Kỹ năng xem xét báo cáo công tác
thuộc lĩnh vực tư pháp. Đây là các báo cáo
công tác hàng năm và cả nhiệm kỳ của Tòa
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao và một số báo cáo của Chính phủ về
công tác thi hành án, công tác phòng, chống
vi phạm pháp luật. Một số báo cáo thuộc
lĩnh vực tư pháp thường có nhược điểm là
rất nhiều số liệu, rất nhiều tình hình nhưng
thiếu tính đúc rút, tổng kết, khái quát; thiếu
dự báo tình hình và biện pháp xử lý cụ thể.
- Về kỹ năng xem xét, cũng như các
báo cáo thuộc các lĩnh vực khác, đại biểu
Quốc hội phải nắm vững những nội dung cơ
bản của luật pháp thuộc lĩnh vực này, nhất
là Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự,
Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật
Thi hành án , phải nắm chắc những quy
định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân được Hiến pháp năm
2013 quy định. Đồng thời, phải nắm chắc
những nội dung quan trọng của Nghị quyết
08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết
số 49 ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị Ban
chấp hành trung ương khóa IX về Một số
nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp và
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Đó là những căn cứ pháp lý, là tư tưởng
chính trị để xem xét, đối chiếu, đánh giá các
báo cáo tư pháp.
- Ở bất kỳ lĩnh vực nào thì cán bộ (con
người trong bộ máy) đều có vai trò quyết
định đến kết quả công việc, công tác tư pháp
liên quan trực tiếp đến sinh mệnh con người
thì cán bộ tư pháp càng có vai trò đặc biệt
quan trọng. Vì vậy, nên xem xét kỹ lưỡng
phần bộ máy và cán bộ trong các báo cáo.
Vì sao trong hơn 30 năm đổi mới mà
xã hội lại xảy ra quá nhiều vụ án và có xu
hướng ngày càng tăng? Tại sao phạm nhân
lại ngày càng “trẻ hóa”? Tại sao trong lĩnh
vực tư pháp lại để xảy ra quá nhiều vụ án
oan gây chấn động dư luận xã hội; vì sao
cán cân công lý lại bị xô lệch như vậy? Đây
là những câu hỏi chung nhất có tính chất tìm
“điểm tiếp cận” để làm rõ hiện tình công tác
tư pháp; làm rõ (đánh giá) tình hình đội ngũ
cán bộ tư pháp.
- Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 và nhiệm vụ trọng tâm của công
tác tư pháp đều nhấn mạnh nhiệm vụ: Xây
dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư
pháp trong sạch, vững mạnh. Vậy, sau 15
năm thực hiện, bây giờ đội ngũ này số lượng
và chất lượng như thế nào? Lý giải như thế
nào tình trạng lãnh đạo cấp cao trong lĩnh
vực tư pháp có không ít người phạm nhiều
trọng tội? Có báo cáo nào nói rõ ngọn ngành
những vấn đề này chưa? Ở đây không có kỹ
năng nào hơn ngoài việc chất vấn đến cùng
để làm rõ vấn đề.
Nhìn chung, có thể tóm tắt như sau:
Kỹ năng chính là trình độ am hiểu pháp luật;
là trình độ am hiểu chuyên môn nghiệp vụ
nhiều lĩnh vực; là trình độ phân tích, tổng
hợp thông tin, đánh giá và sáng tạo; là
phương cách diễn đạt nội dung theo một trật
tự hợp lý nhất, bằng ngôn từ trong sáng, hấp
dẫn và dễ tiếp thu nhất. Tổng hợp các nội
dung đó chính là kỹ năng của người đại biểu
Quốc hội
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 189 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kỹ năng giám sát tối cao về xem xét báo cáo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Trong bảy hình thức giám sát tối cao của Quốc hội được quy định
tại Điều 11 của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân năm 2015 thì hình thức xem xét báo cáo công tác là hình
thức duy nhất diễn ra thường xuyên ở tất cả các kỳ họp của Quốc
hội trong mỗi khóa. Bởi vậy, khi bàn về kỹ năng hoạt động giám
sát thì trước hết cũng ưu tiên bàn về kỹ năng giám sát của hình thức
giám sát này.
Bùi Ngọc Thanh*
* TS. Nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội
Abstract
Of the seven types of superime supervisions by the National
Assembly specified in Article 11 of the Law on Supervisory
Activities of the National Assembly and People’s Councils of
2015, the supervision of reviewing the performance report is the
only one that usually takes place at every meeting sessions of the
National Assembly. Therefore, when the discussions on the skills
of the supervisory activities, it is first of all important to discuss the
supervisory skills of this supervision of reviewing the performance
reports.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: giám sát tối cao, xem xét
báo cáo công tác, kỹ năng của đại biểu
Quốc hội
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 20/07/2018
Biên tập : 01/08/2018
Duyệt bài : 10/08/2018
Article Infomation:
Keywords: superime supervision;
review of performance report; skills of
National Assembly deputies.
Article History:
Received : 20 Jul. 2018
Edited : 01 Aug. 2018
Approved : 10 Aug. 2018
KỸ NĂNG GIÁM SÁT TỐI CAO VỀ XEM XÉT BÁO CÁO
I. Các quy định pháp lý về hoạt động giám
sát tối cao tại kỳ họp
Hiện nay có 3 văn bản pháp luật chủ
yếu quy định về hoạt động giám sát tối cao
của Quốc hội tại kỳ họp, đó là:
- Hiến pháp năm 2013: Điều 70 nói
về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, tại
khoản 2 Điều này quy định, Quốc hội thực
hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo
Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội;
xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy
ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Chính
phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc
gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác
do Quốc hội thành lập.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 16(368) T8/2018
- Luật tổ chức Quốc hội năm 2014:
Điều 6 ghi lại như Điều 70 Hiến pháp năm
2013.
- Luật Hoạt động giám sát của Quốc
hội và Hội đồng nhân dân (HĐND) năm
2015: Điều 11 nói về các hoạt động giám sát
tối cao của Quốc hội, trong đó khoản 1 ghi
lại như Điều 70 của Hiến pháp năm 2013;
khoản 4 xem xét báo cáo giám sát chuyên
đề; khoản 5 xem xét báo cáo của Ủy ban lâm
thời do Quốc hội thành lập để điều tra về
một vấn đề nhất định; khoản 7 xem xét báo
cáo của UBTVQH về kiến nghị giám sát của
UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của
Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại
biểu Quốc hội.
Xin bàn thêm về kỹ năng xem xét các
báo cáo theo Điều 13 của Luật Hoạt động
giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015.
II. Kỹ năng giám sát tối cao tại kỳ họp về
xem xét báo cáo công tác
Xét về thời gian thì có hai loại báo cáo
công tác tại kỳ họp của Quốc hội, đó là báo
cáo hằng năm và báo cáo cuối nhiệm kỳ. Và
cũng có thể chia làm hai loại kỹ năng, đó
là kỹ năng chung để xem xét mọi loại báo
cáo và kỹ năng riêng để xem xét từng loại
báo cáo. Trong quá trình xem xét (giám sát)
thì lại phải phối hợp cả hai loại kỹ năng với
nhau.
1. Những kỹ năng chung
1.1 Kỹ năng phản biện. Xem xét báo
cáo chính là phải thể hiện chính kiến (đúng,
sai; hợp lý, không hợp lý thế nào; đó chính
là phản biện). Xét về nội dung thông tin
của báo cáo, trong các báo cáo thường xảy
ra bốn tình huống: một là, thông tin đúng,
chuẩn xác; hai là, thông tin sai, không chuẩn
xác; ba là, thông tin có đúng, có sai; bốn là,
thông tin không rõ đúng, sai thế nào. Ngoài
ra, có thể còn có thông tin lạc đề.
Đối với thông tin đúng, chuẩn xác,
đương nhiên là các đại biểu Quốc hội sẽ
chấp nhận, thậm chí là tán dương. Tuy
nhiên, chấp nhận hay tán dương cũng phải
lập luận với lý lẽ sắc bén (nếu không muốn
bị đánh giá là “mù tịt, chẳng biết gì nên toàn
khen “phò mã tốt áo”, nói cho qua chuyện”)
Muốn thế phải có thông tin, thông tin càng
“đắt giá” càng tốt.
Đối với thông tin sai, không chuẩn
xác, đương nhiên là phải chứng minh. Tùy
từng vấn đề mà có thể chứng minh bằng lý
lẽ hay bằng số liệu hoặc cả hai. Lý lẽ và số
liệu phải làm bật ra sự mâu thuẫn giữa báo
cáo và thực tế.
Đối với thông tin có đúng, có sai thì
phải bóc tách ra điểm nào đúng, điểm nào
sai; chi tiết nào đúng, chi tiết nào sai. Đúng
vì sao, sai vì sao; chứng minh đúng, sai bằng
lập luận, bằng thông tin của mình đã thu thập
và đã được kiểm chứng.
Đối với thông tin chưa rõ đúng, sai
thế nào thì phải yêu cầu làm rõ, sẽ phải chất
vấn. Tuy nhiên đại biểu phải chứng minh
cho được thông tin đó không đủ rõ là như
thế nào (giả dụ, cùng một việc nhưng ở đoạn
này thì nhận định là tốt; đến đoạn khác thì
lại coi là hiện tượng xấu...).
1.2 Kỹ năng trình bày (nói). Trước
hết cần lưu ý là, chỉ có ở lễ kỷ niệm trọng
thể một ngày lịch sử hay ở một đại hội thì
diễn văn hay báo cáo chính trị mới được đọc
nguyên văn, còn đã là phát biểu ý kiến thì
chủ yếu phải trình bày miệng (không nên nối
tiếp nhau đọc các bài viết sẵn như diễn văn,
nhiều khi nhàm chán vì lặp đi lặp lại thông
tin). Kỹ năng trình bày miệng (nói vo) cũng
không dễ, do vậy phải tự rèn luyện. Những
lần đầu có thể phụ thuộc văn bản, giấy tờ
80-90%, sau đó rèn luyện trí nhớ, “ly khai”
dần văn bản, giấy tờ, tới mức chỉ còn phụ
thuộc 15-20% là đạt yêu cầu. Nghĩa là chỉ
cần đề cương sơ lược là có thể phát biểu
được. Khoa học quản lý đã kết luận rằng,
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 16(368) T8/2018
người cầm giấy đọc đều đều như ru ngủ thì
người nghe giỏi lắm cũng chỉ vào tai độ 20%
nội dung bài đọc; còn nói vo mà súc tích, dí
dỏm, người nghe có thể tiếp thu 80-90% ý
kiến. Người ta thường đánh giá, người nói
vo, súc tích bao giờ cũng thông minh hơn
nhiều so với người cầm giấy mà đọc (cầm
giấy đọc thì chỉ cần thoát nạn mù chữ là làm
được). Có ba cách (phương pháp) lựa chọn
ngôn ngữ để trình bày ý kiến:
- Trình bày theo ngôn từ “bác học”,
nghĩa là tất cả các vấn đề, mọi chi tiết đều
được diễn đạt bằng các luận cứ và ngôn
ngữ khoa học. Ưu điểm của phương pháp
này là mọi sự kiện, mọi hiện tượng đều có
khả năng luận giải đến tận cùng. Nhưng có
nhược điểm là không phải ai cũng hiểu cặn
kẽ được tất cả các vấn đề khoa học, nhất là
những vấn đề kỹ thuật, chuyên môn hẹp và
khó.
- Trình bày, diễn đạt bằng phương
pháp “dân dã” một vấn đề nào đó, có thể
dẫn ra một vài việc thực tế, là người nghe
có thể hiểu được. Ưu điểm của phương pháp
này là hầu như ai cũng hiểu, cũng nắm được
vấn đề. Nhưng có nhược điểm là không thể
cắt nghĩa được cặn kẽ, lý giải đến tận cùng
được nhiều vấn đề, nhiều hiện tượng mang
tính khoa học.
- Kết hợp từ ưu, nhược điểm của hai
phương pháp trên để trình bày, có vấn đề
trình bày bằng luận cứ, ngôn ngữ khoa học,
có vấn đề được ví dụ bằng thực tiễn. Cấp độ,
liều lượng kết hợp tùy nội dung đang được
trình bày và tùy thuộc khả năng tri thức,
trình độ thực tiễn và sự nhạy cảm của người
trình bày. Hiện nay phương pháp kết hợp là
phương pháp thông dụng được sử dụng rộng
rãi ở tất cả các phiên thảo luận kinh tế -xã
hội, giám sát chuyên đề, thảo luận dự án luật
lần đầu và trong nhiều trường hợp khác.
1.3 Kỹ năng chuẩn bị một bài phát
biểu. Thực tế các kỳ họp cho thấy, hầu hết
các đại biểu đều sử dụng hết thời lượng 7
phút cho phép, có một số đại biểu nói quá
thời lượng do chuẩn bị quá nhiều nội dung;
do quá giờ nên bị Chủ tọa ngắt lời. Do vậy,
đại biểu nên cân nhắc “tuân thủ” một số vấn
đề như là các “nguyên tắc”.
- Tuân thủ nghiêm ngặt thời lượng
được phép sử dụng để chuẩn bị bài nói vừa
vặn với thời lượng đó. Không nên viết quá
dài, nhiều vấn đề vì sẽ phải nói quá thời
lượng. Nói dài, bị ngắt lời sẽ gây ra cảm giác
dang dở, sức lan tỏa của ý kiến phát biểu bị
hạn chế. Do đó chỉ nên lựa chọn một, hai
vấn đề phù hợp với thời lượng cho phép, đó
là những vấn đề mình nắm chắc thông tin
(cả lý luận và thực tiễn) và cảm thấy tâm đắc
nhất và có đóng góp thiết thực; chắc chắn sẽ
được nhiều người quan tâm hơn.
- Chọn lọc những chi tiết thông tin
“đắt giá” nhất cho mỗi vấn đề diễn đạt trong
bài nói. Sử dụng những ngôn từ đặc trưng
nhất để lột tả sự việc một cách hợp lý, chính
xác nhất.
- Các kiến nghị, các giải pháp nhất
thiết phải “ăn nhập”, logic với tình hình (hết
sức tránh tình hình một đàng, kiến nghị một
nẻo).
- Xem lại và tự trình bày một vài lần,
ngẫm nghĩ xem bản thân mình nghe có “lọt
tai” không; sửa chữa tới mức mình ưng ý
nhất trước khi được phát biểu.
Khi đã chuẩn bị chu đáo, nhuần nhuyễn
rồi thì như đã nói, nên trình bày, diễn đạt
bằng lời nói diễn cảm sẽ có tính thuyết phục
hơn là cầm giấy đọc.
1.4 Kỹ năng tiếp nhận, xử lý thông
tin. Các kỹ năng nói trên phụ thuộc nhiều
vào kỹ năng này. Mỗi đại biểu phải tạo cho
mình một “kho” tư liệu và tích lũy kiến thức
đạt tới mức phong phú và đa dạng. Có thể ví
như làm một mâm cỗ ngon thì phải có nhiều
loại thực phẩm ngon, tươi sống, phong phú
và đầy đủ gia vị cần thiết.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11Số 16(368) T8/2018
- Có nhiều cách tiếp nhận thông tin, có
thể đọc tài liệu, đọc sách, báo, tạp chí; có thể
nghe đài, xem truyền hình; nghe truyền đạt,
nghe nói chuyện, nghe thảo luận; tìm kiếm
trên các trang mạng... Vấn đề quan trọng
là khi đọc, nghe, xem, nhìn, nếu có những
thông tin thú vị, cần thiết thì phải lưu lại;
thông tin “đắt giá” thì phải đánh dấu, có ký
hiệu lưu ý để dễ tra cứu.
- Phải tiếp nhận thông tin nhanh
chóng, nhạy bén và sàng lọc giỏi; phải có
phương pháp đọc để đọc nhanh khi ít thời
gian, thâu tóm thông tin chính xác; phải có
phương pháp nghe và tinh ý khi nghe để loại
bỏ những thông tin vu vơ; phải biết tổng
hợp “cô đặc” thông tin và nhận định giá trị
của nó và sử dụng hợp lý. Trong 7 bậc nhận
thức: Biết, Hiểu, Vận dụng, Phân tích, Tổng
hợp, Đánh giá và Sáng tạo thì bậc nào cũng
quan trọng, nhưng đánh giá và sáng tạo là
vô cùng quan trọng đối với người đại biểu
dân cử.
- Trong mỗi kỳ họp, đại biểu thường
được cung cấp khá nhiều tài liệu chính thức
và tham khảo. Nếu không có phương pháp
đọc sẽ không nắm được cốt lõi của mỗi văn
bản. Có thể xem qua bố cục, các mục lớn,
rồi xem kỹ những vấn đề mình quan tâm
nhất hay trọng tâm nhất.
- Phải luyện tập để có đầu óc phân tích,
tổng hợp thông tin theo chuyên đề, theo lĩnh
vực, tìm ra mối liên hệ giữa thông tin này
với thông tin khác; thông tin nào là nguyên
nhân, thông tin nào là kết quả và ngược lại.
Một khi đại biểu dân cử đã có phương
pháp tiếp nhận thông tin, phân tích, tổng hợp,
tìm thấy mối liên hệ giữa các thông tin thì
chắc chắn hoạt động giám sát của đại biểu
sẽ ngày càng có hiệu quả. Tổng quát lại là,
đại biểu dân cử phải cần mẫn, nhẫn nại, chịu
khó ghi chép, cập nhật thông tin và phân loại.
Chịu khó nghe, chắt lọc thông tin trong hội
họp, làm việc là một phương pháp làm việc
khoa học, có trách nhiệm và có chất lượng.
2. Kỹ năng riêng đối với mỗi loại báo cáo
Trên thực tế, có khá nhiều loại báo cáo
trình Quốc hội để xem xét (giám sát), nhưng
để gọn vấn đề, xin được phân chia theo “lô
lớn” gồm 3 loại báo cáo: Báo cáo về lĩnh vực
công tác lập pháp; báo cáo về các hoạt động
của lĩnh vực hành pháp; báo cáo công tác
về lĩnh vực tư pháp. Để xem xét một cách
đúng hướng thì đại biểu phải nắm vững chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi loại cơ
quan mà mình xem xét báo cáo.
2.1 Kỹ năng xem xét báo cáo về công
tác thuộc lĩnh vực lập pháp. Đó là các báo
cáo của UBTVQH hàng năm và cả nhiệm
kỳ về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của Quốc hội và UBTVQH. Báo cáo thường
tập trung vào 3 chức năng của Quốc hội là
lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước. Gần đây có thêm
một phần về hoạt động đối ngoại (ngoại giao
Nghị viện). Quá trình xem xét (giám sát), về
kỹ năng cần chú ý một số vấn đề sau.
- Có thể coi đây là bản kiểm điểm thực
thi quyền hạn, nhiệm vụ của Quốc hội, trong
đó có trách nhiệm (hoạt động) của từng đại
biểu dân cử. Vì thế, việc xem xét phải khách
quan, trung thực và sâu sát; phải nắm chắc
chương trình, nội dung, yêu cầu của mỗi
loại nhiệm vụ (xây dựng luật và pháp lệnh;
chương trình hoạt động giám sát; những vấn
đề cần quyết định; chương trình hoạt động
đối ngoại); nắm vững kết quả thực hiện mỗi
loại nhiệm vụ, nhất là những vụ việc mà
mình đã tham gia.
- Ba chức năng của Quốc hội được thể
hiện thành nhiệm vụ cụ thể hàng năm và cả
nhiệm kỳ đều có phạm vi rộng lớn do nhiều
cơ quan của Quốc hội, các Đoàn đại biểu
Quốc hội cùng tiến hành, bởi vậy, cần phải
làm rõ “lát cắt” phân công nhiệm vụ cho mỗi
chủ thể tham gia. Tuyệt đại bộ phận các dự
án luật, pháp lệnh đều do Chính phủ và các
chủ thể ngoài Quốc hội trình Quốc hội, do
đó, khi xem xét phải làm rõ trách nhiệm của
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
12 Số 16(368) T8/2018
cơ quan trình dự án. Đồng thời, cũng phải
làm rõ trách nhiệm chỉ dạo, phân công, phối
hợp ở từng công đoạn và toàn bộ quy trình;
trách nhiệm chuẩn bị của UBTVQH; tinh
thần làm việc, trách nhiệm của đại biểu...
Nhân đây chúng tôi cũng xin được nói
thêm rằng, khi giám sát chính mình thì hầu
như đại biểu Quốc hội cũng chưa thật sự làm
việc hết mình, chưa mạnh dạn phát biểu đầy
đủ mọi mặt, mọi góc cạnh của từng vấn đề.
Các báo cáo hàng năm rất ít được giám sát
độc lập.
2.2 Kỹ năng xem xét các báo cáo
thuộc lĩnh vực hành pháp. Đây là lĩnh vực
mà hàng năm cũng như cả nhiệm kỳ đều có
nhiều báo cáo nhất. Trong đó, trọng tâm là
các vấn đề kinh tế - xã hội, tài chính, ngân
sách, an sinh xã hội...
- Trước hết, đại biểu dân cử phải nắm
chắc luật pháp, chính sách, thậm chí là các
khái niệm cơ bản về các lĩnh vực đó. Ví dụ,
nói về tăng trưởng kinh tế, phải hiểu rõ nội
hàm của GDP là gì, những nhân tố nào tác
động tới nó; trong điều kiện nào tăng lên là
tốt, là bền vững và ngược lại.
- Nên chọn trước những vấn đề thuộc
lĩnh vực mình đã và đang hoạt động, trong
đó cũng nên ưu tiên những việc mình nắm
chắc thông tin và có nhiều kinh nghiệm. Ở
một số kỳ họp Quốc hội, có đại biểu luôn so
sánh giữa cơ cấu kinh tế với cơ cấu lao động
để đánh giá sự tiến bộ của việc đổi mới cơ
cấu nền kinh tế. Đây là một kỹ năng đáng
ghi nhận, vì giữa chuyển đổi cơ cấu kinh tế
và chuyển dịch cơ cấu lao động nói chung
phải ăn khớp với nhau (tỷ trọng lao động
khu vực nông nghiệp giảm thì tỷ trọng lao
đông khu vực công nghiệp, dịch vụ thường
tăng lên; tỷ trọng giá trị công nghiệp, dịch
vụ trong tổng GDP cũng thường tăng lên);
nếu thấy bất thường thì cần phân tích, mổ xẻ
để làm rõ thực chất...
- Cần so sánh giữa vĩ mô và thực tế
ở vi mô xem có khác biệt gì không, để xem
mức độ đánh giá trong báo cáo có sát thực
tiễn không. Ví dụ, trong một số báo cáo hàng
năm của Chính phủ thường có câu: tình hình
chính trị, kinh tế, quốc phòng, trật tự, an toàn
xã hội được ổn định và giữ vững... Thực ra
trong câu này phải phân biệt hai vế (hai vấn
đề) để có nhận định thỏa đáng. Chính trị,
kinh tế, quốc phòng đươc ổn định và được
giữ vững là chính xác. Còn trật tự, an toàn xã
hội thì khác. Thời gian gần đây và hiện nay,
tình hình trật tự, an toàn xã hội hết sức đáng
lo ngại. Các vụ án giết người hàng loạt (kể cả
giết nhiều người trong một gia đình) đã xảy
ra. Tình trạng chống người thi hành công vụ
cũng không hiếm; việc đi lại của công dân
không an toàn... Những năm gần đây, các
cuộc biểu tình tự phát gây náo loạn ở một số
nơi có chiều hướng ngày càng nghiêm trọng...
Như vậy khái quát chung như báo cáo là chưa
chính xác, nếu không muốn nói là chưa đúng
sự thật. Vì vậy, cần phải bóc tách vấn đề, so
sánh để chính xác hóa tình hình. Cần lưu ý
là, từ nhận định sẽ đi đến giải pháp, nếu cứ
nhận định là tình hình trật tự, an toàn xã hội
đã được giữ vững thì có thể có lúc, có nơi sẽ
lơ là, mất cảnh giác!
- Cần hệ thống hóa tình hình trong
nhiều kỳ họp để làm rõ hoặc xử lý hợp lý một
số vấn đề. Tại sao khi xây dựng kế hoạch thu
chi ngân sách thì lần nào cũng căng thẳng,
chật vật trong cân đối thu chi, trong đó báo
cáo thường nói tình hình rất “thảm thiết” do
những khó khăn về nguồn thu, mức thu, vậy
mà tại sao năm nào cũng vượt mức kế hoạch
thu, có năm vượt cả nghìn tỷ đồng? Có phải
là cố tình “đánh đố”, nêu khó khăn để khẳng
định thành tích hay không?
- Cần phân tích rõ ràng, minh bạch hơn
những con số và tình hình mà lần nào Quốc
hội cũng phải “miễn cưỡng” chấp nhận. Ví
dụ, luôn báo cáo là hàng năm đã giải quyết
được việc làm cho 1,5 đến 1,6 triệu lao động.
Các con số này là thống kê cộng dồn từ các
tỉnh, thành hay là điều tra chọn mẫu rồi suy
rộng? Tỷ lệ thất nghiệp rất thấp nhưng tại
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
13Số 16(368) T8/2018
sao số người cụ thể thiếu việc làm và thất
nghiệp toàn phần lại lớn vậy? Tại sao rừng
bị tàn phá ngày càng dữ dội (phá cả rừng đầu
nguồn, rừng phòng hộ) mà sao tỷ lệ độ che
phủ lại đạt cao thế, vượt cả độ che phủ rừng
theo thống kê trước Cách mạng tháng Tám
1945?...
Tóm lại, cần phải phát hiện cho được
những mâu thuẫn, những bất hợp lý, những
hiện tượng trái chiều, không bình thường để
đi đến đề xuất các giải pháp tương thích, hợp
lý, có hiệu quả. Điều đó đặt ra yêu cầu đối
với đại biểu Quốc hội là phải nhanh chóng
mở mang kiến thức, nắm vững luật pháp, chí
thú với công việc. Đại biểu Quốc hội phải
làm việc cật lực nếu mong muốn có đóng
góp thực sự và “được cử tri biết đến”.
2.3 Kỹ năng xem xét báo cáo công tác
thuộc lĩnh vực tư pháp. Đây là các báo cáo
công tác hàng năm và cả nhiệm kỳ của Tòa
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao và một số báo cáo của Chính phủ về
công tác thi hành án, công tác phòng, chống
vi phạm pháp luật. Một số báo cáo thuộc
lĩnh vực tư pháp thường có nhược điểm là
rất nhiều số liệu, rất nhiều tình hình nhưng
thiếu tính đúc rút, tổng kết, khái quát; thiếu
dự báo tình hình và biện pháp xử lý cụ thể...
- Về kỹ năng xem xét, cũng như các
báo cáo thuộc các lĩnh vực khác, đại biểu
Quốc hội phải nắm vững những nội dung cơ
bản của luật pháp thuộc lĩnh vực này, nhất
là Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự,
Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật
Thi hành án, phải nắm chắc những quy
định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân được Hiến pháp năm
2013 quy định. Đồng thời, phải nắm chắc
những nội dung quan trọng của Nghị quyết
08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết
số 49 ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị Ban
chấp hành trung ương khóa IX về Một số
nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp và
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Đó là những căn cứ pháp lý, là tư tưởng
chính trị để xem xét, đối chiếu, đánh giá các
báo cáo tư pháp.
- Ở bất kỳ lĩnh vực nào thì cán bộ (con
người trong bộ máy) đều có vai trò quyết
định đến kết quả công việc, công tác tư pháp
liên quan trực tiếp đến sinh mệnh con người
thì cán bộ tư pháp càng có vai trò đặc biệt
quan trọng. Vì vậy, nên xem xét kỹ lưỡng
phần bộ máy và cán bộ trong các báo cáo.
Vì sao trong hơn 30 năm đổi mới mà
xã hội lại xảy ra quá nhiều vụ án và có xu
hướng ngày càng tăng? Tại sao phạm nhân
lại ngày càng “trẻ hóa”? Tại sao trong lĩnh
vực tư pháp lại để xảy ra quá nhiều vụ án
oan gây chấn động dư luận xã hội; vì sao
cán cân công lý lại bị xô lệch như vậy? Đây
là những câu hỏi chung nhất có tính chất tìm
“điểm tiếp cận” để làm rõ hiện tình công tác
tư pháp; làm rõ (đánh giá) tình hình đội ngũ
cán bộ tư pháp.
- Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 và nhiệm vụ trọng tâm của công
tác tư pháp đều nhấn mạnh nhiệm vụ: Xây
dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư
pháp trong sạch, vững mạnh. Vậy, sau 15
năm thực hiện, bây giờ đội ngũ này số lượng
và chất lượng như thế nào? Lý giải như thế
nào tình trạng lãnh đạo cấp cao trong lĩnh
vực tư pháp có không ít người phạm nhiều
trọng tội? Có báo cáo nào nói rõ ngọn ngành
những vấn đề này chưa? Ở đây không có kỹ
năng nào hơn ngoài việc chất vấn đến cùng
để làm rõ vấn đề...
Nhìn chung, có thể tóm tắt như sau:
Kỹ năng chính là trình độ am hiểu pháp luật;
là trình độ am hiểu chuyên môn nghiệp vụ
nhiều lĩnh vực; là trình độ phân tích, tổng
hợp thông tin, đánh giá và sáng tạo; là
phương cách diễn đạt nội dung theo một trật
tự hợp lý nhất, bằng ngôn từ trong sáng, hấp
dẫn và dễ tiếp thu nhất. Tổng hợp các nội
dung đó chính là kỹ năng của người đại biểu
Quốc hội■
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
14 Số 16(368) T8/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ky_nang_giam_sat_toi_cao_ve_xem_xet_bao_cao.pdf