Lựa chọn chỉ tiêu đặc trưng phát triển kinh tế để nghiên cứu quan hệ với khoa học công nghệ trong nền kinh tế quốc dân
Tuy nhiên cần lưu ý là việc lựa chọn và
áp dụng các chỉ tiêu trên cũng chỉ có ý
nghĩa tương đối, nghĩa là các chỉ tiêu lựa
chọn trên đây có thể thay đổi cho phù hợp
tuỳ thuộc vào mục tiêu phát triển kinh tế
cũng như điều kiện cụ thể của từng thời kỳ.
Sự thay đổi này có thể là thay đổi về
số lượng chỉ tiêu (tăng lên hay giảm đi số
lượng chỉ tiêu) hoặc thay thế chỉ tiêu này
bằng chỉ tiêu khác xác định lại vị trí quan
trọng của các chỉ tiêu được chọn. Sự thay
đổi này là tất yếu khách quan giống như
lựa chọn chỉ tiêu thống kê nghiên cứu ở
các lĩnh vực khác.
Mặt khác cần lưu ý là khi chọn ra các chỉ
tiêu chủ yếu để đánh giá phát triển kinh tế
như đã trình bày ở trên không có nghĩa loại
trừ các chỉ tiêu khác, mà ngược lại vẫn phải
giữ lại để nghiên cứu, đánh giá có tính chất
bổ sung.
Cũng trong 5 chỉ tiêu chọn ra ở trên,
trong thực tế có thể có những chỉ tiêu số
liệu đảm bảo độ tin cậy cần thiết cho
nghiên cứu, nhưng cũng có thể có chỉ tiêu
số liệu còn nhiều bất cập nên khi đánh giá
chung về phát triển kinh tế không nhất thiết
là cứ phải có đủ 5 chỉ tiêu đó mà có thể
thiếu chỉ tiêu này hay chỉ tiêu khác nhưng
không quá 2 chỉ tiêu và không rõ vào
những chỉ tiêu quan trọng nhất
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 244 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lựa chọn chỉ tiêu đặc trưng phát triển kinh tế để nghiên cứu quan hệ với khoa học công nghệ trong nền kinh tế quốc dân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chuyªn san khoa häc vµ c«ng nghÖ víi ph¸t triÓn kinh tÕ 25
Lùa chän chØ tiªu ®Æc tr-ng ph¸t triÓn kinh tÕ ®Ó nghiªn cøu
quan hÖ víi khoa häc c«ng nghÖ trong nÒn kinh tÕ quèc d©n
Ban chủ nhiệm đề tài
ột trong những nội dung quan
trọng của đề tài khoa học “Nghiên
cứu thống kê tác động của khoa học công
nghệ đối với phát triển kinh tế” là phải xác
định được các chỉ tiêu thống kê đặc trưng
cho phát triển kinh tế của toàn nền kinh tế
quốc dân ở phạm vi một quốc gia, một tỉnh
thành phố hay một ngành kinh tế, một lĩnh
vực.
Để đặc trưng cho sự phát triển kinh tế
của một quốc gia, một địa phương, hay một
ngành kinh tế trên góc độ kết quả đạt được,
thống kê dùng nhiều chỉ tiêu khác nhau và
được biểu hiện bằng cả số tuyệt đối và số
tương đối lẫn số bình quân. Các chỉ tiêu về
số tuyệt đối như giá trị sản xuất; tổng sản
phẩm quốc nội (đối với toàn quốc - GDP)
tổng sản phẩm trong tỉnh (đối với từng tỉnh,
thành phố - GRP và từ đây chỉ dùng thống
nhất là GDP); giá trị tăng thêm (đối với một
ngành); tổng sản phẩm quốc gia (GDI); sản
phẩm sản xuất chủ yếu; trị giá xuất khẩu;
tổng thu ngân sách; Các chỉ tiêu là số
tương đối và số bình quân như tốc độ phát
triển hoặc tốc độ tăng tính theo GDP; giá trị
tăng thêm; GDP bình quân đầu người; năng
suất lao động; hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
(ICOR); năng suất các nhân tố tổng hợp
(TFP); hiệu quả quá trình; tỷ lệ giá trị xuất
khẩu so với giá trị sản xuất hoặc tổng sản
phẩm quốc nội; tỉ lệ thu ngân sách so với
tổng sản phẩm quốc nội, v.v
Mỗi chỉ tiêu trên đây sẽ phản ánh được
một hoặc một số mặt nào đó của phát triển
kinh tế. Việc đánh giá phát triển kinh tế nếu
dựa vào kết quả thực hiện nhiều chỉ tiêu sẽ
nghiên cứu được đầy đủ và đánh giá được
nhiều mặt khác nhau của hiện tượng. Song
nếu căn cứ vào quá nhiều chỉ tiêu thì sẽ trở
nên phức tạp; việc nhận định đánh giá có
thể sẽ phân tán, rời rạc; nhiều khi còn bị
trùng chéo vì có những chỉ tiêu khác nhau
nhưng cùng biểu hiện một kết quả đạt được
và phản ánh chung một xu thế biến động và
đặc biệt khó khăn và kém ý nghĩa khi ta áp
dụng các mô hình toán học để nghiên cứu
tác động của yếu tố khoa học công nghệ với
phát triển kinh tế trong phạm vi nghiên cứu
của đề tài. Một đặc điểm nữa của áp dụng
quá nhiều chỉ tiêu sẽ làm cho khâu thu thập
số liệu trở nên khó khăn hơn, tính toán phức
tạp hơn, làm cho độ tin cậy của liệu sẽ kém
hơn, ảnh hưởng đến chất lượng thông tin
của các chỉ tiêu nghiên cứu.
Với mục tiêu nghiên cứu quan hệ giữa
phát triển kinh tế với yếu tố khoa học và
công nghệ, vì vậy trong số các chỉ tiêu nói
trên chỉ nên chọn ra một số chỉ tiêu đặc
trưng nhất cho phát triển kinh tế gọi là “các
chỉ tiêu chủ yếu”. Ví như trong thời kỳ bao
cấp, kế hoạch hoá tập trung ở các doanh
nghiệp nhà nước (trước gọi là xí nghiệp nhà
nước) có rất nhiều chỉ tiêu đặc trưng cho kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng
chỉ chọn ra một số chủ yếu nhất để giao kế
hoạch và gọi là “các chỉ tiêu pháp lệnh” của
Nhà nước, dùng làm căn cứ để đánh giá
hoàn thành kế hoạch của doanh nghiệp.
M
Th«ng tin Khoa häc Thèng kª 26
Ngày nay, nếu trong phạm vi toàn xã
hội, cũng có rất nhiều chỉ tiêu thống kê phản
ánh về kinh tế, đời sống văn hoá, xã hội,
sức khoẻ liên quan đến sự phát triển của
con người. Nhưng khi tính chỉ số phát triển
con người (HDI), UNDP chỉ chọn ra một số
chỉ tiêu chủ yếu nhất là GDP bình quân đầu
người tính theo phương pháp sức mua
tương đương (đặc trưng cho phát triển kinh
tế và nâng cao mức sống); chỉ tiêu tỉ lệ biết
chữ và số năm đi học bình quân của người
lớn (đặc trưng cho tri thức của con người)
và chỉ tiêu kỳ vọng sống (đặc trưng cho sức
khoẻ của con người).
Xuất phát từ yêu cầu của công tác quản
lý, căn cứ vào vai trò, ý nghĩa cũng như đặc
điểm của chỉ tiêu, để đánh giá tổng hợp về
phát triển kinh tế ở phạm vi toàn nền kinh tế
quốc dân của cả nước cũng như của các
tỉnh, thành phố, chúng tôi đề nghị sử dụng 5
chỉ tiêu gọi là chủ yếu gồm: GDP tính theo
giá thực tế bình quân đầu người, tốc độ phát
triển hoặc tốc độ tăng tính theo GDP, tỉ lệ
xuất khẩu so với giá trị sản xuất theo giá
thực tế, tỉ lệ thu ngân sách so với tổng sản
phẩm quốc nội theo giá thực tế và hiệu quả
sử dụng vốn đầu tư.
1. GDP bình quân đầu người (G)
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách
so sánh giữa GDP theo giá thực tế (y) với
dân số trung bình (D), tức là:
G = y : D ; (1)
GDP bình quân đầu người được tính
theo phạm vi của cả nước hoặc một tỉnh,
thành phố. Đây là một trong những chỉ tiêu
phản ánh tập trung nhất trình độ sản xuất,
đặc trưng cho quan hệ giữa phát triển kinh
tế và gia tăng dân số. Chỉ tiêu GDP bình
quân đầu người càng lớn, phản ánh trình độ
sản xuất càng phát triển, cũng đồng thời với
mức sống của nhân dân càng được nâng
cao. GDP bình quân đầu người tăng trước
hết phụ thuộc vào sự gia tăng của kết quả
sản xuất, mặt khác phụ thuộc vào việc thực
hiện chính sách hạ thấp tỷ lệ tăng dân số
của mỗi tỉnh, thành phố hay cả một quốc
gia.
Khi so sánh trình độ phát triển kinh tế
giữa các quốc gia hoặc giữa các tỉnh, thành
phố trong cả nước với nhau, trước hết phải
kể đến chỉ tiêu GDP bình quân đầu người.
GDP bình quân đầu người là một trong
những chỉ tiêu thống kê để so sánh quốc tế,
là cơ sở để tính một trong số ba chỉ số
thành phần của chỉ số phát triển con người
(HDI).
Trong phạm vi cả nước hoặc một tỉnh,
thành phố thì biến động của chỉ tiêu GDP có
cùng xu hướng và quan hệ khá chặt chẽ với
chỉ tiêu năng suất lao động tính trên toàn
nền kinh tế quốc dân. Do vậy GDP cao hay
thấp, tăng hay giảm cũng phản ánh khá rõ
nét hiệu quả sử dụng lao động làm việc cao
hay thấp, tăng hay giảm.
Do vậy, đối với toàn nền kinh tế, trong
hai chỉ tiêu GDP bình quân đầu người và
năng suất lao động chỉ nên chọn một chỉ tiêu
làm căn cứ đánh giá phát triển kinh tế, đó là
GDP bình quân đầu người.
2. Tốc độ phát triển hoặc tốc độ tăng
về kinh tế
Khi đánh giá kết quả phát triển kinh tế,
ngoài căn cứ vào mức độ đạt được của chỉ
tiêu nghiên cứu cao hay thấp, còn phải xem
xét kết quả đó có xu hướng như thế nào,
tăng lên hay giảm đi và nếu tăng thì tăng
nhanh hay chậm. Do vậy khi đánh giá về
phát triển kinh tế, cùng với chỉ tiêu GDP
chuyªn san khoa häc vµ c«ng nghÖ víi ph¸t triÓn kinh tÕ 27
bình quân đầu người cần phải có chỉ tiêu tốc
độ phát triển hoặc tốc độ tăng được tính trên
cơ sở số liệu về chỉ tiêu GDP theo giá so
sánh.
Tốc độ phát triển hoặc tốc độ tăng có
thể là phát triển liên hoàn, tăng liên hoàn
hoặc phát triển định gốc, tăng định gốc, tùy
thuộc vào năm gốc chọn để nghiên cứu.
Tốc độ tăng liên hoàn hoặc tốc độ tăng
định gốc bằng tốc độ phát triển liên hoàn
hoặc tốc độ phát triển định gốc trừ đi 1 (nếu
tính bằng lần) và trừ đi 100 (nếu tính bằng
%).
Khi xét trong cả giai đoạn nhiều năm ta
sẽ tính tốc độ phát triển hoặc tốc độ tăng
bình quân hàng năm. Tốc độ tăng bình quân
hàng năm (của nhiều năm) là số bình quân
tích của tích các tốc độ phát triển liên hoàn.
Tốc độ tăng bình quân năm bằng tốc độ
phát triển bình quân trừ đi 1 (nếu tính bằng
lần) và trừ đi 100 (nếu tính bằng %).
Hiện nay ở nước ta, tăng trưởng kinh tế
được coi là một trong những chỉ tiêu chủ
yếu thuộc mục tiêu kinh tế để phấn đấu thực
hiện cho từng năm hoặc giai đoạn 5 năm
trong phạm vi toàn quốc cũng như các tỉnh,
thành phố trong cả nước. Và mỗi khi nói đến
phát triển kinh tế là phải nói đến tốc độ tăng
trưởng.
Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế cao
hay thấp không chỉ phản ánh sự tăng lên
của từng ngành, từng thành phần kinh tế
cao hay thấp; mà còn phản ánh sự thay đổi
cơ cấu kinh tế theo hướng mở rộng những
ngành, những thành phần kinh tế có năng
suất lao động cao, và giảm đi một cách
tương đối những ngành, thành phần kinh tế
có năng suất lao động thấp. Như vậy tăng
trưởng nhanh cũng còn là biểu hiện của
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng.
3. Tỷ lệ xuất khẩu
Trong điều kiện đẩy mạnh kinh tế thị
trường, tăng cường hội nhập quốc tế, ngoài
yêu cầu nền kinh tế tăng nhanh, có kết quả
sản xuất đạt mức bình quân đầu người cao
nhằm thoả mãn nhu cầu tích luỹ để phát
triển sản xuất, và nhu cầu tiêu dùng ngày
càng tăng của nhân dân, còn phải xét đến
khả năng cạnh tranh, trong nước và ngoài
nước; xét đến khả năng thâm nhập được
vào thị trường của các nước, mà đặc trưng
cuối cùng cho khả năng này chính là biểu
hiện bằng trị giá xuất khẩu hàng hoá và dịch
vụ. Tỉnh, thành phố nào xuất khẩu được
nhiều sản phẩm hàng hoá và dịch vụ sẽ
không chỉ có thêm ngoại tệ để nhập vật tư
kỹ thuật và công nghệ tiên tiến phục vụ cho
yêu cầu phát triển của chính tỉnh, thành phố
đó, mà còn góp phần làm giàu cho đất
nước.
Tuy nhiên, khi áp dụng chỉ tiêu xuất
khẩu trong việc nghiên cứu quan hệ giữa
các tỉnh cần chú ý đặc điểm là quy mô của
các tỉnh, thành phố rất khác nhau (điều kiện
sản xuất và đặc biệt sản xuất mặt hàng xuất
khẩu rất khác nhau) nên không thể dùng chỉ
tiêu trị giá xuất khẩu để so sánh trực tiếp,
mà thay vì chỉ tiêu tỉ lệ xuất khẩu tính bằng
quan hệ so sánh giữa trị giá xuất khẩu với
một chỉ tiêu kết quả sản xuất (viết ngắn gọn
là tỉ lệ xuất khẩu). Tỷ lệ xuất khẩu càng cao
chứng tỏ nền kinh tế càng có khả năng cạnh
tranh tốt và ngược lại. Một nền kinh tế phát
triển bền vững có chất lượng tăng trưởng tốt
phải là nền kinh tế có khả năng cạnh tranh
tốt, tức là có tỉ lệ xuất khẩu cao. Nói cách
khác, một quốc gia hay một tỉnh thành phố
có tỉ lệ xuất khẩu tốt ở một góc độ nào đó
Th«ng tin Khoa häc Thèng kª 28
chứng tỏ kinh tế phát triển bền vững, có
chất lượng tăng trưởng tốt.
Nếu có giá trị xuất khẩu thuần (giá trị
xuất khẩu không bao gồm giá trị nguyên
nhiên liệu, phụ tùng nhập về) thì tỉ lệ xuất
khẩu sẽ tính bằng giá trị xuất khẩu thuần
chia cho tổng sản phẩm quốc nội. Còn nếu
“tổng trị giá xuất khẩu tính cả giá trị nguyên
nhiên vật liệu phụ tùng thay thế nhập khẩu
về thì mẫu số của chỉ tiêu sẽ tính theo giá trị
sản xuất (vì như vậy sẽ đảm bảo sự đồng
nhất phạm vi tính toán của tử số và mẫu số,
tức là cùng tính toàn bộ giá trị của sản
phẩm: c + v + m).
Hiện nay ở Việt Nam trị giá xuất khẩu
tính cả phần giá trị nguyên nhiên vật liệu
phụ tùng nhập về cho nên chỉ tiêu tỉ lệ xuất
khẩu ở đây chúng tôi tính theo cách tính thứ
2: bằng trị giá xuất khẩu (quy về tiền Việt
Nam theo giá thực tế) chia cho giá trị sản
xuất theo giá thực tế.
Thực tế trị giá xuất khẩu tính theo đơn
vị tính: USD. Khi tính tỉ lệ xuất khẩu phải quy
đổi giá trị xuất khẩu về cùng đơn vị tính là
đồng Việt Nam. Trị giá xuất khẩu (đồng Việt
Nam) = trị giá xuất khẩu (USD) x tỷ giá hối
đoái bình quân năm. Tỷ giá hối đoái bình
quân năm là bình quân tỷ giá các tháng
trong năm.
4. Tỷ lệ thu ngân sách
Đây là quan hệ so sánh giữa tổng thu
ngân sách của Nhà nước và GDP tính theo
giá thực tế.
Do quy mô sản xuất giữa các tỉnh,
thành phố khác nhau, điều kiện sản xuất
khác nhau nên không dùng tổng mức thu
ngân sách mà là tỷ lệ thu ngân sách.
Tỷ lệ thu ngân sách càng cao càng có ý
nghĩa và ngược lại. Tỷ lệ thu ngân sách tăng
vừa phản ánh hiệu quả sản xuất đạt được
ngày một tăng với sự thay đổi cơ cấu sản
xuất theo hướng đẩy mạnh sản xuất những
ngành có năng suất lao động cao, mở rộng
sản xuất những loại sản phẩm có giá trị kinh
tế lớn vừa thể hiện khả năng quản lý thị
trường, thực hiện tốt chính sách thu thuế,
tăng thu ngân sách cho Nhà nước.
Tỷ lệ thu ngân sách tăng lên khi có tốc
độ tăng thu ngân sách cao hay tốc độ tăng
trưởng kinh tế. Tăng tỷ lệ thu ngân sách
chính là thu ngân sách ngày càng nhiều, tạo
điều kiện để tăng tích lũy vốn đầu tư cho
phát triển kinh tế - văn hóa xã hội cũng như
góp phần quan trọng trong việc nâng cao
đời sống của nhân dân. Với ý nghĩa đó chỉ
tiêu “tỷ lệ thu ngân sách” cũng được xác
định là một trong những chỉ tiêu chủ yếu để
đánh giá phát triển kinh tế.
Khi tính tỷ lệ chi ngân sách trên địa bàn
phải chú ý loại trừ những khoản thực chất
do không phải cố gắng đẩy mạnh sản xuất
kinh doanh hoặc sự cố gắng tận thu của các
tỉnh, thành phố như vốn vay từ nước ngoài,
số tiền thu được do chuyển nhượng đất đai,
v.v
5. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
(ICOR)
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là chỉ tiêu
kinh tế tổng hợp đặc trưng quan hệ giữa yếu
tố vốn đầu tư và kết quả sản xuất, đây cũng
là một trong những chỉ tiêu quan trọng để
đánh giá chất lượng tăng trưởng, đánh giá
phát triển kinh tế bền vững của một quốc gia
hay một tỉnh, thành phố.
Có hai phương pháp tính hiệu quả vốn
đầu tư.
chuyªn san khoa häc vµ c«ng nghÖ víi ph¸t triÓn kinh tÕ 29
- Phương pháp thứ nhất được tính theo
công thức:
0t
t
GG
V
ICOR
; (2.a)
Trong đó:
Vt - tổng số vốn đầu tư của năm báo
cáo
Gt - tổng sản phẩm trong nước của
năm báo cáo
G0 - tổng sản phẩm trong nước của
năm chọn làm gốc so sánh
Các chỉ tiêu vốn đầu tư và tổng sản
phẩm trong nước đều được tính theo cùng
một loại giá.
Phương pháp tính hệ số ICOR thứ nhất
cho biết rằng để tăng thêm một đơn vị tổng
sản phẩm trong nước cần tăng thêm bao
nhiêu đơn vị vốn đầu tư thực hiện.
- Phương pháp thứ hai được tính theo
công thức:
(%)I
(%)I
ICOR
G
V ; (2.b)
Trong đó:
IV - tỷ lệ vốn đầu tư so với tổng sản
phẩm trong nước
IG - tốc độ tăng tổng sản phẩm trong
nước.
Phương pháp tính hệ số ICOR thứ hai
cho biết để tăng thêm 1% của tổng sản
phẩm trong nước phải tăng thêm bao nhiêu
% tỷ lệ vốn đầu tư so với tổng sản phẩm
trong nước.
Tính hệ số ICOR theo hai phương pháp
trên đây thường cho kết quả không hoàn
toàn giống nhau. Trong thực tế thường dùng
phương pháp thứ nhất vì tính toán trực tiếp.
Tuy nhiên phương pháp thứ hai được áp
dụng để tính toán bổ sung, kiểm tra kết quả
tính theo phương pháp thứ nhất. Trong
trường hợp kết quả tính theo phương pháp
chênh lệch nhau nhiều có thể phải kết hợp
cả hai.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là điều
kiện cơ bản để tiết kiệm vốn, điều này rất có
ý nghĩa đối với Việt Nam trong điều kiện đất
nước còn nghèo, ta đang thiếu vốn đầu tư
cho đổi mới công nghệ, cải tiến kỹ thuật,
thực hiện quá trình công nghiệp hóa - hiện
đại hóa đất nước.
Trên đây là các chỉ tiêu được lựa chọn
để phản ánh sự phát triển kinh tế nước ta
trong điều kiện hiện nay. Trong số các chỉ
tiêu này thì chỉ tiêu GDP bình quân đầu
người và tốc độ tăng trưởng có vị trí hàng
đầu vì nước ta đang ở giai đoạn phát triển,
năng suất lao động còn rất thấp (năm 2005
năng suất lao động của Việt Nam đạt 19,62
triệu đồng, tính đổi theo tỷ giá hối đoái thì
đạt 1237 USD, nên so với năng suất lao
động của một số nước trong khối ASEAN thì
năng suất lao động của Việt Nam chỉ bằng
2,35% của Singapor, bằng 10,95% của
Malaisia, bằng 28,7% của Thái Lan, bằng
44,07% của Philipin và bằng 63,37% của
Inđônêsia. Mức sống bình quân đầu người
thấp hơn nhiều mức bình quân của các
nước trên thế giới và mức bình quân của
các nước châu Á. Hiện tại cần phải chú
trọng chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế và nâng
cao GDP bình quân đầu người. Còn 3 chỉ
tiêu còn lại: tỉ lệ xuất khẩu, tỉ lệ thu ngân
sách và hiệu quả vốn đầu tư đứng vị trí thứ
hai. (tiếp theo trang 24)
Th«ng tin Khoa häc Thèng kª 24
Để áp dụng thuận tiện các mô hình
phân tích hồi quy tương quan trên đây, sau
khi lựa chọn dược các chỉ tiêu chủ yếu đặc
trưng cho KHCN và phát triển kinh tế cần
phải thực hiện một số yêu cầu tính toán như
sau:
- Đối với các chỉ tiêu kinh tế, sẽ đưa các
chỉ tiêu này về các chỉ số riêng biệt sau tổng
hợp thành một chỉ số chung về phát triển
kinh tế và xem đó là chỉ tiêu kết quả y.
- Đối với các chỉ tiêu KHCN, gồm có
các chỉ tiêu thống kê phản ánh chất lượng
lao động và kỹ năng của con người và các
chỉ tiêu thống kê về công nghệ. Các chỉ tiêu
về công nghệ được chia thành 3 nhóm:
nhóm 1 gồm các chỉ tiêu phản ánh quá trình
đổi mới công nghệ; nhóm 2 gồm các chỉ tiêu
phản ánh quá trình chuyển giao công nghệ
và nhóm 3 gồm các chỉ tiêu phản ánh trình
độ công nghệ thông tin và truyền thông. Tiếp
tục sẽ chuyển các chỉ tiêu về các chỉ số
tương ứng và tính các chỉ số thành phần rồi
tổng hợp các chỉ số thành phần tính chỉ số
chung. Chẳng hạn đối với yếu tố công nghệ
sẽ tính: Chỉ số đổi mới công nghệ (I1), chỉ số
chuyển giao công nghệ (I2) và chỉ số công
nghệ thông tin và truyền thông (I3). Cuối
cùng sẽ tính chỉ số năng lực công nghệ (I)
bằng cách tính bình quân gia quyền giữa 3
chỉ số trên. Công thức tính như sau:
321 I
8
4
I
8
3
I
8
1
I ; (11)
LỰA CHỌN CHỈ TIÊU ĐẶC TRƯNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ ... (tiếp theo trang 29)
Tuy nhiên cần lưu ý là việc lựa chọn và
áp dụng các chỉ tiêu trên cũng chỉ có ý
nghĩa tương đối, nghĩa là các chỉ tiêu lựa
chọn trên đây có thể thay đổi cho phù hợp
tuỳ thuộc vào mục tiêu phát triển kinh tế
cũng như điều kiện cụ thể của từng thời kỳ.
Sự thay đổi này có thể là thay đổi về
số lượng chỉ tiêu (tăng lên hay giảm đi số
lượng chỉ tiêu) hoặc thay thế chỉ tiêu này
bằng chỉ tiêu khác xác định lại vị trí quan
trọng của các chỉ tiêu được chọn. Sự thay
đổi này là tất yếu khách quan giống như
lựa chọn chỉ tiêu thống kê nghiên cứu ở
các lĩnh vực khác.
Mặt khác cần lưu ý là khi chọn ra các chỉ
tiêu chủ yếu để đánh giá phát triển kinh tế
như đã trình bày ở trên không có nghĩa loại
trừ các chỉ tiêu khác, mà ngược lại vẫn phải
giữ lại để nghiên cứu, đánh giá có tính chất
bổ sung.
Cũng trong 5 chỉ tiêu chọn ra ở trên,
trong thực tế có thể có những chỉ tiêu số
liệu đảm bảo độ tin cậy cần thiết cho
nghiên cứu, nhưng cũng có thể có chỉ tiêu
số liệu còn nhiều bất cập nên khi đánh giá
chung về phát triển kinh tế không nhất thiết
là cứ phải có đủ 5 chỉ tiêu đó mà có thể
thiếu chỉ tiêu này hay chỉ tiêu khác nhưng
không quá 2 chỉ tiêu và không rõ vào
những chỉ tiêu quan trọng nhất
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lua_chon_chi_tieu_dac_trung_phat_trien_kinh_te_de_nghien_cuu.pdf