Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về đào tạo, nhất
là với những nước thành công trong phát triển
đào tạo ở khu vực ASEAN và trên thế giới.
Tích cực vận động, thu hút nguồn viện trợ phát
triển chính thức ODA cho đào tạo. Hợp tác với
các nước ASEAN để tiến tới công nhận kỹ
năng nghề giữa các nước, hướng tới Cộng
đồng ASEAN vào năm 2015, tích cực tham gia
vào các hoạt động của khu vực và thế giới để
giao lưu và học hỏi kinh nghiệm, như tham gia
Hội thi tay nghề ASEAN, Hội thi tay nghề thế
giới 
Đối với người lao động cần thay đổi tư duy
và tầm nhìn trong quá trình chọn nghề và tham
gia các chương trình đào tạo theo hướng đủ
khả năng tham gia các thị trường lao động khu
vực và quốc tế, chứ không dừng lại ở thị
trường Việt Nam. Điều này trước hết là sẽ
mang lại lợi ích lớn cho người lao động, vì với
trình độ và năng lực cao, họ có nhiều cơ hội
lựa chọn cơ hội việc làm với mức lương cao
hơn, đồng thời góp phần dần cải thiện chất
lượng cạnh tranh cho phân khúc lao động chất
lượng cao.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
8 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 455 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Lao động Việt Nam trước yêu cầu hội nhập cộng đồng kinh tế Asean (AEC), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kinh tế & Chính sách 
 140 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 3-2017 
LAO ĐỘNG VIỆT NAM TRƯỚC YÊU CẦU HỘI NHẬP 
CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN (AEC) 
Trần Văn Hùng 
Phân hiệu Trường Đại học Lâm nghiệp 
TÓM TẮT 
Khi Cộng đồng Kinh tế ASEAN được thành lập sẽ mở ra nhiều cơ hội cho các ngành nghề của nền kinh tế phát 
triển, trong đó phải kể đến là cơ hội về việc làm cho lực lượng lao động của Việt Nam. Trên cơ sở nguồn số 
liệu thứ cấp thu thập từ các cơ quan ban ngành, bài viết đề cập đến cộng đồng kinh tế AEC khi được thành lập 
và những nội dung thừa nhận lẫn nhau về các ngành nghề trong khu vực. Bài viết cũng dựa trên những nhận 
định, đánh giá về thực trạng nguồn lực lao động của Việt Nam cho thấy trước yêu cầu hội nhập AEC: lực lượng 
lao động Việt Nam dồi dào nhưng phân bố không đồng đều, trình độ chuyên môn và năng suất lao động còn 
thấp so với các nước trong khu vực. Từ đó, bài viết đề xuất một số khuyến nghị góp phần nâng cao cơ hội việc 
làm và khả năng đáp ứng yêu cầu hội nhập của lao động Việt Nam. 
Từ khóa: Cộng đồng kinh tế Asean, hội nhập kinh tế, Việt Nam, yêu cầu lao động. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Cộng đồng kinh tế Asean (AEC) được thành 
lập vào cuối năm 2015. Đây được đánh giá là 
bước ngoặt đánh dấu sự hòa nhập sâu rộng, 
toàn diện của các nền kinh tế Đông Nam Á, 
đồng thời mở ra cơ hội, thách thức đối với mọi 
thành viên, đặc biệt trong lĩnh vực việc làm. 
Theo định hướng, AEC sẽ là một khu vực kinh 
tế ổn định, thịnh vượng, có khả năng cạnh 
tranh cao, trong đó hàng hóa, dịch vụ và đầu tư 
được lưu chuyển thông thoáng, kinh tế phát 
triển đồng đều, nghèo đói và phân hóa kinh tế - 
xã hội giảm bớt. Trong một thị trường thống 
nhất, dòng chu chuyển tự do của đội ngũ lao 
động có tay nghề trong ASEAN sẽ mở ra cơ 
hội cho tất cả mọi người và việc hình thành 
Cộng đồng kinh tế ASEAN giúp thị trường lao 
động trong ASEAN sôi động hơn, thúc đẩy tạo 
việc làm cho từng quốc gia thành viên. Cũng 
theo dự báo của ILO, khi tham gia AEC, số 
việc làm cho lao động Việt nam sẽ tăng lên 
10,5% vào năm 2025. Tuy nhiên, bên cạnh 
những cơ hội lớn đó thì tồn tại không ít những 
thách thức đối với lao động Việt Nam trước 
yêu cầu hội nhập AEC.Việc nắm bắt được 
những thay đổi trên thị trường lao động các 
nước ASEAN khi AEC thành lập là việc rất 
cần thiết cho doanh nghiệp cũng như người lao 
động Việt Nam. Do đó, mục tiêu của nghiên 
cứu này nhằm tập trung phân tích thực trạng 
lao động Việt Nam và những vấn đề đặt ra đối 
với lực lượng lao động Việt Nam trước yêu cầu 
hội nhập của AEC nhằm tận dụng những cơ 
hội có được từ AEC và nâng cao năng suất lao 
động của Việt Nam. 
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Nguồn số liệu 
Bài viết sử dụng nguồn số liệu thứ cấp, cụ 
thể là số liệu về lực lượng lao động Việt Nam 
từ 15 tuổi trở lên phân theo nhóm tuổi, cơ cấu 
lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên phân theo 
giới tính và phân theo khu vực, số lượng lao 
động qua đào tạo có trình độ chuyên môn kỹ 
thuật, năng suất lao động theo giá thực tế, năng 
suất lao động theo sức mua tương đương theo 
giá cố định 2005, thay đổi các chỉ tiêu kinh tế 
và thị trường việc làm ở Việt Nam khi hội 
nhập AEC so với bối cảnh không hội nhập năm 
2025 và số liệu được thu thập từ Tổng cục 
Thống kê, Bộ Lao động - Thương binh và Xã 
hội, Viện Năng suất Việt Nam VNPI, ADB- 
ILO, ASEAN Commumity 2015, nghiên cứu 
của ILO và ADB về lao động của Việt Nam. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
Bài viết sử dụng phương pháp thống kê mô 
tả kết hợp với bảng biểu đồ thị minh họa. 
Kinh tế & Chính sách 
 141TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 3-2017 
Sử dụng phần mềm Excel để xử lý số liệu 
Số liệu được phân tích đánh giá theo chuỗi 
thời gian và theo tiêu chí về độ tuổi, giới tính, 
khu vực, trình độ chuyên môn kỹ thuật, năng 
suất lao động. 
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
3.1. AEC và những nội dung thừa nhận lẫn 
nhau về các ngành nghề trong khu vực 
Cộng đồng Kinh tế ASEAN gồm 10 quốc 
gia với dân số hơn 620 triệu người, trong đó 
300 triệu người tham gia lực lượng lao động. 
Lực lượng lao động này khi được “giải 
phóng”, tự do di chuyển trong thị trường chung 
sẽ là nhân tố cơ bản để thúc đẩy sự phát triển 
kinh tế - xã hội của các nước thành viên. Khi 
chính thức thành lập, Cộng đồng Kinh tế 
ASEAN (AEC) sẽ thực hiện tự do luân chuyển 
năm yếu tố căn bản, trong đó có lao động 
ngành nghề. Trước mắt, trong năm 2015, có 8 
ngành nghề lao động trong các nước ASEAN 
được di chuyển tự do thông qua các thỏa thuận 
công nhận tay nghề tương đương gồm: kế toán, 
kiến trúc, kỹ sư, nha sĩ, bác sĩ, y tá, vận chuyển 
và nhân viên ngành du lịch. Trong đó nhân lực 
phải được đào tạo chuyên môn hoặc có trình 
độ từ đại học trở lên, thông thạo ngoại ngữ, đặc 
biệt là tiếng Anh, được di chuyển tự do hơn. 
So với toàn bộ cơ cấu nền kinh tế nước ta thì 
lao động nhóm này chỉ chiếm số lượng rất nhỏ 
(1%) tổng số lực lượng lao động. Đây là những 
yêu cầu khắt khe về chuyên môn và ngoại ngữ 
được đặt ra đối với lao động các nước AEC nói 
chung và lao động Việt Nam nói riêng. 
Các nước ASEAN đã thống nhất công nhận 
giá trị tương đương của chứng chỉ đào tạo của 
mỗi nước thành viên đối với tám loại nghề 
nghiệp trên. Song mỗi nước có quyền áp đặt 
những quy định của nước sở tại đối với sự dịch 
chuyển lao động này vào nước họ. Thí dụ như 
lao động đến làm việc ở Thái Lan sẽ phải trải 
qua kỳ thi viết bằng tiếng Thái để chứng tỏ 
trình độ ngôn ngữ và muốn làm việc chuyên 
môn ở Thái thì sẽ phải trải thêm một kỳ thi sát 
hạch về luật pháp Thái viết bằng tiếng Thái 
Nếu các nước đưa ra những quy định riêng đối 
với sự tự do lao động thì đây sẽ là thách thức 
không nhỏ đối với lao động và việc làm cho 
các quốc gia khác. 
3.2. Thực trạng lực lượng lao động Việt Nam 
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tính 
đến hết năm 2015, quy mô lực lượng lao động 
từ 15 tuổi trở lên ở Việt Nam là 53,984,2 triệu 
người trên tổng số 91,713,3 triệu người (chiếm 
58,86%). Trong số lực lượng lao động trên có 
74,1% có độ tuổi từ 15 - 49 tuổi, trong đó 
nhóm tuổi trẻ (15 - 29 tuổi) chiếm đến 24,61% 
và nhóm tuổi thanh niên (15 - 24 tuổi) chiếm 
14,8%. Đây là nhóm tuổi có tiềm năng tiếp thu 
được những tri thức mới, kỹ năng mới để nâng 
cao chất lượng nguồn nhân lực và năng suất 
lao động của Việt Nam. 
Bảng 1. Lực lượng lao động Việt Nam từ 15 tuổi trở lên phân theo nhóm tuổi 
(ĐVT: 1.000 người) 
Năm 
Độ tuổi 
Tổng số 
15 - 24 25 - 49 50+ 
2005 9.168,0 28.432,5 7.304,0 44.904,5 
2006 9.727,4 29.447,7 7.063,6 46.238,7 
2007 8.561,8 29.392,1 9.206,4 47.160,3 
2008 8.734,3 29.973,4 9.501,9 48.209,6 
2009 9.184,7 30.285,1 9.852,2 49.322,0 
2010 9.245,4 30.939,2 10.208,3 50.392,9 
2011 8.465,2 31.503,4 11.429,8 51.398,4 
2012 7.887,8 32.014,5 12.445,7 52.348,0 
2013 7.916,1 31.904,5 13.425,0 53.245,6 
2014 7.585,2 32.081,0 14.081,8 53.748,0 
Sơ bộ 2015 8.012,4 31.970,3 14.001,5 53.984,2 
(Nguồn: Tổng cục thống kê ) 
Kinh tế & Chính sách 
 142 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 3-2017 
Lực lượng lao động của Việt Nam khá dồi 
dào nhưng phân bố không đồng đều giữa các 
địa phương và chủ yếu tập trung ở vùng nông 
thôn. Năm 2005, lao động từ 15 tuổi trở lên ở 
vùng nông thôn chiếm 74,5% và tỷ lệ này giảm 
xuống còn 68,7% vào năm 2015. Do ở vùng 
nông thôn hoạt động sản xuất nông nghiệp là 
chủ yếu với diện tích đất đai rộng lớn và cần 
lực lượng lớn lao động nên lực lượng lao động 
trong độ tuổi từ 15 tuổi trở lên chiếm tỷ lệ lớn 
và giảm xuống qua các năm do lực lượng lao 
động có xu hướng di chuyển từ nông thôn ra 
thành thị tìm việc làm mới. 
Bảng 2. Cơ cấu lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên phân theo giới tính và phân theo khu vực (%) 
Năm Nam Nữ Thành thị Nông thôn 
2005 52,3 47,7 25,5 74,5 
2006 53,2 46,8 26,5 73,5 
2007 50,8 49,2 26,3 73,7 
2008 51,3 48,7 27,3 72,7 
2009 52,0 48,0 26,9 73,1 
2010 51,4 48,6 28,0 72,0 
2011 51,5 48,5 29,7 70,3 
2012 51,4 48,6 30,3 69,7 
2013 51,4 48,6 30,1 69,9 
2014 51,3 48,7 30,7 69,3 
2015 51,6 48,4 31,3 68,7 
 (Nguồn: Tổng cục thống kê ) 
Việt Nam có nguồn lao động trẻ và dồi dào 
nhưng trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp. 
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Việt 
Nam đang rất thiếu lao động có trình độ tay 
nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao, ảnh hưởng 
đến năng suất và chất lượng lao động. Đây là 
một thực trạng rất đáng lo ngại. Theo số liệu 
Điều tra Lao động - Việc làm của Tổng cục 
Thống kê, tỷ lệ lao động qua đào tạo ở Việt 
Nam khá thấp và không có nhiều cải thiện. 
Nếu vào năm 2007, tỷ lệ qua đào tạo của lực 
lượng lao động từ 15 tuổi trở lên chỉ đạt 17,4% 
thì vào năm 2013, con số này cũng không cải 
thiện nhiều với tỷ lệ 18,4%. Sự chênh lệch về 
chất lượng nguồn lao động được thể hiện rõ 
nhất là ở khu vực nông thôn và thành thị. Ở 
thành thị lao động đã được đào tạo chiếm 
30,9%, trong khi ở nông thôn chỉ có 9%. Đây 
chính là một rào cản lớn cho việc cải thiện 
năng suất lao động. 
Hình 1. Số lượng lao động qua đào tạo có trình độ chuyên môn kỹ thuật 
(Quý 2, 3/2015) 
(Nguồn: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) 
Kinh tế & Chính sách 
 143TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 3-2017 
Theo nghiên cứu của tổ chức lao động thế 
giới (ILO) thực hiện vào năm 2013 thì Việt 
Nam có lợi thế lớn nhất là lực lượng lao động 
dồi dào và cơ cấu lao động trẻ. Chất lượng lao 
động từng bước được nâng lên; tỷ lệ lao động 
qua đào tạo tăng từ 30% lên 40% trong vòng 
10 năm trở lại đây, trong đó lao động qua đào 
tạo nghề đạt 30%. Tuy nhiên, do xuất phát 
điểm thấp, cơ cấu kinh tế chủ yếu vẫn là nông 
nghiệp nên tỷ lệ lao động tham gia vào thị 
trường lao động chính thức còn thấp, đạt 
khoảng 30%; khoảng 45% lao động trong lĩnh 
vực nông nghiệp hầu như chưa qua đào tạo. 
Trên thực tế, chất lượng nguồn nhân lực của 
Việt Nam còn thấp và có khoảng cách khá lớn 
so với các nước trong khu vực. Ngân hàng Thế 
giới đánh giá nếu lấy thang điểm là 10 thì chất 
lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 
điểm, xếp thứ 11/12 nước châu Á. Những hạn 
chế, yếu kém của nguồn nhân lực là một trong 
những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến năng 
lực cạnh tranh của nền kinh tế. 
Về yếu tố năng suất lao động của Việt Nam: 
Năng suất lao động là một trong những yếu tố 
quan trọng tác động tới năng lực cạnh tranh, 
đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh toàn cầu, 
phát triển của khoa học công nghệ và nền kinh 
tế tri thức hiện nay. Năng suất lao động của 
toàn xã hội năm 2014 theo giá thực tế ước đạt 
được 74,3 triệu đồng trên một lao động, tính 
theo giá so sánh năm 2010 là 50,84 triệu đồng. 
Số liệu cho thấy, từ năm 2006 đến nay, năng 
suất lao động hàng năm đều tăng so với năm 
trước, với tỷ lệ tăng bình quân khoảng 
3,5%/năm. Nhìn chung, năng suất lao động có 
xu hướng tăng dần một cách ổn định. 
Hình 2. Năng suất lao động theo giá thực tế (triệu đồng/người) 
(Nguồn: Báo cáo năng suất Việt Nam 2014, Viện Năng suất Việt Nam VNPI) 
Mặc dù có nhiều cải thiện đáng kể nhưng so 
với các nước trong khu vực thì năng suất lao 
động của Việt Nam vẫn còn khoảng cách khá 
xa. Theo nghiên cứu của Tổ chức Lao động 
quốc tế, năm 2007 năng suất lao động của Việt 
Nam đạt 4.322 USD/người, đến năm 2010 đạt 
4.896 USD/người và đến năm 2013 đạt 5.440 
USD/người, tăng 25,86% so với năm 2007 và 
tăng 11,11% so với năm 2010. Năm 2013 năng 
suất lao động của Singapore gấp 18 lần Việt 
Kinh tế & Chính sách 
 144 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 3-2017 
Nam, năng suất lao động của Nhật Bản gấp 12 
lần Việt Nam, Hàn Quốc gấp 10,7 lần và Thái 
Lan gấp 2,7 lần Việt Nam. Như vậy, có thể 
nhận thấy năng suất lao động của Việt Nam đã 
có sự cải thiện đáng kể, nhưng vì khoảng cách 
khá xa so với các nước phát triển nên Việt 
Nam cần có nhiều nỗ lực hơn nữa trong nâng 
cao năng suất lao động. 
Bảng 3. Năng suất lao động theo sức mua tương đương giá cố định 2005 
ĐVT: USD/người 
Quốc gia 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 
Singapore 92.260 90.987 88.751 97.151 98.755 96.573 98.072 
Nhật Bản 63.245 62.746 60.055 62.681 63.018 64.351 65.511 
Hàn Quốc 52.314 53.226 53.514 56.106 57.127 57.262 58.298 
Malaysia 31.907 32.868 31.899 33.344 34.056 35.018 35.751 
Trung Quốc 9.227 10.119 11.008 12.092 13.093 14.003 14.895 
Thái Lan 12.994 13.025 12.922 13.813 13.666 14.446 14.754 
Philipin 8.841 8.920 8.795 9.152 9.168 9.571 10.026 
Indonesia 7.952 8.235 8.439 8.763 9.130 9.486 9.848 
Ấn Độ 6.746 7.021 7.596 8.359 8.832 9.073 9.307 
Việt Nam 4.322 4.516 4.669 4.896 5.082 5.239 5.440 
Lào 4.029 4.216 4.399 4.636 4.865 5.115 5.396 
Camphuchia 3.333 3.427 3.334 3.460 3.619 3.797 3.989 
(Nguồn: ADB- ILO, ASEAN Commumity 2015 - Managing intergration for better jobs and shared prosperity) 
Chất lượng lao động Việt Nam không cao, 
đào tạo không đúng nhu cầu của doanh nghiệp, 
chủ yếu lao động thủ công. Điều này sẽ ảnh 
hưởng trực tiếp tới vấn đề thu hút đầu tư. 
Ngoài ra, lao động Việt Nam được cho là rất 
hạn chế về ngoại ngữ cùng các kỹ năng làm 
việc nhóm hiệu quả; nhân sự cao cấp so với 
các nước trong khu vực vẫn còn khoảng cách 
khá lớn và đang rất thiếu những nhà quản lý 
doanh nghiệp Việt tài giỏi đủ sức cạnh tranh tại 
các thị trường khu vực. Đội ngũ lao động được 
đào tạo nghề trong những năm qua phần lớn 
chỉ được chú trọng vào đào tạo chuyên môn 
cứng, hạn chế khả năng làm việc độc lập trong 
khu vực kinh tế hội nhập mà đang cần các kỹ 
năng toàn diện hơn. Theo kết quả khảo sát 
nghiên cứu vào năm 2014 giữa Viện Khoa học 
Lao động và Xã hội với Tập đoàn Manpower 
tại 6.000 doanh nghiệp thuộc chín lĩnh vực 
kinh tế tại 9 tỉnh thành ở Việt Nam cho thấy, 
có đến một phần tư doanh nghiệp tham gia 
khảo sát cho rằng lao động thiếu hiểu biết về 
công nghệ và khả năng sáng tạo, 1/5 nhận xét 
lao động thiếu khả năng thích nghi với công 
nghệ mới, 1/3 doanh nghiệp không tìm được 
lao động có kỹ năng mà họ cần. Những hạn 
chế, những yếu kém của nguồn nhân lực là một 
trong những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến 
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế (năm 2011 
Việt Nam xếp thứ 65/141 nước xếp hạng, 
nhưng đến năm 2014 xếp thứ 70/148 nước xếp 
hạng). 
3.3. Những vấn đề đặt ra đối với lực lượng 
lao động Việt Nam trước yêu cầu hội nhập 
của AEC 
Việc Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) 
được thành lập được kỳ vọng sẽ tác động tích 
cực đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và tạo 
nhiều cơ hội việc làm cho người lao động nói 
riêng. Theo nghiên cứu của ILO và ADB với 
đề tài “Cộng đồng ASEAN 2015: Quản lý hội 
nhập hướng tới việc làm tốt hơn và thịnh 
vượng chung” được công bố tại Hà Nội tháng 
9/2014 cho thấy trên quy mô tổng thể, hội nhập 
kinh tế sẽ giúp tạo thêm 14 triệu việc làm ở 
khu vực ASEAN và cải thiện đời sống của 600 
Kinh tế & Chính sách 
 145TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 3-2017 
triệu người dân hiện sinh sống trong khu vực 
nhưng điều này chỉ có thể đạt được nếu có 
được sự quản lý hợp lý và quyết liệt để thực thi 
một cách hiệu quả. 
Cộng đồng kinh tế ASEAN tạo ra tiềm năng 
lớn để các nước có thể chuyển dịch cơ cấu kinh 
tế từ các ngành có năng suất lao động thấp 
sang các ngành có năng suất lao động cao. Với 
lợi thế lực lượng lao động có trình độ giáo dục 
và kỹ năng làm việc, Việt Nam có thể là một 
trong những quốc gia được hưởng lợi nhiều từ 
quá trình này. AEC sẽ cho phép các lao động 
có tay nghề cao, dịch vụ, đầu tư và hàng hóa 
của 10 quốc gia thành viên của ASEAN được 
di chuyển tự do hơn trong khu vực và lao 
động Việt Nam có cơ hội làm việc tại các thị 
trường năng động của khu vực như Singapore, 
Thái Lan. 
AEC giúp lao động Việt Nam có cơ hội tìm 
kiếm nhiều việc làm hơn với mức lương cao 
hơn ở các nước trong khu vực khi mà vấn đề tự 
do hóa lao động và tự do hóa ở một số ngành 
nghề đã được AEC đề cập. Các nước 
Singapore, Malaysia và Thái Lan được cho là 
đang bước vào giai đoạn phát triển cao hơn, 
nhu cầu về lao động kỹ năng cao đang tăng 
trong khi nguồn cung lại chưa được đáp ứng. 
Đây là một yếu tố tốt đối với lao động ở các 
nước phát triển kém hơn, có thu nhập kém hơn 
như Việt Nam. 
Biểu đồ 1. Thay đổi các chỉ tiêu kinh tế và thị trường việc làm ở Việt Nam khi hội nhập AEC, 
so với bối cảnh không hội nhập, năm 2025 (%) 
Nguồn: Nghiên cứu của ILO và ADB với chủ đề “Cộng đồng ASEAN 2015: Quản lý hội nhập hướng tới 
việc làm tốt hơn và thịnh vượng chung” được công bố tại Hà Nội vào 4/9/2014 
Theo Nghiên cứu về tác động của Cộng 
đồng Kinh tế ASEAN (AEC) đối với thị 
trường lao động Việt Nam của Tổ chức lao 
động quốc tế (ILO), ADB và Ban Thư ký 
ASEAN, đến năm 2025, AEC sẽ hỗ trợ thúc 
đẩy tăng trưởng GDP của Việt Nam thêm 
14,5% và tăng trưởng việc làm thêm 10,5%, 
hàng triệu việc làm mới trong các lĩnh vực xây 
dựng, giao thông vận tải, dệt may và chế biến 
thực phẩm cho người lao động Việt 
Kinh tế & Chính sách 
 146 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 3-2017 
Nam.AEC sẽ thực hiện tự do luân chuyển năm 
yếu tố căn bản: vốn, hàng hóa, dịch vụ, đầu tư 
và lao động lành nghề. Sự tự do này vừa là cơ 
hội song cũng là thách thức không nhỏ khi một 
lượng lớn lao động từ các nước AEC vào Việt 
Nam, tạo nên cuộc cạnh tranh với lao động 
trong nước. Ngoài ra, khi tham gia AEC, bên 
cạnh việc có kỹ năng nghề nghiệp giỏi, người 
lao động còn cần có ngoại ngữ và các kỹ năng 
mềm khác để có cơ hội tham gia làm việc tại 
các quốc gia của AEC. Đây cũng là thách thức 
không nhỏ đối với lao động Việt Nam. 
Cùng với nhu cầu ngày càng cao của các 
doanh nghiệp trong đổi mới dây chuyền công 
nghệ, thiết bị sản xuất cũng như trình độ quản 
trị, họ sẽ có nhu cầu sử dụng nguồn lao động 
chất lượng cao ngày càng nhiều. Trong khi 
phân khúc lao động chất lượng cao của Việt 
Nam đang bộc lộ nhiều điểm yếu, tính cạnh 
tranh không cao, thì ngược lại đây đang là 
điểm mạnh của nhiều thị trường trong khu vực, 
do lao động của họ có tay nghề, ý thức kỷ luật 
lao động cao, trình độ ngoại ngữ tốt. Điều này 
đồng nghĩa với việc, nếu không sớm có giải 
pháp nâng cao chất lượng thì nguy cơ thị 
trường lao động Việt Nam khó có khả cạnh 
tranh ngay ở trong nước, nhất là ở phân khúc 
thị trường lao động chất lượng cao. 
Ngoài ra, do xuất phát điểm thấp, cơ cấu 
kinh tế chủ yếu vẫn là nông nghiệp nên tỷ lệ 
lao động tham gia vào thị trường lao động 
chính thức còn thấp, đạt khoảng 30%. Chất 
lượng và cơ cấu lao động vẫn còn nhiều bất 
cập so với yêu cầu phát triển và hội nhập. Trên 
50% lao động không có trình độ chuyên môn 
kỹ thuật, chất lượng nguồn nhân lực nước ta 
còn thấp nên khó có thể đảm nhận những công 
việc có trình độ chuyên môn và trình đô ngoại 
ngữ mà các nước yêu cầu. Trên thực tế, chất 
lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn thấp 
và có khoảng cách khá lớn so với các nước 
trong khu vực. Ngân hàng Thế giới đánh giá 
nếu lấy thang điểm là 10 thì chất lượng nhân 
lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm, xếp thứ 
11/12 nước châu Á. Những hạn chế, yếu kém 
của nguồn nhân lực là một trong những nhân tố 
chủ yếu ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh 
của nền kinh tế. 
IV. KẾT LUẬN 
Khi AEC được thành lập sẽ đặt ra nhiều vấn 
đề đối với lực lượng lao động Việt Nam. Do 
đó, để tận dụng những cơ hội có được từ AEC 
và nâng cao năng suất lao động của Việt Nam 
nhằm đáp ứng được những yêu cầu đặt ra từ 
AEC, một số đề xuất khuyến nghị như sau: 
Việt Nam cần dành sự đầu tư lớn hơn để 
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, vì đây là 
yếu tố then chốt đưa Việt Nam vượt khỏi 
ngưỡng nước có thu nhập trung bình trong 
những năm tới. Đầu tư mạnh mẽ cho phát triển 
lực lượng lao động có kỹ năng thông qua nâng 
cao chất lượng đào tạo nghề, cùng với cơ chế, 
chính sách sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực. 
Nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của dạy 
nghề trong chiến lược phát triển nhân lực của 
đất nước, hoàn thiện cơ chế, chính sách về dạy 
nghề, học nghề; Đổi mới cơ cấu hệ thống dạy 
nghề trên cơ sở khung trình độ quốc gia, tiêu 
chuẩn kỹ năng nghề phù hợp với đất nước, xu 
thế các nước trong khu vực và trên thế giới; 
gắn kết giữa dạy nghề với thị trường lao động 
và sự tham gia của doanh nghiệp, phát triển hệ 
thống thông tin thị trường lao động. 
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về đào tạo, nhất 
là với những nước thành công trong phát triển 
đào tạo ở khu vực ASEAN và trên thế giới. 
Tích cực vận động, thu hút nguồn viện trợ phát 
triển chính thức ODA cho đào tạo. Hợp tác với 
các nước ASEAN để tiến tới công nhận kỹ 
năng nghề giữa các nước, hướng tới Cộng 
đồng ASEAN vào năm 2015, tích cực tham gia 
vào các hoạt động của khu vực và thế giới để 
giao lưu và học hỏi kinh nghiệm, như tham gia 
Hội thi tay nghề ASEAN, Hội thi tay nghề thế 
giới 
Đối với người lao động cần thay đổi tư duy 
Kinh tế & Chính sách 
 147TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 3-2017 
và tầm nhìn trong quá trình chọn nghề và tham 
gia các chương trình đào tạo theo hướng đủ 
khả năng tham gia các thị trường lao động khu 
vực và quốc tế, chứ không dừng lại ở thị 
trường Việt Nam. Điều này trước hết là sẽ 
mang lại lợi ích lớn cho người lao động, vì với 
trình độ và năng lực cao, họ có nhiều cơ hội 
lựa chọn cơ hội việc làm với mức lương cao 
hơn, đồng thời góp phần dần cải thiện chất 
lượng cạnh tranh cho phân khúc lao động chất 
lượng cao. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. ADB &ILO (2014). ASEAN Community 2015: 
Managing integration for better jobs and shared 
prosperity. 
2. Viện năng suất Việt Nam VNPI (2014). Báo cáo 
năng suất lao động Việt Nam năm 2014. 
3. Nguyễn Tiến Dũng (2015). Lao động Việt Nam 
trước nguy cơ thất nghiệp khi tham gia TPP - 
viet-nam-truoc-nguy-co-that-nghiep-khi-tham-gia-tpp-
3308840.html 
4. Nguyễn Bá Ngọc, Phạm Minh Thu (2014). Năng 
suất lao động ở Việt Nam nhìn từ góc độ cơ cấu lao 
động và kỹ năng. Viện Khoa học Lao động và xã hội. 
5. Bùi Thị Minh Tiệp (2015). Nguồn nhân lực của 
các nước ASEAN và những tham chiếu cho Việt Nam 
trước thềm hội nhập AEC. Tạp chí Kinh tế & phát triển 
số tháng 2/2015. 
VIET NAM’S LABOR BEFORE THE REQUIREMENT 
OF ASEAN ECONOMICS COMMUNITY 
Tran Van Hung 
Vietnam National University of Forestry – Southern Campus 
SUMMARY 
Asean Economics Community has been establiched. They will be open many opportunities for industries which 
are developed. Among them, there many opportunities for VietNam’s labor who can fine jobs. Base on 
secondary datas which were collected from organs, the article deal with Asean Economics Community when 
they were establiched and content of the mutual recognition of the profession in the region. The article based on 
the identification, assessment on the status of labor resources of Vietnam showed that previous AEC integration 
requirements: Vietnam workforce plentiful but uneven distribution, qualifications and labor productivity 
remains low compared with other countries in the region. Since then, the article proposes some 
recommendations contribute to improving employment opportunities and the ability to meet the requirements 
of the labor integration of Vietnam. 
Keywords: Asean Economics Community, economic integration, labor requirements, Viet Nam. 
Ngày nhận bài : 12/6/2016 
Ngày phản biện : 20/12/2016 
Ngày quyết định đăng : 10/01/2017 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
lao_dong_viet_nam_truoc_yeu_cau_hoi_nhap_cong_dong_kinh_te_a.pdf