểm■ NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 8 Số 10(362) T5/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfky_nang_dat_cau_hoi_chat_van_va_dua_kien_nghi_khi_chat_van.pdf
Tài liệu liên quan