NGHIÊN CỨU HÀM LƯỢNG NITRAT VÀ KIM LOẠI NẶNG TRONG
ĐẤT, NƯỚC, RAU VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM HẠN CHẾ SỰ
TÍCH LŨY CỦA CHÚNG TRONG RAU TẠI THÁI NGUYÊN
LUẬN ÁN TIẾN SỸ NÔNG NGHIỆP
I. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế của cả nước, nền nông nghiệp Việt
Nam trong những năm gần đây đã có được những thành tựu đáng kể, nhìn
chung năng suất sản lượng của các loại cây trồng đều tăng, đời sống người
lao động ngày càng được cải thiện. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được
thì việc sử dụng lượng lớn và không đúng qui định phân hoá học và các loại
thuốc bảo vệ thực vật đã làm giảm chất lượng của các sản phẩm nông
nghiệp, ngoài ra chất thải của các nhà máy xí nghiệp, khu công nghiệp và
nước thải đô thị làm ô nhiễm đất, nước và nông sản, gây ảnh hưởng xấu đến
sức khoẻ cộng đồng đặc biệt là ở những khu công nghiệp tập trung và các
thành phố lớn.
Thành phố Thái Nguyên là một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa ở
khu vực phía Bắc Việt Nam. Với mật độ dân số đông (1.367 người/km2)[6],
thành phố Thái Nguyên là một thị trường quan trọng để tiêu thụ các sản phẩm
nông nghiệp trong đó có rau xanh. Từ nhiều năm nay thành phố đã hình thành
vành đai sản xuất thực phẩm trong đó cây rau được coi là sản phẩm quan
trọng nhất. Cùng với sự tăng trưởng nông nghiệp nói chung, sản xuất rau ở
Thái Nguyên đã đáp ứng được nhu cầu về số lượng, khắc phục dần tình trạng
thiếu hụt lúc giáp vụ, nhiều chủng loại rau chất lượng cao đã được bổ sung
trong bữa ăn hàng ngày của người dân. Tuy nhiên, trong xu thế của một nền
sản xuất thâm canh, công nghệ sản xuất rau hiện nay đang bộc lộ những
nhược điểm đó là việc ứng dụng ồ ạt, thiếu chọn lọc các tiến bộ kỹ thuật như
phân bón, chất kích thích sinh trưởng, thuốc bảo vệ thực vật dẫn đến không
những gây ô nhiễm môi trường canh tác mà còn làm cho rau bị nhiễm bẩn,
ảnh hưởng đến sức khoẻ người sử dụng.
2
Bên cạnh đó thành phố Thái Nguyên còn là một trong những trung tâm
công nghiệp lớn ở Việt Nam, nơi đây tập trung nhiều nhà máy xí nghiệp lớn
như Nhà máy gang thép Thái Nguyên, Nhà máy Giấy Hoàng Văn Thụ, Nhà
máy điện Cao Ngạn . Vì vậy, lượng nước thải từ các nhà máy đổ ra môi
trường hàng ngày khá lớn: Nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ thải khoảng
400m3/ngày, nước thải độc và bẩn làm ô nhiếm suối Mỏ Bạch và nguồn nước
Sông Cầu, Nhà máy cán thép Gia Sàng và khu gang thép Cam Giá hàng ngày
thải một lượng nước lớn không được xử lý vào suối Xương Rồng gây ô nhiễm
khu vực phường Gia Sàng, phường Túc Duyên Các Nhà máy Tấm lợp
Amiăng, Khu gang thép Thái Nguyên hàng ngày thải ra lượng bụi lớn làm ô
nhiễm khu vực Cam Giá Theo thông tin của Bộ Công nghiệp: Chất lượng
nước sông Cầu ngày càng xấu đi, nhiều đoạn sông đã bị ô nhiễm tới mức báo
động. Ô nhiễm cao nhất là đoạn sông Cầu chảy qua địa phận thành phố Thái
Nguyên, đặc biệt là tại các điểm thải của Nhà máy Giấy Hoàng Văn Thụ, khu
Gang thép Thái Nguyên chất lượng nước không đạt cả tiêu chuẩn A và B
của TCVN 5942 - 1995 (Báo công nghiệp Việt Nam, 12/2003[2]). Thêm vào
đó là nạn khai thác khoáng sản từ các vùng Sơn Dương, Đại Từ, Phú Lương,
Võ Nhai với 177 điểm quặng và mỏ bao gồm than đá, quặng titan, quặng chì,
quặng thiếc chứa As .do công nghệ khai thác lạc hậu, không có hệ thống xử
lý chất thải, đá thải đã làm cho môi trường sông, suối, hồ nước bị ô nhiễm
nghiêm trọng bởi các hoá chất độc hại như As, Pb, Cd (UBND tỉnh Thái
Nguyên, 2004[52]), hàm lượng Pb trong nước mặt ở một số khu vực của
thành phố Thái Nguyên gấp từ 2 – 3 lần, Cd gấp từ 2 – 4 lần so với TCVN
6773 – 2000 (Nguyễn Đăng Đức, 2006 [10]).
Có thể nói môi trường đất, nước mặt ở thành phố Thái Nguyên đã và
đang bị ô nhiễm nặng nề bởi các hoá chất độc hại từ các nguồn thải công
nghiệp, nông nghiệp và phế thải đô thị . Xu hướng ô nhiễm có chiều hướng
3
ngày càng gia tăng cả về số lượng, diện tích nếu không có biện pháp xử lý
triệt để và đó là một trong những nguyên nhân thu hẹp dần vùng trồng rau
sạch của thành phố.
Vấn đề ô nhiễm đất, nước do các hoạt động sản xuất công nghiệp, nông
nghiệp, phế thải đô thị tại thành phố Thái Nguyên đã được cảnh báo. Tuy vậy
các nghiên cứu mới chỉ tập trung vào việc đánh giá tình hình ô nhiễm đất,
nước mà chưa đi sâu tìm hiểu về mức độ ảnh hưởng của việc ô nhiễm đó đến
chất lượng nông sản.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu sự nhiễm bẩn môi trường đất, nước và
ảnh hưởng của chúng đến chất lượng sản phẩm nông nghiệp là một vấn đề cấp
bách hiện nay, góp phần ngăn chặn sự gia tăng ngày một nhiều các chất thải
sinh hoạt và công nghiệp được đổ vào đất, nước. Từ những nghiên cứu đầy đủ
về nhiễm bẩn đất, nước tưới trong nông nghiệp sẽ đưa ra các biện pháp hữu
ích để tạo ra sản phẩm an toàn, hướng tới một nền nông nghiệp sạch và bền
vững. Trong hoàn cảnh chung của yêu cầu sản xuất và điều kiện môi trường
đề tài: “Nghiên cứu hàm lượng nitrat và kim loại nặng trong đất, nước, rau
và một số biện pháp nhằm hạn chế sự tích luỹ của chúng trong rau tại Thái
Nguyên" được tiến hành, nhằm góp một phần vào việc kiểm soát và khống
chế sự tích luỹ nitrat và kim loại nặng trong rau tại Thành phố Thái Nguyên.
2. Mục tiêu của đề tài
- Đưa ra những dẫn liệu cơ bản về tình hình ô nhiễm nitrat và kim loại
nặng trong môi trường đất trồng và nước tưới tại một số vùng sản xuất rau ở
thành phố Thái Nguyên.
- Nghiên cứu mức độ ảnh hưởng việc sử dụng nước tưới bị ô nhiễm
nitrat và kim loại nặng (Pb, Cd, As) đến năng suất và sự tích luỹ của chúng
trong phần thương phẩm của một số loại rau.
- Đề xuất một số biện pháp hạn chế tồn dư NO3- và sự tích lũy kim loại
nặng (Pb, Cd, As) trong rau ở thành phố Thái Nguyên.
3. Giới hạn nghiên cứu - Đối tượng và thời gian nghiên cứu
4
3.1. Giới hạn nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại Thành phố Thái Nguyên với 5 địa điểm
lựa chọn làm đại diện: Phường Túc Duyên, Phường Quang Vinh, Phường
Cam Giá, Xã Lương Sơn và Xã Quyết Thắng.
+ Điều tra, lấy mẫu đất, nước, rau tại 5 địa điểm trên.
+ Thí nghiệm nghiên cứu trong chậu thực hiện tại Trường Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên.
+ Thí nghiệm đồng ruộng và trong sản xuất thực hiện tại phường Túc
Duyên và phường Cam Giá trên nền đất phù sa sông Cầu không được bồi
hàng năm.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
3.2.1. Cây rau
Điều tra thực trạng sản xuất, đánh giá tồn dư NO 3- và kim loại nặng (Pb,
Cd, As) trong rau: Sử dụng 6 loại rau thuộc 4 nhóm trồng phổ biến ngoài sản
xuất:
+Rau ăn lá: Bắp cải (Brassica L.var.capitata), Cải xanh (Brassica Juncea
L.), Rau muống (Ipomoea aquatica)
+ Rau ăn củ: cải củ (Raphanus sativus L.)
+ Rau ăn quả: đậu côve leo (Phaseolus vulgaris L.)
+ Rau gia vị: rau mùi (Coriandrum sativum L.)
Thí nghiệm nghiên cứu được tiến hành trên 3 loại rau đại diện 3 nhóm:
+ Rau ăn lá: Cải canh. Tên khoa học: Brassica juncea L., thuộc họ thập
tự Cruciferae. Giống sử dụng trong thí nghiệm là giống cải canh vàng TG của
Công ty giống cây trồng Miền Nam, thời gian sinh trưởng 28 - 30 ngày.
+ Rau ăn quả: Đậu côve leo. Tên khoa học: Phaseolus vulgaris L., thuộc
họ Leguminoceae. Giống sử dụng trong thí nghiệm là giống Đậu côve leo hạt
5
đen cao sản của Công ty Cổ phần giống cây trồng Miền Nam. Thời gian sinh
trưởng 50 - 60 ngày.
+ Rau ăn lá, củ: Cải củ. Tên khoa học: Raphanus sativus L., thuộc họ
thập tự Cruciferae. Giống sử dụng trong thí nghiệm là giống cải củ lá ngắn số
13 của Trung Quốc được nhập khẩu bởi công ty giống rau quả Minh Tiến,
Đống Đa, Hà Nội. Thời gian sinh trưởng là 40 - 50 ngày.
3.2.2. Đất, nước
Nguồn nước tưới và đất trồng rau tại 5 địa điểm trên của thành phố
Thái Nguyên
3.3. Thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ năm 2002 - 2007
4. Những đóng góp mới của đề tài
4.1. Ý nghĩa khoa học
- Đóng góp về mặt lý luận cho việc giải thích các mối tương quan giữa
hàm lượng các kim loại nặng trong đất, trong nước và hàm lượng của chúng
trong phần sử dụng của một số loại rau.
- Xem xét khả năng hấp thu NO 3- và kim loại nặng (Pb, Cd, As) trong
nước tưới cho rau cải canh, cải củ và đậu côve leo trồng tại Thành phố Thái
Nguyên.
4.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đưa ra những dẫn liệu cơ bản về tình hình ô nhiễm N-NO3- và kim
loại nặng (Pb, Cd, As) trong đất trồng, nước tưới và trong rau sản xuất ở
thành phố Thái Nguyên.
- Góp phần cung cấp cơ sở khoa học định hướng qui hoạch vùng sản
xuất rau an toàn.
- Đề xuất một số giải pháp để giảm thiểu sự tích luỹ nitrat và kim loại
nặng trong rau.
147 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2359 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu hàm lượng nitrat và kim loại nặng trong đất, nước, rau và một số biện pháp nhằm hạn chế sự tích lũy của chúng trong rau tại Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khi
đó hàm lượng Pb trong rau giảm xuống 0,8782 mg/kg tươi và tiếp tục giảm
đến công thức 4 (bón 7,5 gam CaO) nhưng phải đến công thức 5 (bón 10 gam
CaO) thì hàm lượng Pb trong rau mới đạt tiêu chuẩn cho rau an toàn, khi đó
pH đất là 7,4. Như vậy nếu sử dụng nước tưới chứa 2,0ppm Pb cần thiết phải
bón vôi để pH đất ở môi trường trung tính thì Pb sẽ bị kết tủa trong đất và ít
vận chuyển vào rau nên hàm lượng Pb trong rau đạt tiêu chuẩn an toàn. Kết
quả này càng khẳng định thêm vai trò của pH đất đến sự linh động của Pb.
112
Tương quan giữa pH đất và hàm lượng Pb trong rau cải canh được biểu
diễn trên hình 3.17:
y = -0.0094x2 - 0.1828x + 2.3315
R2 = 0.7453
0.0
0.2
0.4
0.6
0.8
1.0
1.2
1.4
4.0 5.0 6.0 7.0 8.0
Pb trong rau
(mg/kgt)
pH đất
Hình 3.17: Tương quan giữa pH đất và hàm lượng Pb trong rau khi
sử dụng các mức vôi bón khác nhau
Như vậy giữa pH đất và hàm lượng Pb trong rau có một sự tương quan
nghịch (R2 =0,7543 ở mức ý nghĩa 99%), khi pH đất ở mức gần trung tính
hoặc kiềm, sự hấp thu Pb từ môi trường vào rau giảm do Pb đã bị kết tủa
thành PbCO3 hoặc Pb(OH)2 ít ảnh hưởng đến cây trồng.
* Ảnh hưởng của các mức bón vôi đến sự hạn chế sự tích luỹ Cd từ nước vào
rau cải canh
Sử dụng nước tưới ô nhiễm Cd ở mức 0,1ppm tưới cho rau trên nền đất
được bổ sung vôi theo các mức tăng dần: không bón vôi (ĐC), bón 2,5 - 5,0 -
7,5 - 10,0 gam CaO/vại, chúng tôi thấy hàm lượng Cd trong rau cải canh có
quan hệ chặt chẽ với pH đất thông qua lượng vôi bón (hình 3.18 và hình
3.19):
- Khi sử dụng vôi lót vào đất làm cho pH đất có sự biến động rõ rệt, từ
4,8 ở công thức ĐC, lên 6,5 ở công thức 3 (bón 5,0 gam CaO/vại) và pH đạt
cao nhất là 7,5 ở công thức bón 10gam CaO/vại.
113
4.8e
5.3d
6.5c
6.9b
7.5a
0.3
97
2a
0.3
31
9b
0.0
73
2c
0.0
19
3d
0.0
13
2e
0,0
1,0
2,0
3,0
4,0
5,0
6,0
7,0
8,0
ĐC 2,5 5,0 7,5 10,0
pH đất Cd trong rau
(mg/kg tươi)
Lượng
CaO(g/vại)
Hình 3.18: Ảnh hưởng của lượng vôi lót đến pH đất và sự tích luỹ Cd từ
nước vào rau cải canh
(Thí nghiệm chậu vại trong nhà che nilon - Năm 2004 và năm 2005)
- Hàm lượng Cd trong rau giảm cùng với sự tăng pH đất khi sử dụng vôi
bón ở các mức khác nhau, từ 0,3972 mg/kg rau tươi (công thức ĐC) đến
0,3391mg/kg rau tươi (công thức 2 - bón 2,5 gam CaO/vại) và đạt mức an
toàn ở công thức 4 là 0,0193 mg/kg rau tươi, khi đó pH đất là 6,9. Nhưng
khác với Pb, hàm lượng Cd có xu hướng giảm mạnh ở mức pH đất trong
khoảng 6,5 – 6,9 cụ thể:
- Công thức bón 2,5 gam CaO/vại, với pH đất là 5,3 hàm lượng Cd trong
rau là 0,3319 mg/kg giảm 1,2 lần so với công thức ĐC (không bón vôi)
- Công thức bón 5,0 gam CaO/vại, tương đương với pH đất là 6,5 thì
hàm lượng Cd trong rau là 0,0732 mg/kg tươi, giảm 5,4 lần so với ĐC và
giảm 4,5 lần so với công thức 2 (bón 5,0 gam CaO/vại).
- Công thức bón 7,5 gam CaO/vại, pH đất là 6,9 và hàm lượng Cd trong
rau là 0,0193 mg/kg tươi, giảm 17,2 lần so với công thức 2 (bón 2,5 gam
114
CaO/vại). Ở mức này hàm lượng trong rau đã đạt tiêu chuẩn an toàn (giới hạn
hàm lượng Cd trong rau an toàn là ≤ 0,02 mg/kg rau tươi).
- Công thức bón 10,0 gam CaO/vại, khi đó với pH đất là 7,5 thì hàm
lượng Cd trong rau là 0,0132 mg/kg tươi, giảm 5,5 lần so với công thức 3
(bón 5,0 gam CaO/vại) và giảm 1,4 lần so với công thức 4.
Như vậy trong điều kiện nước tưới bị ô nhiễm Cd đến mức 0,5ppm, để
hàm lượng Cd trong rau đạt tiêu chuẩn an toàn có thể sử dụng vôi như một
công cụ để tăng pH đất lên 6,6 - 7,0 đã hạn chế sự tích lũy Cd từ nước vào
rau.
Cũng giống như Pb, giữa pH đất và hàm lượng Cd trong rau có mối
tương quan nghịch (R2= 0,883) nghĩa là khi pH đất tăng thì giảm sự hấp thu
Cd vào cây trồng.
y = 0.0508x2 - 0.7681x + 2.9144
R2 = 0.883
0.0
0.1
0.2
0.3
0.4
4.0 5.0 6.0 7.0 8.0
Cd trong rau
(mg/kgt)
pH đất
Hình 3.19: Tương quan giữa pH đất và hàm lượng Cd trong rau khi
sử dụng các mức vôi bón khác nhau.
Kết quả nghiên cứu phù hợp với nghiên cứu của: Bride, Murray B.[64],
nghiên cứu trên rau diếp: hàm lượng Cd hấp thu vào cây được hạn chế bởi pH
đất cao, Han and Lee, 2004 [73] khi thực hiện trên cải củ, trên đậu; Wang và
cs (2006) [114] thử nghiệm trên trên cải canh cũng cho kết quả tương tự, các
115
tác giả đều khẳng định pH đất là nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến độ
hấp thu Cd vào cây trồng.
* Ảnh hưởng của các mức bón vôi đến hạn chế sự tích luỹ As từ nước vào rau
cải canh
Từ kết quả thí nghiệm 1 chúng tôi sử dụng nước tưới chứa 0,5 ppm As
cho rau cải canh trên nền bón vôi theo mức tăng dần: 0 - 2,5 gam - 5,0 gam -
7,5 gam - 10 gam, kết quả được thể hiện ở hình 3.20 và hình 3.21:
4.8e
5.5d
6.4c 6.6b
7.3a
0.
22
05
b
0.
23
03
b
0.
19
92
c
0.
23
19
b
0.
24
55
a
0,0
1,0
2,0
3,0
4,0
5,0
6,0
7,0
8,0
ĐC 2,5 5,0 7,5 10,0
pH đất As trong rau
(mg/kg tươi)
Lượng
CaO(g/vại)
Hình 3.20: Ảnh hưởng của lượng vôi lót đến pH đất và sự tích luỹ As từ
nước vào rau cải canh
(Thí nghiệm chậu vại trong nhà che nilon - Năm 2004 và năm 2005)
Cũng giống như các thí nghiệm bón vôi khi sử dụng nước tưới ô nhiễm
Pb và Cd, thí nghiệm sử dụng nước tưới ô nhiễm As khi bón vôi vào đất với
mức tăng dần cũng làm cho pH đất tăng lên, mức ban đầu khi chưa bón vôi
pH của đất là 4,8 sau đó tăng dần lên 5,5 ở công thức 2 (mức bón 2,5 gam
CaO,vại), đạt 6,4 ở công thức III (bón 5,0 gam CaO/vại) và có giá trị cao nhất
ở công thức 5 – bón 10 gam CaO/vại, pH đất là 7,3.
116
Tuy vậy, khác với Pb và Cd, sự hấp thu As của cây trồng ít phụ thuộc
vào sự thay đổi của pH đất, việc tăng mức bón vôi làm cho pH đất tăng lên
nhưng hàm lượng As trong rau không có sự biến động (R2 = 1,1173):
Ở công thức ĐC (không bón vôi, sử dụng nước tưới ô nhiễm As) hàm
lượng As trong rau là 0,2205 mg/kg rau tươi, sau đó giảm xuống là 0,1992
mg/kg rau tươi (công thức 3: bón 5,0gam CaO/vại + sử dụng nước tưới ô
nhiễm As) nhưng ở công thức 5 (với pH đất là 7,3) thì hàm lượng As lại có xu
hướng tăng lên so với công thức ĐC (2,455 mg As/kg tươi). Điều này có thể
được giải thích khác với Pb và Cd, khi trong môi trường kiềm As có xu hướng
linh động hơn do sự có mặt Ca+2 nên As tạo thành Ca3(AsO4)2, làm cho khả
năng vận chuyển vào cây trồng nhiều hơn.
y = 0.0095x + 0.1697
R2 = 0.1173
0
0.05
0.1
0.15
0.2
0.25
0.3
4 5 6 7 8
As trong rau
(mg/kgt)
pH đất
Hình 3.21: Tương quan giữa pH đất và hàm lượng As trong rau khi
sử dụng các mức vôi bón khác nhau.
Như vậy để hạn chế sự tích luỹ As từ môi trường nước vào cây trồng
không thể dùng biện pháp bón vôi thông thường mà phải có các biện pháp
khác, như biện pháp hoá học dùng ôxit, hyđrôxyt Fe…, biện pháp sinh học
lựa chọn loại thực vật như dương xỉ….
117
* Ảnh hưởng của các mức bón vôi đến sự hạn chế sự tích luỹ Pb, Cd, As từ
nước vào rau cải canh
Kết quả sử dụng vôi với lượng tăng dần vào đất để hạn chế sự tích luỹ các
kim loại trong rau khi tưới nước chứa hỗn hợp các kim loại nặng (Pb, Cd, As)
cho kết quả tương tự như với các thí nghiệm sử dụng vôi bón trong trường hợp
nước tưới ô nhiễm đơn nguyên tố (hình 3.22):
a
b
c
dd
a b b
b
c
d d
a b c0,0
1,0
2,0
3,0
4,0
5,0
6,0
7,0
8,0
ĐC 2,5 5,0 7,5 10,0
0
0,05
0,1
0,15
0,2
0,25
0,3
0,35
pH đất Cd As Pb
Lượng
CaO(g/vại)
pH đất Hàm lượng trong
rau(mg/kg tươi)
Hình 3.22: Ảnh hưởng của lượng vôi lót đến pH đất và sự tích luỹ Pb,
Cd, As từ nước vào rau cải canh
(Thí nghiệm chậu vại trong nhà che nilon - Năm 2004 và năm 2005)
Ở mức bón 10 gam CaO/vại bón vào đất (công thức 5), khi sử dụng nước
ô nhiễm các kim loại nặng (Pb, Cd, As) đã làm giảm hàm lượng Pb trong rau
cải canh xuống dưới ngưỡng an toàn (0,4143 mg/kg rau tươi) với pH đất là
7,6; trong đó khi không sử dụng vôi bón vào đất (công thức ĐC) hàm lượng
Pb trong rau là 1,2 mg/kg rau tươi, tương ứng với giá trị pH đất là 4,8.
Với Cd: Ở công thức ĐC (không bón vôi) với pH đất là 4,8 thì hàm
lượng Cd trong rau là 0,3293 mg/kg rau tươi, công thức bón 2,5 gam CaO/vại
118
hàm lượng Cd trong rau giảm xuống không đáng kể 0,3031 mg/kg rau tươi
tương ứng với pH đất 5,7. Nhưng ở công thức bón 5,0 gam CaO/vại tương
ứng với pH đất là 6,5 thì hàm lượng Cd trong rau giảm mạnh xuống còn
0,0758 mg/kg rau tươi, giảm 4,3 lần so với đối chứng (không bón vôi) và
giảm 3,9 lần so với công thức bón 2,5 gam CaO/vại. Kết quả này cũng giống
như kết quả ở thí nghiệm bón vôi khi tưới nước ô nhiễm Cd, hàm lượng Cd
trong rau giảm mạnh nhất ở khoảng pH từ 5,7 - 6,4. Nhưng khác với thí
nghiệm đơn nguyên tố, hàm lượng Cd trong rau đạt TCCP khi pH đất là 6,9
(mức bón 7,5 gam CaO) trong thí nghiệm tưới hỗn hợp Pb, Cd, As hàm lượng
Cd trong rau đạt ngưỡng an toàn tại pH bằng 7,6 (mức bón 10 gam CaO).
Với As: Giống như thí nghiệm đơn nguyên tố, sự hấp thu As từ nước
tưới vào trong rau không bị ảnh hưởng bởi sự tăng pH đất khi bón vôi.
*Thí nghiệm bón vôi ngoài đồng
Dựa trên kết quả thí nghiệm trong chậu chúng tôi lựa chọn mức vôi bón
thích hợp nhất để hạn chế sự tích luỹ Cd, Pb từ nước tưới bị ô nhiễm vào rau
cải canh, thí nghiệm tiến hành tại 02 khu vực với nguồn gây ô nhiễm khác
nhau: Cam giá và Túc Duyên.
Thí nghiệm được triển khai vào vụ Đông năm 2006, kết quả thu được
như sau (bảng 3.15):
Khi không bón vôi pH đất ở cả hai địa điểm đều thấp là 5,3 và 5,9 (công
thức tưới nước sạch), 5,3 - 5,5 (công thức tưới nước ô nhiễm). Ở các công
thức bón vôi pH đất tăng lên, đạt 6,2 và 6,7(công thức 3) và 7,4 - 7,8 (công
thức 4)
Sử dụng vôi bón lót vào đất có tác dụng giảm rõ rệt sự tích luỹ các kim
loại Cd, Pb từ nước bị ô nhiễm vào rau cải canh:
119
Tại Túc Duyên: Với công thức tưới nước sạch, hàm lượng Pb, Cd, As
trong rau đều đạt tiêu chuẩn cho rau an toàn,
Công thức tưới nước đã bị ô nhiễm Pb, Cd, As, nếu không bón vôi vào
đất (công thức 2) đã làm rau bị ô nhiễm, hàm lượng trong rau khi thu hoạch là
0,7123 mg Pb/kg tươi; 0,2700 mg Cd/kg tươi và 0,3973 mg As/kg tươi.
Bảng 3.15: Ảnh hưởng của sử dụng vôi lót đến hạn chế sự tích luỹ Pb,
Cd, As trong rau cải canh từ nước tưới bị ô nhiễm
(Thí nghiệm đồng ruộng - Năm 2006)
Hàm lượng trong rau
(mg/kg tươi) Công thức pH đất
Pb Cd As
TCCP ≤ 0,5 - 1,0 ≤ 0,02 ≤ 0,2
Túc Duyên
1.Nước sạch 5,9c ± 0,13 0,0600d± 0,008 0,0002d ± 2.10-4 0,0873a ± 0,014
2.Nước ô nhiễm (*) 5,3c± 0,21 0,7213a± 0,047 0,2700a ± 0,003 0,3973b± 0,016
3. 3 tấn CaO/ha +(*) 6,7b± 0,20 0,6003b± 0,013 0,0260b ± 0,004 0,3857b± 0,018
4. 4 tấn CaO/ha +(*) 7,8a± 0,13 0,4093c± 0,066 0,0183c ± 0,003 0,4403a± 0,048
Cam Giá
1.Nước sạch 5,3c± 0,38 0,1473d ± 0,018 0,0050b ± 0,001 0,0347c ± 0,010
2.Nước ô nhiễm 5,5c± 0,49 1,0787a ± 0,126 0,2230a ± 0,002 0,3840a ± 0,030
3.3 tấn CaO/ha + (*) 6,2b± 0,17 0,8643b ± 0,072 0,0400b ± 0,003 0,1723b ± 0,016
4. 4 tấn CaO/ha +(*) 7,4a± 0,10 0,4747c ± 0,050 0,0177b ± 0,003 0,2100b ± 0,030
Nhưng ở công thức tưới nước ô nhiễm đã được bón lót 3 tấn Cao/ha vào
đất (công thức 3) thì sự tích lũy Pb, Cd vào rau khi thu hoạch giảm rõ rệt so
với công thức 2, hàm lượng trong rau khi thu hoạch với Pb là 0,6003 mg/kg
tươi và Cd là 0,026 mg/kg tươi nhưng chưa đạt TCCP, tương ứng với pH đất
là 6,7. Và phải đến công thức 4 (lót 4 tấn vôi/ha) thì hàm lượng này trong rau
mới đạt được độ an toàn theo qui định, khi đó pH đất là 7,8. Kết quả này hoàn
120
toàn phù hợp với kết quả thí nghiệm bón vôi trong chậu khi tưới nước bị ô
nhiễm 2ppm Pb + 0,1 ppm Cd + 0,5 ppm As.
Kết quả thí nghiệm ở Cam Giá cũng tương tự như Túc Duyên: với công
thức tưới nước ô nhiễm và lót 4 tấn Cao/ha vào đất thì hàm lượng trong rau
mới đạt TCCP: 0,4747 mg Pb /kg tươi; 0,0177 mg Cd/kg tươi tương ứng với
giá trị pH đất là 7,4.
Kết quả thí nghiệm ở cả 2 địa điểm cũng cho thấy: vôi bón không có tác
dụng hạn chế sự tích lũy As trong rau, hàm lượng As trong rau khi tưới nước
ô nhiễm không có sự khác nhau trong trường hợp bón vôi và không bón vôi.
Như vậy: Trên nền đất phù sa Sông Cầu, nếu sử dụng nước tưới bị ô
nhiễm Pb ≤ 2 ppm và Cd ≤ 0,1 ppm cần phải bón vôi với mức 4 tấn/ha để pH
đất đạt ở mức 7,4 – 7,8 thì hàm lưọng Cd, Pb trong rau mới đảm bảo an toàn.
Tác giả Hong CO và cs (2007) [86] khi sử dụng vôi để hạn chế sự hấp
thụ Cd trên đất khai thác khoáng sản cũng đã đề xuất với mức vôi bón 5
tấn/ha có thể làm giảm 50% lượng Cd hấp thụ vào rau cải củ.
Như vậy trong trường hợp không có nguồn nước sạch, có thể sử dụng
vôi như một công cụ để hạn chế sự hấp thu các kim loại Pb, Cd từ nước tưới
vào cây trồng.
Tuy vậy, biện pháp bón vôi chỉ là biện pháp giải quyết trước mắt bởi vì
chỉ khống chế được sự hấp thụ các kim loại nặng vào cây trồng nhưng chúng
vẫn bị giữa lại trong đất và khi có điều kiện thì nó lại trở lên linh động.
3.4.2.2.2. Sử dụng bèo tây để làm sạch nước tưới bị ô nhiễm
Hiện nay, các nhà khoa học đang hướng tới các phương pháp tiết kiệm
chi phí và thân thiện với môi trường để giảm thiểu ô nhiễm kim loại nặng.
Phương pháp xử lý ô nhiễm bằng thực vật (Phytoremediation) là một trong
những giải pháp quan trọng, có tính khả thi cao để xử lý các vùng đất, nước bị
ô nhiễm kim loại nặng.
121
Ở Việt Nam một loại thực vật rất phổ biến là bèo tây. Sử dụng bèo tây
trong việc xử lý ô nhiễm đã được rất nhiều các tác giả trong và ngoài nước
nghiên cứu, tuy vậy mới chỉ là những nghiên cứu bước đầu. Bèo tây là cây
sống ở nước, có tốc độ sinh trưởng rất nhanh và không cần phải chăm sóc nên
sử dụng bèo tây để xử lý ô nhiễm nước có thể thực hiện được dễ dàng trong
điều kiện nông hộ.
Để khẳng định điều đó, chúng tôi tiến hành sử dụng bèo tây trong việc
giảm thiểu ô nhiễm kim loại nặng (Pb, Cd, As) trong môi trường nước tưới
khi bổ sung kim loại nặng vào nước theo các mức: 2,0 ppm Pb, 0,1ppm Cd và
0,5 ppm As trong chậu thí nghiệm với 6 lít nước, và 5 cây bèo tây ban đầu.
Kiểm tra hàm lượng các kim loại trong nước sau 5 - 10 - 20- 30 ngày thí
nghiệm trồng bèo tây, kết quả cho thấy bèo tây có khả năng tích lũy kim loại
nặng rất tốt.
* Khả năng làm sạch nước ô nhiễm Pb của bèo tây
Tiến hành sử dụng nước chứa 2,0 Pb mg/l để thả bèo tây cho thấy:
Bảng 3.16: Hàm lượng Pb trong nước theo thời gian xử lý bằng bèo tây
(Thí nghiệm trong chậu - năm 2007)
Ngày thí nghiệm
Hàm lượng Pb trong nước
(mg/l)
Tỷ lệ còn lại trong
dung dịch (%)
0 2,004a 100
5 1,280b 63,9
10 0,006c 0,30
20 0,002c 0,10
30 KXĐ -
TCVN 6773 - 2000 ≤ 0,1
Theo bảng 3.16: Trong điều kiện thí nghiệm chậu vại, hàm lượng Pb
trong nước giảm dần theo thời gian xử lý bằng bèo tây, cụ thể:
Khi chưa có bèo tây, hàm lượng Pb trong nước là 2,004 mg/l.
122
Sau 5 ngày thả bèo tây, hàm lượng Pb trong nước là 1,280 mg/l, giảm
được 36%.
Và đến ngày thứ 10 của thí nghiệm, hàm lượng Pb trong nước giảm
mạnh là 0,006 mg/l, đạt tỷ lệ làm sạch gần 100% so ban đầu.
Hình 3.23: Thí nghiệm làm sạch nước ô nhiễm Pb, Cd bằng bèo tây
* Khả năng làm sạch nước ô nhiễm Cd của bèo tây
Tiến hành thí nghiệm thả bèo tây trong dung dịch chứa 0,1 mg/l Cd,
theo dõi hàm lượng Cd trong nước vào ngày thứ 5 – 10 – 20 – 30 sau khi thả
bèo, kết quả cho thấy (bảng 3.17):
Bảng 3.17: Hàm lượng Cd trong nước theo thời gian xử lý bằng bèo tây
(Thí nghiệm trong chậu - năm 2007)
Ngày thí nghiệm Hàm lượng Cd trong
nước (mg/l)
Tỷ lệ còn lại trong
dung dịch (%)
0 0,1104a 100
5 0,0530b 48,0
10 0,0002c 0,18
20 KXĐ -
30 - -
TCVN 6773-2000 0,005 - 0,01
123
Bèo tây có khả năng hút Cd từ nước rất mạnh, Hàm lượng Cd trong
nước trước thí nghiệm là 1,1104 mg/l. Ở ngày thứ 5 sau khi thả bèo, hàm
lượng Cd trong nước là 0,053 mg/l, đạt tỷ lệ làm sạch là 52% và sau 10 ngày
thí nghiệm thì hàm lượng Cd trong nước giảm hẳn xuống dưới ngưỡng an
toàn theo TCVN 6773 - 2000, đạt 0,0002 mg/l, tỷ lệ còn lại trong dung dịch là
0,18% so với trước thí nghiệm.
* Khả năng làm sạch nước ô nhiễm As của bèo tây
Thực hiện thí nghiệm tương tự như với Pb và Cd, tiến hành trồng bèo
tây trong dung dịch chứa 0,5mg As/l, và theo dõi hàm lượng As trong dung
dịch dùng thả bèo qua 5, 10, 20, 30 ngày thí nghiệm (bảng 3.18):
Bảng 3.18: Hàm lượng As trong nước theo thời gian xử lý bằng bèo tây
(thí nghiệm trong chậu – Năm 2007)
Ngày thí nghiệm Hàm lượng As
trong nước (mg/l)
Tỷ lệ còn lại
trong dung dịch (%)
0 0,5326a 100
5 0,3340b 62,7
10 0,1204c 22,6
20 0,0928d 17,4
30 0,0630e 11,8
TCVN 6773 - 2000 ≤ 0,1
Hàm lượng As trong nước lúc ban đầu khi chưa thả bèo là 0,5326 mg/l,
sau 5 ngày thí nghiệm hàm lượng As là 0,3340 mg/l (còn 62,7% so với ban
đầu), đến ngày thứ 10 hàm lượng As trong nước là 0,1204 mg/l (còn 22,6% so
với ban đầu), đến ngày thứ 20 của thí nghiệm, hàm lượng As trong nước đạt
ngưỡng an toàn theo TCVN 6773 - 2000, là 0,0928 mg/l (còn 22% so với ban
đầu) và đến ngày thứ 30 của thí nghiệm thì hàm lượng As trong nước đạt
0,0630 mg/l, còn 11,8% so với khi trước thí nghiệm.
124
So sánh khả năng làm sạch của bèo tây với Pb, Cd và As: Kết quả của
thí nghiệm cũng chỉ ra rằng, so với Pb và Cd, sự hấp thu As của bèo tây trong
nước chậm hơn (hình 3.24), với Pb, Cd chỉ sau 10 ngày thả bèo hàm lượng
Pb, Cd trong nước đã đạt ngưỡng an toàn, trong khi đó với As, hàm lượng As
đạt ngưỡng an toàn sau 20 ngày của thí nghiệm.
0.0
0.5
1.0
1.5
2.0
0 5 ngày 10 ngày 20 ngày 30 ngày
Pb
Cd
As
Hàm lượng trong
nước (ppm)
Ngày thí
nghiệm
Sự biến thiên hàm lượng Pb, Cd, As trong nước
theo thời gian sử lý bằng bèo tây
Hình 3.24: Biến thiên hàm lượng Pb, Cd, As trong nước theo thời gian xử
lý bằng bèo tây (thí nghiệm trong chậu – Năm 2007)
Một sự khác biệt nữa, trong khi bèo tây sinh trưởng rất tốt trong dung
dịch ô nhiễm Pb và Cd nhưng lại có biểu hiện bị chết khi trồng trong dung
dịch bị ô nhiễm As, kể cả trong dung dịch chứa As cùng với Pb, Cd.
Qua theo dõi thí nghiệm cho thấy bắt đầu từ ngày thứ 8 khi trồng, bèo
tây có biểu hiện rõ rệt hiện tượng lá bị úa vàng và dần khô lại từ mép lá đến
cuống và đến ngày 20 - 30 của thí nghiệm tỷ lệ bị bệnh đến 70%, bèo tây có
biểu hiện bị chết, rễ bèo có mầu đen xám ở những ngày thứ 35 – 40 của thí
nghiệm (hình 3.25)
125
Bèo tây trong dung dịch 0,5ppm As Bèo tây trong dung dịch 0,5ppm As
(ngày thứ 10 của thí nghiệm) (ngày thứ 20 của thí nghiệm)
Bèo tây trong dung dịch 2,0ppm Pb + 0,1ppm Cd + 0,5ppm As
Hình 3.25: Biểu hiện bị bệnh của bèo tây trong các dung dịch chứa As và
dung dịch chứa As cùng với Pb, Cd
Từ đây chúng ta có thể sử dụng bèo tây như là chỉ thị để nhận biết sự ô nhiễm
As trong nước.
* Khả năng hút Pb, Cd, As của bèo tây từ nước chứa hỗn hợp Pb, Cd, As
Thí nghiệm trồng bèo tây trong dung dịch chứa 2,0ppm Pb + 0,1ppm
Cd + 0,5ppm As cũng cho kết quả giống như các thí nghiệm trồng bèo trong
dung dịch bị ô nhiễm riêng lẻ các nguyên tố (bảng 3.19):
126
Bảng 3.19: Hàm lượng Pb, Cd, As trong nước theo thời gian khi xử lý
bằng bèo tây (thí nghiệm trong chậu)
Hàm lượng trong nước (mg/l)
Ngày thí nghiệm
Pb Cd As
0 2,005a 0,1050a 0,5290a
5 1,347b 0,0483b 0,3820b
10 0,004c 0,0082c 0,1206c
20 0,004c 0,0043d 0,0820d
30 - 0,0030d 0,0360e
TCVN 6773 - 2000 ≤ 0,1 ≤ 0,005 - 0,01 ≤ 0,1
Theo bảng 3.19:
Khi chưa thí nghiệm (ban đầu): hàm lượng các kim loại nặng trong
nước là 2,005 mg Pb/l; 0,1050 mg Cd/l và 0,529 mg As/l.
Sau 5 ngày thả bèo tây: Hàm lượng các kim loại nặng trong nước đều
giảm xuống khoảng 30% với Pb, 54% với Cd, và 28% với As nhưng vẫn chưa
đạt an toàn theo TCVN 6773 - 2000 với các kim loại này.
Chỉ sau 10 ngày thả bèo thì hàm lượng Pb, Cd trong dung dịch trồng
bèo tây đã đạt TCVN 6773 - 2000 (Pb = 0,004 mg/l; Cd = 0,0082 mg/l), còn
hàm lượng As trong nước là 0,182 mg/l, đạt tiêu chuẩn cho phép sau 20 ngày
thí nghiệm. Và sau 30 ngày, tỷ lệ làm sạch của bèo tây với các kim loại nặng
(Pb, Cd, As) hầu hết đều đạt 90 - 95%.
*Thử nghiệm ngoài đồng:
Tiến hành sử dụng bèo tây xử lý nước tưới bị ô nhiễm tại hai địa điểm:
Với cùng một nguồn nước thải được đưa vào bể chứa có thả bèo tây, và
bể không thả bèo. Tiến hành theo dõi hàm lượng các kim loại nặng (Pb, Cd,
As) trong nước sau 10, 20, 30 ngày thả bèo, kết quả thu được ở bảng 3.20:
127
Thử nghiệm trên tại đồng ruộng cũng cho kết quả tốt, bể có bèo Tây,
hàm lượng các kim loại nặng (Pb, Cd, As) sau 10 ngày đã giảm rõ rệt so với
bể không thả bèo. Tuy vậy mức độ làm sạch của bèo tây ở ngoài thực tế chậm
hơn so với thí nghiệm trong chậu.
Bảng 3.20: Hàm lượng Pb, Cd, As trong nước ở bể trồng bèo tây và bể
không trồng bèo tây
(Thử nghiệm tại Túc Duyên và Cam Giá- Năm 2007)
Hàm lượng trong nước (mg/l)
Pb Cd As
Địa điểm và thời
gian xử lý
(ngày) Bể có Bèo Tây
Bể không
có bèo Tây
Bể có
Bèo Tây
Bể không
có bèo Tây
Bể có
Bèo Tây
Bể không
có bèo Tây
Túc Duyên
0 0,602 0,602 0,128 0,128 0,217 0,217
10 0,325 0,588 0,068 0,127 0,118 0,207
20 0,078 0,509 0,015 0,115 0,096 0,193
30 0,054 0,554 0,006 0,106 0,043 0,143
Cam Giá
0 0,206 0,206 0,332 0,332 0,421 0,421
10 0,157 0,207 0,158 0,328 0,304 0,422
20 0,035 0,135 0,025 0,255 0,153 0,384
30 0,013 0,213 0,003 0,234 0,024 0,388
TCVN 6773-2000 ≤ 0,1 ≤ 0,005 - 0,01 ≤ 0,1
- Tại Túc Duyên: Sau 20 ngày thả bèo tây hàm lượng Pb trong nước tưới là
0,078 mg/l (đạt TCVN 6773 - 2000) thấp hơn 6,5 lần so với bể không thả bèo
(0,509 mgPb/l) và giảm 7,7 lần so với hàm lượng lúc ban đầu (0,602 mg/l).
Hàm lượng As 0,093mg/l (đạt TCVN 6773 - 2000) giảm 2,2 lần so với ban
đầu (0,217 mg As/l) và giảm 2 lần so với bể không thả bèo. Riêng Cd, sau 30
128
ngày thả bèo hàm lượng Cd trong nước mới đạt TCVN 6773 - 2000 (0,006
mg/l), trong khi đó bể không thả bèo là 0,106 mg Cd/l.
- Tại Cam Giá: Kết quả cũng tương tự như ở Túc Duyên, hàm lượng Pb
trong nước giảm dưới ngưỡng cho phép theo TCVN 6773 - 2000 sau 20 ngày
thả bèo (0,035 mg Pb/l), khi đó ở bể không có bèo hàm lượng Pb trong nước
là 0,135 mg/l. Với Cd và As, ở bể có bèo hàm lượng trong nước đạt ngưỡng
an toàn sau 30 ngày thả bèo là 0,003 mg Cd/l và 0,024 mg As/l tương ứng khi
đó ở bể không có bèo là 0,234 mg Cd/l và 0,338 mg As/l.
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
Pb Cd As Pb Cd As Pb Cd As Pb Cd As
Có bèo Không bèo Có bèo Không bèo
TÚC DUYÊN CAM GIÁ
0 ngày 10 ngày 20 ngày 30 ngày
H
àm
lư
ợn
g
tr
on
g
nư
ớc
(
m
g/
l)
)
Hình 3.26: Hàm lượng Pb, Cd, As trong nước ở bể trồng bèo tây và
bể thường (Thử nghiệm năm 2007)
Như vậy, trong trường hợp phải sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm Pb,
Cd, As thì có thể dùng bèo tây để xử lý bằng cách dẫn nước vào bể cách ly và
thả bèo tây, sau 30 ngày mới được đưa nước vào hệ thống tưới.
Biện pháp xử lý ô nhiễm bằng bèo tây có ý nghĩa rất lớn về mặt môi
trường, đây là một giải pháp hữu hiệu góp phần xử lý ô nhiễm kim loại nặng
với chi phí thấp và có thể áp dụng rất dễ dàng trong điều kiện sản xuất của
nông hộ.
129
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu thu được, chúng tôi đi đến một số kết luận sau:
1. Rau trồng trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên đã có hiện tượng bị ô
nhiễm NO3- và các kim loại nặng (Pb, Cd, As) do chưa thực hiện đúng và đầy
đủ qui trình sản xuất rau an toàn (bón ít phân hữu cơ, bón phân tươi, bón đạm
quá liều lượng, bón phân không cân đối, sử dụng nước tưới bị ô nhiễm ….)
2. Đất trồng rau của Thành phố Thái Nguyên có hàm lượng NO3- và các
kim loại nặng (Pb, Cd, As) đảm bảo tiêu chuẩn an toàn cho đất nông nghiệp
theo TCVN 7209 - 2002. Nước tưới ở các khu vực trồng rau đã có hiện tượng
ô nhiễm các kim loại nặng (Pb, Cd, As) theo TCVN 6773 – 2000.
3. Sử dụng nước giếng khoan đảm bảo chất lượng rau, nước Sông Cầu
cần có sự kiểm tra trước khi tưới, nước phân chuồng tưới cho rau cần đảm
bảo thời gian cách ly như bón phân đạm hóa học, sử dụng thải bị ô nhiễm tưới
cho rau làm ô nhiễm rau.
4. Hàm lượng Pb, Cd, As trong nước tưới có quan hệ chặt chẽ với sự tích
lũy của chúng trong rau:
+ Nước tưới chứa Pb > 0,1 ppm, Cd > 0,01 ppm, As > 0,1 ppm làm ô
nhiễm cải canh và lá cải củ.
+ Quả đậu cô ve leo bị ô nhiễm khi tưới nước chứa As > 0,1 ppm.
+ Nước tưới chứa 2ppm Pb, 0,5 ppm Cd, 1,0 ppm As chưa làm ô nhiễm
các yếu tố này trong củ cải củ.
5. Rau cải canh có khả năng hấp thu Cd từ môi trường rất lớn vì vậy có
thể đưa cải canh (Brassica juncea L.) vào danh mục các cây trồng loại bỏ ô
nhiễm Cd dùng trong phytoremediation.
130
6. Bón vôi cho đất chua (pH< 5,3) có thể hạn chế tích luỹ Pb và Cd trong
rau, As trong rau không bị ảnh hưởng bởi việc bón vôi.
7. Sử dụng bèo tây có thể làm sạch nước bị ô nhiễm kim loại nặng (Pb,
Cd, As) sau khi trồng 20 - 30 ngày. Vì vậy trong trường hợp phải dùng nước
tưới bị ô nhiễm thì cần phải đưa qua hồ cách ly có thả bèo tây để làm sạch các
kim loại này trước khi đưa vào hệ thống tưới.
2. Đề nghị
- Để rau sạch có thể phát triển rộng rãi trên địa bàn thành phố và phát
triển nền nông nghiệp bền vững ở Thái Nguyên, cần có các biện pháp kiểm
soát và thông báo thường xuyên tình trạng ô nhiễm môi trường nước tưới
đang có xu hướng ngày càng tăng trên các địa bàn sản xuất nông nghiệp. Vấn
đề này hiện nay chưa được chú trọng. Chúng tôi thiết nghĩ nên giao trách
nhiệm cho Phòng Tài nguyên - Môi trường thành phố đảm nhiệm.
- Thành phố cần kiểm định hệ thống xử lý chất thải của tất cả các nhà
máy xí nghiệp, bệnh viện, trước khi thải ra môi trường, quản lý tốt chất thải
đô thị.
131
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. Hiện trạng sản xuất rau tại Thành phố Thái Nguyên, Tạp chí khoa học kỹ
thuật nông nghiệp, tập 3 số 1/2005.
2. Phan Thị Thu Hằng (2005), "Ảnh hưởng của phân bón lá và hàm lượng Cd,
Pb trong nước tưới đến sự tích lũy NO3
- và kim loại nặng trong rau, Báo
cáo Hội nghị khoa học công nghệ tuổi trẻ các trường Đại học và Cao
đẳng khối Nông - Lâm - Ngư toàn quốc lần thứ 2, Thành phố Hồ Chí
Minh ngày 20, 21/05/2005.
3. Hàm lượng kim loại nặng (Pb, Cd, As) trong nước tưới khu vực chuyên
canh rau của Thành phố Thái Nguyên, Tạp chí khoa học đất, số 28/2007.
132
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Tài liệu Tiếng Việt
1. Đỗ Mai Ái, Mai Trọng Nhuận, Nguyễn Khắc Vinh, Một số đặc điểm phân
bố arsen trong tự nhiên và vấn đề ô nhiễm arsen trong môi trường ở Việt
Nam, Hiện trạng ô nhiễm As ở Việt nam, Trung tâm thông tin lưu trữ
Địa chất, trang 5 - 20.
2. Báo công nghiệp Việt Nam số 12/2003, Ô nhiễm môi trường ở Việt Nam:
Chuyện vẫn mới, trang 51+ 53
3. Bộ khoa học, công nghệ và môi trường (2002), Tuyển tập 31 Tiêu chuẩn
Việt Nam về môi trường, Theo Quyết định số 35/2002/QĐ –
BKHCNMT ngày 25/06/2002 của Bộ Trưởng Bộ khoa học, Công nghệ
và Môi trường, Hà Nội năm 2002.
4. Đặng Văn Can, Đào Ngọc Phong (2000), "Đánh giá tác động của Arsen tới
môi sinh và sức khỏe con người ở các vùng mỏ nhiệt dịch có hàm lượng
As cao", Tạp chí Địa chất và Khoáng sản, tập 7, Hà Nội.
5. Chi cục Bảo vệ thực vật Thành phố Thái Nguyên (2005), Báo cáo tổng
kết Chương trình sản xuất rau sạch tại Thành phố Thái Nguyên năm
2003 - 2004.
6. Cục thống kê Thái Nguyên, Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên năm 2006
7. Tạ Thu Cúc (1996), Ảnh hưởng của liều lượng N đến hàm lượng nitrat và
năng suất một số cây rau ở ngoại thành Hà Nội, Hội nghị khoa học
133
bước 1 đề tài rau sạch thành phố Hà Nội, Sở khoa học công nghệ và môi
trường Hà Nội.
8. Nguyễn Văn Dũng (2006), "Trồng rau sạch tại Củ Chi", Báo Nhân dân số
ngày 25/07/2006.
9. Vũ Thị Đào (1999), Đánh giá tồn dư Nitrat và một số kim loại nặng trong
rau vùng Hà Nội và bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của bùn thải đến sự
tích luỹ của chúng, Luận văn thạc sỹ khoa học nông nghiệp, Trường Đại
học Nông nghiệp I, Hà Nội.
10. Nguyễn Đăng Đức (2006), Phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử
xác định hàm lượng các nguyên tố crom, mangan, đồng, chì, cadmium
trong nước ở thành phố Thái Nguyên, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ
B2006 - 43.
11. Lê Đức và Trần Thị Tuyết Thu (2000), "Bước đầu nghiên cứu khả năng
hút thu và tích luỹ Pb trong bèo tây và rau muống trên nền đất bị ô
nhiễm", Thông báo khoa học của các trường đại học, Bộ giáo dục và
Đào tạo, Hà Nội, 2000.
12. Phạm Quang Hà ( 2002), Nghiên cứu hàm lượng Cadmium và cảnh báo ô
nhiễm trong một số loại đất của Việt Nam, Tạp chí Khoa học đất số
16/2002, trang 32 - 38.
13. Trần Vũ Hải (1998), Xác định liều lượng đạm và các thời kỳ bón đạm trên
cây cải ngọt (Brassica chinensis) cây cải canh (Brassica juncea) theo
hướng sạch ở xã Tân Hạnh, thành phố Biên hoà, Tỉnh Đồng Nai. Luận
văn tốt nghiệp đại học, Thành phố Hồ Chí Minh.
14. Nguyễn Văn Hải, Phạm Hồng Anh, Trần Thị Nữ (2000), "Xác định hàm
lượng kim loại nặng trong một số nông sản và môi trường bằng phương
pháp phân tách phổ hấp thụ nguyên tử", Tuyển tập báo cáo khoa học tại
Hội nghị phân tích Hóa lý và Sinh học Việt Nam lần thứ nhất, Hà Nội
26/09/2000, trang 234 - 239.
134
15. Lưu Đức Hải, Đỗ Văn Ái, Võ Công Nghiệp, Trần Mạnh Liếu, "Chiến
lược quản lý và giảm thiểu sự tác động ô nhiễm arsen tới môi trường và
sức khỏe con người", Hiện trạng ô nhiễm As ở Việt Nam, Trung tâm
thông tin lưu trữ Địa chất, trang 95 - 103.
16. Nguyễn Thị Hiền và Bùi Huy Hiền (2004), "Nghiên cứu ảnh hưởng của
nước thải thành phố Hà Nội đến năng suất và chất lượng cây lúa và cây
rau", Tạp chí Khoa học đất số 20 năm 2004, trang 132 - 136.
17. Nguyễn Văn Hiền, Phan Thúc Đường, Tô Thu Hà (1994), "Nghiên cứu sự
tích luỹ nitrat trong rau cải bắp và biện pháp khắc phục", Kết quả nghiên
cứu khoa học về rau quả giai đoạn 1990 - 1994, Viện nghiên cứu rau -
quả, Hà Nội.
18. Đặng Thu Hòa (2002), Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón, độ ô nhiễm
của đất trồng và nước tưới tới mức độ tích luỹ nitrat và kim loại nặng
trong một số loại rau, Luận văn thạc sỹ khoa học KTNN, Trường Đại
học Nông nghiệp I, Hà Nội.
19. Trần Đình Hoan (1999), Vấn đề Arsen trong nước uống khai thác từ
nguồn nước ngầm ở Quỳnh Lôi và giải pháp khắc phục, Báo cáo Hội
thảo về ô nhiễm As tại Hà Nội 9/1999.
20. Chiêng Hông (2003), Nghiên cứu ảnh hưởng của nước tưới phân bón
đến tồn dư Nitrat và một số kim loại nặng trong rau trồng tại Hà Nội,
Luận án Tiến sỹ nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội
21. Dương Thế Hùng, "Rau an toàn đi về đâu", Thời báo kinh tế Sài Gòn, số
48/2007, tháng 11/2007
22. Đinh Văn Hùng và cs (2005), Đánh giá các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến
vệ sinh an toàn thực phẩm rau sản xuất trên khu vực ngoại thành Hà
Nội, Đề tài nhánh, Đề tài độc lập cấp nhà nước, 2000 - 2004.
23. Thu Hương (2005), "Rau sạch - Điều mơ ước của người tiêu dùng" Báo
Quân đội nhân dân ngày 17/07/2005.
135
24. Hoàng Lê (2004), "Rau Hà Nội đang bị nhiễm độc bởi nước sông Tô
Lịch", Báo Phụ nữ Việt Nam, số 59 ra ngày 14/05/2004, trang 4 + 10.
25. Hà Linh (2006), 10% rau an toàn còn tồn dư thuốc bảo vệ thực vật, Diễn
đàn dân trí 06/09/2006
26. Nguyễn Đình Mạnh (2000), Hoá chất dùng trong nông nghiệp và ô nhiễm
môi trường, Giáo trình cao học, Nhà xuất bản nông nghiệp Hà Nội
27. N.M.Maqsud (1998), "Ô nhiễm môi trường vùng nội ô và ngoại ô Thành
phố HCM nhận biết qua lượng KLN tích tụ trong nước và bùn các kênh
rạch", Tạp chí Khoa học Đất số 10/1998 , trang 162-169.
28. Mai Trọng Nhuận (2001), Địa hoá môi trường, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia,
Hà Nội, 2001.
29. Đặng Xuyến Như và nnk (2004), Nghiên cứu xác định một số giải pháp
sinh học (thực vật và vi sinh vật) để xử lý ô nhiễm kim loại nặng trong
nước thải ở Thái Nguyên, Đề tài cấp Bộ năm 2003 - 2004
30. Nguyễn Hữu On và Ngô Ngọc Hưng (2004), "Cadmium trong đất lúa
đồng bằng sông Cửu long và sự cảnh báo ô nhiễm", Tạp chí Khoa học
đất số 20 năm 2004, trang 137 - 140.
31. Phạm Tố Oanh, "Ảnh hưởng của một số chất ô nhiễm trong nước
sông Tô Lịch tới chất lượng rau ở một số địa điểm thuộc huyện
Thanh Trì, Hà Nội", Tạp chí Hoá học và Ứng dụng, số 3/2004, trang
39 - 34.
32. Nguyễn Kinh Quốc, Nguyễn Quỳnh Anh (2000), "Đánh giá sơ bộ về độ
chứa As và khoanh vùng dự báo dị thường As liên quan đến các thành
tạo địa chất ở Việt Nam", Tuyển tập Hội thảo quốc tế “Ô nhiễm Arsen:
Hiện trạng tác động đến sức khỏe và giải pháp phòng ngừa”, Hà Nội
12/2000.
33.Quyết định số 04/2007/QĐ - BNN ngày 19/01/2007 của Bộ trưởng Bộ NN
và PTNT, về việc ban hành "Quy định về quản lý sản xuất và chứng nhận
rau an toàn" kèm theo Quyết định Quyết định 03/2006/QĐ -BKH ngày
136
10/01/2006 của Bộ Khoa học và Công nghệ về công bố công bố tiêu
chuẩn chất lượng hàng hóa.
34 Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thái Nguyên, Báo cáo giám sát môi
trường tỉnh Thái Nguyên năm 2005 - 2006.
35. Hồ Thanh Sơn, Đào Thế Anh (2005), Sản xuất, chế biến và tiêu thụ rau
quả tại Việt Nam, Cash and Carry VietNam Ltd, 9/2005
36. Đỗ Trọng Sự (1999), Hiện trạng ô nhiễm nguồn nước bởi Arsen ở Hà Nội
và một số vùng phụ cận, Hiện trạng ô nhiễm As ở Việt nam, Trung tâm
thông tin lưu trữ Địa chất, trang 53 - 55.
37. Lê Văn Tán, Lê Khắc Huy, Lê Văn Luận và nnk (1998), Ảnh hưởng của
lượng đạm bón đến lượng nitrat trong một số loại rau, Đề tài Nghiên
cứu khoa học cấp Bộ, mã số B 96 - 08 - 10.
38. Phạm Minh Tâm (2001), Nghiên cứu ảnh hưởng của việc bón phân có
đạm đến năng suất và sự biến động hàm lượng nitrat trong cải bẹ xanh
và trong đất, Luận văn thạc sỹ khoa học nông nghiệp, Trường Đại học
Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh.
39. Hà Tâm (2006), "Rau an toàn mà chẳng thể an tâm", Báo Bưu điện Việt
Nam ngày 23/08/2006.
40. Trần Kông Tấu, Trần Kông Khánh (1998), "Hiện trạng môi trường đất
Việt Nam thông qua việc nghiên cứu các kim loại nặng", Tạp chí Khoa
học đất, 10/1998, trang 152 - 16.
41. Trần Công Tấu, Trần Kim Loan và Chu Thị Thu Hiền (2000), "Kim loại
nặng trong môi trường nước, một số kết quả phân tích kim loại nặng
trong ao hồ khu vực Hà Nội", Tuyển tập báo cáo khoa học tại Hội nghị
phân tích Hoá lý và Sinh học Việt Nam lần thứ nhất - Hà Nội
26/09/2000, trang 219 - 223.
42. Trần Kông Tấu, Nguyễn Thế Đồng, Phan Đỗ Hùng, Nguyễn Hứu Trang
(2004), "Nghiên cứu hiện tượng nước bị ô nhiễm tại Huyện Đông Anh -
137
Hà Nội và tìm kếm biện pháp xử lý nước bị ô nhiễm", Tạp chí Khoa học
Đất số 20/2004, trang 124 - 131.
43. Trần Kông Tấu, Đặng Thị An, Đào Thị Khánh Hương (2005), "Một số kết
quả bước đầu trong việc tìm kiếm biện pháp xử lý đất bị ô nhiễm bằng
thực vật", Tạp chí khoa học đất số 23/2005, trang 156 - 158.
44. Trịnh Thị Thanh (2002), Độc học môi trường và sức khoẻ con người, Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002.
45. Trần Khắc Thi, Trần Ngọc Hùng (2003), Kỹ thuật trồng rau sạch (Rau an
toàn), Nhà xuất bản nông nghiệp Hà Nội.
46. Nguyễn Quốc Thông, Đặng Đình Kim, Trần Văn Tựa, Lê Lan Anh
(1999), Khả năng tích tụ kim loại nặng Cr, Ni và Zn của bèo tây trong
xử lý nước thải công nghiệp, Báo cáo khoa học Hội nghị công nghệ sinh
học toàn quốc, Hà Nội 9,10/12/1999, Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật ,
page 983- 988 .
47. Trần Quang Thương (2000), Quỳnh Lôi với nhiễm độc Arsen, Báo Hà Nội
mới ngày 14/05/2000.
48.Võ Thuận, Ô nhiễm môi trường và đô thị công nghiệp Việt Nam:Hiện
trạng đáng lo ngại, Diễn đàn doanh nghiệp số 50 ngày 20/06/2003, tr11.
49. Bùi Cách Tuyến và cs (1995), "Hàm lượng kim loại nặng trong nông sản,
đất, nước ở một số địa phương ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh",
Tập san KHKT Nông Lâm nghiệp, Trường Đại học Nông Lâm Thành
phố Hồ Chí Minh, số 2/1995, trang 30 - 32.
50. Vũ Đình Tuấn, Phạm Quang Hà (2003), "Kim loại nặng trong đất và cây
rau ở một số vùng ngoại thành Hà Nội", Tạp chí khoa học đất số 20 -
năm 2004, trang 141 - 147.
51. Bùi Cách Tuyến (1998), "Nghiên cứu hàm lượng nitrat trên một số loại
rau phổ biến tại Thành phố Hồ Chí Minh", Tập san KHKT Nông Lâm
nghiệp, Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, số 3/1998.
138
52.UBND tỉnh Thái Nguyên, 2004, Đề án tăng cường quản lý Nhà nước về
tài nguyên khoáng sản tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2005 - 2010.
53. Website Cục Trồng Trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
(2007), Hà Nội: Lập bản đồ rau an toàn
54. Đặng Thị Vân, Vũ Thị Hiển và nnk (2003), Nghiên cứu một số biện pháp
kỹ thuật canh tác hợp lý cho vùng chuyên canh sản xuất rau an toàn, Đề
tài NCKH năm 2003, Viện nghiên cứu Rau - Quả, Hà Nội.
55. VietNam Net (04/2004), “Nguy cơ ô nhiễm kim loại nặng, thuốc trừ sâu
trong đất, nước và một số nông sản ở Việt Nam”, Nguồn Báo Hà Nội
mới ngày 27/05/1997.
56. Viện Thổ nhưỡng – Nông hóa (1998), Sổ tay phân tích đất – nước – phân
bón – cây trồng, Nhà xuất bản nông nghiệp, Hà Nội 1998.
57. Bùi Quang Xuân, Bùi Đình Dinh, Mai Phương Anh (1996), Quản lý hàm
lượng Nitrat trong rau bằng con đường bón phân cân đối, Báo cáo tại
Hội thảo “Rau sạch”, Hà Nội 17 - 18/06/1996
58. Bùi Quang Xuân (1998), Ảnh hưởng của phân bón đến năng suất và hàm
lượng Nitrat trong một số loại rau trên đất phù sa Sông Hồng, Luận án
tiến sĩ nông nghiệp, Viện Khoa học KTNN Việt Nam, Hà Nội.
59. Vũ Hữu Yêm (1997), Sản xuất sạch hơn, Bài giảng lớp tập huấn cho cán
bộ quản lý môi trường, Hà Nội 10/2005.
2. Tài liệu tiếng nước ngoài.
60. Angle et al (2005), “Using hyperaccumulator plants to phytoextract soil
Ni and Cd”, Z Naturforsh [C].2005 Mar-Apr; 60 (3 – 4):190 – 8.
61. Antiochia R, Campanella L, Ghezzi P, Movassaghi K (2007), "The use of
vetiver for remediation of heavy metal soil contamination" Anal Bioanal
Chem. 388(4):947-56. Epub 2007 Apr 28.
139
62. A.K.Singh and S.B. Pandeya (1998), Modelling uptake of Cadmium by
plants in sludge-treated soils, Science Ltd.All rights reserved Printed in
Great Britain 0960 - 8524/98.
63. Ashley Senn, Paul Milham (2007), "Managing cadmium in vegetables",
NSW Department of Primary Industries' Plant Health Doagnostic and
Analytical Services, 04/2007
64. Bride, Murray B, "Cadmium uptake by crops estimated from soil total Cd
and pH", Soil Science. 167(1):62 - 67, January 2002
65. Cantlife D.J (1972), Nitrate accummlation in spinach under different light
intensities, J.Am.Soc. Hortic. Sci. 97: pp 152 - 154.
66. Channey R. et al.1995, "Phytoremediation of soil metals", Current
Opinion in Biotechnology 1997, pp 279 - 284.
67. Cieslinski G, Neilsen G.H, Hogue E.J (1996), "Effect of soil cadmium
application and pH on growth and cadmium accumulation in roots,
leaves and fruit of strawberry plants", Plant and soil ISSN 0032-
079X CODEN PLSOA2, 1996, vol. 180, no2, pp. 267-276.
68. Cordes K.B.; Mehra A.; Farago M.E.; Banerjee D.K., "Uptake of Cd, Cu,
Ni and Zn by the Water Hyacinth, Eichhornia Crassipes (Mart.) Solms
from Pulverised Fuel Ash (PFA)Leachates and Slurries", Environmental
Geochemistry and Health, Volume 22, Number 4, December 2000 , pp.
297-316(20)
69. C.Ramos, "Effect of agricultural practices on the nitrogen losses to the
environmet", Fertilizers and Environment, Proceeding of the
International Symposium “Fertilizers and Environment” held in
Salamanca, Spain 26 - 29, Septembar, 1994, page 355 - 361.
70. Chuphan, Bengtsson, Bosun, Hymo (1967), Nitrat accummulation in
vegetable crops as influenced by soil fertility practies, Missouri Agr.
Exp. Sta. Res.Bull, 920, 43p.
140
71. David Tin Win , Myint Myint Than and Sein Tun (2003), Lead Removal
from Industrial Waters by Water Hyacinth, Assumption University,
Bangkok, Thailand, 6(4): 187-192, Apr. 2003.
72. Danielle Oliver and Ravi Naidu, Uptake of Copper (Cu), Lead (Pb),
Arsenic (As) and DDT by vegetables grown in urban enviromnets,
CSIRO Land and Water, report at the Fifth National Workshop on the
Assessment of site contamination, 2003, pp 151 - 161.
73. D.H Han and J. H. Lee, "Effects of liming on uptake of lead and cadmium
by Raphanus sativa", Archives of Environmental contamination and
Toxicology, Springer New York, 11/2004, pp 488 - 493.
74.LeDuc DL, Terry N (2005), "Phytoremediation of toxic trace elements in
soil and water" J Ind Microbiol Biotechnol. 2005 Dec;32(11-12):514-20.
Epub 2005 May 10.
75. E K Unnikrishnan, A K Basu, N Chattopadhyay & B Maiti (2003),
"Removal of arsenic from water by ferrous sulphide", Indian Journal of
Chemical Technology , Vol. 10, May 2003, pp. 281-286
76. El-Gendy AS, Biswas N, Bewtra JK (2006), Municipal landfill leachate
treatment for metal removal using water hyacinth in a floating aquatic
system, Water Environ Res. 2006 Sep;78(9):951-64.
77. E.Witter, Towards zero accumulation of heavy metals in soil", Fertilizers
and Environment, Proceeding of the International Symposium “Fertilizers
and Environment” held in Salamanca, Spain 26 - 29, September, 1994, pp
413 - 421.
78. Eustix, Mirjana (1991) "Nitrate accumulation in lettuce as related to
nitrogen fertilization levels", Poljoprivredna znanstvena smotra 0370-
0291, 1991, pp 49 - 56
79. Ejaz ul Islam, Xiao-e Yang, Zhen-li He, and Qaisar Mahmood (2007),
"Assessing potential dietary toxicity of heavy metals in selected
141
vegetables and food crops", Journal of Zhejiang University Science,
2007 January; 8(1): 1–13.
80. FAO start database - 2006.
81. Fang - Jie Zhao, Rebecca E. Hamon, Enzo Lombi, Mike J. McLaughlin
and Steve P. McGrath (2002), "Characteristics of cadmium uptake in
two contrasting ecotypes of the hyperaccumulator Thlaspi caerulescens"
Journal of Experimental Botany, Vol. 53, No. 368, pp. 535-543, March
1, 2002.
82. Folkes D.J.(2001), Impacts of historic arsenical pesticide use on
residential soil in Denver, Colora do In: Arsenic Exposure and Health
effects, Proceedings of the 2000 conference, eds. W.R.Chappell, C.O
Abernathy and R.L.Calderon, Elsevier, Amsterdam.Tobe published.
83.G.P.Warren, B.J.Alloway, N.W.Lepp, B.Singh, F.J.M.Bochereau,
C.Penny( 2003), "Field trials to assess the uptake of Arsenic by
vegetables from contaminated soils and soil remediation with iron
oxides", The science of the total Environment 311, pp 19 - 33.
84. G. M. Alam, E. T. Snow and A. Tanaka,"Arsenic and heavy metal
contamination of vegetables grown in Samta village, Bangladesh",The
Science of the total Eniviroment, Volume 308, Issues 1 - 3, 1 June 2003,
pp 83 - 96
85. Phạm Quang Hà, Hà Mạnh Thắng và nnk (2004), Impact of Heavy Metals
on Suistainablity of Fertilization and Waste Recycling in peri - Urban
and Intensive Agriculture in South - East Asia. Đề tài hợp tác quốc tế
HTQT/AIAR/LWR 119/1998.
142
86. Hong CO, Lee do K, Chung DY, Kim PJ (2007), Liming effects on
cadmium stabilization in upland soil affected by gold mining activity,
Arch Environ Contam Toxicol. 2007 May;52(4):496-502.
87 .J.A.Diez, R.Caballero, A.Bustos, R.Roman, M.C.Cartagena and
A.Vallejo, "Control of nitrate pollution by application of controlled
release fertilizer (CRF), compost and an optimized irrigation system",
Fertilizers and Environment, Proceeding of the International
Symposium “Fertilizers and Environment” held in Salamanca, Spain 26
- 29, Septembar, 1994, pp 363 - 367.
88. Jansson, Gunilla (2002) Cadmium in arable crops: the influence of soil
factors and liming Doctoral diss. Dept. of Soil Sciences, SLU. Acta
Universitatis agriculturae Sueciae. Agraria vol. 341.
89. J.M.Estavillo, m.Rodriguez and C.Gonzalez - Murua (1994), "Nitrogen
losses by denitrification and leaching in grassland", Fertilizers and
Environment, Proceeding of the International Symposium “Fertilizers
and Environment” held in Salamanca, Spain 26 - 29, Septembar, , pp
369 - 373.
90. N. K. Moustakas; K. A. Akoumianakis; H. C. Passam, "Cadmium
accumulation and its effect on yield of lettuce, radish, and cucumber",
Communications in Soil Science and Plant Analysis, Volume 32, Issue
11 & 12 September 2001 , pages 1793 - 1802
91. Kathryn Vander Weele Snyder (2006), Removal of Arsenic from Drinking
Water by Water Hyacinths (Eichhornia crassipes), Water Environment
Federation, 2006.
92. Long Xin - Xian, Yang Xiao - e, NI Wu - zhong, Differences of cadmium
absorption and accumulation in selected vegetable crops, Journal of
Environmental Sciences 2002 - 2003.
143
93. Ma, J. F., Ueno, D., Zhao, F. J., and McGrath, S. P. (2005), "Subcellular
localisation of Cd and Zn in the leaves of a Cd-hyperaccumulating
ecotype of Thlaspi caerulescens". Planta 220: 731–736.
94. Muhammad Idrees, Umar Farooq, Hamdard, M. S., Aamer Sattar, "Effect
of sewage effluent irrigation on lead and cadmium accumulation in
vegetables", Indus Journal of Biological Sciences, 2005 (Vol. 2) (No. 1)
74-80
95. M.E.Garcia Lopez De Sa (1994), "Effect of Cadmium concentration in
the nutrient solution on lettuce growth", Fertilizers and
Environment, Proceeding of the International Symposium
“Fertilizers and Environment” held in Salamanca, Spain 26 - 29,
Septembar, pp 481 - 483.
96. M.N.V. Prasad (1974), Heavy Metal Streess in Plants from Biomolecules
to Ecosystems - Second Edition - Springer.
97. Misbahuddin, M.; Fariduddin, A. (2002) Water Hyacinth Removes
Arsenic from Arsenic- Contaminated Drinking Water [electronic
version]. Arch. Environ. Health, 57 (6), 516– 519.
98. Michael J.Blaylock and Jianwei W. Huang, "Phytoextraction of Metals,
Phytoremediation of toxic Metals". Using Plants to clean up the
Environment, page 53 - 70.
99. M.O.Torres, M.M.P.M.Neto, C.Marques Dos Santos and A.De Varennes
(1994), "Lead uptake and distribution in legume species grown on lead -
enriched soils", Fertilizers and Environment, Proceeding of the
International Symposium “Fertilizers and Environment” held in
Salamanca, Spain 26 - 29, Septembar, 1994, pp 547 - 550.
100. M.Zupan, V. Hudnik, F. Lobnik, Kadunc (1997), Accmulation of Pb, Cd
and Zn from contaminated soil to various plant and evaluation of soil
144
remediation with indicator plant (Plantago lanceolata L.). INRA, Paris,
Les Colloques, No85.
101. M.Ubavie, D. Bogdanovie and m.Cuvardie (1994), "Effect of different
fertilization systems on soil contamination with heavy metals in long-
term trials", Fertilizers and Environment, Proceeding of the
International Symposium “Fertilizers and Environment” held in
Salamanca, Spain 26 - 29, Septembar, 1994, pp 551 - 553.
102. Oliveira, Juraci Alves de, Cambraia, Jose, Cano, Marco Antonio Oliva
(2001), "Cadmium absorption and accumulation and its effects on the
relative growth of water hyacinths and salvinia", Revista Brasileira de
Fisiologia Vegetal, 2001, vol.13, no.3, p.329-341. ISSN 0103-3131.
103. P.Tlustos, J. Szakova, D.Pavlikova, J. Balik, A. Hanc, The accumulation
of arsenic and cadmium by different species of vegetables, Workshop
Towards and Ecologically Sound Fertilisation in Field Vegetable
Production.
104. Purnendu Bose, Archana Sharma (2002), "Role of iron in controlling
speciation and mobilization of arsenic in subsurface environment",
Water Research 3, pp 4916 - 4926.
105. P.Van Lune and K.B.Z.Wart (1997), "Cadmium uptake by crops from
the subsoil", Plant and soil 189, 1997, pp 231 - 237.
106. Robert T.M, Giziyl W and Huchinson T.C (1974), Lead contamination
of air, soil, vegetation and people in the vicinty of secondary lead
smelters, in trace subst, Enviro, health. Vol.8. Hemphill. D. d, Ed,
University of Missour, Columbia, 155 pp.
107. Radov A.S., I.V. Pustovoi, A.V. Korolwkov, Pratikum po agrokhimia,
Izdatelbstvo “Kolos”, Moksva 1971, pp 288 - 319
145
108. S.H.Chien and R.G.Menon (1994) "Dilution effect of biomass on plant
cadmium concentration as inducsd by application of phosphate
fertilizers", Fertilizers and Environment, Proceeding of the International
Symposium “Fertilizers and Environment” held in Salamanca, Spain 26
- 29, Septembar, 1994, pp 437 - 442.
109. Shaban W. Al Rmalli, Chris F. Harrington, Mohammed Ayub and
Parvez I. Haris (2005), "A biomaterial based approach for arsenic
removal from water", J. Environ. Monit., 2005, 7, pp 279 - 282
110. Slavik Dushenkov and Yoram Kapulnik, "Phytofiltration of Metals",
Phytoremediation of toxic Metals sing Plants to clean up the
Environment, pp 89 - 106.
111. S.Tu, Lena Ma, Abioye Fayiga, Edward Zillioux, Phytoremediation of
Arsenic-Contaminated Groundwater by the Arsenic Hyperaccumulating
Fern Pteris vittata L, International Journal of Phytoremediation, Volume
6, Number 1, January-March 2004, pp 35 - 47
112. Venter F. and P. D. Fritz (2007),"Nitrate contents of kohlrabi (Brassica
oleracea L. var. Gongylodes Lam.) as influenced by fertilization", Plant
Food for Human Nutrition (Formerly Qualitas Plantarum), Springer
Netherlands, pp 179 - 186.
113. Vaast P., Zasoski R.J., Bledsoe C.S. (1998), "Effects of solution pH,
temperature, nitrate/ammonium ratios, and inhibitors on ammonium and
nitrate uptake by Arabica coffee in short-term solution culture", Journal
of plant nutrition, 21 (7) : 1551-1564
114. Wang, A., Angle, J.S., Chaney, R.L., Mcintosh, M.S. (2006), "Soil pH
effects on uptake of Cd and Zn by Thlaspi caerulescens", Plant and Soil.
281(1-2), pp 325-337
146
115. Willam Hartley, Robert, Edwards, Nicholas W.Lepp, "Arsenic and heavy
metal mobility in iron oxide - amended contaminated soils as evaluated
by short-and long-term leaching tests", Environmental pollution
131(2004), page 495 - 504.
116. Wite J.W, Jt (1975), "Relative significane of dietary sources of nitrate
and nitrite", J. Agric, food chem 23, pp 886 - 891.
117. Velitchka Georgieva, Christo Tasev,Georgi Sengalevitch (1997),
"Growth, yield, lead, zinc and cadmium content of radish, pea and
pepper plants as influenced by level of single and multiple
contamination of soil", Bulg.J.Plant Physiol, 1997, 23 (1-2), 12 - 23.
118.V.Paul Lecomte, Treatment of soil and water souterrenes, Technique and
Document Paris 1998, pp 164 -165.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA_08_NN_PTTH.PDF