Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về đào tạo, nhất
là với những nước thành công trong phát triển
đào tạo ở khu vực ASEAN và trên thế giới.
Tích cực vận động, thu hút nguồn viện trợ phát
triển chính thức ODA cho đào tạo. Hợp tác với
các nước ASEAN để tiến tới công nhận kỹ
năng nghề giữa các nước, hướng tới Cộng
đồng ASEAN vào năm 2015, tích cực tham gia
vào các hoạt động của khu vực và thế giới để
giao lưu và học hỏi kinh nghiệm, như tham gia
Hội thi tay nghề ASEAN, Hội thi tay nghề thế
giới
Đối với người lao động cần thay đổi tư duy
và tầm nhìn trong quá trình chọn nghề và tham
gia các chương trình đào tạo theo hướng đủ
khả năng tham gia các thị trường lao động khu
vực và quốc tế, chứ không dừng lại ở thị
trường Việt Nam. Điều này trước hết là sẽ
mang lại lợi ích lớn cho người lao động, vì với
trình độ và năng lực cao, họ có nhiều cơ hội
lựa chọn cơ hội việc làm với mức lương cao
hơn, đồng thời góp phần dần cải thiện chất
lượng cạnh tranh cho phân khúc lao động chất
lượng cao.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 284 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lao động Việt Nam trước yêu cầu hội nhập cộng đồng kinh tế Asean (AEC), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kinh tế & Chính sách
140 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 3-2017
LAO ĐỘNG VIỆT NAM TRƯỚC YÊU CẦU HỘI NHẬP
CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN (AEC)
Trần Văn Hùng
Phân hiệu Trường Đại học Lâm nghiệp
TÓM TẮT
Khi Cộng đồng Kinh tế ASEAN được thành lập sẽ mở ra nhiều cơ hội cho các ngành nghề của nền kinh tế phát
triển, trong đó phải kể đến là cơ hội về việc làm cho lực lượng lao động của Việt Nam. Trên cơ sở nguồn số
liệu thứ cấp thu thập từ các cơ quan ban ngành, bài viết đề cập đến cộng đồng kinh tế AEC khi được thành lập
và những nội dung thừa nhận lẫn nhau về các ngành nghề trong khu vực. Bài viết cũng dựa trên những nhận
định, đánh giá về thực trạng nguồn lực lao động của Việt Nam cho thấy trước yêu cầu hội nhập AEC: lực lượng
lao động Việt Nam dồi dào nhưng phân bố không đồng đều, trình độ chuyên môn và năng suất lao động còn
thấp so với các nước trong khu vực. Từ đó, bài viết đề xuất một số khuyến nghị góp phần nâng cao cơ hội việc
làm và khả năng đáp ứng yêu cầu hội nhập của lao động Việt Nam.
Từ khóa: Cộng đồng kinh tế Asean, hội nhập kinh tế, Việt Nam, yêu cầu lao động.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cộng đồng kinh tế Asean (AEC) được thành
lập vào cuối năm 2015. Đây được đánh giá là
bước ngoặt đánh dấu sự hòa nhập sâu rộng,
toàn diện của các nền kinh tế Đông Nam Á,
đồng thời mở ra cơ hội, thách thức đối với mọi
thành viên, đặc biệt trong lĩnh vực việc làm.
Theo định hướng, AEC sẽ là một khu vực kinh
tế ổn định, thịnh vượng, có khả năng cạnh
tranh cao, trong đó hàng hóa, dịch vụ và đầu tư
được lưu chuyển thông thoáng, kinh tế phát
triển đồng đều, nghèo đói và phân hóa kinh tế -
xã hội giảm bớt. Trong một thị trường thống
nhất, dòng chu chuyển tự do của đội ngũ lao
động có tay nghề trong ASEAN sẽ mở ra cơ
hội cho tất cả mọi người và việc hình thành
Cộng đồng kinh tế ASEAN giúp thị trường lao
động trong ASEAN sôi động hơn, thúc đẩy tạo
việc làm cho từng quốc gia thành viên. Cũng
theo dự báo của ILO, khi tham gia AEC, số
việc làm cho lao động Việt nam sẽ tăng lên
10,5% vào năm 2025. Tuy nhiên, bên cạnh
những cơ hội lớn đó thì tồn tại không ít những
thách thức đối với lao động Việt Nam trước
yêu cầu hội nhập AEC.Việc nắm bắt được
những thay đổi trên thị trường lao động các
nước ASEAN khi AEC thành lập là việc rất
cần thiết cho doanh nghiệp cũng như người lao
động Việt Nam. Do đó, mục tiêu của nghiên
cứu này nhằm tập trung phân tích thực trạng
lao động Việt Nam và những vấn đề đặt ra đối
với lực lượng lao động Việt Nam trước yêu cầu
hội nhập của AEC nhằm tận dụng những cơ
hội có được từ AEC và nâng cao năng suất lao
động của Việt Nam.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nguồn số liệu
Bài viết sử dụng nguồn số liệu thứ cấp, cụ
thể là số liệu về lực lượng lao động Việt Nam
từ 15 tuổi trở lên phân theo nhóm tuổi, cơ cấu
lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên phân theo
giới tính và phân theo khu vực, số lượng lao
động qua đào tạo có trình độ chuyên môn kỹ
thuật, năng suất lao động theo giá thực tế, năng
suất lao động theo sức mua tương đương theo
giá cố định 2005, thay đổi các chỉ tiêu kinh tế
và thị trường việc làm ở Việt Nam khi hội
nhập AEC so với bối cảnh không hội nhập năm
2025 và số liệu được thu thập từ Tổng cục
Thống kê, Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội, Viện Năng suất Việt Nam VNPI, ADB-
ILO, ASEAN Commumity 2015, nghiên cứu
của ILO và ADB về lao động của Việt Nam.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết sử dụng phương pháp thống kê mô
tả kết hợp với bảng biểu đồ thị minh họa.
Kinh tế & Chính sách
141TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 3-2017
Sử dụng phần mềm Excel để xử lý số liệu
Số liệu được phân tích đánh giá theo chuỗi
thời gian và theo tiêu chí về độ tuổi, giới tính,
khu vực, trình độ chuyên môn kỹ thuật, năng
suất lao động.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. AEC và những nội dung thừa nhận lẫn
nhau về các ngành nghề trong khu vực
Cộng đồng Kinh tế ASEAN gồm 10 quốc
gia với dân số hơn 620 triệu người, trong đó
300 triệu người tham gia lực lượng lao động.
Lực lượng lao động này khi được “giải
phóng”, tự do di chuyển trong thị trường chung
sẽ là nhân tố cơ bản để thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội của các nước thành viên. Khi
chính thức thành lập, Cộng đồng Kinh tế
ASEAN (AEC) sẽ thực hiện tự do luân chuyển
năm yếu tố căn bản, trong đó có lao động
ngành nghề. Trước mắt, trong năm 2015, có 8
ngành nghề lao động trong các nước ASEAN
được di chuyển tự do thông qua các thỏa thuận
công nhận tay nghề tương đương gồm: kế toán,
kiến trúc, kỹ sư, nha sĩ, bác sĩ, y tá, vận chuyển
và nhân viên ngành du lịch. Trong đó nhân lực
phải được đào tạo chuyên môn hoặc có trình
độ từ đại học trở lên, thông thạo ngoại ngữ, đặc
biệt là tiếng Anh, được di chuyển tự do hơn.
So với toàn bộ cơ cấu nền kinh tế nước ta thì
lao động nhóm này chỉ chiếm số lượng rất nhỏ
(1%) tổng số lực lượng lao động. Đây là những
yêu cầu khắt khe về chuyên môn và ngoại ngữ
được đặt ra đối với lao động các nước AEC nói
chung và lao động Việt Nam nói riêng.
Các nước ASEAN đã thống nhất công nhận
giá trị tương đương của chứng chỉ đào tạo của
mỗi nước thành viên đối với tám loại nghề
nghiệp trên. Song mỗi nước có quyền áp đặt
những quy định của nước sở tại đối với sự dịch
chuyển lao động này vào nước họ. Thí dụ như
lao động đến làm việc ở Thái Lan sẽ phải trải
qua kỳ thi viết bằng tiếng Thái để chứng tỏ
trình độ ngôn ngữ và muốn làm việc chuyên
môn ở Thái thì sẽ phải trải thêm một kỳ thi sát
hạch về luật pháp Thái viết bằng tiếng Thái
Nếu các nước đưa ra những quy định riêng đối
với sự tự do lao động thì đây sẽ là thách thức
không nhỏ đối với lao động và việc làm cho
các quốc gia khác.
3.2. Thực trạng lực lượng lao động Việt Nam
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tính
đến hết năm 2015, quy mô lực lượng lao động
từ 15 tuổi trở lên ở Việt Nam là 53,984,2 triệu
người trên tổng số 91,713,3 triệu người (chiếm
58,86%). Trong số lực lượng lao động trên có
74,1% có độ tuổi từ 15 - 49 tuổi, trong đó
nhóm tuổi trẻ (15 - 29 tuổi) chiếm đến 24,61%
và nhóm tuổi thanh niên (15 - 24 tuổi) chiếm
14,8%. Đây là nhóm tuổi có tiềm năng tiếp thu
được những tri thức mới, kỹ năng mới để nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực và năng suất
lao động của Việt Nam.
Bảng 1. Lực lượng lao động Việt Nam từ 15 tuổi trở lên phân theo nhóm tuổi
(ĐVT: 1.000 người)
Năm
Độ tuổi
Tổng số
15 - 24 25 - 49 50+
2005 9.168,0 28.432,5 7.304,0 44.904,5
2006 9.727,4 29.447,7 7.063,6 46.238,7
2007 8.561,8 29.392,1 9.206,4 47.160,3
2008 8.734,3 29.973,4 9.501,9 48.209,6
2009 9.184,7 30.285,1 9.852,2 49.322,0
2010 9.245,4 30.939,2 10.208,3 50.392,9
2011 8.465,2 31.503,4 11.429,8 51.398,4
2012 7.887,8 32.014,5 12.445,7 52.348,0
2013 7.916,1 31.904,5 13.425,0 53.245,6
2014 7.585,2 32.081,0 14.081,8 53.748,0
Sơ bộ 2015 8.012,4 31.970,3 14.001,5 53.984,2
(Nguồn: Tổng cục thống kê )
Kinh tế & Chính sách
142 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 3-2017
Lực lượng lao động của Việt Nam khá dồi
dào nhưng phân bố không đồng đều giữa các
địa phương và chủ yếu tập trung ở vùng nông
thôn. Năm 2005, lao động từ 15 tuổi trở lên ở
vùng nông thôn chiếm 74,5% và tỷ lệ này giảm
xuống còn 68,7% vào năm 2015. Do ở vùng
nông thôn hoạt động sản xuất nông nghiệp là
chủ yếu với diện tích đất đai rộng lớn và cần
lực lượng lớn lao động nên lực lượng lao động
trong độ tuổi từ 15 tuổi trở lên chiếm tỷ lệ lớn
và giảm xuống qua các năm do lực lượng lao
động có xu hướng di chuyển từ nông thôn ra
thành thị tìm việc làm mới.
Bảng 2. Cơ cấu lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên phân theo giới tính và phân theo khu vực (%)
Năm Nam Nữ Thành thị Nông thôn
2005 52,3 47,7 25,5 74,5
2006 53,2 46,8 26,5 73,5
2007 50,8 49,2 26,3 73,7
2008 51,3 48,7 27,3 72,7
2009 52,0 48,0 26,9 73,1
2010 51,4 48,6 28,0 72,0
2011 51,5 48,5 29,7 70,3
2012 51,4 48,6 30,3 69,7
2013 51,4 48,6 30,1 69,9
2014 51,3 48,7 30,7 69,3
2015 51,6 48,4 31,3 68,7
(Nguồn: Tổng cục thống kê )
Việt Nam có nguồn lao động trẻ và dồi dào
nhưng trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Việt
Nam đang rất thiếu lao động có trình độ tay
nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao, ảnh hưởng
đến năng suất và chất lượng lao động. Đây là
một thực trạng rất đáng lo ngại. Theo số liệu
Điều tra Lao động - Việc làm của Tổng cục
Thống kê, tỷ lệ lao động qua đào tạo ở Việt
Nam khá thấp và không có nhiều cải thiện.
Nếu vào năm 2007, tỷ lệ qua đào tạo của lực
lượng lao động từ 15 tuổi trở lên chỉ đạt 17,4%
thì vào năm 2013, con số này cũng không cải
thiện nhiều với tỷ lệ 18,4%. Sự chênh lệch về
chất lượng nguồn lao động được thể hiện rõ
nhất là ở khu vực nông thôn và thành thị. Ở
thành thị lao động đã được đào tạo chiếm
30,9%, trong khi ở nông thôn chỉ có 9%. Đây
chính là một rào cản lớn cho việc cải thiện
năng suất lao động.
Hình 1. Số lượng lao động qua đào tạo có trình độ chuyên môn kỹ thuật
(Quý 2, 3/2015)
(Nguồn: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội)
Kinh tế & Chính sách
143TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 3-2017
Theo nghiên cứu của tổ chức lao động thế
giới (ILO) thực hiện vào năm 2013 thì Việt
Nam có lợi thế lớn nhất là lực lượng lao động
dồi dào và cơ cấu lao động trẻ. Chất lượng lao
động từng bước được nâng lên; tỷ lệ lao động
qua đào tạo tăng từ 30% lên 40% trong vòng
10 năm trở lại đây, trong đó lao động qua đào
tạo nghề đạt 30%. Tuy nhiên, do xuất phát
điểm thấp, cơ cấu kinh tế chủ yếu vẫn là nông
nghiệp nên tỷ lệ lao động tham gia vào thị
trường lao động chính thức còn thấp, đạt
khoảng 30%; khoảng 45% lao động trong lĩnh
vực nông nghiệp hầu như chưa qua đào tạo.
Trên thực tế, chất lượng nguồn nhân lực của
Việt Nam còn thấp và có khoảng cách khá lớn
so với các nước trong khu vực. Ngân hàng Thế
giới đánh giá nếu lấy thang điểm là 10 thì chất
lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79
điểm, xếp thứ 11/12 nước châu Á. Những hạn
chế, yếu kém của nguồn nhân lực là một trong
những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Về yếu tố năng suất lao động của Việt Nam:
Năng suất lao động là một trong những yếu tố
quan trọng tác động tới năng lực cạnh tranh,
đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh toàn cầu,
phát triển của khoa học công nghệ và nền kinh
tế tri thức hiện nay. Năng suất lao động của
toàn xã hội năm 2014 theo giá thực tế ước đạt
được 74,3 triệu đồng trên một lao động, tính
theo giá so sánh năm 2010 là 50,84 triệu đồng.
Số liệu cho thấy, từ năm 2006 đến nay, năng
suất lao động hàng năm đều tăng so với năm
trước, với tỷ lệ tăng bình quân khoảng
3,5%/năm. Nhìn chung, năng suất lao động có
xu hướng tăng dần một cách ổn định.
Hình 2. Năng suất lao động theo giá thực tế (triệu đồng/người)
(Nguồn: Báo cáo năng suất Việt Nam 2014, Viện Năng suất Việt Nam VNPI)
Mặc dù có nhiều cải thiện đáng kể nhưng so
với các nước trong khu vực thì năng suất lao
động của Việt Nam vẫn còn khoảng cách khá
xa. Theo nghiên cứu của Tổ chức Lao động
quốc tế, năm 2007 năng suất lao động của Việt
Nam đạt 4.322 USD/người, đến năm 2010 đạt
4.896 USD/người và đến năm 2013 đạt 5.440
USD/người, tăng 25,86% so với năm 2007 và
tăng 11,11% so với năm 2010. Năm 2013 năng
suất lao động của Singapore gấp 18 lần Việt
Kinh tế & Chính sách
144 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 3-2017
Nam, năng suất lao động của Nhật Bản gấp 12
lần Việt Nam, Hàn Quốc gấp 10,7 lần và Thái
Lan gấp 2,7 lần Việt Nam. Như vậy, có thể
nhận thấy năng suất lao động của Việt Nam đã
có sự cải thiện đáng kể, nhưng vì khoảng cách
khá xa so với các nước phát triển nên Việt
Nam cần có nhiều nỗ lực hơn nữa trong nâng
cao năng suất lao động.
Bảng 3. Năng suất lao động theo sức mua tương đương giá cố định 2005
ĐVT: USD/người
Quốc gia 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Singapore 92.260 90.987 88.751 97.151 98.755 96.573 98.072
Nhật Bản 63.245 62.746 60.055 62.681 63.018 64.351 65.511
Hàn Quốc 52.314 53.226 53.514 56.106 57.127 57.262 58.298
Malaysia 31.907 32.868 31.899 33.344 34.056 35.018 35.751
Trung Quốc 9.227 10.119 11.008 12.092 13.093 14.003 14.895
Thái Lan 12.994 13.025 12.922 13.813 13.666 14.446 14.754
Philipin 8.841 8.920 8.795 9.152 9.168 9.571 10.026
Indonesia 7.952 8.235 8.439 8.763 9.130 9.486 9.848
Ấn Độ 6.746 7.021 7.596 8.359 8.832 9.073 9.307
Việt Nam 4.322 4.516 4.669 4.896 5.082 5.239 5.440
Lào 4.029 4.216 4.399 4.636 4.865 5.115 5.396
Camphuchia 3.333 3.427 3.334 3.460 3.619 3.797 3.989
(Nguồn: ADB- ILO, ASEAN Commumity 2015 - Managing intergration for better jobs and shared prosperity)
Chất lượng lao động Việt Nam không cao,
đào tạo không đúng nhu cầu của doanh nghiệp,
chủ yếu lao động thủ công. Điều này sẽ ảnh
hưởng trực tiếp tới vấn đề thu hút đầu tư.
Ngoài ra, lao động Việt Nam được cho là rất
hạn chế về ngoại ngữ cùng các kỹ năng làm
việc nhóm hiệu quả; nhân sự cao cấp so với
các nước trong khu vực vẫn còn khoảng cách
khá lớn và đang rất thiếu những nhà quản lý
doanh nghiệp Việt tài giỏi đủ sức cạnh tranh tại
các thị trường khu vực. Đội ngũ lao động được
đào tạo nghề trong những năm qua phần lớn
chỉ được chú trọng vào đào tạo chuyên môn
cứng, hạn chế khả năng làm việc độc lập trong
khu vực kinh tế hội nhập mà đang cần các kỹ
năng toàn diện hơn. Theo kết quả khảo sát
nghiên cứu vào năm 2014 giữa Viện Khoa học
Lao động và Xã hội với Tập đoàn Manpower
tại 6.000 doanh nghiệp thuộc chín lĩnh vực
kinh tế tại 9 tỉnh thành ở Việt Nam cho thấy,
có đến một phần tư doanh nghiệp tham gia
khảo sát cho rằng lao động thiếu hiểu biết về
công nghệ và khả năng sáng tạo, 1/5 nhận xét
lao động thiếu khả năng thích nghi với công
nghệ mới, 1/3 doanh nghiệp không tìm được
lao động có kỹ năng mà họ cần. Những hạn
chế, những yếu kém của nguồn nhân lực là một
trong những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế (năm 2011
Việt Nam xếp thứ 65/141 nước xếp hạng,
nhưng đến năm 2014 xếp thứ 70/148 nước xếp
hạng).
3.3. Những vấn đề đặt ra đối với lực lượng
lao động Việt Nam trước yêu cầu hội nhập
của AEC
Việc Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)
được thành lập được kỳ vọng sẽ tác động tích
cực đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và tạo
nhiều cơ hội việc làm cho người lao động nói
riêng. Theo nghiên cứu của ILO và ADB với
đề tài “Cộng đồng ASEAN 2015: Quản lý hội
nhập hướng tới việc làm tốt hơn và thịnh
vượng chung” được công bố tại Hà Nội tháng
9/2014 cho thấy trên quy mô tổng thể, hội nhập
kinh tế sẽ giúp tạo thêm 14 triệu việc làm ở
khu vực ASEAN và cải thiện đời sống của 600
Kinh tế & Chính sách
145TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 3-2017
triệu người dân hiện sinh sống trong khu vực
nhưng điều này chỉ có thể đạt được nếu có
được sự quản lý hợp lý và quyết liệt để thực thi
một cách hiệu quả.
Cộng đồng kinh tế ASEAN tạo ra tiềm năng
lớn để các nước có thể chuyển dịch cơ cấu kinh
tế từ các ngành có năng suất lao động thấp
sang các ngành có năng suất lao động cao. Với
lợi thế lực lượng lao động có trình độ giáo dục
và kỹ năng làm việc, Việt Nam có thể là một
trong những quốc gia được hưởng lợi nhiều từ
quá trình này. AEC sẽ cho phép các lao động
có tay nghề cao, dịch vụ, đầu tư và hàng hóa
của 10 quốc gia thành viên của ASEAN được
di chuyển tự do hơn trong khu vực và lao
động Việt Nam có cơ hội làm việc tại các thị
trường năng động của khu vực như Singapore,
Thái Lan.
AEC giúp lao động Việt Nam có cơ hội tìm
kiếm nhiều việc làm hơn với mức lương cao
hơn ở các nước trong khu vực khi mà vấn đề tự
do hóa lao động và tự do hóa ở một số ngành
nghề đã được AEC đề cập. Các nước
Singapore, Malaysia và Thái Lan được cho là
đang bước vào giai đoạn phát triển cao hơn,
nhu cầu về lao động kỹ năng cao đang tăng
trong khi nguồn cung lại chưa được đáp ứng.
Đây là một yếu tố tốt đối với lao động ở các
nước phát triển kém hơn, có thu nhập kém hơn
như Việt Nam.
Biểu đồ 1. Thay đổi các chỉ tiêu kinh tế và thị trường việc làm ở Việt Nam khi hội nhập AEC,
so với bối cảnh không hội nhập, năm 2025 (%)
Nguồn: Nghiên cứu của ILO và ADB với chủ đề “Cộng đồng ASEAN 2015: Quản lý hội nhập hướng tới
việc làm tốt hơn và thịnh vượng chung” được công bố tại Hà Nội vào 4/9/2014
Theo Nghiên cứu về tác động của Cộng
đồng Kinh tế ASEAN (AEC) đối với thị
trường lao động Việt Nam của Tổ chức lao
động quốc tế (ILO), ADB và Ban Thư ký
ASEAN, đến năm 2025, AEC sẽ hỗ trợ thúc
đẩy tăng trưởng GDP của Việt Nam thêm
14,5% và tăng trưởng việc làm thêm 10,5%,
hàng triệu việc làm mới trong các lĩnh vực xây
dựng, giao thông vận tải, dệt may và chế biến
thực phẩm cho người lao động Việt
Kinh tế & Chính sách
146 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 3-2017
Nam.AEC sẽ thực hiện tự do luân chuyển năm
yếu tố căn bản: vốn, hàng hóa, dịch vụ, đầu tư
và lao động lành nghề. Sự tự do này vừa là cơ
hội song cũng là thách thức không nhỏ khi một
lượng lớn lao động từ các nước AEC vào Việt
Nam, tạo nên cuộc cạnh tranh với lao động
trong nước. Ngoài ra, khi tham gia AEC, bên
cạnh việc có kỹ năng nghề nghiệp giỏi, người
lao động còn cần có ngoại ngữ và các kỹ năng
mềm khác để có cơ hội tham gia làm việc tại
các quốc gia của AEC. Đây cũng là thách thức
không nhỏ đối với lao động Việt Nam.
Cùng với nhu cầu ngày càng cao của các
doanh nghiệp trong đổi mới dây chuyền công
nghệ, thiết bị sản xuất cũng như trình độ quản
trị, họ sẽ có nhu cầu sử dụng nguồn lao động
chất lượng cao ngày càng nhiều. Trong khi
phân khúc lao động chất lượng cao của Việt
Nam đang bộc lộ nhiều điểm yếu, tính cạnh
tranh không cao, thì ngược lại đây đang là
điểm mạnh của nhiều thị trường trong khu vực,
do lao động của họ có tay nghề, ý thức kỷ luật
lao động cao, trình độ ngoại ngữ tốt. Điều này
đồng nghĩa với việc, nếu không sớm có giải
pháp nâng cao chất lượng thì nguy cơ thị
trường lao động Việt Nam khó có khả cạnh
tranh ngay ở trong nước, nhất là ở phân khúc
thị trường lao động chất lượng cao.
Ngoài ra, do xuất phát điểm thấp, cơ cấu
kinh tế chủ yếu vẫn là nông nghiệp nên tỷ lệ
lao động tham gia vào thị trường lao động
chính thức còn thấp, đạt khoảng 30%. Chất
lượng và cơ cấu lao động vẫn còn nhiều bất
cập so với yêu cầu phát triển và hội nhập. Trên
50% lao động không có trình độ chuyên môn
kỹ thuật, chất lượng nguồn nhân lực nước ta
còn thấp nên khó có thể đảm nhận những công
việc có trình độ chuyên môn và trình đô ngoại
ngữ mà các nước yêu cầu. Trên thực tế, chất
lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn thấp
và có khoảng cách khá lớn so với các nước
trong khu vực. Ngân hàng Thế giới đánh giá
nếu lấy thang điểm là 10 thì chất lượng nhân
lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm, xếp thứ
11/12 nước châu Á. Những hạn chế, yếu kém
của nguồn nhân lực là một trong những nhân tố
chủ yếu ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế.
IV. KẾT LUẬN
Khi AEC được thành lập sẽ đặt ra nhiều vấn
đề đối với lực lượng lao động Việt Nam. Do
đó, để tận dụng những cơ hội có được từ AEC
và nâng cao năng suất lao động của Việt Nam
nhằm đáp ứng được những yêu cầu đặt ra từ
AEC, một số đề xuất khuyến nghị như sau:
Việt Nam cần dành sự đầu tư lớn hơn để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, vì đây là
yếu tố then chốt đưa Việt Nam vượt khỏi
ngưỡng nước có thu nhập trung bình trong
những năm tới. Đầu tư mạnh mẽ cho phát triển
lực lượng lao động có kỹ năng thông qua nâng
cao chất lượng đào tạo nghề, cùng với cơ chế,
chính sách sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực.
Nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của dạy
nghề trong chiến lược phát triển nhân lực của
đất nước, hoàn thiện cơ chế, chính sách về dạy
nghề, học nghề; Đổi mới cơ cấu hệ thống dạy
nghề trên cơ sở khung trình độ quốc gia, tiêu
chuẩn kỹ năng nghề phù hợp với đất nước, xu
thế các nước trong khu vực và trên thế giới;
gắn kết giữa dạy nghề với thị trường lao động
và sự tham gia của doanh nghiệp, phát triển hệ
thống thông tin thị trường lao động.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về đào tạo, nhất
là với những nước thành công trong phát triển
đào tạo ở khu vực ASEAN và trên thế giới.
Tích cực vận động, thu hút nguồn viện trợ phát
triển chính thức ODA cho đào tạo. Hợp tác với
các nước ASEAN để tiến tới công nhận kỹ
năng nghề giữa các nước, hướng tới Cộng
đồng ASEAN vào năm 2015, tích cực tham gia
vào các hoạt động của khu vực và thế giới để
giao lưu và học hỏi kinh nghiệm, như tham gia
Hội thi tay nghề ASEAN, Hội thi tay nghề thế
giới
Đối với người lao động cần thay đổi tư duy
Kinh tế & Chính sách
147TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 3-2017
và tầm nhìn trong quá trình chọn nghề và tham
gia các chương trình đào tạo theo hướng đủ
khả năng tham gia các thị trường lao động khu
vực và quốc tế, chứ không dừng lại ở thị
trường Việt Nam. Điều này trước hết là sẽ
mang lại lợi ích lớn cho người lao động, vì với
trình độ và năng lực cao, họ có nhiều cơ hội
lựa chọn cơ hội việc làm với mức lương cao
hơn, đồng thời góp phần dần cải thiện chất
lượng cạnh tranh cho phân khúc lao động chất
lượng cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ADB &ILO (2014). ASEAN Community 2015:
Managing integration for better jobs and shared
prosperity.
2. Viện năng suất Việt Nam VNPI (2014). Báo cáo
năng suất lao động Việt Nam năm 2014.
3. Nguyễn Tiến Dũng (2015). Lao động Việt Nam
trước nguy cơ thất nghiệp khi tham gia TPP -
viet-nam-truoc-nguy-co-that-nghiep-khi-tham-gia-tpp-
3308840.html
4. Nguyễn Bá Ngọc, Phạm Minh Thu (2014). Năng
suất lao động ở Việt Nam nhìn từ góc độ cơ cấu lao
động và kỹ năng. Viện Khoa học Lao động và xã hội.
5. Bùi Thị Minh Tiệp (2015). Nguồn nhân lực của
các nước ASEAN và những tham chiếu cho Việt Nam
trước thềm hội nhập AEC. Tạp chí Kinh tế & phát triển
số tháng 2/2015.
VIET NAM’S LABOR BEFORE THE REQUIREMENT
OF ASEAN ECONOMICS COMMUNITY
Tran Van Hung
Vietnam National University of Forestry – Southern Campus
SUMMARY
Asean Economics Community has been establiched. They will be open many opportunities for industries which
are developed. Among them, there many opportunities for VietNam’s labor who can fine jobs. Base on
secondary datas which were collected from organs, the article deal with Asean Economics Community when
they were establiched and content of the mutual recognition of the profession in the region. The article based on
the identification, assessment on the status of labor resources of Vietnam showed that previous AEC integration
requirements: Vietnam workforce plentiful but uneven distribution, qualifications and labor productivity
remains low compared with other countries in the region. Since then, the article proposes some
recommendations contribute to improving employment opportunities and the ability to meet the requirements
of the labor integration of Vietnam.
Keywords: Asean Economics Community, economic integration, labor requirements, Viet Nam.
Ngày nhận bài : 12/6/2016
Ngày phản biện : 20/12/2016
Ngày quyết định đăng : 10/01/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lao_dong_viet_nam_truoc_yeu_cau_hoi_nhap_cong_dong_kinh_te_a.pdf