LIỆU PHÁP MIỄN DỊCH
1. Nivolumab
Nivolumab là thuốc chẹn thụ thể PD-1,
được chấp thuận điều trị cho BN UTG từ
2017 dựa trên thử nghiệm lâm sàng pha
I/II Checkmate 40 thử nghiệm nivolumab
trên BN UTG chưa điều trị hoặc đã điều
trị qua sorafenib. Tỷ lệ đáp ứng khách
quan là 15% ở pha I và 20% ở pha II. Có
3 BN đáp ứng hoàn toàn và nhiều BN đáp
ứng một phần trong thử nghiệm pha II.
Trung vị sống thêm toàn bộ của nhóm BN
đáp ứng điều trị là 15,6 tháng [13]. Tác
dụng không mong muốn thường gặp là
nổi ban, ngứa và mệt mỏi. Nhiều thử
nghiệm lâm sàng khác vẫn đang được
thực hiện nhằm khẳng định tác dụng điều
trị UTG của nivolumab.
2. Pembrolizumab
Pembrolizumab cũng là thuốc chẹn thụ
thể PD-1, được thử nghiệm lâm sàng pha
2 trên BN UTG đã điều trị không đáp ứng
hoặc không dung nạp sorafenib. Tỷ lệ đáp
ứng khách quan tương tự nivolumab, với
1 trường hợp đáp ứng hoàn toàn và 17
trường hợp đáp ứng 1 phần [14]. Tác dụng
không mong muốn bao gồm tăng men gan,
mệt mỏi. Dựa trên kết quả của nghiên
cứu KEYNOTE-224 này, pembrolizumab
được chấp thuận là thuốc điều trị bước 2
cho BN UTG giai đoạn tiến triển.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Liệu pháp toàn thân điều trị ung thư biểu mô tế bào gan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 5-2020
3
LIỆU PHÁP TOÀN THÂN ĐIỀU TRỊ
UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN
Đặng Kim Khuê1, Ninh Việt Khải1
Nguyễn Quang Nghĩa1, Ngô Đắc Sáng2
TÓM TẮT
Ung thư biểu mô tế bào gan là loại ung thư thường gặp nhất tại gan. Ung thư biểu mô tế
bào gan giai đoạn tiến triển có tiên lượng xấu, thời gian sống thêm ngắn. Theo Phân loại và
Hướng dẫn điều trị ung thư gan Barcelona (BCLC), liệu pháp toàn thân là phương pháp điều trị
tối ưu cho bệnh nhân (BN) trong giai đoạn này. Năm 2007, lần đầu tiên liệu pháp điều trị đích
với sorafenib được chấp thuận điều trị cho ung thư biểu mô tế bào gan, giúp kéo dài thời gian
sống thêm của người bệnh. Trong 3 năm trở lại đây, nhiều thuốc điều trị đích mới và liệu pháp
miễn dịch được chấp thuận điều trị bước 1 và bước 2 cho BN ung thư gan (UTG). Bài viết này
nhằm cập nhật kết quả và ứng dụng những phác đồ điều trị bổ trợ đối với UTG.
* Từ khóa: Ung thư gan; Liệu pháp toàn thân; Điều trị đích.
TỔNG QUAN
Ung thư biểu mô tế bào gan là loại ung
thư thường gặp, chiếm 80% tổng số các
loại UTG nguyên phát và đứng thứ ba
trong các loại ung thư tại Việt Nam [1].
Nguyên nhân của UTG liên quan rõ rệt
với viêm gan B, viêm gan C cũng như với
bệnh lý xơ gan do rượu. Ngoài ra, còn có
một số yếu tố nguy cơ khác như nhiễm
độc tố aflatoxin, dioxin Các phương pháp
điều trị ung thư biểu mô tế bào gan bao
gồm: Điều trị tại chỗ (phẫu thuật, ghép
gan, đốt sóng cao tần, nút mạch, xạ trị
trong chọn lọc...), điều trị toàn thân (hóa
chất, thuốc điều trị đích, liệu pháp miễn
dịch), điều trị triệu chứng (giảm đau, nâng
cao thể trạng).
Ung thư gan nếu phát hiện muộn
thường tiên lượng xấu. Phần lớn BN
được chẩn đoán ở giai đoạn muộn nên
chỉ < 20% có khả năng điều trị được bằng
các phương pháp triệt căn. Mặt khác,
tỷ lệ tái phát bệnh sau điều trị phẫu thuật
hoặc tiêu hủy khối u tại chỗ rất cao, ước
tính 60% trong vòng 2 năm đầu. Hơn nữa,
phần lớn các trường hợp UTG xuất hiện
trên nền gan bệnh lý với chức năng gan
đã bị ảnh hưởng nên không thể áp dụng
phác đồ điều trị toàn thân với hóa chất
truyền thống gây độc tế bào như doxorubicin,
cisplatin, 5FU, mitomycin C...
Hiện nay, điều trị đích đang là tiến bộ
mới trong ung thư nói chung và UTG nói
riêng. Sorafenib (nexavar) đã được chứng
minh có thể kéo dài thời gian sống thêm cho
BN UTG giai đoạn tiến triển từ năm 2007,
1Trung tâm Ghép tạng, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức
2 Phòng Thông tin Khoa học Quân sự, Học viện Quân y
Người phản hồi: Nguyễn Quang Nghĩa (nghianguyenvduc@gmail.com)
Ngày nhận bài: 20/5/2020
Ngày bài báo được đăng: 22/06/2020
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 5-2020
4
được coi là một bước đột phá trong điều
trị UTG. Thời gian gần đây có thêm nhiều
thuốc mới trong điều trị đích và điều trị
miễn dịch bước đầu chứng minh hiệu quả
điều trị UTG giai đoạn này. Bài viết này
nhằm cập nhật kết quả và ứng dụng của
những phác đồ điều trị bổ trợ đối với UTG
LIỆU PHÁP TOÀN THÂN ĐIỀU TRỊ
UNG THƯ GAN THEO BCLC
Barcelona Clinic Liver Cancer (BCLC)
là nhóm nghiên cứu về UTG thuộc Bệnh
viện Trường Đại học Barcelona được
thành lập năm 1986 bởi Jordi Bruix - bác
sĩ nội gan và Concpcio Bru - bác sĩ chẩn
đoán hình ảnh. Đến năm 1990, nhóm kết
hợp với Josep M Llovet dựa vào các
nghiên cứu về UTG để đưa ra bảng phân
loại giai đoạn bệnh, đồng thời gợi ý các
chỉ định điều trị tối ưu cho từng giai đoạn
dựa trên các nghiên cứu lâm sàng. Theo
BCLC, UTG được chia thành 5 giai đoạn:
Rất sớm (0), sớm (A), trung gian (B), tiến
triển (C) và giai đoạn cuối (D) dựa trên
các yếu tố: chức năng gan, tình trạng khối
u, toàn trạng BN [2]. BCLC là phân loại
đầu tiên có khuyến cáo điều trị tối ưu
trong từng giai đoạn và cho đến nay vẫn
được cập nhật thường xuyên dựa trên
các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng mới.
Hiệp hội Bệnh gan Mỹ (AASLD) và Hiệp hội
Bệnh gan châu Âu (EASL) đều đưa BCLC
vào hướng dẫn điều trị [3].
Theo BCLC, UTG ở giai đoạn tiến triển
(C) được xác định khi u xâm lấn tĩnh
mạch cửa hoặc khi có di căn ngoài gan,
phương pháp điều trị cho giai đoạn này là
liệu pháp toàn thân. Trước năm 2007, các
phương pháp điều trị toàn thân như hoá
chất gây độc tế bào, interferon đều không
mang lại hiệu quả tăng thời gian sống
thêm cho BN UTG giai đoạn tiến triển, do
vậy khuyến cáo điều trị ở giai đoạn C chỉ
là các thuốc thử nghiệm. Đến khi có kết
quả của nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng
pha 3-SHARP với sorafenib là liệu pháp
điều trị đích với UTG mang lại kết quả
khả quan, giúp kéo dài thời gian sống
thêm cho BN UTG giai đoạn tiến triển [4].
Từ đó, sorafenib là thuốc điều trị đích tiêu
chuẩn đầu tiên cho UTG xuất hiện trong
bảng phân loại của BCLC. Đến nay, đã có
thêm nhiều thuốc mới được chấp thuận
điều trị UTG giai đoạn tiến triển: Sorafenib,
lenvatinib, nivolumab (bước 1), regorafenib,
cabozatinib, pembrolizumab (bước 2),
do vậy bảng phân loại mới nhất của BCLC
không ghi riêng sorafenib như các phiên
bản trước mà thay bằng liệu pháp điều trị
toàn thân.
CÁC THUỐC ĐIỀU TRỊ ĐÍCH
1. Sorafenib
Sorafenib là chất ức chế phân tử nhỏ
có tác dụng chống tăng sinh tế bào và
chống tân tạo mạch thông qua ức chế thụ
thể tăng sinh nội mạc mạch máu 2-3
(VEGFR 2-3) tyrosine kinase, yếu tố tăng
sinh từ tiểu cầu (PDGFR) tyrosine kinase,
beta tyrosine kinase. Sorafenib được
chấp thuận điều trị UTG không còn khả
năng cắt bỏ (BCLC giai đoạn C hoặc giai
đoạn B thất bại với các phương pháp
điều trị tại chỗ) từ năm 2007, từ kết quả
của nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng pha
III-SHARP. So với giả dược, sorafenib
giúp kéo dài thời gian sống thêm của BN
UTG giai đoạn tiến triển thêm 2,8 tháng
(trung vị sống thêm 10,7 tháng so với 7,9
tháng), trở thành thuốc đầu tiên được
chứng minh có hiệu quả kéo dài thời gian
sống thêm với UTG [4]. Tác dụng không
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 5-2020
5
mong muốn chủ yếu của sorafenib là tiêu
chảy, hội chứng bàn tay bàn chân. Sorafenib
được chứng minh tác dụng điều trị trên
các chủng tộc khác nhau, tương đương
với nghiên cứu SHARP. Liều khuyến cáo
là 800 mg/ngày chia 2 lần.
Nghiên cứu GIDEON công bố năm 2016
đánh giá hiệu quả sử dụng sorafenib trên
3.202 BN thuộc nhiều nhóm với chức
năng gan khác nhau. Đáng chú ý, có 666
BN chức năng gan Child B và 74 BN
Child C. 676 BN (21%) được chỉ định liều
khởi đầu 400 mg/ngày (50% liều khuyến
cáo) và 500 người sau đó được tăng đủ
liều khuyến cáo. 997 BN (31%) phải giảm
liều vì các tác dụng không mong muốn.
Trung vị thời gian sống thêm của BN
Child A là 13,6 tháng, Child B 5,2 tháng
và Child C 2,6 tháng [5].
Sorafenib cũng được nghiên cứu trong
thử nghiệm lâm sàng phòng tái phát UTG
sau phẫu thuật triệt căn (thử nghiệm
STORM). Tuy nhiên, trong thử nghiệm
này sorafenib không giúp cải thiện tỷ lệ tái
phát của UTG (trung vị thời gian tái phát
của nhóm sorafenib là 33,3 tháng so với
33,7 tháng ở nhóm giả dược) [6]. Do vậy,
sorafenib không được khuyến cáo điều trị
bổ trợ cho UTG sau phẫu thuật triệt căn.
Việc kết hợp sorafenib với các thuốc,
phương pháp khác đến thời điểm này vẫn
chưa mang lại kết quả tốt hơn sorafenib
đơn thuần. Sorafenib là thuốc duy nhất có
khả năng kéo dài sự sống cho BN UTG
giai đoạn tiến triển đến năm 2017.
2. Lenvatinib
Lenvatinib là thuốc ức chế phân tử nhỏ,
ức chế FGFR (fibroblast growth factor
receptor), VEGFR, PDGFR alpha, RET
(rearranged during transfection) và KIT.
Lenvatinib trong thử nghiệm lâm sàng
pha III không kém hơn (noninferior) so với
sorafenib, cho kết quả thời gian sống
thêm toàn bộ không kém hơn nhưng
không vượt trội so với sorafenib (trung vị
sống thêm 13,6 tháng so với 12,3 tháng).
Thêm vào đó, tỷ lệ đáp ứng điều trị khách
quan (ORR) của lenvatinib cao hơn so
với sorafenib (24,1% so với 9,2%), đặc
biệt là đáp ứng một phần (23% so với
9%) [7]. Tác dụng không mong muốn chủ
yếu của lenvatinib gồm: Tiêu chảy, tăng
huyết áp, chán ăn, giảm cân. Lenvatinib
được chấp thuận điều trị bước 1 cho UTG
vào năm 2018.
3. Regorafenib
Regorafenib là thuốc ức chế phân tử
nhỏ, ức chế thụ thể angiopoietin-1,
VEGFR, PDGFR, FGFR được nghiên
cứu bởi Bruix và CS trên BN UTG có
bệnh tiến triển đã sử dụng và có khả
năng dung nạp sorafenib. Thử nghiệm
lâm sàng pha III-RESORCE chứng minh
regorafenib cải thiện thời gian sống thêm
của BN đã thất bại với điều trị sorafenib
so với giả dược (trung vị sống thêm 10,6
tháng so với 7,8 tháng) [8]. Tác dụng
không mong muốn chủ yếu của regorafenib
là tăng huyết áp, hội chứng bàn tay bàn
chân. Regorafenib là thuốc đầu tiên được
chấp thuận điều trị bước 2 cho BN UTG.
4. Cabozatinib
Cabozatinib là thuốc ức chế phân tử
nhỏ, ức chế c-Met, VEGFR-2, AXL, RET.
Abou-Alfa và CS nghiên cứu sử dụng
cabozatinib so sánh với giả dược điều trị
BN UTG bệnh tiến triển đã dùng sorafenib
cho thấy cabozatinib cải thiện thời gian
sống thêm của BN (trung vị 10,2 tháng
so với 8 tháng) [9, 10]. Tác dụng không
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 5-2020
6
mong muốn chủ yếu là tăng huyết áp, hội
chứng bàn tay bàn chân. Cabozatinib
được chấp thuận là thuốc điều trị bước 2
cho BN UTG.
5. Ramucirumab
Ramucirumab là kháng thể đơn dòng
từ người kháng thụ thể VEGFR-2 điều trị
BN UTG tiến triển hoặc không dung nạp
với sorafenib. Thử nghiệm lâm sàng
REACH không thấy sự khác biệt về thời gian
sống thêm giữa ramucirumab và giả dược
(9,2 tháng so với 7,6 tháng). Tuy nhiên,
khi phân tích dưới nhóm, Zhu và CS thấy
ramucirumab giúp kéo dài thời gian sống
thêm ở nhóm BN có AFP > 400 ng/ml
(7,8 tháng so với 4,2 tháng) [11]. Nghiên
cứu REACH-2 một lần nữa khẳng định
kết quả này vào năm 2018 khi nghiên cứu
trên 292 BN có AFP > 400 ng/ml [12].
Do vâỵ, ramucirumab được chấp thuận
sử dụng cho BN UTG có AFP > 400 ng/ml.
Tác dụng không mong muốn thường gặp
là tăng huyết áp, hạ natri máu.
Bảng 1: Các thuốc được chấp thuận điều trị cho UTG.
Tên thuốc Cơ chế Đích Điều trị bước
Sorafenib Ức chế phân tử nhỏ VEGFR-2,3; PDGFR beta, RAF kinase 1
Lenvatinib Ức chế phân tử nhỏ FGFR, VEGFR, PDGFR-alpha, RET, KIT 1
Regorafenib Ức chế phân tử nhỏ Tie2, VEGFR, PDGFR, PGFR 2
Carbozatinib Ức chế phân tử nhỏ c-met, VEGFR-2, RET, AXL 2
Nivolumab Ức chế thụ thể miễn dịch PD-1 2
Pembrolizumab Ức chế thụ thể miễn dịch PD-1 2
Ramucirumab Kháng thể đơn dòng VEGFR-2
LIỆU PHÁP MIỄN DỊCH
1. Nivolumab
Nivolumab là thuốc chẹn thụ thể PD-1,
được chấp thuận điều trị cho BN UTG từ
2017 dựa trên thử nghiệm lâm sàng pha
I/II Checkmate 40 thử nghiệm nivolumab
trên BN UTG chưa điều trị hoặc đã điều
trị qua sorafenib. Tỷ lệ đáp ứng khách
quan là 15% ở pha I và 20% ở pha II. Có
3 BN đáp ứng hoàn toàn và nhiều BN đáp
ứng một phần trong thử nghiệm pha II.
Trung vị sống thêm toàn bộ của nhóm BN
đáp ứng điều trị là 15,6 tháng [13]. Tác
dụng không mong muốn thường gặp là
nổi ban, ngứa và mệt mỏi. Nhiều thử
nghiệm lâm sàng khác vẫn đang được
thực hiện nhằm khẳng định tác dụng điều
trị UTG của nivolumab.
2. Pembrolizumab
Pembrolizumab cũng là thuốc chẹn thụ
thể PD-1, được thử nghiệm lâm sàng pha
2 trên BN UTG đã điều trị không đáp ứng
hoặc không dung nạp sorafenib. Tỷ lệ đáp
ứng khách quan tương tự nivolumab, với
1 trường hợp đáp ứng hoàn toàn và 17
trường hợp đáp ứng 1 phần [14]. Tác dụng
không mong muốn bao gồm tăng men gan,
mệt mỏi. Dựa trên kết quả của nghiên
cứu KEYNOTE-224 này, pembrolizumab
được chấp thuận là thuốc điều trị bước 2
cho BN UTG giai đoạn tiến triển.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 5-2020
7
KẾT LUẬN
Ung thư gan giai đoạn tiến triển có tiên
lượng xấu, điều trị chủ yếu là thuốc điều
trị toàn thân. Trước năm 2017, chỉ có
sorafenib được chấp thuận, đến nay, liệu
pháp điều trị toàn thân đã có những bước
tiến lớn, có nhiều thuốc mới cả bước 1 và
bước 2 được đưa vào điều trị cho BN
UTG tiến triển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. International Agency for Research on Cancer.
GLOBOCAN 2012.
2. Llovet JM, Bruix C, Bruix J. Prognosis of
hepatocellular carcinoma: The BCLC staging
classification. Semin Liver Dis 1999;
19(3):329-338.
3. European Association for the Study of
the Liver. EASL clinical practice guide-lines:
Management of hepatocellular carcinoma. J
Hepatol 2018; 69(1):182-236.
4. Llovet JM, Ricci S, Mazzaferro V, et al.
SHARP investigators study group. Sorafenib
in advanced hepatocellular carcinoma. N Engl
J Med 2008; 359(4):378-390.
5. Marrero JA, Kudo M, Venook AP, et al.
Observational registry of sorafenib use in clinical
practice across Child-Pugh subgroups: The
GIDEON study. J Hepatol 2016; 65(6):1140-1147.
6. Bruix J, Takayama T, Mazzaferro V, et al.
STORM investigators. Adjuvant sorafenib for
hepatocellular carcinoma after resection or
ablation (STORM): A phase 3, randomised,
double-blind, placebo-controlled trial. Lancet
Oncol 2015; 16(13):1344-1354.
7. Kudo M, Finn RS, Qin S, et al.
Lenvatinib versus sorafenib in first line
treatment of patients with unresectable
hepatocellular carcinoma: A randomised
phase 3 non-inferiority trial. Lancet 2018;
391(10126):1163-1173.
8. Bruix J, Qin S, Merle P, et al. RESORCE
investigators. Regorafenib for patients with
hepatocellular carcinoma who progressed on
sorafenib treatment (RESORCE): A randomised,
double-blind, placebo-controlled, phase 3 trial.
Lancet 2017; 389(10064):56-66.
9. Yakes FM, Chen J, Tan J, et al.
Cabozantinib (XL184), a novel MET and
VEGFR2 inhibitor, simultaneously suppresses
metastasis, angiogenesis, and tumor growth.
Mol Cancer Ther 2011; 10(12):2298-2308.
10. Abou-Alfa GK, Meyer T, Cheng A-L, et al.
Cabozantinib in patients with advanced and
progressing hepatocellular carcinoma. N Engl
J Med 2018; 379(1):54-63.
11. Zhu AX, Park JO, Ryoo B-Y, et al.
REACH trial investigators. Ramucirumab versus
placebo as second-line treatment in patients
with advanced hepatocellular carcinoma following
first-line therapy with sorafenib (REACH):
A randomised, double-blind, multicentre, phase
3 trial. Lancet Oncol 2015; 16(7):859-870.
12. Zhu AX, Kang Y-K, Yen C-J, et al.
REACH-2: A randomized, double-blind, placebo-
controlled phase 3 study of ramucirumab
versus placebo as second-line treatment in
patients with advanced hepatocellular carcinoma
(HCC) and elevated baseline alpha-fetoprotein
(AFP) following first-line sorafenib [published
online June 1, 2018]. J Clin Oncol.
doi:10.1200/JCO.2018.36.15_suppl.4003.
13. El-Khoueiry AB, Sangro B, Yau T, et al.
Nivolumab in patients with advanced
hepatocellular carcinoma (CheckMate 040):
an open-label, non-comparative, phase 1/2
dose escalation and expansion trial. Lancet
2017; 389(10088):2492-2502.
14. Zhu AX, Finn RS, Edeline J, et al.
KEYNOTE-224 Investigators. Pembrolizumab
in patients with advanced hepatocellular
carcinoma previously treated with sorafenib
(KEYNOTE-224): A non-randomised, open-
label phase 2 trial. Lancet Oncol 2018;
19(7):940-952.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
lieu_phap_toan_than_dieu_tri_ung_thu_bieu_mo_te_bao_gan.pdf