Liên quan giữa nồng độ testosteron huyết tương với thời gian mắc bệnh, glucose máu và hba1c ở bệnh nhân nam đái tháo đường típ 2

Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá tương quan giữa nồng độ glucose máu và HbA1c với nồng độ testosteron huyết tương. Kết quả cho thấy Có tương quan nghịch, mức độ yếu giữa nồng độ testosteron với nồng độ HbA1c, r = - 0,235, p < 0,05. Chưa thấy tương quan có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ testosteron huyết tương với glucose máu lúc đói. Các tác giả khác cũng cho thấy có liên quan giữa testosteron huyết tương với glucose máu và HbA1c. Grosman nhận định có tương quan nghịch giữa nồng độ testosteron huyết tương với nồng độ glucose máu (r = -0,11; p = 0,005) khi nghiên cứu rối loạn chuyển hóa ở nam trưởng thành [8]. Nghiên cứu nguy cơ bệnh tim mạch trên 50 nam giới của Simon và cs cho thấy nhóm nam giới có giảm testosteron huyết tương có nồng độ glucose máu lúc đói và glucose máu sau ăn 2 giờ cao hơn nhóm có testosteron bình thường (p < 0,04 và p < 0,02 tương ứng) [11]. Ayman A và cs cũng kết luận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,009) về nồng độ testosteron, tỉ lệ bệnh nhân giảm testosteron giữa nhóm có mức HbA1c tốt/chấp nhận được so với nhóm có chỉ số này ở mức kém khi nghiên cứu 1089 bệnh nhân nam ĐTĐ týp 2 [5]. Một nghiên cứu khác trên 255 bệnh nhân nam ĐTĐ týp 2 của Fukui M và cs cũng cho kết quả có tương quan nghịch giữa testosteron huyết tương với HbA1c (r = -0,278, p < 0,0001) [6]. Như vậy, nồng độ testosteron huyết tương có liên quan với mức độ kiểm soát glucose máu và HbA1c. Nghiên cứu của chúng tôi thấy có tương quan giữa nồng độ testosteron với HbA1c mà chưa thấy liên quan giữa mức độ kiểm soát nồng độ glucose máu với testosteron, có thể do xét nghiệm glucose máu tại một thời điểm phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chế độ ăn ngày hôm trước, đồng thời glucose máu cũng chưa phản ánh chính xác và ổn định thực trạng kiểm soát bệnh trong thời gian dài bằng HbA1c. Tuy nhiên, kiểm soát tốt ĐTĐ vẫn là mục tiêu hàng đầu trong điều trị bệnh, giúp ngăn chặn các biến chứng mạn tính trong đó có suy sinh dục. Ngược lại, testosteron cũng tác động lên việc cải thiện nồng độ HbA1c ở bệnh nhân ĐTĐ. Boyanov nghiên cứu hiệu quả của liệu pháp testosteron trong 3 tháng trên 48 bệnh nhân nam ĐTĐ týp 2, kết quả cho thấy HbA1c giảm 1,8% (p < 0,05). Nghiên cứu khác của tác giả Kapoor cũng nhận định bổ sung testosteron cho bệnh nhân nam ĐTĐ týp 2 giúp HbA1c giảm được 0,4% (p = 0,03) [9].

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Liên quan giữa nồng độ testosteron huyết tương với thời gian mắc bệnh, glucose máu và hba1c ở bệnh nhân nam đái tháo đường típ 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiên cứu khoa học Tạp chí nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX272 I. đẶT VẤN đỀ Tình trạng giảm nồng độ các hormon sinh dục mà đại diện và chủ yếu ở nam giới là giảm testosteron được chứng minh là tương đối thường gặp ở các bệnh nhân mắc bệnh mạn tính. Trên đối tượng nam đái tháo đường (ĐTĐ) týp 2, giảm testosteron được giải thích bởi sự phối hợp nhiều cơ chế bệnh sinh. Sự giảm nồng độ testosteron dẫn đến nhiều hậu quả như suy sinh dục hay làm trầm trọng các biểu hiện của bệnh đái tháo đường. Ngược lại, các đặc trưng trên đối tượng nam đái tháo đường như thời gian mắc bệnh hay mức độ kiểm soát bệnh cũng ảnh hưởng đến nồng độ testosteron. Đã có nhiều nghiên cứu đơn lẻ về nồng độ testosteron trên đối tượng nam đái tháo đường, tuy nhiên mối liên quan với các đặc trưng trên của bệnh thì chưa rõ. Do vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này với mục tiêu: Tìm hiểu mối liên quan của nồng độ testosteron với thời gian mắc bệnh, glucose và HbA1c ở bệnh nhân nam đái tháo đường týp 2. II. đỐI TƯỢNG Và PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. đối tượng nghiên cứu Gồm 127 nam giới, chia làm hai nhóm: Nhóm bệnh (gồm 90 bệnh nhân nam ĐTĐ týp 2 điều trị tại Khoa Khớp - Nội tiết Bệnh viện Quân Y 103 từ tháng 5 năm 2014 đến tháng 5 năm 2015). Nhóm chứng (gồm 37 nam giới bình thường đến khám sức khỏe định kỳ tại Bệnh viện 103). - Tiêu chuẩn chọn nhóm bệnh: Các bệnh nhân ĐTĐ týp 2 đồng ý tham gia nghiên cứu. ĐTĐ được chẩn đoán theo tiêu chuẩn của Hiệp hội Đái tháo đường Mỹ 1997 và WHO công nhận 1998. Chẩn đoán týp 2 dựa vào một số tiêu chuẩn của WHO (1985) có vận dụng cho phù hợp với điều kiện Việt Nam. - Tiêu chuẩn chọn nhóm chứng: Các nam giới bình thường, có độ tuổi tương đương nhóm bệnh. - Tiêu chuẩn loại trừ: LIÊN QUAN GIỮA NỒNG đỘ TesTOsTeRON HUYẾT TƯƠNG VỚI THỜI GIAN MẮC BỆNH, GLUCOse MÁU Và HbA1c Ở BỆNH NHÂN NAM đÁI THÁO đƯỜNG TÝP 2 Nguyễn Thị Phi Nga*, Hồ Thị Lê**, Phạm Cao Kỳ* *Bệnh viện Quân Y 103, ** Học viện Quân Y TÓM TẮT Mục tiêu: Tìm hiểu mối liên quan của nồng độ testosteron với thời gian mắc bệnh, glucose máu lúc đói và HbA1c ở bệnh nhân nam đái tháo đường týp 2. Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu, mô tả cắt ngang trên 90 bệnh nhân nam ĐTĐ týp 2 và 37 nam giới bình thường. Kết quả: Có liên quan giữa nồng độ testosteron với thời gian mắc bệnh đái tháo đường. Có tương quan nghịch giữa nồng độ testosteron bệnh nhân nam ĐTĐ týp 2 với HbA1c (r = -0,235, p < 0,05). Chưa thấy tương quan có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ testosteron huyết tương với glucose máu lúc đói. Từ khóa: Đái tháo đường týp 2, nồng độ testosteron huyết tương. nghiên cứu khoa học Tạp chí Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 273 Nhóm nghiên cứu: + Mắc các rối loạn về chức năng sinh dục (không do ĐTĐ). + Bệnh nhân đang dùng các thuốc ảnh hưởng đến nồng độ testosteron. + Bệnh nhân mắc các bệnh mạn tính: suy thận mạn (không do ĐTĐ), suy gan mạn, bệnh đa u tủy xương, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, hội chứng kém hấp thu. + Bệnh nhân không thu thập đủ số liệu hoặc không đồng ý tham gia nghiên cứu. Nhóm chứng: Các trường hợp dùng thuốc ảnh hưởng đến nồng độ testosteron hoặc không đồng ý tham gia nghiên cứu. 2. Phương pháp nghiên cứu 2.1. Thiết kế nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang, có so sánh giữa nhóm nghiên cứu và nhóm chứng. 2.2. Các biến số dùng trong nghiên cứu 2.2.1. Tuổi: Tuổi bệnh nhân là tuổi tại thời điểm nhập viện. 2.2.2. Thời gian mắc bệnh (TGMB) đái tháo đường: Đơn vị tính bằng năm, chia thành 2 nhóm: < 5 năm, ≥ 5 năm. 2.2.3. Tiêu chuẩn đánh giá mức độ kiểm soát glucose máu: Đánh giá theo mục tiêu kiểm soát glucose máu lúc đói theo WHO (2002), dựa vào chỉ số glucose máu lúc đói và HbA1c. Bảng 2.2. Tiêu chuẩn đánh giá kiểm soát glucose máu, HbA1c Chỉ tiêu Tốt Chấp nhận được Kém Glucose máu lúc đói (mmol/l) 4,4 - 6,1 6,1 - ≤ 7,0 > 7,0 HbA1c (%) 7,5 2.2.4. Nồng độ testosteron toàn phần huyết tương - Phương pháp định lượng: Sử dụng nguyên lý miễn dịch men định lượng vi chất (Microparticle enzym immuno assay - MEIA) trên hệ thống máy xét nghiệm sinh hóa miễn dịch tự động Architect CI16000 (Abbott) tại Khoa Sinh hóa Bệnh viện 103. - Tiêu chuẩn bất thường nồng độ testosteron (T) Được đánh giá là bệnh lý khi nồng độ testosteron huyết tương của nhóm bệnh lớn hơn (tăng) hoặc nhỏ hơn (giảm) so với nồng độ testosteron trung bình huyết tương của nhóm chứng cộng hoặc trừ 1 lần độ lệch chuẩn (tăng: testosteron > + SD, giảm: testosteron < – SD). 2.3. Xử lý số liệu Số liệu nghiên cứu được xử lý theo phương pháp thống kê y học bằng phần mềm SPSS 16.0 và Microsoft Excel 2007. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Và BàN LUẬN 1. đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu Bảng 1. Đặc điểm tuổi và nồng độ testosteron huyết tương nhóm nghiên cứu Chỉ tiêu Nhóm đTđ (n = 90) Nhóm chứng (n = 37) p Tuổi trung bình (năm) 62,19 ± 10,29 58,38 ± 11,15 > 0,05 Testosteron (ng/ml) Trung bình 4,54 ± 1,99 5,53 ± 2,35 < 0,05 Cao nhất 10,09 11,68 Thấp nhất 0,13 1,19 Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuổi trung bình của bệnh nhân là 62,19 ± 10,29. Kết quả này cũng tương tự với tuổi trung bình ở bệnh nhân ĐTĐ trong nghiên cứu của các tác giả Lê Thanh Toàn (61,1 ± 19,9) [3] và Ngô Thị Thu Trang (62,8 ± 11,2) [4]. Có thể nhận thấy các nghiên cứu đều kết luận tuổi mắc nghiên cứu khoa học Tạp chí nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX274 bệnh tương đối cao. Điều này phù hợp với đặc điểm bệnh ĐTĐ týp 2, khi tuổi cao là yếu tố nguy cơ của bệnh. Nồng độ testosteron huyết tương ở nhóm bệnh nhân ĐTĐ týp 2 trong nghiên cứu này là 4,54 ± 1,99 ng/ml, giảm so với nhóm chứng (5,53 ± 2,35 ng/ml) có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Một số cơ chế được chứng minh cho sự giảm nồng độ testosteron ở bệnh nhân ĐTĐ gồm có suy giảm tuyến sinh dục (do giảm lưu lượng máu nuôi dưỡng, rối loạn hoạt động thần kinh chi phối, căng thẳng kéo dài do bệnh mạn tính) dẫn đến giảm hoạt động của các nhóm tế bào của tinh hoàn, trong đó có tế bào Legdig, làm giảm sản sinh testosteron. Đồng thời, sự tăng đường máu còn gây giảm kích thích tiết LH, dẫn đến giảm tổng hợp testosteron của tế bào Leydig. Ngoài ra, còn do sự giảm tổng hợp và tăng tiêu hủy Lipid trong khi testosteron là một steroid hormon, được tổng hợp phần lớn từ cholesterol. Ở bệnh nhân ĐTĐ, quá trình tổng hợp và tiêu hủy lipid bị rối loạn dẫn đến giảm tổng hợp testosteron. Như vậy, ở bệnh nhân ĐTĐ, hàm lượng testosteron huyết tương sẽ giảm thấp và cả globulin gắn hormon sinh dục cũng giảm thấp. Nhiều tác giả nghiên cứu nồng độ testosteron trên bệnh nhân nam đái tháo đường cũng cho kết quả tương tự. Như nghiên cứu tiến hành trên 1089 bệnh nhân nam ĐTĐ týp 2 điều trị tại Trung tâm ĐTĐ ở Amman, Jordan của tác giả Ayman A AI Hayek và cộng sự (2009) rút ra kết luận rằng 36,5% bệnh nhân có giảm testosteron huyết tương, 29% có biểu hiện của hội chứng suy sinh dục nam [5]. Nghiên cứu của Nguyễn Văn Quýnh và cs (2007) ghi nhận nồng độ testosteron huyết tương ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2 giảm so với nhóm chứng (9,7 ± 3,74 ng/ml so với 10,4 ± 3,42 ng/ml) [2]. Một nghiên cứu tại Bệnh viện Y Dược Huế của Nguyễn Thị Bạch Oanh và cộng sự (2011) kết luận rằng nồng độ testosteron trung bình của nhóm bệnh nhân ĐTĐ týp 2 (4,5 ± 1,59 ng/ml) giảm so với nhóm chứng (5,27 ± 1,59 ng/ml) có ý nghĩa thống kê với p < 0,05 [1]. Có thể thấy rằng kết quả này cùng với các nghiên cứu kể trên đều cho thấy sự giảm nồng độ testosteron huyết tương ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2. Testosteron còn được coi là một chỉ dấu để tiên lượng bệnh nhân ĐTĐ týp 2. Bảng 2. Đặc điểm thời gian mắc bệnh, mức độ kiểm soát glucose máu, HbA1c Chỉ tiêu số lượng Tỉ lệ (%) Thời gian mắc bệnh (năm) < 5 năm 52 57,8 ≥ 5 năm 38 42,2 Trung bình 4,9 ± 4,5 Kiếm soát glucose máu lúc đói (mmol/l) Tốt/Chấp nhận được (≤ 7) 17 18,9 Kém (> 7) 73 81,1 Trung bình 11,77 ± 5,81 Kiểm soát HbA1c (%) Tốt (< 6,5) 14 15,6 Chấp nhận được (6,5 - 7,5) 12 13,3 Kém (> 7,5) 64 71,1 Trung bình 9,05 ± 2,26 Thời gian mắc bệnh trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 4,9 ± 4,5 năm, phần lớn bệnh nhân mắc bệnh trong vòng 5 năm. Kết quả này cũng tương tự với nhận định của các tác giả Lingxu và cs (5,17 ± 3,5 năm) [10], Ngô Thị Thu Trang (5,3 ± 4,3 năm; 52,7% bệnh nhân mắc bệnh < 5 năm). Trong các tiêu chí đánh giá kiểm soát ĐTĐ theo Hội Nội tiết đái tháo đường Việt Nam 2009, chúng tôi chọn 2 chỉ tiêu là glucose máu và HbA1c. Đa số các nghiên cứu trong và ngoài nước đều kết luận việc nghiên cứu khoa học Tạp chí Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 275 kiểm soát các chỉ tiêu này ở đối tượng bệnh nhân nhập viện còn kém. Tại Hoa Kỳ có 64% BN ĐTĐ có HbA1c > 7,5; còn con số này ở châu Á là 79%. Tác giả Lê Thanh Toàn kết luận 20,5% số bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có mức glucose máu tốt/chấp nhận được và 79,5% kém [3], trong khi nghiên cứu của Ngô Thị Thu Trang cho thấy tỉ lệ BN có mức glucose máu lúc đói tốt/chấp nhận được chiếm 20%, thấp hơn so với nhóm kiểm soát kém (80%), tỉ lệ nhóm có mức HbA1c kiểm soát kém là 70%, nồng độ glucose máu trung bình là 12,15 ± 6,17 mmol/l, nồng độ HbA1c trung bình là 9,69 ± 2,80% [4]. Nghiên cứu của chúng tôi cũng có kết quả tương tự, với các nồng độ glucose máu và HbA1c trung bình lần lượt là 11,77 ± 5,81 mmol/l và 9,05 ± 2,26 (%) với 18,9% bệnh nhân kiểm soát tốt/ chấp nhận được chỉ tiêu glucose máu lúc đói trong khi 81,1% số bệnh nhân kiểm soát kém. Ngoài ra, tỉ lệ bệnh nhân có mức HbA1c kiểm soát kém là 71,1%. Như vậy, các nghiên cứu đều cho thấy việc kiểm soát bệnh ở phần lớn bệnh nhân còn kém. Điều này có thể do hiểu biết về bệnh, việc tuân thủ điều trị và theo dõi của bệnh nhân còn hạn chế. Đây cũng là một nguyên nhân chủ yếu đòi hỏi bệnh nhân đi khám và nhập viện. 2. Liên quan giữa nồng độ testosteron huyết tương với thời gian mắc bệnh và mức độ kiểm soát bệnh ở bệnh nhân nam đái tháo đường týp 2 Bảng 3. Liên quan giữa nồng độ testosteron với thời gian mắc ĐTĐ Chỉ tiêu Thời gian mắc đTđ (năm) p < 5 (n = 52) ≥ 5 (n = 38) Nồng độ testosteron (ng/ml) 4,96 ± 1,92 3,96 ± 1,97 < 0,05 Giảm testosteron [n (%)] 8 (15,4) 13 (34,2) < 0,05 Thời gian mắc ĐTĐ được coi là một trong những yếu tố thúc đẩy sự xuất hiện và mức độ trầm trọng của các biến chứng. Kết quả của chúng tôi cho thấy có liên quan giữa nồng độ testosteron huyết tương với thời gian mắc bệnh. Cụ thể, nhóm bệnh nhân có thời gian mắc bệnh ≥ 5 năm có nồng độ testosteron giảm thấp và tỉ lệ giảm testosteron cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm có thời gian này < 5 năm (3,96 ± 1,97 ng/ml so với 4,96 ± 1,92 ng/ml; và 34,2% so với 15,4%; p < 0,05). Nghiên cứu của Ayman A.và cs trên 1089 nam ĐTĐ týp 2 tại trung tâm điều trị ĐTĐ Amma, Jordan trong 1 năm cũng cho nhận định tương tự khi thấy nồng độ testosteron thấp hơn và tỉ lệ giảm testosteron cao hơn ở nhóm có thời gian ĐTĐ ≥ 10 năm so với nhóm có thời gian mắc bệnh < 10 năm, có ý nghĩa thống kê (p = 0,005) [5]. Tuy nhiên, tác giả Ganesh HK khi nghiên cứu trên 100 nam ĐTĐ týp 2 tại Ấn Độ lại kết luận tình trạng suy sinh dục không có liên quan với thời gian mắc bệnh [7]. Thời gian mắc ĐTĐ càng dài, tác động của tình trạng glucose máu cao càng nhiều lên chức năng tuyến sinh dục, cũng như giải phẫu mạch máu, thần kinh chi phối hoạt động tuyến sinh dục dẫn đến giảm sản xuất testosteron. Tuy nhiên, nếu kiểm soát tốt bệnh, có thể khống chế được sự xuất hiện các biến chứng cũng như sự suy giảm chức năng sinh dục theo thời gian. Bảng 4. Phương trình tương quan giữa nồng độ testosteron huyết tương với glucose máu lúc đói và HbA1c Chỉ tiêu Phương trình r p Glucose máu lúc đói (mmol/l) T = -0,035 * Glucose + 4,951 -0,102 > 0,05 HbA1c (%) T = -0,207 * HbA1c + 6,415 -0,235 < 0,05 nghiên cứu khoa học Tạp chí nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX276 Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá tương quan giữa nồng độ glucose máu và HbA1c với nồng độ testosteron huyết tương. Kết quả cho thấy Có tương quan nghịch, mức độ yếu giữa nồng độ testosteron với nồng độ HbA1c, r = - 0,235, p < 0,05. Chưa thấy tương quan có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ testosteron huyết tương với glucose máu lúc đói. Các tác giả khác cũng cho thấy có liên quan giữa testosteron huyết tương với glucose máu và HbA1c. Grosman nhận định có tương quan nghịch giữa nồng độ testosteron huyết tương với nồng độ glucose máu (r = -0,11; p = 0,005) khi nghiên cứu rối loạn chuyển hóa ở nam trưởng thành [8]. Nghiên cứu nguy cơ bệnh tim mạch trên 50 nam giới của Simon và cs cho thấy nhóm nam giới có giảm testosteron huyết tương có nồng độ glucose máu lúc đói và glucose máu sau ăn 2 giờ cao hơn nhóm có testosteron bình thường (p < 0,04 và p < 0,02 tương ứng) [11]. Ayman A và cs cũng kết luận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,009) về nồng độ testosteron, tỉ lệ bệnh nhân giảm testosteron giữa nhóm có mức HbA1c tốt/chấp nhận được so với nhóm có chỉ số này ở mức kém khi nghiên cứu 1089 bệnh nhân nam ĐTĐ týp 2 [5]. Một nghiên cứu khác trên 255 bệnh nhân nam ĐTĐ týp 2 của Fukui M và cs cũng cho kết quả có tương quan nghịch giữa testosteron huyết tương với HbA1c (r = -0,278, p < 0,0001) [6]. Như vậy, nồng độ testosteron huyết tương có liên quan với mức độ kiểm soát glucose máu và HbA1c. Nghiên cứu của chúng tôi thấy có tương quan giữa nồng độ testosteron với HbA1c mà chưa thấy liên quan giữa mức độ kiểm soát nồng độ glucose máu với testosteron, có thể do xét nghiệm glucose máu tại một thời điểm phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chế độ ăn ngày hôm trước, đồng thời glucose máu cũng chưa phản ánh chính xác và ổn định thực trạng kiểm soát bệnh trong thời gian dài bằng HbA1c. Tuy nhiên, kiểm soát tốt ĐTĐ vẫn là mục tiêu hàng đầu trong điều trị bệnh, giúp ngăn chặn các biến chứng mạn tính trong đó có suy sinh dục. Ngược lại, testosteron cũng tác động lên việc cải thiện nồng độ HbA1c ở bệnh nhân ĐTĐ. Boyanov nghiên cứu hiệu quả của liệu pháp testosteron trong 3 tháng trên 48 bệnh nhân nam ĐTĐ týp 2, kết quả cho thấy HbA1c giảm 1,8% (p < 0,05). Nghiên cứu khác của tác giả Kapoor cũng nhận định bổ sung testosteron cho bệnh nhân nam ĐTĐ týp 2 giúp HbA1c giảm được 0,4% (p = 0,03) [9]. IV. KẾT LUẬN Nhóm bệnh nhân nam ĐTĐ týp 2 có thời gian mắc bệnh ≥ 5 năm có nồng độ testosteron thấp hơn và tỉ lệ giảm testosteron cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm mắc bệnh < 5 năm (3,96 ± 1,97 ng/ml so với 4,96 ± 1,92 ng/ml và 34,2% so với 15,4%; p < 0,05). Có tương quan nghịch giữa nồng độ testosteron bệnh nhân nam ĐTĐ týp 2 với HbA1c (r = -0,235, p < 0,05). Chưa thấy tương quan có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ testosteron huyết tương với glucose máu lúc đói. Biểu đồ 1. Tương quan giữa nồng độ testosteron với nồng độ HbA1c nghiên cứu khoa học Tạp chí Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 277 1. Nguyễn Thị Bạch Oanh, Nguyễn Hải Thủy, Nguyễn Cửu Lợi (2012), “Nồng độ Testosterone ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2”, Tạp chí Nội tiết – Đái tháo đường. 6/2012 (Kỷ yếu toàn văn các đề tài khoa học – Hội nghị Nội tiết và Đái tháo đường Toàn quốc lần thứ IV), pp. 317 – 324. 2. Nguyễn Văn Quýnh, Trần Đình Thắng, Nguyễn Xuân Hiệp (2007), “Nghiên cứu nồng độ Testosteron ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2”, Báo cáo toàn văn các đề tài khoa học: Hội nghị khoa học toàn quốc chuyên ngành nội tiết và chuyển hóa lần thứ 3. 3. Lê Thanh Toàn (2011), Nghiên cứu mật độ xương, tỷ lệ loãng xương ở bệnh nhân đái tháo đường điều trị tại bệnh viện Chợ Rẫy bằng phương pháp DEXA, Học viện Quân Y. 4. Ngô Thị Thu Trang (2013), Nghiên cứu mật độ xương, tỉ lệ loãng xương ở bệnh nhân nữ, đái tháo đường týp 2, Học viện Quân y. 5. Al Hayek A., Y. S. Khader, S. Jafal et al. (2013), “Prevalence of low testosterone levels in men with type 2 diabetes mellitus: a cross-sectional study”, J Family Community Med. 20(3), pp. 179-86. 6. Fukui M., M Tanaka, G Hasegawa et al. (2008), “Association between serum bioavailable testosterone concentration and the ratio of glycated albumin to glycated hemoglobin in men with type 2 diabetes”, Diabetes Care. 31(3), pp. 397-401. 7. Ganesh H K., H. A. Vijaya Sarathi, J. George et al. (2009), “Prevalence of hypogonadism in patients with type 2 diabetes mellitus in an Asian Indian study group”, Endocr Pract. 15(6), pp. 513-20. 8. Grosman H., M. Rosales, B. Fabre et al. (2014), “Association between testosterone levels and the metabolic syndrome in adult men”, Aging Male. 17(3), pp. 161-5. 9. Hugh Jones T. (2010), “Effects of testosterone on Type 2 diabetes and components of the metabolic syndrome”, Journal of Diabetes. 2(3), pp. 146-156. 10. Ling Xu, Mei Cheng, Xiangqun Liu et al. (2006), “Bone mineral density and its Related Factors in Elderly Male Chinese Patients with Type 2 Diabetes”, Archives of Medical Research. 38, pp. 259-264. 11. Simon D., MA Charles, K Nahoul et al. (1997), “Association between plasma total testosterone and cardiovascular risk factors in healthy adult men: The Telecom Study”, J Clin Endocrinol Metab. 82(1), pp. 682-5. TàI LIỆU THAM KHẢO ABsTRACT THe CORReLATION BeTWeeN CONCeNTRATION OF PLAsMA TesTOsTeRONe AND DURATION OF DIABeTes, GLUCOse AND HbA1c LeVeLs IN MALe PATIeNTs WITH TYPe 2 DIABeTes Objective: To evaluate the relationship between plasma testosterone levels and duration of diabetes, levels of fasting glucose and HbA1c in male patients with type 2 diabetes. Method: Prospective, cross-sectional study conducted in 90 male patients with type 2 diabetes and 37 heathy males. Results: There was a relation between plasma testosterone level with duration of diabetes. There was a negative correlation between plasma testosterone level with HbA1c (r = -0.235, p < 0.05). The correlation between concentration of plasma testosteron and fasting glucose level was not statistically significant. Keywords: type 2 diabetes, concentration of plasma testosterone.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdflien_quan_giua_nong_do_testosteron_huyet_tuong_voi_thoi_gian.pdf
Tài liệu liên quan