MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
1. Cơ sở lý luận chung về lạm phát 2
1.1 Khái niệm về lạm phát 2
1.2 . Phân loại lạm phát 3
1.2.1. Xét về mặt định luợng 3
1.1.2.Xét về mặt định tính .Lạm phát bao gồm: 4
1.3 Nguyên nhân gây ra lạm phát 5
1.4.Tác động của lạm phát 11
1.5. Biện phát khắc phục lạm phát 13
1.5.1. Những biện pháp tình thế 13
1.5.2 Những biện pháp chiến lược 14
2. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam 15
2.1. Thực trạng lạm phát của Việt Nam 15
2.2. Đánh giá thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2005-2008 16
2.2.1. Nguyên nhân gây ra lạm phát tại Việt Nam 17
2.2.2. Tác động của lạm phát đối với nền kinh tê 21
3.Các giải pháp chống lạm phát ở Việt Nam hiện nay 22
3.1 Giải pháp đối với vấn đề lạm phát ở Việt Nam 22
3.2 Các giải pháp mà NHNN đã thực hiện nhằm kiểm soát lạm phát 23
3.3 Các giải pháp NHNN thực hiện nhắm kiểm soát lạm phát trong thời gian tới: 25
3.4 .Các giải pháp Chính phủ thực hiện nhằm kiểm soát lạm phát 25
KẾT LUẬN 30
TÀI LIỆU THAM KHẢO 31
LỜI NÓI ĐẦU
Trong đời sống hằng ngày , lạm phát là 1 trong những vấn đề kinh tế vĩ mô, nó trở thành mối quan tâm lớn của các nhà chính trị và công chúng .Lạm phát giờ đây đã trở thành vấn đề toàn cầu chứ không phải là vấn đề riêng của Việt Nam. Châu Âu , Châu Úc , Châu Mỹ , hay Việt Nam đều gặp rủi ro lạm phát ở những mức độ khác nhau và đang dùng nhiều bài thuốc khác nhau để chống lại lạm phát . Lạm phát như 1 căn bệnh của nền kinh tế thị trường , nó là 2 vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi mỗi quốc gia phải có sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ mới có thể mong muốn đạt kết quả tốt . Kiểm soát lạm phát là nhịêm vụ hàng đầu của chính phủ .
Tình hình lạm phát hiện nay ở Việt Nam lên đến mức báo động là 2 con số , vượt qua ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc gia . Điều này sẽ dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống kinh tế của chính phủ , làm suy vong nền kinh tế quốc gia . Bên cạnh đó là sự tác động mạnh tới đời sống của người dân nhất là người dân nghèo khi vật giá ngày càng leo thang
Vậy nguyên nhân của lạm phát bắt đầu từ đâu ? phải làm thế nào để kiểm soát lạm phát giữ vững nền kinh tế tăng trưởng ổn định ,cân đối là mục tiêu rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xó hội , nâng cao đời sống nhân dân
Bài viết với đề tài “Lạm phát ở Việt Nam trong những năm gần đây” sẽ nói rõ hơn về vấn đề này.
Nội dung bài viết bao gồm 3 phần
Phần1: Cơ sở lý luận chung về lạm phát
Phần2: Thực trạng lạm phát ở Việt Nam
Phần3: Các giải pháp chống lạm phát ở Việt Nam hiện nay
Em xin chân thành cảm ơn thầy giao Đặng Anh Tuấn đã chỉ bảo hướng dẫn giúp đỡ em hoàn thành tốt đề án này .
32 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2943 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lạm phát ở Việt Nam trong những năm gần đây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
những năm gần đây” sẽ nói rõ hơn về vấn đề này.
Nội dung bài viết bao gồm 3 phần
Phần1: Cơ sở lý luận chung về lạm phát
Phần2: Thực trạng lạm phát ở Việt Nam
Phần3: Các giải pháp chống lạm phát ở Việt Nam hiện nay
Em xin chân thành cảm ơn thầy giao Đặng Anh Tuấn đã chỉ bảo hướng dẫn giúp đỡ em hoàn thành tốt đề án này .
1. Cơ sở lý luận chung về lạm phát
1.1 Khái niệm về lạm phát
- Lạm phát là 1 phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, nó xuất hiện khi các yêu cầu của các quy luật kinh tế hàng hóa không còn được tôn trọng nhất là quy luật lưu thông tiền tệ .Ở đâu còn sản xuất hàng hóa còn tồn tại những quan hệ hàng hóa tiền tệ thì ở đó còn tiềm ẩn khả năng xảy ra lạm phát và lạm phát chỉ xuất hiện khi các quy luật lưu thông tiền tệ bị vi phạm
- Hơn nữa lạm phát cũng đã được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiên cứu của các nhà kinh tế .trong mỗi công trình của mình , các nhà kinh tế đã đưa ra các khái niệm về lạm phát như sau:
+ Theo CacMac trong bộ tư bản viết : lạm phát là việc tràn đầy các kênh , các luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa dẫn đến giá cả tăng vọt .Ông cho rằng : lạm phát là “bạn đường”của chủ nghĩa tư bản , ngoài việc bóc lột người lao động bằng giá trị thặng dư ,chủ nghĩa tư bản còn gây ra lạm phát để bóc lột người lao động bằng giá trị thặng dư, chủ nghĩa tư bản còn gây ra lạm phát để bóc lột người lao động một lần nữa ,do lạm phát làm cho đồng lương thực tế của người lao động giảm xuống
+ Nhà kinh tế học Samuelson thì cho rằng : lạm phát biểu thị 1 sự tăng vọt lên trong mức giá cả chung , theo ông :”lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng – giá bánh mỳ , săng dầu , ôtô tăng lên , tiền lương , giá đất , tiền thuê tư liệu sản xuất tăng
+ Còn theo Mitton Friedman thì quan niệm “ lạm phát là việc giá cả tang nhanh và kéo dài . Ông cho rằng “ lạm phát luôn luôn và bao giờ cũng là hiện tượng của tiền tệ .” Ý kiến này của ông đã được đa số các nhà kinh tế thuộc phái tiền tệ và keynes tán thành
- Lạm phát còn được đo bằng chỉ số giá cả
+ Chỉ số giá cả được sử dụng rộng rãi nhất là chỉ số giá cả hàng tiêu dùng CPI (Consumer Price Index ).CPI tính chi phí của một giỏ hàng tiêu dùng và dịch vụ trên thị trường . Các nhóm chính đó là hàng lương thực thực , thực phẩm , quần áo , nhà cửa , chất đốt …..
+ Chỉ số thứ 2 cũng thường được sử dụng là chỉ số giá cả sản suất PPI ( Producer Price Index ) .Đây là chỉ số giá bán buôn .PPI được xây dựng để tính giá cả trong lần bán đầu tiên do người sản xuất ấn định
+ Ngoài 2 chỉ số nói trên , chỉ số giảm phát GNP cũng được sử dụng .chỉ số giảm phát GNP là chỉ số giá cả cho toàn bộ GNP , nó được xác định như sau :
Chỉ số giảm phát GNP = GDP danh nghĩa/GDP thực
Trong thực tế nó được thay thế nó được thay thế bằng chỉ số giá cả tiêu dùng hoặc chỉ số giá bán buôn: Ip = åip .
Trong đó: p chỉ số giá cả từng loại nhóm hàng
d:tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại nhóm hàng
1.2 . Phân loại lạm phát
Có nhiều cách phân loại lạm phát dựa trên cáctiêu thức khác nhau:
1.2.1. Xét về mặt định luợng
Dựa trên độ lớn nhỏ của tỷ lệ % lạm phát tính theo năm ,người ta chia lạm phát ra thành
a . Lạm phát 1 con số mỗi năm(lạm phát vừa phải).Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả tăng chậm và tỷ lệ lạm phát dưới 10%/ năm.Đây mà mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được,với mức lạm phát này,những tác động kém hiệu quả của nó là không đáng kể
Có thể nói lạm phát vừa phải tạo tâm lý cho người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này các hãng kinh doanh có khoảng thu nhập ổn định, ít rủi ro nên sẵn sàng đầu tư cho sản xuất, kinh doanh.
b. Lạm phát 2 con số mỗi năm:Khi tỷ lệ tăng,giá đã bắt đầu tăng đến 2 chữ số mỗi năm.Ở mức lạm phát 2 chữ số thấp(11,12,13%/năm),nói chung những tác động tiêu cực của nó là không đáng kể,nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được.nhưng khi tỷ lệ tăng giá ở mức 2 chữ số cao,lạm phát sẽ trở thành kẻ thù của sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực của nó là không nhỏ.Lúc đó lạm phát 2 chữ số sẽ trở thành mối đe dọa đến sự ổn định của nền kinh tế. Ở mức 2 chữ số, lạm phát làm cho giá cả chung tăng lên nhah chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Loại này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.
c. Siêu lạm phát:Tùy theo quan điểm của các nhà kinh tế,ngoài các loại lam phát trên,còn có lạm phát 3 chữ số.Nhiều người coi các loại lạm phát này là siêu lạm phát vì nó có tỷ lệ lạm phát rất cao và tốc độ tăng nhanh.Với siêu lạm phát,những tác động tiêu cực của nó đến đời sống và đến nền kinh trở nên nghiêm trọng:kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng ,thu nhập thực tế của người lao động giảm mạnh …dẫn đến đời sống kinh tế của người dân trở nên khó khăn. Tuy nhiên siêu lạm phát rất ít khi xảy ra.
1.1.2.Xét về mặt định tính .Lạm phát bao gồm:
a. Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng;
- Lạm phát cân bằng:khi nó tăng tương ứng với thu nhập,do vậy loại lạm phát nàykhông ảnh hưởng đến đời sống của người lao động
- Lạm phát không cân bằng :tỷ lệ lạm phát tăng không tương ứngvới thu nhập.trên thực tế lạm phát không cân bằng thường hay xảy ra nhất
b. Lạm phát dự đoán trước va lạm phát bất thường:
- Lạm phát dự đoán trước:Dây là loại lạm phát xảy ra trong một thời gian tương đối dàivới tỷ lệ lạm phát tăng hàng năm khá đều đặnvà ổn định.Do vậy,người ta có thể dự đoán trước đượctỷ lệ lạm phát cho những năm tiếp theo.Về mặt tâm lý,người dân đã quen vớitình hình lạm phát đó và người ta đã có những chuẩn bị để thích nghi với tình trạng lạm phát này
- Lạm phát bất thường:Là lạm phát xảy ra có tính đột biến mà trước đó chưa từng xuất hiện.Do vậy tâm lý ,cuộc sống và thói quen của người dân đều chưa thích ứng được.Lạm phát bất thường gây ra những cú sốc cho nền kinh tế và sự thiếu tin tưởng của người dân vào chính quyền
1.3 Nguyên nhân gây ra lạm phát
a. Lạm phát theo thuyết tiền tệ
Kinh tế đi vào lạm phát, đồng tiền mất giá… có nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Chẳng hạn thời tiết không thuận, mất mùa, nông dân thu hoạch thấp, giá lương thực tăng lên. Giá nguyên vật liệu tăng làm cho giá hàng tiêu dùng tăng lên. Khi tiền lương tăng, chi phí sản xuất cũng tăng theo, dẫn đến giá các mặt hàng cũng tăng. Tăng lương đẩy giá lên cao. Tóm lại, lạm phát là hiện tượng tăng liên tục mức giá chung và có thể giải thích theo các cách sau:
Theo thuyết tiền tệ:Theo quan điểm của các nhà kinh tế thuộc phái tiền tệ,khi cung tiền tệ tăng lên kéo dài và gây ra lạm phát,được thể hiện qua mô hình sau:
(Tổng mức giá)
P AS3
P3 3 AS2
2’
P2 2 AS1
1’ AD3
P1 1 AD2
AD1 Y
0 Y1 Yn ( Tổng sản phẩm)
Cung ứng tiền tệ và lạm phát tiền tệ
Ban đầu nền kinh tế ở điểm 1,với sản lượng đạt ở mức sản lượng tự nhiên Yn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, mức giá cả P1 đường giao nhau với đường tổng cung AD1.Khi cung tiền tệ tăng lên thì đường tổng cầu di chuyển sang phải đến AD2.Trong một thời gian rất ngắn,nền kinh tế sẽ chuyển động đến điển 1` và sản phẩm tăng lên trên mức tỷ lệ tự nhiên,tức là đạt tới Y1(Y1>Yn).Điều đó đã làm giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên,tiền lương tăng lên và giảm tổng cung –đường tổng cung dịch chuyển vào đến AS2.Tại đây nền kinh tế quay trở lại mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm trên đường tổng cung dài hạn.Ở điểm cân băng mới(điểm2),mức giá đã tăng từ P1 đến P2
Cung tiền tệ tiếp tục tăng ,đường tổng cầu lại dịch chuỷen ra đến AS3,nền kinh tế đạt tới mức cân bằng mới tại điểm 3.Tại đây mức giá gcả đã tăng lên đến P3.Nếu cung tiền tệ vẫn tiếp tục diễn ra và nền kinh tế đạt tới mức giá cả ngày càng cao hơn ,lạm phát tăng cao
b .Lạm phát theo thuyết chi phí đẩy
Lạm phát này xảy ra do những cú sốc tiêu cực hoặc do kết quả của những cuộc đấu tranh đòi tăng lương gây ra. Lạm phát theo thuyết chi phí đẩy được thể hiện qua mô hình sau
(Tổng mức giá)
P
AS3
3’ AS2
P3 3
P2’ 2’ AS1
P2 2
P1’ 1’ AD3
P1 1 AD2
AD1 Y
0 Y1 Yn ( Tổng sản phẩm)
Lạm phát chi phí đẩy
Lúc đầu nền kinh tế ở điểm1,là giáp điểm của đường tổng cầuAD1 và đường tổng cung AS1,với mức sản lượng tự nhiên(sản lượng tiềm năng)và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.Do mong muốn có được mức sống cao hơn hoặc do cho rằng tỷ lệ lạm phát dự tính trong nền kinh tế sẽ tăng cao,những người công nhân đấu tranh đòi tăng lương.Vì tỷ lệ thất nghiệp đang ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nên những đòi hỏi tăng lương của công nhân dễ được giới chủ chấp nhận,ảnh hưởng của việc tăng lương(cũng giống như ảnh hưởng của những cú sốc cung tiêu cực)làm đường tổng cung AS1 dịch chuyển vào đến AS2
Nền kinh tế sẽ chuyển từ điểm1` -giao điểm của đường tổng cung mơiAS2 và đường tổng cầu AD1.Sản lượng đã giảm xuống dưới mức sản lượng tự nhiênY` (Y` < Yn ) và tỷ lệ thất nghiệp cao hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên,đồng thời mức giá cả tăng lên đến P`1 .Vì mục đích muốn duy trì một mức công ăn việc làm cao hơn hiện tại,Chính phủ sẽ thực hiện các chính sách điều chỉnh năng động nhằm tác động lên tổng cầu,làm tăng tổng cầu,lúc này đường tổng cầu AD1 dịch chuyển ra AD2,nền kinh tế quay trở lại mức sản lượng tiềm năng,và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tại điểm cân băng- điểm2,mức giá cả tăng lên đến P2
Các công nhân đã được nhượng bộ và được tăng lương vẫn có thể tiếp tục đòi tăng lương lên cao hơn.Đồng thời,những sự nhượng bộ đó đã tạo ra sự chênh lệch về mức lương trong tầng lớp công nhân,tình trạng đòi tăng lương lại tiếp diễn,kết quả là đường tổng cung lại dịch chuyển vào đến AS3 ,thất nghiệp lại tăng lên cao hơn mức tỷ lệ tự nhiên và Chính phủ lại thực hiện các chính sách điều chỉnh năng động làm dịch chuyển đường tổng cầu AD3 để đưa nền kinh tế trở lại mức sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên,mức giá cả cũng tăng lên đến P3 .Nếu quá trình này cứ tục tiếp diễn thì kết quả sẽ là việc tăng liên tục của mức giá cả,đây là tình trạng lạm phát chi phí –đẩy
c.Lạm phát cầu kéo:
Một trường hợp khác vì mục tiêu công ăn việc làm cao,cũng dẫn đến lạm phát cao ,đó là lạm phát cầu -kéo được thể hiện qua mô hình sau
(Tổng mức giá)
P AS3
P3 3 AS2
2’ AS1
P2 2
1’ AD3
P1 1
AD2
AD1 Y
0 Yn Y1 ( Tổng sản phẩm)
Lạm phát cầu kéo
Giả sử ban đầu nền kinh tế đang đạt tới mức sản lượng tiềm năng,và tỷ lệ thất nghiệp đang ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên,nền kinh tế đạt mức cân bằng ở điểm 1.Nếu các nhà hoạch định chính sách sẽ hoạch định và theo đuổi một tỷ lệ thất nghiệp dưới mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên
Để đạt được mục tiêu này, Nếu các nhà hoạch định chính sách sẽ phải đưa ra những biện pháp nhằm đạt được chỉ tiêu sản lượng lớn hơn mức sản lượng tiềm năng, mức chỉ tiêu sản lơng cần đạt được đó làYt (Yt>Yn).Các biện pháp mà họ đưa ra sẽ tác động lên tổng cầu,đường tổng cầu sẽ dịch chuyển ra đến AD2 ,nền kinh tế chuyển đến điểm 1` (giao điểm giữa đường tổng cầu mới AD2 và đường tổng cung ban đầu AS1).Sản lượng bây giờ đã đạt tới mức Y1 lớn hơn sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên đã đạt được
Vì hiện nay,tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế là thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nên tiền lương tăng lên và đường tổng cung sẽ di chuyển vào đến AS2 ,đưa nền kinh tế từ điểm 1` chuyển sang điểm 2` .Nền kinh tế quay trở về mức sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nhưng ở một mức giá cả P2 cao hơn P1
Đến lúc này,tỷ lệ thất nghiệp lại cao hơn muc tiêumà các nhà hoạch định chính sách cần đạt được.Do đó họ lại tiếp tục thực hiện các chính sách lam tăng tổng cầu.Quá trình này cứ tiếp diễn liên tục và đẩy giá cả trong nền kinh tế lên cao hơn
d .Lạm phát do thâm hụt ngân sách.
Thâm hụt ngân sách cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng tiền tệ và gây ra lạm phát cao
Chính phủ có thể khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước bằng biện pháp phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường tài chính để vay tiền trong dân chúng,bù đắp cho phần bị thiếu hụt.Biện pháp này không làm ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ và do đó,không tăng cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát.Một biện pháp khác Chính phủ có thể sử dụng để bù đắp cho thâm hụt ngân sách nhà nước là phát hành tiền .Biện pháp này trực tiếp làm tăng thêm cơ số tiền tệ,do đó tăng cung ứng tiền ,đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng tỷ lệ lạm phát.Tuy nhiên ở các nước đang phát triển,do thị trường vốn bị hạn chế nên việc phát hành trái phiếu Chính phủ nhằm bù đắp cho thâm hụt ngân sách là rầt khó thực hiện.Đối với các quốc gia này,con đường duy nhất đối với họ là “sử dụng máy in tiền”. Vì thế,khi tỷ lệ thâm hụt ngân sách của các quốc gia đó tăng cao thì tiền tệ cũng sẽ tăng nhanh và lạm phát tăng.
Do vậy, trong mọi trường hợp,tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước cao,kéo dài là nguồn gốc tăng cung ứng tiền và gây ra lạm phát
e .Lạm phát theo tỷ giá hối đoái
Tỷ hối đoái giữa đồng nội tệ so với đơn vị tiền tệ nước ngoài tăng cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát
Thứ nhất, khi tỷ giá tăng ,đồng nội tệ mất giá, trước hết nó tác động lên tâm lý của những người sản xuất trong nước,muốn kéo giá hàng lên cao theo mức tăng của tỷ giá hối đoai
Thứ hai, khi tỷ giá tăng, giá nguyên liệu ,hàng hóa nhập khẩu cũng tăng cao,đẩy chi phí về nguyên liệu tăng lên,lại quay trở về lạm phát phí - đẩy như đã phân tích ở trên.Việc tăng giá cả của nguyên liệu và hàng hóa nhập khẩu thường gây ra phản ứng dây chuyền ,làm tăng giá cả ở rất nhiều hàng hóa khác,đặc biệt là cac hàng hóa của những ngành có sử dụng nguyên liệu nhập khẩu và nhũng ngành có mối lien hệ chặt chẽ với nhau(nguyên liệu của ngành này là sản phẩm của ngành khác….)
1.4.Tác động của lạm phát
a. Lạm phát và lãi suất
Từ những thực tế diễn biến lạm phát của các nước trên thế giới trên thế giới,các nhà kinh tế cho rằng: lạm phát cao và triền mien có ảnh hưởng xấu đến mọi mặt của đời sống kinh tế ,chính trị và xã hội của một quốc gia
Tác động đầu tiên của lạm phát là tác động lên lãi suất.
Để duy trì và ổn định sự hoạt động của mình ,hệ thống ngân hàng phải luôn luôn cố gắng duy trì tính hiệu quả của tài sản nợ và tài sản có của mình,tức là phai luôn luôn giữ cho lãi suất thực ổn định.Ta biết rằng , lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa- tỷ lệ lạm phát.Do đó,khi tỷ lệ lạm phát tăng cao,nếu muốn cho lãi suất thực ổn định, lãi suất danh nghĩa phải tăng lên theo tỷ lệ lạm phát.Việc tăng lãi suất danh nghĩa dẫn đến hậu quả mà nền kinh tế phải gánh chịu là suy thoái kinh tế và thất nghiệp gia tăng
b.Lạm phát và thu nhập thực tế
Trong trường hợp thu nhập danh nghĩa không đổi,lạm phát xảy ra sẽ làm giảm thực tế của người lao động.VD:với 600.000 đồng tiền lương một tháng hiện nay,một công nhân sẽ mua được 2 tạ gạo(với giá 3000đ/1kg).Vào năm sau,nếu tiền lương của công nhân này không đổi,nhưng tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế vào năm sau tăng thêm50% so với năm trước , tức là giá gạo đã tăng lên 4500đ/kg,thì với số lương nhận được trong 1 tháng người công nhân này chỉ có thể mua được133,3kg gạo
Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị thực của những tài sản không có lãi (tức là tiền mặt) mà nó còn làm hao mòn nhưng tài sản có lãi ,tức là làm giảm thu nhập thực từ các khoản có lãi,các khoản lợi tức .Điều đó xảy ra là cho chính sách thuế của nhà nước được tính trên cơ sở thu nhập danh nghĩa ,khi lạm phát tăng cao ,điều đó làm số thuế thu nhập mà người có tiền cho vay phải nộp tăng cao(mặc dù thuế suất vẫn không tăng).Kết quả cuối cùng là thu nhập ròng (thu nhập sau thuế),thực (sau khi đã loại trừ tác động của lạm phát) mà người cho vay bị giảm đi
Suy thoái kinh tế ,thất nghiệp gia tăng ,đời sống của người lao động trở nên khó khăn hơn sẽ làm giảm lòng tin cuỉa dân chúng đối với chính phủ và những hậu quả về chính trị xã hội có thể xảy ra
c. Lạm phát và phân phối thu nhập không bình đẳng
Trong quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, khi lạm phát tăng cao, người cho vay sẽ là người chịu thiệt và người đi vay sẽ la người có lợi.Điều này đã tạo nên sự phân phối không bình đẳng giữa người đi vay và người cho vay.
Lạm phát tăng cao còn khiến cho những người thừa tiền và giàu có ,dùng tiền của mình vơ vét và thu gom hàng hóa , tài sản , nạn đầu cơ xuất hiện , tình trạng này càng làm mất cân đối nghiêm trọng quan hệ cung – cầu hàng hóa trên thị trường , giá cả hàng hóa cũng lên cơn sốt cao hơn .Cuối cùng những người dân vốn đã nghèo càng trở lên khốn khó hơn,họ thậm chí không mua nổi những hàng hóa thiết yếu,trong khi đó những kẻ đầu cơ đã vét sạch hàng hóa và trở nên giàu có hơn.Tình trạng lạm phát như vậy sẽ có thể gây ra những rối loạn trong nền kinh tế và tạo ra khoảng cách lớn về thu nhập,về mức sống giữa người giàu và người nghèo
d. Lạm phát và nợ quốc gia
Lạm phát cao làm cho chính phủ được lợi do thuế thu nhập đánh vào người dân,nhưng những khoản nợ nước ngoài sẽ trở lên trầm trọng hơn .Chính phủ được lợi trong nước nhưng sẽ bị thiệt với nợ nước ngoài.Lý do là vì lạm phát tăng đã làm tỷ giá tăng cao và đồng tiền trong nước trở nên mất giá nhanh hơn so với đồng tiền nước ngoài tính trên các khoản nợ
1.5. Biện phát khắc phục lạm phát
Do lạm phát tăng cao và kéo dài đã gây ra những hậu quả lớn trong đời sống của nhân dân lao động và cho tăng trưởng kinh tế,vì vậy ,Chính Phủ các quốc gia cần phải có những biện pháp khắc phục lạm phát . Lịch sử chống lạm phát của các nước trên thế giới cho thấy:Trong hoàn cảnh cụ thể ,Chính phủ cần thiết phải áp dụng các biện pháp tình thế(hay các biện pháp cấp bách) và các biện pháp mang tính chiến lược
1.5.1. Những biện pháp tình thế
Những biện pháp này được áp dụng với mục tiêu giảm tức tốc “cơn sốt lạm phát”,trên cơ sở đó sẽ áp dụng các biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài. Các biện pháp thường được áp dụng khi nền kinh tế lâm vào tình trạng siêu lạm phát:
-Thứ nhất: Các biện pháp tình thế thường được Chính phủ các nước áp dụng ,trước hết là phải giảm lượng tiền giấy trong nền kinh tế như ngừng phát hành tiền vào lưu thông.Biện pháp này còn goi là đóng bang tiền tệ.Tỷ lệ lạm phát càng cao,ngay lập tức ngân hàng Trung Ương phải dùng các biện pháp có thể đưa đến tăng cung ứng tiền tệ như ngừng các nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu đối với các tổ chức tín dụng,dừng việc mua vào các chưng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, không phát hành tiền bù đắp bội chi ngân sách nhà nước. Áp dụng các biện pháp làm giảm lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế: như ngân hàng T Ư bán ra các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ,bán ngoại tệ và vay,phát hành các công cụ nợ của chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế bù đắp cho bội chi ngân sách Nhà nước,tăng lãi suất tiền gửi tiết kiệm dân cư.Các biện pháp này rất có hiệu lực vì trong 1 thời gian ngắn nó có thể giảm bớt được một khối lượng khá lớn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế quốc dân,do đó giảm được sức ép lên giá cả hàng hóa và dịch vụ trên thị trường.Ở Việt Nam ,các biện pháp này được áp dụng thành công vào cuối những năm 80 đầu những năm 90
-Thứ hai:Thi hành “chính sách tài chính thắt chặt” như tạm hoãn những khoản chi chưa cần thiết trong nền kinh tế,cân đối lại ngân sách và cắt giảm chi tiêu tới mức có thể được
-Thứ ba: Tăng quỹ hàng hóa tiêu dùng để cân đối với số lượng tiền có trong lưu thông bằng cách khuyến khích tự do mậu dịch ,giảm nhẹ thuế quan và các biện pháp cần thiết khác để thu hút hàng hóa từ ngoài vào
-Thứ tư:Đi vay và xin viên trợ nước ngoài
-Thứ năm:Cải cách tiền tệ.Đây là biện pháp cuối cùng phải xử lý khi tỷ lệ lạm phát lên quá cao mà các biện pháp trên chưa mang lại hiệu quả mong muốn
1.5.2 Những biện pháp chiến lược
Đây là những biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.Tổng hợp các biện pháp này sẽ tạo ra sức mạnh kinh tế lâu dài của đất nước,làm cơ sở cho sự ổn định tiền tệ một cách biền vững.Các biện pháp chiến lược thường được áp dụng là:
Thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa và mở rộng lưu thông hàng hóa
Có thể nói đây là biện pháp chiến lược hàng đầu để hạn chế lạm phát ,duy trì sự ổn định tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân.Sản xuất trong nước ngày càng phát triển,quỹ hàng hóa được tạo ra sẽ ngày càng tăng về số lượng và đa dạng hóa về chủng loại,tạo tiền đề vững chắc cho sự ổn định tiền tệ.Bên cạnh việc thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa cho tiêu dùng trong nước Chính phủ cần phải chú trọng phát triển các ngành các hoạt động làm tăng thu ngoại tệ như: xuất khẩu hàng hóa,phát triển nganh du lịch…
Kiện toàn bộ máy hành chính,cắt giảm biên chế quản lý hành chính .Thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc giẩm chi têu thường xuyên của Ngân sách nhà nước trên cơ sở đó giảm bội chi ngân sách Nhà nước.
Tăng cường công tác quản lý điều hành ngân sách Nhà nước trên cơ sở tăng các khoản thu cho ngân sách Nhà nước một cách hợp lý,chống thất thu,đặc biệt là thất thu về thuế,nâng cao hiệu quả của các khoản chi ngân sách Nhà nước
2. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam
2.1. Thực trạng lạm phát của Việt Nam
Một trong những khía cạnh quan trọng nhất của công tác quản lý kinh tế vĩ mô là việc tìm cách kiềm chế lạm phát. Thực ra không phải 10 gần đây lạm phát mới xuất hiện ở Việt Nam mà từ năm 1980 về trước, lạm phát cũng đã tồn tại, chỉ có điều biểu hiện của nó không rõ ràng, các nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam, đại hội V trở về trước không sử dụng khái niệm lạm phát mà chỉ dùng cụm từ "Chênh lệch giữa thu và chi giữa hàng và tiền"; "Thị trường vật giá không ổn định"
Lạm phát ở thời kỳ này là "lạm phát ngầm" nhưng chỉ số giá cả ở thị trường tự do thì tăng cao, vượt xa mức tăng giá trị tổng sản lượng cũng như thu nhập quốc dân.
Sau một thời kỳ "ủ bệnh" đã bột phát thành lạm phát công khai với mức lạm phát phi mã cũng tăng giá ba chữ số. Đảng đã kịp thời nhận định tình hình này.
"Chúng ta chưa có chính sách cơ bản về tài chính gắn liền với chính sách đúng đắn về giá cả, tiền tệ, tín dụng. Các khoản chi ngân sách mang nặng tính bao cấp và một thời gian dài vượt qua nguồn thu. Việc sử dụng vốn vay và viện trợ kém hiệu quả. Tất cả những cái đó gây ra thâm hụt ngân sách là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến lạm phát trầm trọng".
Trong điều hành vĩ mô phát triển kinh tế, mọi quốc gia trên thế giới đều phải quan tâm tới chính sách tài chính, tiền tệ, chống lạm phát. Đối với nước ta hiện nay, kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả đang là một vấn đề lớn đặt ra trong điều hành của chính phủ, của các cấp các ngành vì sự phát triển và ổn định. Cho tới nay, Việt Nam đã thành công về phương diện này. Lạm phát đã giảm từ hơn 700% một năm vào năm 1986 xuống còn chỉ 35% vào năm 1989. Đây là một thành công lớn, phản ánh kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố, như tự do hoá nền kinh tế, áp dụng một tỷ giá hối đoái thực tế hơn, người dân không còn tồn trữ hàng hoá, vàng và đô la mà bắt đầu tích luỹ bằng đồng tiền trong nước, xuất khẩu dầu thô ngày càng tăng. Tuy nhiên, những tiến bộ vượt bậc trong năm 1989 đã không được củng cố ngay bằng các chính sách tiền tệ và tài khoản thận trọng, do đó trong các năm 1992 và 1993, giá cả đã tăng gần 70% năm.
2.2. Đánh giá thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2005-2008
- Tình hình hiện tại: lạm phát cao, tăng trưởng thấp
Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay giảm xuống rất thấp và lạm phát ở mức rất cao (trên 20%).
Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay rất thấp, chỉ còn 6,7% mặc dự tốc độ tăng trưởng của Việt Nam năm 2007 cao nhất trong 10 năm qua. Mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2008 do Quốc hội đề ra từ kỳ họp cuối năm trước là 8,5- 9%, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo phấn đấu đạt trên 9%. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế quý 1/2008 đó chậm lại so với tốc độ của quý 1/2007.
Lạm phát vượt qua mức tối đa cho phép 9% và lạm phát năm 2008 tính đến nay là 22,3%. Lạm phát năm 2007 đó ở mức hai chữ số (12,63%), 3 tháng 2008 tiếp tục lồng lên đến mức 9,19%, cao gấp ba lần cùng kỳ và bằng gần ba phần tư mức cả năm 2007, đó vượt qua mức theo mục tiêu đó đề ra cho cả năm 2008; nhập siêu gia tăng cả về kim ngạch tuyệt đối (3.366 triệu USD so với 1.933 triệu USD), cả về tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu (56,5% so với 18,2%)...
-Lạm phát tác động xấu đên tình hình tăng trưởng kinh tế xã hội:Lạm phát làm giảm trầm trọng tốc độ tăng trưởng GDP và nó làm cho người dân nghèo thêm, kiềm chế sản xuất trong khối doanh nghiệp.
-Ảnh hướng đến đời sống của các tầng lớp dân cư: Người dân nhất là những người làm công ăn lương, những hộ nghèo phải chiụ sự tác động trực tiếp nhất của lạm phát trong cơn bão tăng giá. Lạm phát cũng làm giảm việc làm cho người dân trong trung và dài hạn
-Ảnh hưởng nhiều đến khối doanh nghiệp: Lạm phàt cũng gây ra tình trạng thiếu tiền vì các doanh nghiệp không khai thác được nguồn tín dụng cho việc duy trì sản xuất của mình. Do đó, số lượng công việc cho người dân làm cũng giảm thiểu trong trung và dài hạn
2.2.1. Nguyên nhân gây ra lạm phát tại Việt Nam
Một số nhìn nhận về nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam :Năm 2007 lạm phát của Việt Nam tăng cao ở mức hai con số 12,63%. Nếu so sánh với mức lạm phát của một số nước trong khu vực và trên thế giới như Trung Quốc: 6,5%; Indonesia: 6,59%; Mỹ: 4,08%, Thái Lan: 3,21%, Khu vực đồng Euro: 3,07%, Nhật Bản: 0,7% thì lạm phát của Việt Nam có phần cao hơn. Bước sang Quý I/08 lạm phát của Việt Nam đạt 9,19%, vẫn cao hơn so với mức 3,02% của Quý I/07 và bằng khoảng trên 70% so với mức tăng của cả năm 2007. Đây là mức tăng cao trong vòng 12 năm trở lại đây. Vậy thì đâu là nguyên nhân dẫn đến lạm phát của Việt Nam tăng cao?
Có thể đề cập đến hai nhóm nguyên nhân: Một là: Các nhân tố tác động từ kinh tế toàn cầu ,hai là: Các nhân tố từ nội tại nền kinh tế Việt Nam
a. Các nguyên nhân chính từ bối cảnh kinh tế toàn cầu:
Thứ nhất: Giá dầu và giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào của sản xuất liên tục gia tăng: Trong 4 năm từ 2003-2006 kinh tế toàn cầu liên tục tăng trưởng cao, đặc biệt là nhóm các nước “mới nổi” ở khu vực Châu á, nhất là Trung Quốc đó đẩy nhu cầu năng lượng toàn cầu tăng cao đột biến, cùng với những bất ổn và xung đột chính trị quân sự tại khu vực Trung Đông là các nguyên nhân trực tiếp đẩy giá dầu lên cao chưa từng có trong lịch sử 110 USD/thùng trong tháng 3/2008, đồng thời giá các nguyên vật liệu đầu vào khác như sắt thép, phân bón, xi măng cũng liên tục gia tăng. Như vậy, giá dầu đó tăng 72%, sắt thép tăng 114%, phân bón tăng 59,6%, khí hoá lỏng tăng 95% kể từ đầu năm 2007 đến tháng 3/2008 và đây cũng là mức tăng cao nhất từ trước tới nay.
Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm liên tục gia tăng: xuất phát từ quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu, thiên tai dịch bệnh diễn ra liên tiếp, cùng với những năm tăng trưởng kinh tế mạnh trên thế giới - là những năm quá trình công nghiệp hoá được đẩy mạnh khiến diện tích đất sử dụng cho trồng trọt, chăn nuôi bị thu hẹp. Tất cả những điều trên làm sản lượng lương thực - thực phẩm ngày càng giảm mạnh. Ngoài ra, giá năng lượng tăng cao đó khiến nhiều nước sử dụng một sản lượng lớn ngũ cốc chuyển sang sản xuất nhiên liệu sinh học càng làm cho nguồn cung lương thực đó giảm càng giảm sút.
Thứ ba: Một khối lượng tiền lớn được đưa ra nền kinh tế toàn cầu: Trước việc giá dầu và giá lương thực - thực phẩm liên tục leo thang đó tạo nên cơn sốc cung rất lớn đẩy lạm phát toàn cầu tăng cao, tình hình này đó buộc các NHTW phải tăng các mức lãi suất chủ chốt để kiềm chế lạm phát, cụ thể: Nhật Bản tăng 1 lần từ 0,25%- 0,5%/năm; khu vực đồng Euro tăng 2 lần từ 3,5%-3,75%-4,0%/năm; Anh tăng 3 lần từ 5%-5,5%/năm (trong đó có 1 lần giảm); Thuỵ Điển tăng 4 lần từ 3,0%-4,0%/năm; Trung Quốc tăng 6 lần từ 6,12-7,47%/năm.
Việc các nước thực hiện thắt chặt tiền tệ thông qua tăng lãi suất chủ đạo cùng với việc giá dầu, giá lương thực - thực phẩm tiếp tục tăng cao chính là nguyên nhân cơ bản đó đẩy nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái vào những tháng đầu năm 2008, mà biểu hiện là cuộc khủng hoảng cho vay dưới tiêu chuẩn của Mỹ bắt đầu từ tháng 7/2007. Trước bối cảnh lạm phát gia tăng và kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái, các NHTW không còn cách nào khác là phải bơm một lượng tiền khổng lồ để cứu vãn nền kinh tế, trong đó riêng Mỹ từ tháng 8/2007 đến nay đó phải đưa ra nền kinh tế trên 2.300 tỷ USD, trong đó có 800 tỷ USD tiền mặt để cứu vãn hệ thống ngân hàng, NHTW Châu Âu, Nhật Bản, Anh cũng phải đưa một lượng tiền lớn để cứu vãn nền kinh tế cũng như hệ thống ngân hàng; cùng với việc một số NHTW phải thực hiện cắt giảm lãi suất từ tháng 8/2007 trở lại đây như Mỹ, Anh, Canada. Việc cứu vốn nền kinh tế thế giới rơi vào suy thoái bằng biện pháp đưa hàng nghìn tỷ USD ra nền kinh tế lại càng đẩy lạm phát toàn cầu tiếp tục tăng cao.
b. Các nguyên nhân chính từ nội tại nền kinh tế Việt Nam:
Thứ nhất: Chi phí sản xuất tăng cao: Trước bối cảnh lạm phát toàn cầu gia tăng đó tốc động làm giá hầu hết các nhóm hàng nhập khẩu của Việt Nam gia tăng mạnh mẽ như xăng dầu, sắt thép, phân bón, thuốc trừ sâu - là những nguyên nhiên vật liệu đầu vào chính của sản xuất. Mặc dù Chính phủ đó cố gắng kiểm soát giỏ xăng dầu, nhưng từ đầu năm 2007 đến hết Quý I/08 giá xăng dầu đó phải điều chỉnh tăng 4 lần, tính chung giá xăng dầu đó tăng tới 38%, giá thép tăng 91%, giá điện tăng 7,6%; giá than tăng 30%; giá xi măng tăng 15%; giá phân bón tăng 58%. Điều này đó tác động làm chi phí sản xuất tăng cao.
Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm tăng cao: biến đổi khí hậu toàn cầu trên thế giới không những tác động đến nhiều quốc gia mà Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Chỉ trong tháng 10/2007, miền Trung phải hứng chịu 5 cơn bão liên tiếp, trong khi đó dịch bệnh trong chăn nuôi, trồng trọt như cúm gia cầm, lợn tai xanh, lở mồm long móng ở lợn, vàng lùn ở lúa cùng với rét đậm, rét hại khiến cho nguồn cung lương thực - thực phẩm bị sụt giảm.
Mặc dù Chính phủ đã ban hành Công văn 639/BTM-XNK ngày 16/8/2007 và Công văn số 266/TTg-KTTH ngày 21/2/2008 để khống chế lượng gạo xuất khẩu tối đa nhằm kiểm soát lạm phát và đảm bảo an ninh lương thực trong nước, nhưng việc giá lương thực, thực phẩm thế giới tăng cao đó khiến giỏ gạo xuất khẩu và giỏ một số mặt hàng thực phẩm xuất khẩu khác như thuỷ hải sản gia tăng cộng với chi phí sản xuất tăng cao đó đẩy giá lương thực, thực phẩm trong nước tăng cao ở mức 18,92% năm 2007 và 14,45% trong QI/2008, cao gấp 5 lần so với mức tăng 4,18% của quý I/2007, trong khi nhóm này có quyền số 42,85%, lớn nhất trong rổ hàng hoá CPI, có thể nói đây là nguyên nhân chủ yếu tác động làm CPI tăng mạnh.
Thứ ba: Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ liên tục mở rộng từ 2001-2006 nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Trong vòng 3 năm trở lại đây kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng ở mức rất cao trên 8%, và mục tiêu của giai đoạn này đối với Chính phủ Việt Nam là ưu tiên tăng trưởng kinh tế. Với mục tiêu này đó khuyến khích cho “chính sách tài chính, tiền tệ nới lỏng đó thực hiện trong nhiều năm liền nhưng quản lý chưa chặt chẽ” nhằm mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, và đây cũng là nhân tố góp phần khiến lạm phát bì nh quân từ 2005 đến 2007 tăng trên 8,01%. Tín dụng ngân hàng cho nền kinh tế tăng mạnh trong một thời gian dài nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế là một nguyên nhân quan trong làm gia tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế. Các ngân hàng cũ mở rộng tín dụng bằng việc nới lỏng điều kiện cho vay, cạnh tranh nhau bằng giảm lãi suất cho vay, tăng lãi suất huy động để tìm kiếm nguồn vốn cho vay,chuyển đổi mô hình, liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, tập đoàn để tăng vốn điều lệ, mở rộng mạng lưới nhanh chóng vượt quá khả năng quản trị, cho thành lập thêm các ngân hàng mới và tất cả các ngân hàng chủ yếu đua nhau tìm kiếm lợi nhuận từ nghiệp vụ cho vay nên càng làm cho tín dụng của hệ thống ngân hàng tăng cao trong suốt năm 2007 và 3 tháng đầu năm 2008, đó là nguyên nhân rất quan trong gây sức ép rất lớn làm gia tăng lạm phát trong thời gian qua.
Thứ tư: Luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam gia tăng mạnh: bắt đầu từ cuối năm 2006 khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), cùng với những cải cách về cơ chế chính sách và môi trường đầu tư đó tạo điều kiện cho các luồng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng mạnh. Năm 2007 luồng vốn FDI tăng 20,3 tỷ USD vốn đăng ký, cao hơn nhiều so với mức 10,2 tỷ USD của năm 2006, đặc biệt là luồng vốn đầu tư gián tiếp gia tăng mạnh mẽ khoảng trên 6 tỷ, gấp 5 lần con số của năm 2006 mà chủ yếu đổ vào thị trường chứng khoán, trái phiếu đặc biệt là đổ vào IPO các doanh nghiệp nhà nước lớn. Đứng trước bối cảnh này, Ngân hàng nhà nước đó phải cung ứng một lượng lớn tiền VND để mua ngoại tệ vào nhằm mục tiêu ổn định và phá giá nhẹ tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và điều này làm cho tổng phương tiện thanh toán tăng cao, tác động làm lạm phát gia tăng.
2.2.2. Tác động của lạm phát đối với nền kinh tê
Lạm phát có nhiều loại, cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng khác nhau đối với nền kinh tế. Xét trên góc độ tương quan, trong một nền kinh tế mà lạm phát được coi là nỗi lo của toàn xã hội và người ta có thể nhìn thấy tác động của nó.
* Đối với lĩnh vực sản xuất
Đối với nhà sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra biến động không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền làm vô hiệu hoá hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh - sản xuất ở một vài doanh nghiệp có thể thay đổi, gây ra những xáo động về kinh tế. Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn.
* Đối với lĩnh vực lưu thông
Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hoá. Các nhà doanh nghiệp thấy rằng việc đầu tư vốn vào lĩnh vực lưu thông. Thậm chí khi lạm phát trở nên khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sản xuất sẽ gặp phải rủi ro cao. Do đó nhiều người tham gia vào lĩnh vực lưu thông nên lĩnh vực này trở nên hỗn loạn. Tiền ở trong tay những người vừa mới bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng.
* Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng
Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu hẹp. Số người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống ngân hàng, do lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những người hiện có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Về phía người đi vay, họ là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế, các chức năng của tiền tệ không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai tích trữ của cải hình thức tiền mặt.
* Đối với chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước
Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá. Khi lạm phát xảy ra những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của giá cả làm cho thị trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được những doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời lạm phát làm cho nhà nước thiếu vốn, do đó nhà nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã hội bị cắt giảm… các ngành, các lĩnh vực dự định được Chính phủ đầu tư và hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại hoặc không có gì. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện được.
3.Các giải pháp chống lạm phát ở Việt Nam hiện nay
3.1 Giải pháp đối với vấn đề lạm phát ở Việt Nam
Phải kết hợp đồng bộ các chính sách về tiền tệ với chính sách tài khoá và chính sách tỉ giá để nâng cao hiệu quả đầu tư của kinh tế nhà nước, giảm bớt sức ép của chính sách tiền tệ đến hoạt động của các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp, bảo đảm các doanh nghiệp có nguồn tín dụng để mở rộng đầu tư, làm cho việc chống lạm phát không ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng và việc làm.
Thắt chặt tiền tệ: Các biện pháp dành cho chính sách thắt chặt tiền tệ hiện nay cần phải được áp dụng một cách linh hoạt. Xuất phát từ nhận định lạm phát thường xuất hiện khi lượng tiền trong lưu thông tăng, chúng ta cần hạn chế lượng tiền trong lưu thông bằng cách: Tăng lãi suất cho vay vốn và lãi suất tái chiết khấu và hạn chế mức tăng tín dụng. Quy định dự trữ bắt buộc hợp lí để vừa bảo đảm an toàn hệ thống đồng thời nâng cao được khả năng thanh khỏan trong hoạt động ngân hàng. Thêm nữa là việc phát hành tín phiếu và phân hạn mức mua cho các Ngân hàng Thương mại để rút bỏ bớt tiền khỏi lưu thông
Chính sách tài khóa: Cần phải thực hiện từng bước kế hoạch giảm thâm hụt để tiến tới cân bằng ngân sách, vỡ đây cũng là một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng. Thắt chặt chi tiêu của chính phủ; kiểm soát chặt chẽ đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước; giảm mạnh chi phí hành chính trong các cơ quan nhà nước nhằm giảm bớt sức ép về cầu nhất là các loại cầu không tạo ra hiệu quả. Với các dự án, cần loại bỏ những dự án đầu tư kém hiệu quả, thắt chặt những khoản chi chưa thực sự cần thiết nhưng tạo mọi điều kiện cho đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng.
Sử dụng công cụ tỉ giá: Nên điều chỉnh tăng nhẹ VND so với USD. Điều này cũng phù hợp với việc đồng đô la Mỹ liên tục bị giảm giá so với các đồng tiền khác. Tăng nhẹ giá trị VND tuy có ảnh hưởng đến xuất khẩu nhưng không quá lớn. Tăng giá VND sẽ làm giá hàng nhập khẩu giảm, tăng nguồn cung, có tác dụng giảm mức tăng giá trên thị trường nội địa, nhất là trong điều kiện nhập khẩu hiện chiếm tỉ lệ cao trong GDP của nước ta. Tăng giá VND cũng góp phần kìm giữ giá luơng thực hiện đang tăng tăng cao và có khả năng còn tiếp tục tăng trước nhu cầu của thị trường thế giới.
3.2 Các giải pháp mà NHNN đã thực hiện nhằm kiểm soát lạm phát
Lạm phát đã ở mức báo động nhiều năm qua. Chỉ số CPI đã liên tục tăng trong 3 năm: 8,4% năm 2005, 6,6% năm 2006 và 12,63% năm 2007.
Trước việc lạm phát tăng quá cao ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của dân chúng, NHNN đã thực hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ với mong muốn nhanh chóng đưa chỉ số giá tiêu dùng giảm xuống, bao gồm: tăng Dự trữ bắt buộc (DTBB) 2 lần từ 5%-10%-11% đối với VND và từ 8%-10%-11% đối với ngoại tệ, đồng thời mở rộng kỳ hạn tiền gửi phải thực hiện DTBB từ <24 tháng thành tất cả các kỳ hạn; Tăng tất cả các mức lãi suất cơ bản từ 8,25%-8,75%, lãi suất tái cấp vốn từ 6,5%-7,5%, lãi suất tái chiết khấu từ 4,5%-6%; liên tục hút tiền về trên Thị trường mở; NHNN phát hành tín phiếu bắt buộc khoảng trên 20 nghìn tỷ đồng bắt đầu từ 19/3/2008 với kỳ hạn 12 tháng, lãi suất 7,58%; Tiếp tục thực hiện chuyển khoản 50 nghìn tỷ đồng từ tiền gửi kho bạc về Ngân hàng Nhà nước; Trong quý IV/2007, NHNN thực hiện hạn chế tối đa mua ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng để hạn chế tổng phương tiện thanh toán tăng cao; Thắt chặt cho vay chứng khoán ở mức 3%/tổng dư nợ, sau đó tiếp tục kiểm soát mức cho vay đầu tư chứng khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ, đồng thời tăng hệ số rủi ro đối với cho vay đầu tư chứng khoán từ 150% lên 250% theo Quyết định 03 ngày 1/2/2008 của NHNN.
Việc NHNN liên tục thực hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ trong thời gian qua, không ít ý kiến cho rằng NHNN đó điều hành chính sách tiền tệ chưa thật sự linh hoạt, gây nên những “nổi sóng” nhất định trên thị trường tiền tệ. Có thể đánh giá vấn đề này như sau:
Trước bối cảnh Việt Nam bắt đầu trở thành thành viên của WTO nên lần đầu tiên phải đối mặt với tình hình đầu tư gián tiếp nước ngoài gia tăng mạnh mẽ, trong khi kinh nghiệm thực tế chưa có nhiều nên việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN có phần chưa linh hoạt, thể hiện việc NHNN “đó thực hiện đồng thời nhiều giải pháp mạnh vào cùng một thời điểm, nhưng lại thiếu đồng bộ với các biện pháp khác, tuy có góp phần ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực trên thị trường tiền tệ, nhưng cũng gây khó khăn cho NHTM, tạo nên việc chạy đua nâng lãi suất huy động vốn, gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh và xuất khẩu, ảnh hưởng đến tâm lý xã hội” .
Do đó, các giải pháp của NHNN tiếp theo sẽ linh hoạt hơn trong điều hành chính sách tiền tệ theo chỉ đạo của Chính phủ, nhưng vẫn là ưu tiên kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội.
3.3 Các giải pháp NHNN thực hiện nhắm kiểm soát lạm phát trong thời gian tới:
Thứ nhất: Tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ một cách chặt chẽ, thận trọng; sử dụng linh hoạt và hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ: xem xét việc tăng dự trữ bắt buộc; tiếp tục áp dụng biện pháp mua tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bắt buộc đã công bố; kiểm soát tốc độ tăng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán một cách hợp lý, trong đó mức tăng trưởng tín dụng tối đa 30%; kiểm soát cho vay bất động sản, kinh doanh chứng khoán và cho vay tiêu dùng.
Thứ hai: Thực hiện hỗ trợ vốn cho các ngân hàng thương mại để đảm bảo khả năng thanh toán.
Thứ ba: Tiếp tục mua ngoại tệ của các nhà đầu tư trên cơ sở nguồn cung ứng đó được Chính phủ phê duyệt một mặt để bổ sung dự trữ ngoại hối nhà nước, mặt khác nhằm đáp ứng đủ vốn cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.
Thứ tư: Tiếp tục điều hành tỷ giá giữa đồng tiền Việt Nam với đồng Đô la Mỹ nói riêng và các loại ngoại tệ nói chung theo hướng cân đối các mục tiêu xuất nhập khẩu, sản xuất trong nước và nhập siêu; mở rộng biên độ giao động của tỷ giá lên ±2%.
Thứ năm: Nghiên cứu trình Chính phủ về cơ chế kiểm soát luồng vốn gián tiếp và vấn đề các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài mua cổ phiếu bằng ngoại tệ; Tiếp tục triển khai Quyết định số 98/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Để án nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam, khắc phục tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế; Dự báo tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường trong và ngoài nước và đề xuất các giải pháp phòng ngừa các rủi ro trong trường hợp luồng vốn đảo chiều.
3.4 .Các giải pháp Chính phủ thực hiện nhằm kiểm soát lạm phát
Nghị quyết của Chính phủ về các biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững
Tình hình kinh tế thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, khó lường. Giá dầu và hầu hết các nguyên vật liệu cơ bản và lương tực và thực phẩm trên thế giới tăng cao ,sự suy giảm của kinh tế Mỹ đã tác động mạnh và kéo theo sự suy giảm của nhiều nền kinh tế. Trong nước, đợt rét đậm, rét hại lịch sử kéo dài ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ đó gây tổn thất lớn về vật chất và tác động bất lợi đến sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân. Trong điều kiện kinh tế nước ta có sức cạnh tranh chưa cao lại mới bước đầu vận hành theo cơ chế thị trường và đang hội nhập sâu ,rộng vào nền kinh tế thế giới thì những hệ quả nặng nề của thiên tai, dịch bệnh và những biến động bất lợi của kinh tế toàn cầu đã có tác động tiêu cực đến tăng trưởng và đến mặt bằng giá trong nước
Trước tình hình này, Chính phủ đã thống nhất xác định nhiệm vụ trọng tâm của đất nước ta hiệm nay là: kiềm chế lạm phát giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, trong đó kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu. Để đạt được những nhiệm vụ và mục tiêu nêu trên, một mặt phải tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 02/2008/NQ-CP ngày 09 tháng 01 năm 2008 của Chính phủ về điều hành kinh tế - xã hội năm 2008, mặt khác cần tập trung chỉ đạo thực hiện quyết liệt và đồng bộ các giải pháp chủ yếu sau đây:
a. Thực hiện chính sách thắt chặt tiên tệ
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ động, linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng nhưng phải bảo đảm tính thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng,tổ chức tín dụng
Sử dụng linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ để giảm dần lãi suất huy động theo hướng thực hiện chính sách lãi suất thực dương. Tăng cường kiểm soát và giám sát chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng thương mại để bảo đảm việc tuân thủ đúng các quy định về huy động, cho vay và chất lượng tín dụng. Kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm theo đúng quy định của pháp luật để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
. Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia sớm ổn định tổ chức, kịp thời phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan tăng cường các công cụ giám sát theo cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế để chủ động cảnh báo và xử lý tốt hơn những biến động trên thị trường tài chính, tiền tệ.
b. Kiểm soát chặt chẽ nâng cao hiệu quả chi tiêu công
Điều hành chính sách tài khóa theo hướng tiết kiệm chi tiêu thường xuyên, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách; kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, nhất là đầu tư vào các dự án không thuộc lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính của doanh nghiệp; phấn đấu giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách.
Thực hiện việc cắt giảm, sắp xếp lại vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong kế hoạch năm 2008 từ nguồn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ, tín dụng đầu tư nhà nước và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, trước hết là các công trình đầu tư kém hiệu quả, các công trinh chưa thực sự cần thiết. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trương của Bộ Tài chính triển khai nội dung này ngay trong việc rà soát lại và cân đối nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước. Các Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, theo chức năng, nhiệm vụ được giao thực hiện việc rà soát chặt chẽ các hạng mục đầu tư để cắt bỏ các công trĩnh đầu tư kém hiệu quả, tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành, những công trình đầu tư cho sản xuất hàng hóa thuộc mọi thành phần kinh tế để đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa vào sản xuất.
Thực hiện chính sách tiết kiệm đồng bộ, chặt chẽ, nghiêm ngặt trong tất cả các cấp, các ngành, trong toàn bộ hệ thống chính trị. Đưa nội dung thực hành tiết kiệm trong chi tiêu ngân sách, trong sản xuất và đời sống vào chương trình cuộc vận động: "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong năm 2008 và những năm tiếp theo. Năm 2008, ngoài việc tiết kiệm bình quân 10% chi phí hành chớnh (trừ tiền lương, phụ cấp lương, các khoản chi cho con người theo chế độ quy định) của các cơ quan sử dụng ngân sách nhà nước, thực hiện cắt giảm những khoản chi mua sắm chưa thật cần thiết, giảm tối đa các hội nghị toàn quốc, giảm chi phí đi lại (nhất là đi lại bằng máy bay); cắt giảm các khoản chi tiếp khách, các đoàn công tác nước ngoài bằng vốn ngân sách hoặc có nguồn gốc ngân sách mà không thật thiết thực; tiết kiệm năng lượng, phương tiện triệt để hơn nữa. Giảm các chi phí cho hoạt động lễ hội, lễ kỷ niệm, đón nhận huân chương, danh hiệu thi đua,... gây tốn kém, lãng phí. Bộ Tài chính chủ trì giao chỉ tiêu và hướng dẫn nội dung và tổ chức triển khai để các đơn vị thực hiện.
Phấn đấu năm 2008 thu ngân sách thực hiện vượt dự toán đã được giao, tăng dự phòng để chi cho khắc phục thiên tai, an sinh xã hội, giảm thiểu tỷ lệ thâm hụt ngân sáchch so với mục tiêu mà Quốc hội đã giao cho năm 2008
c.Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp,nông nghiệp và dịch vụ,bảo đảm cân đôí cung cầu về hàng hóa
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì
Phối hợp với các địa phương khắc phục nhanh hậu quả của thiên tai và dịch bệnh để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, tập trung chỉ đạo phát triển trồng rau màu, chăn nuôi, tăng nguồn cung thực phẩm nhằm sớm ổn định giá cả lương thực, thực phẩm, chuẩn bị đủ giống cho sản xuất vụ mùa, hè thu;
Phối hợp với các cơ quan chức năng và chính quyền các cấp để phát hiện sớm, chủ động thực hiện và hướng dẫn kịp thời các biện pháp phũng, chống, ngăn chặn và dập tắt một cách tích cực, kiên quyết, có hiệu quả dịch cúm gia cầm, lợn tai xanh, lở mồm long móng ở trâu, bò và cúm A (H5N1) ở người;
Bộ trưởng các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Công Thương, Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về thủ tục hành chính để giải quyết nhanh việc tiếp cận, sử dụng vốn, đất đai, mở rộng thị trường nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển. Đồng thời, chủ động thực hiện các biện pháp phù hợp tháo gỡ khó khăn do biến động giá làm ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, trước hết là giá dự toán các công trình đang triển khai có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước để sớm hoàn thành, đưa vào hoạt động.
Bộ Công Thương chủ trì làm việc với các Bộ liên quan, hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp kinh doanh về việc bảo đảm nguồn hàng; đồng thời, có trách nhiệm cùng Chính phủ kiềm giữ giá cả các mặt hàng thiết yếu, như: lương thực, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt thép, xi măng, phân bón,... Chủ động đề ra và áp dụng phương án khắc phục tình trạng thiếu điện và bảo đảm điện cho sản xuất.
Ngoài ra còn một số biện pháp khác:
- Đẩy mạnh xuất khẩu kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu.giảm nhập siêu
- Tăng cường công tác quản lý thị trường chống đầu cơ buôn lậu và gian lận thương mại,kiểm soát việc chấp hành nhà nước về giá
- Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền
KẾT LUẬN
Tình hình diễn biến lạm phát và khắc phục nó tại Việt Nam rất phức tạp. Lạm phát đã hoành hoành công khai khi Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế xã hội, xoá bỏ cơ chế bao cấp, quan liêu. Sự cải cách không đồng bộ giữa giá cả và quản lý kinh tế dẫn đến khủng hoảng trầm trọng. Thành công trong công cuộc chống lạm phát 1989 đưa đất nước vượt lên chính là sự đổi mới trong nhận thức quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Kinh tế ổn định đã làm tiền đề cơ sở cho sự thành công của các thành tựu trong lĩnh vực giáo dục, khoa học, chính trị… Những thành tựu to lớn mà chúng ta đạt được trong công cuộc chống lạm phát cũng không vì thế mà làm chúng ta chủ quan, nới lỏng. Lạm phát luôn rình rập và đe doạ chúng ta bất cứ lúc nào. Chính vì vậy Đảng và Nhà nước ta cần phải luôn thận trọng trong mỗi bước đi của mình để đảm bảo cho nền kinh tế nước ta phát triển vững mạnh làm nền tảng để phát triển khoa học, giáo dục. biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình: Lý thuyết tài chính tiền tệ
Kinh tế học Samuelson
Theo Enconomics & Financ
Trang Web tham khảo
www. world bank.org.vn
www.rfa.org/vietnamese
www.sbv.gov.vn
www.doanhnhan360.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A9287.DOC