Trái ngược với kết quả của chúng tôi, trong
nghiên cứu của tác giả Yates(12) trên 184 bệnh
nhân nằm hồi sức sau mổ tim cho thấy mức
đường huyết sau mổ trên 7 mmol/l có liên quan
với tỉ lệ nhiễm trùng, suy thận và các biến cố
thần kinh. Ngoài ra, thời gian tăng đường huyết
cũng cho thấy liên quan có ý nghĩa với nhiễm
trùng sau mổ và tử vong. Tuy nhiên, sự khác
biệt về đặc điểm giữa hai nghiên cứu có thể cho
kết quả khác nhau. Nhóm bệnh nhân của tác giả
Yates(12) có tuổi nhỏ hơn , nhỏ ký hơn và phẫu
thuật phức tạp hơn. Tác giả Ghafoori(3) cũng cho
rằng bệnh nhân trẻ em sau mổ tim có tăng
đường huyết trong 24 giờ đầu trên 7,2 mmol/l
thì tăng tỉ lệ viêm xương ức.
Trong một nghiên cứu tiền cứu với qui mô
lớn trên trẻ mổ tim bẩm sinh phức tạp, Polito(8)
và cộng sự đã cho thấy nhóm bệnh nhân có mức
đường huyết trên 7 mmol/l trong khoảng thời
gian 72 giờ đầu sau mổ có liên quan với nhiễm
trùng. Ngoài ra, ở thời điểm này, những bệnh
nhân có mức đường huyết trung bình dưới 6,1
mmol/l hay trên 7,9 mmol/l hoặc mức đường
huyết tối thiểu ≤ 4,1 mmol/l hay tối đa ≥ 13,9
mmol/l tất cả đều liên quan với nhiễm trùng và
các biến chứng khác.
Nghiên cứu của chúng tôi có vài hạn chế,
thực hiện tại một trung tâm nên có thể không
thích hợp với các trung tâm khác và đặc điểm
bệnh tật khác. Chúng tôi có sử dụng insulin để
kiểm soát đường huyết, tuy nhiên không có
phác đồ cụ thể nào, sử dụng theo kinh nghiệm
từng bác sĩ nên mức đường huyết có thể khác so
với những trung tâm khác. Diễn tiến của quá
trình viêm và nhiễm trùng có thể thay đổi trong
trường hợp có dùng insulin. Insulin được biết
cũng có tác động cải thiện hệ miễn dịch do tính
chất chống viêm, ức chế sản xuất các sản phẩm
tiền viêm và tăng các cytokin chống viêm(4,7).
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 132 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Liên quan mức đường huyết 24 giờ đầu sau mổ với nhiễm trùng sau mổ tim trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 540
LIÊN QUAN MỨC ĐƯỜNG HUYẾT 24 GIỜ ĐẦU
SAU MỔ VỚI NHIỄM TRÙNG SAU MỔ TIM TRẺ EM.
Huỳnh Khiêm Huy*, Nguyễn Thị Quý**, Lê Trung Hiếu*
TÓM TẮT
Mở đầu: Tình trạng tăng đường huyết sau mổ tim trẻ em rất phổ biến. Thời điểm 24 giờ đầu sau mổ
thường có mức đường huyết tăng cao nhất và có liên quan với nhiều biến chứng. Hiện chưa có nghiên cứu nào
thực hiện tại Việt Nam về vấn đề này. Mục Tiêu: tìm mối liên quan giữa mức đường huyết 24 giờ đầu sau mổ
tim với nhiễm trùng sau mổ.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu. Thu thập thông tin trước, trong và
sau mổ bệnh án trẻ từ 1 tháng đến 14 tuổi mổ tim. Các đặc điểm bệnh nhân gồm tuổi, giới, cân nặng, chiều cao.
Đặc điểm bệnh lý: tím, RACHS‐1 (Risk Adjustment For Congenital Heart Surgery: chỉ số nguy cơ phẫu thuật
tim bẩm sinh hiệu chỉnh) , kiểu phẫu thuật. Các yếu tố kiểm soát: thời gian tuần hoàn ngoài cơ thể, hạ thân nhiệt,
dùng corticoid, truyền máu, thời gian thở máy, thời gian nằm hồi sức và điều trị thay thế thận. Đo đường huyết
24 giờ đầu sau mổ. Tìm mối liên quan giữa mức đường huyết 24 giờ đầu sau mổ với nhiễm trùng bằng tỉ số
nguy cơ RR (risk ratio), khoảng tin cậy 95%.
Kết quả: Có 265 bệnh nhân và 3732 mẫu đường huyết được thu thập tại giường. Mức đường huyết trung
bình 24 giờ đầu sau mổ là 11,2 ± 4,1 mmol/l. Có 56 bệnh nhân nhiễm trùng chiếm tỉ lệ 21%. Mối liên quan mức
đường huyết 24 giờ đầu với tỉ lệ nhiễm trùng RR = 1,03 (0,98 – 1,08), P=0,3.
Kết luận: Không có mối liên quan giữa mức đường huyết 24 giờ đầu sau mổ tim trẻ em với nhiễm trùng
sau mổ theo nghiên cứu này.
Từ khoá: Đường huyết, nhiễm trùng sau mổ, phẫu thuật tim ở trẻ em
SUMMARY
ASSOCIATION BETWEEN FIRST 24 HOURS MEAN BLOOD GLUCOSE LEVEL
AND POSTOPERATIVE INFECTION IN PEDIATRIC CARDIAC SURGERY
Huynh Khiem Huy, Nguyen Thi Quy, Le Trung Hieu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 540 ‐ 544
Background –Objectives: Hyperglycemia commonly occurs after pediatric cardiac surgery. High blood
glucose is the most common in first 24 hours after surgery. There are limited data regarding the relation of
first 24 hours glycemic profiles in children after cardiac operations in Viet Nam. The aim of this study was to
evaluate the association of first 24 hours mean blood glucose level on postoperative infection in children
undergoing cardiac surgery.
Method: Prospective cohort study. Pediatric cardiac surgery from 1 month to 14 years old were accepted in
study. All serum glucose values during the first 24 postoperative hours were documented. Patients characteristic
include: age, sex, weight, height. Characteristics of disease: cyanose, RACHS‐1, operating methods. Factor
controlling: cadiopulmonary bypass time, hypothermia, corticoids using, transfusion, ventilation time, intensive
care unit length of stay and dialysis. Multivariate Poisson regression model were used to determine relationships
between first 24 hours blood glucose level and postoperative infection.
* Bệnh viện tim Tâm Đức – TP.Hồ Chí Minh ** Viện Tim – TP.Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: Bs Huỳnh Khiêm Huy, ĐT: 0938787220, Email: huynhkhiemhuy@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Ngoại Nhi 541
Results: There are 265 patients admitted to surgical intensive care unit during study. First 24 mean blood
glucose postoperative was 11.2 ± 4.1 mmol/L. Fifty‐Six patients were confirmed infection (21%). When
controlling for perioperative factors, risk ratio between blood glucose and infection is 1.03 (0.98‐1.09); P=0.3
Conclusion: In children undergoing congenital heart surgery, hyperglycemia in first 24 hours does not have
an association with postoperative infection.
Keywords: Blood glucose, postoperative infection, pediatric cardiac surgery
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rất nhiều yếu tố có thể gây tăng đường
huyết sau mổ. Tùy theo đối tượng bệnh nhân
và định nghĩa tăng đường huyết, tỉ lệ tăng
đường huyết sau mổ có thể dao động từ 16,7
đến 86,7%(1,2). Đối với trẻ em mổ tim, tăng
đường huyết 24 giờ đầu sau mổ có liên quan
với tỉ lệ nhiễm trùng và các biến chứng
khác(3,12). Tuy nhiên, các nghiên cứu khác lại
cho rằng không có mối liên quan này(2,10).
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm
khảo sát tình trạng tăng đường huyết sau mổ,
đồng thời xác định xem liệu có mối liên quan
giữa mức đường huyết 24 giờ đầu sau mổ với
nhiễm trùng sau mổ tim trẻ em.
Mục tiêu nghiên cứu
Tìm mối liên quan giữa mức đường huyết
24 giờ đầu sau mổ tim với tỉ lệ nhiễm trùng
sau mổ.
BỆNH NHÂN VÀ PHƯƠNG PHÁP
Tiêu chí chọn bệnh: tất cả các bệnh nhi từ 1
tháng đến 14 tuổi được phẫu thuật tim bẩm sinh
tại bệnh viện tim Tâm Đức trong thời gian từ
7/2102 đến tháng 3/2013.
Tiêu chí loại
Có tiền căn đái tháo đường.
Được chẩn đoán nhiễm trùng trước mổ
Được truyền dung dịch glucose hoặc có
dùng corticoid trước mổ
Bệnh nhân có thở máy trước mổ, hoặc bệnh
nhân đã nằm tại khoa hồi sức trước mổ.
Là bệnh mổ lại của khoa hồi sức và đã tham
gia vào nghiên cứu này trước đây
Bệnh nhân sau khi chuyển sang hồi sức. Tất
cả đều được thở máy và cai máy khi đủ tiêu
chuẩn. Thời gian thở máy được tính từ lúc bệnh
nhân được chuyển qua hồi sức tới khi rút ống
nội khí quản.
Cung cấp dịch chủ yếu là glucose 10% với
liều lượng 2 ml/kg/giờ trong 24 giờ đầu, sau đó
tăng lên 3‐ 4 ml/kg/giờ trong những ngày tiếp
theo. Tăng đường huyết được xác định khi bệnh
nhân có ít nhất hai lần đo bất kỳ ≥ 7,8 mmol/l
(140 mg/dl) trong thời gian nằm hồi sức. Trong
trường hợp đường huyết tăng cao >20 mmol/l,
bệnh nhân được kiểm soát đường huyết bằng
cách tạm ngưng truyền glucose và thay thế dịch
bằng lactate ringer. Nếu sau 4 giờ thử lại đường
huyết không giảm, dùng insulin. Đường huyết
24 giờ đầu được xác định bằng cách tính mức
đường huyết trung bình cộng trong 24 giờ đầu
sau mổ. Những trường hợp bệnh nhân bị hạ
đường huyết (< 4 mmol/l) đều được dùng
glucose 30% với lượng 5ml/kg và theo dõi
đường huyết mỗi 30 phút đến mỗi giờ. Tất cả
bệnh nhân được đo đường huyết bằng máy đo
tại giường Medisafe Mini Terumo.
Dùng corticoid khi bệnh nhân có dấu hiệu
sốc nhiễm trùng và huyết động không ổn định.
Xác định có dùng corticoid khi được tiêm một
trong ba loại thuốc sau đây trong thời gian ở
hồi sức: methylprednisolone (30 mg/kg),
dexamethasone (1 mg/kg), hydrocortisone (2
mg/kg).
Bệnh nhân được xác định có truyền máu khi
được dùng một trong những chế phẩm máu
gồm hồng cầu lắng, huyết tương tươi đông lạnh
hoặc tiểu cầu.
Chẩn đoán nhiễm trùng dựa theo tiêu chuẩn
của cục kiểm soát và phòng bệnh Mỹ(5). Thời
gian nằm hồi sức được tính từ khi bệnh nhân
được mổ xong, chuyển qua hồi sức đến khi ổn
định và được chuyển trại.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 542
So sánh biến liên tục bằng phép kiểm Mann
Withney, biến định tính bằng phép kiểm Fisher
chính xác, xác định mối liên quan bằng phân
tích hồi qui Poisson đa biến, tính tỉ số RR hiệu
chỉnh và khoảng tin cậy 95%. Ngưỡng có ý
nghĩa thống kê khi giá trị P < 0,05.
KẾT QUẢ
Từ tháng 7/2012 đến tháng 3/2013 chúng tôi
chọn được 265 bệnh nhân vào nghiên cứu, thu
thập được 3732 mẫu đường huyết thực hiện tại
giường. Trung bình có 14 mẫu đường huyết trên
mỗi bệnh nhân trong thời gian nằm hồi sức. Có
56 bệnh nhân nhiễm trùng chiếm tỉ lệ 21%. Có
144 bệnh nhân nam chiếm 54%. Tuổi trung vị là
2 tuổi, tuổi nhỏ nhất là 36 ngày tuổi, cao nhất là
14 tuổi. Cân nặng trung vị là 9,5 kg. Bệnh nhân
có cân nặng thấp nhất là 3,5 kg và cao nhất là 43
kg. Chiều cao trung bình là 86,3cm. Bệnh nhân
thấp nhất là 72 cm, cao nhất là 152 cm. Đa số
bệnh nhân có phân loại RACHS‐1 ở mức 2. Bệnh
nhân trong nhóm nhiễm trùng thường nhỏ tuổi,
nhỏ ký và có tím trước mổ (bảng 1).
Bảng 7: Đặc điểm bệnh nhân phân bố theo tình trạng
nhiễm trùng
Nhiễm trùng
p
Có n(%) Không n(%)
Đặc tính mẫu
Tuổi(*) 1(0.9-3) 2(1-5) 0,002
Giới nam 26(46) 118 (56) 0,230
Chiều cao(*) 79±19 88±24 0,002
Cân nặng(*) 8.5(6,3-10,3) 10(7-15) 0,003
Đặc điểm tim mạch và kiểu phẫu thuật
Có bệnh tim bẩm sinh
tím
30(53) 59(28) 0,001
Phẫu thuật tạm thời 7(13) 12(6) 0,140
Có THNCT(†) 56(100) 197(94) 0,080
Chỉ số RACHS-1
1
2
3
2(4)
40(71)
14(25)
20(10)
162(77)
27(13)
0,050
(*): Trung bình ± độ lệch chuẩn, kg, (†): THNCT: Tuần
hoàn ngoài cơ thể
Trong thời gian nằm hồi sức, bệnh nhân
nhiễm trùng có mức đường huyết đỉnh và 24 giờ
đầu cao hơn, mức đường huyết đáy thấp hơn và
không khác biệt về mức đường huyết trung bình
trong thời gian nằm hồi sức (bảng 2)
Bảng 8: Tình trạng đường huyết sau mổ phân bố
theo nhiễm trùng
Nhiễm trùng
Giá trị
p Có
(n=56)
Không
(n=209)
Đường huyết trung bình
(mmol/l) 9±1,6 9,1±2,3 0,94
Đường huyết 24 giờ đầu 13,5±4,5 10,6±3,8 <0,001
Đỉnh 19,5±7 14,5±6,3 <0,001
Đáy 4,9±4.1 5,8±1,6 <0,001
Ngoài ra, bệnh nhân nhiễm trùng có thời
gian chạy THNCT dài hơn, hạ thân nhiệt sâu
hơn, thời gian thở máy và thời gian nằm hồi sức
dài hơn, tỉ lệ dùng corticoid và truyền máu cũng
nhiều hơn có ý nghĩa (bảng 3)
Bảng 9: Yếu tố trong và sau mổ phân bố theo tình
trạng nhiễm trùng
Nhiễm trùng
p Có
(n=56)
Không
(n=209)
Thời gian THNCT (phút) 81(54-117) 49(40-71) <0,001
Hạ thân nhiệt (0C) 34,3±2,7 35,5±2,4 0,001
Dùng corticoid 38(68) 24(11) <0,001
Truyền máu 45(80) 55(27) <0,001
Thở máy (giờ) 83(25-146) 7(5-16) <0,001
Nằm hồi sức (ngày) 6,5(5-10) 2(2-3) <0,001
Trong phân tích hồi qui đa biến có kiểm soát
các yếu tố trước, trong và sau mổ (tuổi, chiều
cao, cân nặng, tím trước mổ, thời gian THNCT,
hạ thân nhiệt, dùng corticoid, truyền máu, có
điều trị thay thế thận, thời gian nằm hồi sức và
thời gian thở máy). Kết quả cho thấy thấy không
có mối liên quan giữa mức đường huyết 24 giờ
đầu và nhiễm trùng RR = 1,03 (0,98‐1,09), P = 0,3.
BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi là tiền cứu khảo
sát mối liên quan giữa mức đường huyết sau mổ
với tỉ lệ nhiễm trùng và kết quả cho thấy không
liên quan.
Kết quả này tương tự như trong nghiên cứu
của tác giả Rossano(10) trên nhóm bệnh nhân mổ
chuyển vị đại động mạch. Trẻ có mức đường
huyết 24 giờ đầu cao hơn 20 mmol/l không liên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Ngoại Nhi 543
quan với nhiễm trùng sau mổ cũng như các biến
chứng khác. Có thể giải thích tăng đường huyết
chỉ là một đáp ứng bình thường sau đả kích
phẫu thuật như nhiều nghiên cứu đã đề cập(6).
Trong quá trình đả kích do phẫu thuật, có sự gia
tăng cortisol, catecholamine, các cytokin và sự
đề kháng của insulin đưa đến sự tăng sự tạo
đường từ gan, mô ngoại biên giảm sử dụng
đường, thiếu hụt insulin kết quả là tăng
đường huyết(9,11). Tương tự, một phân tích của
tác giả DeCampli(1) trên 144 bệnh nhân trẻ em
mổ tim cho thấy tình trạng tăng đường huyết
sau mổ không là yếu tố nguy cơ của nhiễm
trùng và tử vong.
Trái ngược với kết quả của chúng tôi, trong
nghiên cứu của tác giả Yates(12) trên 184 bệnh
nhân nằm hồi sức sau mổ tim cho thấy mức
đường huyết sau mổ trên 7 mmol/l có liên quan
với tỉ lệ nhiễm trùng, suy thận và các biến cố
thần kinh. Ngoài ra, thời gian tăng đường huyết
cũng cho thấy liên quan có ý nghĩa với nhiễm
trùng sau mổ và tử vong. Tuy nhiên, sự khác
biệt về đặc điểm giữa hai nghiên cứu có thể cho
kết quả khác nhau. Nhóm bệnh nhân của tác giả
Yates(12) có tuổi nhỏ hơn , nhỏ ký hơn và phẫu
thuật phức tạp hơn. Tác giả Ghafoori(3) cũng cho
rằng bệnh nhân trẻ em sau mổ tim có tăng
đường huyết trong 24 giờ đầu trên 7,2 mmol/l
thì tăng tỉ lệ viêm xương ức.
Trong một nghiên cứu tiền cứu với qui mô
lớn trên trẻ mổ tim bẩm sinh phức tạp, Polito(8)
và cộng sự đã cho thấy nhóm bệnh nhân có mức
đường huyết trên 7 mmol/l trong khoảng thời
gian 72 giờ đầu sau mổ có liên quan với nhiễm
trùng. Ngoài ra, ở thời điểm này, những bệnh
nhân có mức đường huyết trung bình dưới 6,1
mmol/l hay trên 7,9 mmol/l hoặc mức đường
huyết tối thiểu ≤ 4,1 mmol/l hay tối đa ≥ 13,9
mmol/l tất cả đều liên quan với nhiễm trùng và
các biến chứng khác.
Nghiên cứu của chúng tôi có vài hạn chế,
thực hiện tại một trung tâm nên có thể không
thích hợp với các trung tâm khác và đặc điểm
bệnh tật khác. Chúng tôi có sử dụng insulin để
kiểm soát đường huyết, tuy nhiên không có
phác đồ cụ thể nào, sử dụng theo kinh nghiệm
từng bác sĩ nên mức đường huyết có thể khác so
với những trung tâm khác. Diễn tiến của quá
trình viêm và nhiễm trùng có thể thay đổi trong
trường hợp có dùng insulin. Insulin được biết
cũng có tác động cải thiện hệ miễn dịch do tính
chất chống viêm, ức chế sản xuất các sản phẩm
tiền viêm và tăng các cytokin chống viêm(4,7).
KẾT LUẬN
Trên bệnh nhân trẻ em bệnh tim bẩm sinh,
nhóm bệnh nhân nhiễm trùng sau mổ có mức
đường huyết 24 giờ đầu cao. Tuy nhiên, tình
trạng tăng đường huyết trong 24 giờ đầu sau mổ
không liên quan với nhiễm trùng sau mổ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. DeCampli WM, Olsen MC, et al (2010) ʺPerioperative
hyperglycemia: effect on outcome after infant congenital heart
surgeryʺ. Ann Thorac Surg, 89: 181–186
2. Faustino EV, Apkon M (2005) ʺPersistent hyperglycemia in
critically ill childrenʺ. J Pediatr, 146:30‐4
3. Ghafoori AF, Twite MD, Friesen RH (2008) ʺPostoperative
hyperglycemia is associated with mediastinitis following
pediatric cardiac surgeryʺ. Paediatric anaesthesia, 18 (12), 1202‐7.
4. Hansen TK, Thiel S, et al (2003) ʺIntensive insulin therapy exerts
antiinflammatory effects in critically ill patients and counteracts
the adverse effect of low mannose‐binding lectin levelsʺ. J Clin
Endocrinol Metab, 88:1082‐8
5. Horan TC, Andrus M, et al (2008) ʺCDC/NHSN surveillance
definition of health care–associated infection and criteria for
specific types of infections in the acute care settingʺ. American
Journal of Infection Control, 36:309‐332
6. Jakob SM, Ensinger H (2001) ʺMetabolic changes after cardiac
surgeryʺ. Curr Opin Clin Nutr Metab Care, 4:149‐55
7. Eschke MG, Klein D, Herndon DN (2004) ʺInsulin treatment
improves the systemic inflammatory reaction to severe traumaʺ.
Ann Surg, 239:553–60
8. Polito A, Thiagarajan RR, et al (2008) ʺAssociation between
intraoperative and early postoperative glucose levels and
adverse outcomes after complex congenital heart surgeryʺ.
Circulation, 118: 2235–2243
9. Raghavan M, Marik PE (2006) ʺStress hyperglycemia and
adrenal insufficiency in the critically illʺ. Semin Respir Crit Care
Med, 27(3):274‐85
10. Rossano JW, Taylor MD, et al (2008) ʺGlycemic profile in infants
who have undergone arterial switch operation: hyperglycemia
is not associated with adverse eventsʺ. J Thorac Cardiovasc Surg,
135: 739–745
11. Wintergerst KA, Deiss D, et al (2007) ʺGlucose control in
pediatric intensive care unit patients using an insulin ‐ glucose
algorithmʺ. Diabetes Technology & Therapeutics, 9: 211–222
12. Yates AR, Dyke PC, Taeed R, et al (2006) ʺHyperglycemia is a
marker for poor outcome in the postoperative cardiac patientʺ.
Pediatr Crit Care Med, 7: 351–355.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 544
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 29/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lien_quan_muc_duong_huyet_24_gio_dau_sau_mo_voi_nhiem_trung.pdf