Làng nghề và thống kê làng nghề
Một số khuyến nghị về đẩy mạnh
thống kê làng nghề
Như trên đã trình bày thống kê làng
nghề là vấn đề mới phức tạp nhưng lại rất
cấp thiết vì vậy trong thời gian tới ngành
thống kê cần:
1. Tổ chức nghiên cứu hoàn thiện các
vấn đề lý luận làm cơ sở để xây dựng thống
kê làng nghề ở Việt Nam nhất là làm sáng tỏ
khái niệm “làng nghề”
2. Viện Khoa học Thống kê cần phối
hợp chặt chẽ với vụ Phương pháp Chế độ
Thống kê và các vụ chuyên ngành tiến hành
khảo sát đúc rút kinh nghiệm ở các địa
phương có tiến hành thống kê làng nghề để
giải quyết những vấn đề phương pháp luận
và phương pháp tính về làng nghề
3. Các kết quả nghiên cứu thống kê
làng nghề cần được trao đổi trên tờ Thông
tin Khoa học Thống kê hoặc tổ chức các
cuộc hội thảo để trưng cầu ý kiến rộng rãi
của các nhà khoa học và cán bộ thực tế
4. Nghiên cứu hệ thống chỉ tiêu thống kê
làng nghề đảm bảo tính khoa học và thực tiễn
5. Nghiên cứu lựa chọn các hình thức
thu thập thông tin phù hợp với làng nghề
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 267 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Làng nghề và thống kê làng nghề, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông tin Khoa học Thống kê số 2/2004 - Trang 11
Làng nghề và thống kê Làng nghề
Phạm Sơn
Viện Khoa học Thống kê
Trong những năm gần đây, khi n−ớc ta
chuyển đổi cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập
trung sang cơ chế thị tr−ờng định h−ớng xã
hội chủ nghĩa, mọi lĩnh vực hoạt động đ−ợc
khơi dậy và có đóng góp tích cực vào mức
tăng tr−ởng của nền kinh tế. Trong dòng chảy
chung đó có sự phát triển của hoạt động
ngành nghề ở khu vực nông thôn, nơi có gần
80% dân số đang sinh sống. Chính vì sự phát
triển nhanh và sinh động của các ngành
nghề, nên nhiều cấp chính quyền và quản lý
có đầu t− nghiên cứu làng nghề. Tuy nhiên do
nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan
khác nhau nên nhiều vấn đề về ph−ơng pháp
luận ch−a đ−ợc thống nhất dẫn đến nguồn số
liệu mâu thuẫn nhau. Chẳng hạn theo số liệu
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn,
số liệu làng nghề năm 2001 nhiều gấp 3-4 lần
số liệu cuộc Tổng điều tra Nông nghiệp và
Nông thôn năm 1999 do Tổng cục Thống kê
tiến hành. Để góp phần giải quyết những vấn
đề bức xúc nảy sinh trong quá trình nghiên
cứu làng nghề, trong bài viết này sẽ tập trung
vào các nội dung sau:
I. Khái niệm làng nghề
Khái niệm Làng nghề th−ờng đ−ợc xuất
hiện khá nhiều trên sách báo địa ph−ơng và
trung −ơng, nh−ng cho đến nay vẫn ch−a có
một định nghĩa thống nhất mà “chấp nhận”
nh− một phạm trù trong văn hoá. Nên chúng
ta th−ờng gặp những câu “tình làng, nghĩa
xóm”, “sau luỹ tre làng”, hay “trai khôn chọn
vợ cùng làng”Song để nhận dạng làng
nh− vậy không thể thống kê đ−ợc. D−ới đây
chúng tôi sẽ trình bày một số vấn đề có liên
quan đến khái niệm làng.
1. Lμng trong hệ thống hμnh chính tr−ớc
đây vμ ngμy nay
Theo nhiều tài liệu lịch sử để lại, hệ
thống hành chính của các triều đại phong
kiến n−ớc ta gồm:
- Chính quyền phong kiến trung −ơng,
gọi là triều đình, đứng đầu là Vua (chúa) và
d−ới vua chúa có triều đại có tể t−ớng, có
triều đại không và lục bộ (bộ binh, bộ lĩnh,
bộ hình, bộ hộ, bộ công và bộ lễ)
- Chính quyền địa ph−ơng có tỉnh (hoặc
châu). Đứng đầu tỉnh là quan tuần phủ
- D−ới tỉnh có phủ và huyện. Đứng đầu
phủ có quan tri phủ và đứng đầu huyện có
quan tri huyện. Sở dĩ d−ới tỉnh có đặt ra các
phủ vì do điều kiện giao thông vận tải khó
khăn, nên trong một tỉnh chia ra một số phủ,
ng−ời đứng đầu huyện (tri huyện) ở địa
ph−ơng đ−ợc chọn gọi là tri phủ có trách
nhiệm giúp tuần phủ, theo dõi và giám sát
một số phủ, cũng nh− chuyển công văn giấy
tờ từ tỉnh về huyện và ng−ợc lại.
- D−ới huyện có các làng, đứng đầu
làng có chức lý tr−ởng làm chức năng quản lý
nhà n−ớc trong làng (quản lý đinh, điền, thu
thuế, trật tự an ninh). Đặc tr−ng cho mỗi làng
đều có đình làng, với mấy chức năng sau:
+ Thờ cúng thần hoàng làng là ng−ời
có công xây dựng làng hoặc ng−ời có nhiều
công với n−ớc;
Trang 12 - Thông tin Khoa học Thống kê số 2/2004
+ Trụ sở hành chính của làng - Đây là
nơi hội họp xem xét những vấn đề trọng đại
của làng. Đặc biệt đây là nơi làng xem xét
luận tội những ng−ời vi phạm lệ làng (nhiều
nơi gọi là h−ơng −ớc hoặc hiện nay gọi
chung là luật −ớc). Tổ chức hội hè đình
đám, Tuỳ thuộc vào quy mô của làng,
d−ới làng có thể chia ra một số thôn xóm.
Để giúp cho tri phủ hoặc tri huyện quản
lý đội ngũ lý tr−ởng tại từng vùng, có thành
lập chức danh chánh tổng và những làng
chịu sự “giám sát” của một vị chánh tổng gọi
là Tổng. Nh− vậy, Tổng không phải là một
đơn vị hành chính mà chỉ là một cấp trung
gian “thừa phái viên toàn quyền của chi phủ”
Theo cuốn Việt Nam sử l−ợc của học
giả Trần Trọng Kim do NXB Đà Nẵng ấn
hành năm 2001, trang 195 có ghi “Trong
thời kỳ Minh thuộc (1418-1427) phép hộ
thiếp và hoàng sách nh− sau: “Việc điều hộ
ở An Nam bấy giờ phải theo nh− lệ bên
tàu,... việc cai trị trong n−ớc thì chia ra làm
lý và giáp. ở chỗ thành phố gọi là ph−ờng, ở
chung quang thành phố gọi là t−ơng, ở nhà
quê gọi là lý. Lý lại chia ra giáp.
Cứ 110 hộ làm một lý và 10 hộ làm một
giáp, lý có lý tr−ởng, giáp có giáp thủ,...
“.... một lý, một ph−ờng hay một t−ơng
có một cuốn sách để biên tất cả số đinh và
điền vào đây,... khi nào cuốn sổ ấy xong rồi,
thì biên ra 4 bản, một có bìa, cho nên gọi là
hoàng sách để gửi về bộ Hộ.
Phép hộ thiếp và hoàng sách đ−ợc
trình bày trên đ−ợc tồn tại ở n−ớc ta cho đến
cuối thế kỷ XIX.
Sau khi thực dân Pháp xâm l−ợc n−ớc
ta, bộ máy chính quyền vẫn duy trì nh− d−ới
chế độ phong kiến.
Từ năm 1945, khi n−ớc ta giành độc lập,
theo hiến pháp 1946, 1959, 1980 và đặc biệt
là Hiến pháp 1992 đã qui định rõ hệ thống
chính quyền 4 cấp: Trung −ơng, tỉnh, huyện,
xã. D−ới xã tổ chức thành các thôn/ xóm/ bản
hoặc ph−ờng và “khái niệm” làng để chỉ địa
danh của một cụm dân c− gồm nhiều thôn/
xóm/ bản hợp thành chẳng hạn xã Thành
Kinh, Thạch Hà, Hà Tĩnh gồm 4 làng: Tri lệ
(có 4 xóm), Tri nang (3 xóm), Th−ợng
Nguyên (3 xóm), và Chi l−u (4 xóm).
Từ những điều phân tích trên đây có
thể rút ra một kết luận khái niệm “làng” là
một phạm trù lịch sử và văn hoá có sự thay
đổi từ thời đại này sang thời đại khác. Do
vậy khi thống kê có liên quan đến khái niệm
“làng” phải hết sức chú ý nếu không sẽ gây
ra sự tranh luận về số liệu.
2. Nghề
Cùng với trồng trọt và chăn nuôi, hầu
hết dân c− sống ở vùng nông thôn đều có
hoạt động thêm một số nghề thủ công với
mục đích ban đầu sản xuất ra một số hàng
gia dụng phục vụ cho nhu cầu sản xuất và
đời sống của hộ gia đình mang tính chất tự
cung tự cấp trên cơ sở sử dụng nguồn
nguyên liệu sẵn có. Nh−ng qua một quá trình
dài phát triển do có sự khác nhau về tay
nghề và kinh nghiệm tích luỹ đ−ợc ở từng địa
ph−ơng nhất định đã có sự chuyên môn hoá
và các sản phẩm làm ra bắt đầu đ−a ra thị
tr−ờng trao đổi nh− những loại hàng hoá. Đó
là quá trình chuyên môn hoá lâu đời và các
sản phẩm của địa ph−ơng đó không những
bền đẹp mà có giá thành rẻ nên đ−ợc xã hội
chấp nhận. Chẳng hạn quê lụa Hà Tây có
làng lụa Vạn Phúc nổi tiếng cả trong và
ngoài n−ớc, hoặc nghề rèn ở Đa Sỹvà Hà
Tây nơi có nhiều làng nghề nổi tiếng nên
Thông tin Khoa học Thống kê số 2/2004 - Trang 13
đ−ợc thiên hạ đặt tên là “đất của trăm nghề”.
Không riêng Hà Tây mà hầu hết các địa
ph−ơng trên cả n−ớc ở làng quê nào ngoài
sản xuất nông nghiệp đều có làm thêm một
vài nghề phụ. Song vấn đề quan tâm ở đây
là những hoạt động ngành nghề nào đ−ợc
gọi là nghề. Theo quan điểm chung, các hoạt
động sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở địa
ph−ơng nào đó đ−ợc gọi là nghề khi nào phải
tạo ra đ−ợc một khối l−ợng sản phẩm chiếm
lĩnh thị tr−ờng th−ờng xuyên và những ng−ời
sản xuất, hoặc hộ sản xuất đó lấy nghề đang
hành làm nguồn thu chủ yếu thì mới đ−ợc
xem là có nghề nh− cha ông th−ờng nói “nhất
nghệ tinh, nhất thân vinh”
3. Lμng nghề
Từ khái niệm làng và nghề trình bày
trên đây, chúng ta sẽ đi vào việc nhận dạng
khái niệm làng nghề. Khái niệm này có từ
lâu đời nó nhằm phân biệt với khái niệm
ph−ờng hội ở khu vực đô thị mà đặc điểm
nổi bật nhất là trình độ và công nghệ làng
nghề ở khu vực nông thôn vẫn mang nặng
hoạt động thủ công và gắn với sản xuất
nông nghiệp. Tuy nhiên, để có một khái
niệm đầy đủ về làng nghề cần thống nhất
một số quan điểm sau:
Một làng đ−ợc gọi là làng nghề khi hội
tụ 2 điều kiện sau:
- Có một số l−ợng t−ơng đối các hộ
cùng sản xuất một nghề;
- Thu nhập do sản xuất nghề mang lại
chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập
của làng.
Nh− vậy, không phải bất kỳ làng nào
có hoạt động ngành nghề cũng gọi là làng
nghề mà cần có qui định một số tiêu chuẩn
nhất định. Vấn đề này Vụ Thống kê Nông,
Lâm nghiệp và thuỷ sản có qui định trong
ph−ơng án Tổng điều tra Nông nghiệp năm
2001 và uỷ ban ND tỉnh Hà Tây cũng có ban
hành qui định tạm thời về làng nghề theo 4
tiêu chí. Theo Tôi đây là vấn đề cần có sự
nghiên cứu trao đổi và tìm hiểu rõ hơn.
II. Thống kê làng nghề
Thống kê làng nghề ở n−ớc ta là vấn
đề đang đ−ợc nhiều ngành quan tâm và một
số địa ph−ơng đã tiến hành điều tra thu thập
số liệu. Nh−ng do nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan khác nhau, nhất là một số
vấn đề ph−ơng pháp luận ch−a giải quyết
đ−ợc, nên còn nhiều vấn đề cần tiếp tục
nghiên cứu.
1. Nên lấy đơn vị hμnh chính nμo lμm
lμng nghề
Nh− phân tích trên khi “làng” là một
phạm trù lịch sử có nhiều thay đổi về không
gian và thời gian. Do vậy không thể lấy khái
niệm làng nh− tr−ớc đây mà phải gắn với đơn
vị hành chính hiện tại để định nghĩa làng
nghề. Vấn đề này hiện tồn tại 2 loại ý kiến.
Thứ nhất lấy đơn vị xã làm đơn vị cơ bản
để tính làng nghề, ý kiến này xuất phát từ
thực tế sau: Là đơn vị hành chính hoàn chỉnh
quản lý toàn dân, toàn diện mọi mặt hoạt
động kinh tế xã hội. Bộ máy của xã có ng−ời
theo dõi ghi chép thông qua đăng ký sản xuất
kinh doanh về ngành nghề nên có nguồn số
liệu. Tuy nhiên việc xem một xã nh− một làng
cũng có phần ch−a ổn vì qui mô của xã khá
lớn và trong một xã có thể có nhiều nghề, mà
theo các tiêu chí nhận dạng hiện hành thì rất ít
xã đạt đ−ợc. Điều đó dẫn đến bỏ sót các hoạt
động sản xuất làng nghề.
Loại ý kiến thứ hai, lấy làng tr−ớc đây để
làm đơn vị làng nghề. Nh−ợc điểm lớn nhất
Trang 14 - Thông tin Khoa học Thống kê số 2/2004
của loại ý kiến này là ở chỗ không thống kê
đ−ợc chính xác số l−ợng làng trong một đơn
vị hành chính. Do vậy không thể tính toán
các chỉ tiêu nh− tỷ lệ huyện, xã có làng nghề
chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng số
làng của huyện, xã. Hơn nữa, khái niệm
“làng” chỉ là tên gọi theo lệ cũ chứ không phải
một đơn vị cấp d−ới của xã do đó khó thu
thập thông tin về hoạt động nghề.
Do vậy, trong thống kê làng nghề theo
Tôi lấy thôn/xóm/bản làm đơn vị thống kê
làng nghề là hợp lý nhất.
Nếu theo quan điểm này, thì việc thống
kê làng nghề sẽ có nhiều thuận lợi hơn.
2. Phải xác định rõ các tiêu chí công
nhận lμng nghề
Qui định của TCTK trong Tổng điều tra
Nông nghiệp và Nông thôn, cũng nh− qui
định của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây về
tiêu chuẩn làng nghề nhìn chung là khoa
học, nh−ng theo Tôi về mức độ về số lao
động và thu nhập có từ 50% trở lên là ch−a
hợp lý. Bởi lẽ chúng ta xem xét hoạt động
ngành nghề trong tổ hợp các hoạt động ở
nông thôn gồm cả trồng trọt và chăn nuôi.
Do vậy, mức độ theo tôi nên hạ xuống từ
35% trở lên là đ−ợc. Nếu qui định quá cao
sẽ bỏ sót phạm vi và nếu qui định quá thấp
sẽ khó thu thập hết số liệu.
3. Phải xây dựng đ−ợc hệ thống chỉ tiêu
thống kê thu thập số liệu lμng nghề
Cũng nh− đối với các lĩnh vực sản xuất
khác, hệ thống chỉ tiêu về hoạt động làng
nghề gồm:
- Yếu tố sản xuất (lao động, vốn,
nguyên liệu, nhiên liệu, trang bị công nghệ);
- Kết quả sản xuất;
- Bảo vệ môi tr−ờng sinh thái;
- Tác động của ngành nghề đối với các
ngành sản xuất khác.
Những nội dung thông tin trên đây sẽ
đ−ợc cụ thể hoá trong các phiếu điều tra,
hoặc báo cáo thống kê để thu thập thông tin
về hoạt động làng nghề giúp cho các cấp
quản lý có đ−ợc những thông tin cần thiết về
làng nghề (hệ thống chỉ tiêu làng nghề xem
bài của Nguyễn Tuấn Nghĩa đăng trong
Thông tin Khoa học Thống kê số 2/2004).
4. Phải nghiên cứu lựa chọn các ph−ơng
pháp thu thập thông tin thích hợp
Hiện nay hoạt động ngành nghề ở
nông thôn đang phát triển và có tác dụng
giải quyết công ăn việc làm tạo ra nguồn thu
nhập cho nhiều tầng lớp dân c−. Song việc
thu thập đầy đủ các thông tin phản ánh hoạt
động làng nghề cũng là việc không dễ. Do
vậy phải nghiên cứu kết hợp hài hoà giữa
hai hình thức báo cáo và thống kê.
Về Báo cáo Thống kê cứ 6 tháng một
lần thu thập các chỉ tiêu về số l−ợng làng
nghề phân theo đơn vị hành chính và loại
nghề, số l−ợng lao động và số hộ tham gia
ngành nghề có chia theo loại lao động
(chính, phụ) và giới tính.
Về điều tra thống kê, có thể tiến hành
theo một số cách sau:
- Một là kết hợp với điều tra mức sống
chủ yếu thu thập các thông tin về kết quả
sản xuất kinh doanh và thu nhập của các hộ
sản xuất ngành nghề
- Hai là tổ chức điều tra chọn mẫu theo
quy mô huyện để thu thập một cách chi tiết
các thông tin về làng nghề
Thông tin Khoa học Thống kê số 2/2004 - Trang 15
- Ba là: tổ chức điều tra kết hợp với
một số cuộc điều tra trong nông nghiệp
nh− điều tra năng suất lúa, năng suất cây
trồng, chăn nuôi,
Đây là vấn đề phức tạp cần nghiên cứu để
lựa chọn hình thức và ph−ơng pháp thích hợp.
III. Một số khuyến nghị về đẩy mạnh
thống kê làng nghề
Nh− trên đã trình bày thống kê làng
nghề là vấn đề mới phức tạp nh−ng lại rất
cấp thiết vì vậy trong thời gian tới ngành
thống kê cần:
1. Tổ chức nghiên cứu hoàn thiện các
vấn đề lý luận làm cơ sở để xây dựng thống
kê làng nghề ở Việt Nam nhất là làm sáng tỏ
khái niệm “làng nghề”
2. Viện Khoa học Thống kê cần phối
hợp chặt chẽ với vụ Ph−ơng pháp Chế độ
Thống kê và các vụ chuyên ngành tiến hành
khảo sát đúc rút kinh nghiệm ở các địa
ph−ơng có tiến hành thống kê làng nghề để
giải quyết những vấn đề ph−ơng pháp luận
và ph−ơng pháp tính về làng nghề
3. Các kết quả nghiên cứu thống kê
làng nghề cần đ−ợc trao đổi trên tờ Thông
tin Khoa học Thống kê hoặc tổ chức các
cuộc hội thảo để tr−ng cầu ý kiến rộng rãi
của các nhà khoa học và cán bộ thực tế
4. Nghiên cứu hệ thống chỉ tiêu thống kê
làng nghề đảm bảo tính khoa học và thực tiễn
5. Nghiên cứu lựa chọn các hình thức
thu thập thông tin phù hợp với làng nghề
Mô hình I-O liên vùng cho thμnh phố Hồ Chí Minh
ứng dụng trong phân tích kinh tế vμ môi tr−ờng
TS. Nguyễn Trần D−ơng, Bùi Trinh, Nguyễn Thị Thuỳ D−ơng
1. Mô hình Input-output tổng quát
Một mô hình I-O có thể biểu diễn d−ới dạng đơn giản nhất nh− sau:
F
Tiêu dùng trung gian
Ô I
Y
Ô II
X
Tổng đầu ra
VA
Ô III
X
Tổng đầu vào
Ô I thể hiện chi phí trung gian của các
ngành, bao gồm các ngành sản xuất ra sản
phẩm vật chất và các ngành sản xuất ra sản
phẩm dịch vụ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lang_nghe_va_thong_ke_lang_nghe.pdf