Luận văn Cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật trong truyện ngắn Kim Lân

MS: LVVH-LLVH003 SỐ TRANG: 114 NGÀNH: VĂN HỌC CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM NĂM: 2006 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài . 1 2. Giới hạn của đề tài . 2 3. Lịch sử vấn đề . 4 4. Phương pháp nghiên cứu .15 5. Những đóng góp của luận văn .16 6. Kết cấu của luận văn 16 Chương 1. Cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn của Kim Lân 1.1. Về khái niệm cảm hứng .17 1.2. Cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn của Kim Lân 20 1.2.1. Động lực thúc đẩy sáng tác và ngọn nguồn, đối tượng tạo nên cảm hứng trong truyện ngắn của Kim Lân 20 1.2.2. Về cảm hứng phê phán trong truyện ngắn của Kim Lân 21 1.2.3. Cảm hứng yêu thương và trân trọng con người 28 1.2.4. Cảm hứng về những sinh hoạt văn hoá ở vùng thôn quê . 45 Chương 2. Phương thức trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân 2.1. Các vấn đề về phương thức trần thuật trong loại hình tự sự 62 2.2. Phương thức trần thuật khách quan trong truyện ngắn của Kim Lân 64 2.2.1. Kiểu người trần thuật lạnh lùng 65 2.2.2. Kiểu trần thuật hoà mình với nhân vật . 72 2.2.3. Phương thức trần thuật khách quan và những truyện ngắn mang dấu ấn tự truyện của Kim Lân . 74 2.3. Phương thức trần thuật chủ quan trong truyện ngắn của Kim Lân 79 2.3.1. Kiểu người trần thuật xưng tôi đóng vai trò người dẫn truyện 80 2.3.2. Kiểu người trần thuật xưng tôi vừa là người dẫn truyện vừa là một nhân vật . 85 Chương 3. Cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân 3.1. Cấu trúc trần thuật trong tác phẩm tự sự . 92 3.2. Các dạng cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân . 93 3.2.1. Dạng cấu trúc trần thuật theo trình tự thời gian 94 3.2.2. Dạng cấu trúc trần thuật rẽ ngang lồng ghép nhiều tầng bậc trần thuật, ở nhiều thời điểm khác nhau .99 3.2.3. Dạng cấu trúc trần thuật theo tâm lí 105 3.2.4. Dạng cấu trúc trần thuật đảo lộn trình tự thời gian 111 Kết luận .116 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

pdf114 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3797 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật trong truyện ngắn Kim Lân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y cúng làm bạn với tiu, cảnh mà lại hoá ra thanh nhàn, ông tự Năm làm tự chùa Vân Điềm này kể đã hơn ba năm. Nhờ trời cũng mát mặt chứ không đến nỗi lận đận như hồi mấy năm về trước… [54, tr.124]. Trong Người kép già, Cơn con, Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê… người đọc cũng có thể tìm thấy nhiều đoạn giới thiệu về lai lịch nhân vật qua những đoạn tái hiện tâm trạng. Đoạn thể hiện tâm trạng ông Tư Mủng trong truyện Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê, là đoạn thuộc thành phần tĩnh tại: 83 Mỗi lần nghĩ đến chuyện bỏ ngọn núi này đi, ông Tư Mủng lại nhớ đến những ngày siêu bạt, đói khát ấy. Những ngày mà mười một con người trong gia đình ông lang thang đi tìm đất. Ông còn nhớ, ngày ấy trên dọc đường lên ngược những lúc cay cực nhất, những lúc tưởng như cùng đường tận lối rồi, ông lại nghe tiếng người ông nội run rẩy khuyến khích con cháu trong nhà một câu: “… Cố lên! Cố lên các con ơi! Bắc Giang, Thái Nguyên đất rộng người thưa… Lên được đến trên ấy là có cái sống rồi…”. Mười một con người đói khát, vừa lớn vừa bé trong gia đình mỗi lần nghe người ông nội nhắc đến Thái Nguyên, Bắc Giang lại tỉnh ra, vui lên, hy vọng, tin tưởng, lại lếch thếch, bồng bế, dắt díu nhau đi [54, tr.377 - 378]. Như vậy, trong các truyện ngắn tổ chức trần thuật theo trình tự thời gian, những thành phần trần thuật có tính chất tĩnh tại như những đoạn giới thiệu lai lịch nhân vật, tái hiện tâm trạng… đã làm cho dung lượng truyện Kim Lân mở rộng. Sự mở rộng này đã mang đến cho truyện ngắn của ông khả năng tái hiện cuộc sống đầy đặn hơn và góp phần thể hiện rõ hơn cảm hứng trong các tác phẩm. 3.2.2. Dạng cấu trúc trần thuật rẽ ngang lồng ghép nhiều tầng bậc trần thuật, ở nhiều thời điểm khác nhau 3.2.2.1. Trong các tác phẩm tự sự hiện đại kiểu cấu trúc truyện lồng trong truyện (một cấp độ) là dạng cấu trúc trần thuật phổ biến. Dạng cấu trúc trần thuật này thường gặp ở các nhà văn như Nam Cao (Đôi mắt), Tô Hoài (Vợ chồng A Phủ), Nguyễn Trung Thành (Rừng xà nu) Nguyễn Thi (Những đứa con trong gia đình) Nguyễn Minh Châu (Mảnh trăng cuối rừng),… Kim Lân cũng có nhiều truyện ngắn tổ chức trần thuật theo dạng cấu trúc trần thuật này. Trong 28 truyện của Kim Lân, chúng tôi nhận thấy có 13/28 truyện tổ chức trần thuật theo dạng cấu trúc truyện lồng truyện. Đối với Kim Lân, kiểu tự sự rẽ ngang truyện lồng truyện không theo một cách thức ổn định nào. Có khi mạch tự sự rẽ ngang khi nhắc đến một nhân vật, khi nhân vật hồi tưởng về quá khứ, cũng có khi một chi tiết trong truyện lại gợi ra một câu chuyện khác, chuyện này nối 84 chuyện kia theo kiểm gợi nhớ… Kiểu cấu trúc trần thuật truyện trong truyện có khi tồn tại ở một cấp độ, có khi nhiều cấp độ. Có khi truyện lồng truyện chỉ vắn tắt vài dòng, có khi vài trang và cũng có khi truyện lồng có tính chất độc lập tương đối có thể tách riêng thành một truyện riêng. 3.2.2.2. Trong một số truyện ngắn của Kim Lân, chúng tôi nhận ra có rất nhiều sự kiện liên quan đến cuộc sống riêng của nhà văn. Đây là những biến cố, sự kiện, những ấn tượng mà nhà văn đã trải qua. Ở các truyện ngắn này, dù được tổ chức trần thuật theo phương thức trần thuật chủ quan hay phương thức trần thuật khách quan, người đọc đều có thể tìm thấy nhiều đoạn hồi thuật của tác giả. Mỗi đoạn hồi thuật thường là một câu chuyện xen góp phần bộc lộ rõ hơn chủ đề, cảm hứng của tác phẩm: Tư là con vợ ba. Thầy mẹ anh lấy nhau không phải là đôi bên bác mẹ gả bán, không phải nhà hiếm hoi, không phải tình yêu. Cha anh hơn mẹ anh đến ba mươi tuổi. Mẹ già anh lấy mẹ anh về để có người cáng đáng việc đồng. Vốn là người quê mùa nên việc đồng mẹ anh rất thạo. Mẹ già anh rất chiều quý, họ chiều vậy chẳng qua là muốn chạy việc. Thầy anh mất năm trước, mẹ già anh mất năm sau. Nhà không làm ruộng nữa. Các anh Tư đều đi chợ trên. Tư phải thôi học ở nhà. Hai mẹ con lâm vào cảnh thất nghiệp. Ruộng không có mà làm; đi buôn - buôn xùng buôn xằng thôi cũng không có vốn. Anh em họ mạc thì thờ ơ lạnh nhạt, họ coi hình như không có mẹ con Tư trong gia đình nữa [54, tr.26]. Ở truyện ngắn này, do khoảng thời gian khách quan từ điểm mở đầu trần thuật cho đến kết thúc trần thuật rất ngắn (một buổi chiều) nên tác giả đã kết cấu câu chuyện xen về gia cảnh của nhân vật Tư qua một đoạn hồi thuật. Những sự kiện trong đoạn hồi thuật là những sự kiện xảy ra trước thời điểm mở đầu trần thuật. Những sự kiện trong đoạn hồi thuật của nhân vật Tư về quá khứ đã góp phần rất lớn vào việc khái quát hiện thực và bộc lộ chủ đề tác phẩm. Trong truyện Đứa con người cô đầu, câu chuyện xen về gia cảnh của nhân vật Thạ được trần thuật theo kiểu trần thuật uỷ thác cho nhân vật: Im lặng một lúc khá lâu, lại nghe hắn cất tiếng kể tiếp bằng một giọng đều đều não nuột: 85 - Em nói thật đời em. Anh đừng khinh em nhé. Anh ạ, mẹ em là cô đầu chính tông. Ông bà ngoại em sinh được bốn người con gái làm cô đầu cả bốn. Trước khi lấy thầy em, mẹ em đã tằng tịu với một ông Lục sự; đẻ được một người con trai. Được ít lâu ông Lục ấy phải đổi đi xa. Xem chừng ông ta cũng không giàu có gì. Mẹ em bỏ thẳng cánh. Thầy em lấy mẹ em về; nhà có vợ cả. Vốn là người đanh đá lại cậy thế thầy em chiều chuộng, mẹ em lấn quyền hành hạ các anh con mẹ già em khổ lắm. Đấy là thời kỳ sung sướng nhất trong đời em. Em đi học đến lớp ba thì thầy em mất. Sẵn có ít vốn riêng, mẹ em trở lại nghề cũ; mở nhà hát cô đầu. Được vài năm cảnh nhà sa sút dần. Em phải thôi học về nhà làm thằng nhỏ. Anh ạ… [55, tr.25]. Trong truyện này, do khoảng cách giữa thời điểm mở đầu và thời điểm kết thúc trần thuật ngắn (một buổi tối) nên truyện có một đoạn hồi thuật về các sự kiện xảy ra trước thời điểm mở đầu trần thuật. Đó là những sự kiện về hoàn cảnh bất hạnh của nhân vật Thạ. Như vậy, ở truyện ngắn này, với dạng cấu trúc trần thuật truyện lồng trong truyện và sự phối hợp giữa hai phương thức trần thuật chủ quan và phương thức trần thuật khách quan, tác giả đã đưa vào truyện nhiều yếu tố tự truyện. Đó là lối cảm, lối nghĩ và các trạng thái tâm lí nếm trải của người trần thuật - nhân vật tôi. Khảo sát các truyện ngắn tổ chức trần thuật theo dạng cấu trúc trần thuật truyện lồng trong truyện, chúng tôi thấy dung lượng của những truyện xen được bố trí ở nhiều mức độ khác nhau: có khi là một câu chuyện ngắn vài dòng, có khi là cả một đoạn tự sự khá dài. Trong Người chú dượng, thời gian trần thuật bắt đầu khi nhân vật tôi trở lại trại Han thăm dì Bản. Theo từng bước chân của người trần thuật (tôi), quá khứ về cái bến Mảng hiện về một cách đầy đủ. Đó là ký ức về những con người mà một thời nhân vật tôi gắn bó thân thiết: cô hàng xén Thuỷ Nguyên có cái cổ trắng ngần, hai bàn tay muôn muốt; hàng thịt chó của ông Phác rỗ răng vàng; cái quán “Thủ Đô” của hai chị em cô Thư và cô Hương bán xôi chè và bún chả; cửa hàng của cụ phó may già và vợ chồng chú Khách bán thuốc bắc… Cứ như thế, mạch tự sự rẽ ngang thành nhiều nhánh chuyện, chuyện này nối chuyện kia theo kiểu 86 gợi nhớ. Chẳng hạn khi nghe tin dì Bản mất, câu chuyện về quá khứ của người dì bất hạnh lại xen vào mạch tự sự: Dì Bản là em út mẹ tôi. Một người em xấu xí và hẩm hiu nhất. Cuộc đời dì, tôi thấy hình như dì không có được một lần may mắn nào. Tôi cũng không thấy lần nào dì tôi mặc được bộ quần áo mới nữa. Ông bà ngoại tôi chết đi thì dì bỏ quê lên ở với mẹ tôi. Thật ra dì tôi cũng đi làm thuê, làm mướn lấy miếng mà ăn, chứ dì cũng chẳng phải nhờ vả mẹ tôi. Nhưng dì vẫn cứ phải sống bên mẹ tôi. Ông bà ngoại tôi chết đi, các con thất tán lưu lạc mỗi người một phương, còn lại hai chị em, dì phải sống nương tựa vào sự chỉ dẫn và cái tình máu mủ, ruột thịt của mẹ tôi [54, tr.464 - 465]. Cũng có khi, từ chi tiết “cái hòm chân gỗ dổi” đã “khiến” nhân vật tôi nhớ ra tất cả những ấn tượng trong quá khứ về lão Mộc gù. Đó là câu chuyện về “thằng Mộc gù khe đá đỏ” đã từng là mối đe doạ cho tất cả các gia đình nơi tản cư. Theo lời đồn đại của mọi người, hắn có một hình thù gớm ghiếc là mối nguy hiểm của mọi người. Hắn là tay ăn chơi đã từng giết người vượt ngục, từng đâm chết bố con ông bạ Dưỡng, đã từng chém sả vào người vợ trong một lần say rượu, đã từng bị cắt gân vì tội gặt trộm lúa, từng sống một cuộc sống như người rừng cùng một đứa con gái… Với những đoạn rẽ ngang như thế, có lúc người đọc tưởng như nhà văn đã quên bẵng đi câu chuyện ban đầu. Nhưng khi đọc hết truyện, người đọc mới nhận ra dụng ý của nhà văn. Với những câu chuyện xen như thế nhà văn như cố ý khắc hoạ nhân vật theo miệng lưỡi của người đời để tạo một sức mạnh cần thiết cho cái phản đề: vẻ bề ngoài của con người cứ ghi nhận nhưng đừng vội thành kiến, dư luận có nhiều nhưng đừng vội cả tin. Hãy kiểm chứng lại bằng thực tiễn. Cũng với lối tự sự rẽ ngang, trong truyện Con chó xấu xí, tác giả đưa người đọc đi từ chuyện tản cư trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp đến chuyện về một con chó xấu xí, rồi đến chuyện anh chàng Nhược Dự khó hiểu, khôn ngoan với cô vợ hai trẻ măng chuyên việc bếp núc hầu hạ chồng. Tương tự như vậy, trong truyện Bà mẹ Cẩn, mạch tự sự của tác giả cũng rẽ ngang với nhiều câu chuyện. Có khi là những câu chuyện xen theo kiểu khi nhắc đến nhân vật chính 87 là có nhiều câu chuyện đi kèm: chuyện về cô giáo Ninh - một cô giáo trẻ người Hà Nội mới sơ tán về cùng sống với bà mẹ Cẩn; chuyện về cậu con trai duy nhất của bà mẹ Cẩn; chuyện về cái giếng nước, cây mít như hai kỷ vật gắn liền với đứa con thương yêu của bà… Tương tự, trong Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng vật, ngoài hai câu chuyện: chuyện tình của cô gái quê tên Tần với Đức Thái Tông Trần Cảnh và chuyện về chàng đô vật Trạng Sặt, tác giả đã nhiều lần rẽ ngang với nhiều câu chuyện (kiểu hai cấp độ). Đó là những câu chuyện về tài nghệ của Trạch Khô - đối thủ của Trạng Sặt, chuyện về hai ông đô Voi, đô Nghê thời Lý… Có thể nói, với lối tự sự này, Kim Lân đã tạo ra dạng cấu trúc trần thuật nhiều tầng bậc ở nhiều thời điểm khác nhau. Dạng cấu trúc trần thuật này thể hiện một vốn hiểu biết phong phú, tài năng và bản lĩnh sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Ngoài ra, nó còn giúp nhà văn mở rộng dung lượng phản ánh hiện thực như ông đã từng quan niệm về truyện ngắn. 3.2.2.3. Chúng tôi nhận thấy: trong một số truyện, cách tổ chức trần thuật có những nét riêng biệt mà người đọc ít gặp ở một số nhà văn khác. Ở truyện Cầu đánh vật, với việc vận dụng phương thức trần thuật khách quan và phương thức trần thuật chủ quan, câu chuyện được kể lại bởi nhân vật tôi và nhân vật đô Cót. Nhân vật tôi với vai trò là người dẫn truyện đã kể lại câu chuyện về hai bố con đô Cót và đô Vựa. Bên cạnh đó, với kiểu trần thuật uỷ thác cho nhân vật, người trần thuật (tôi) uỷ thác câu chuyện cho nhân vật đô Cót kể. Với lối tự sự rẽ ngang như thế, đô Cót đã kể lại ba câu chuyện: chuyện ngôi đất hình nhân bái tướng, chuyện cầu đánh vật và chuyện Ngựa Lồng, Voi Cái. Cả ba câu chuyện này đều có vai trò như nhau, bổ sung cho nhau cùng nhằm biểu hiện truyền thống vật và niềm tự hào về sân vật Cẩm Giang. Cũng tương tự như thế, trong Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng vật, cấu trúc trần thuật có sự đan xen nhiều câu chuyện vào nhau. Phần đầu là câu chuyện tình giữa cô gái quê hiền thục (Tần) với Đức Thái Tông Trần Cảnh. Phần sau là câu chuyện về chàng đô vật Trạng Sặt (Trần Quang Khải). Hai câu chuyện này có tính độc lập tương đối, khi đứng riêng chúng có thể trở thành hai truyện độc lập. Dĩ nhiên, Kim Lân đã có sự liên kết khéo léo hai câu chuyện bằng chi 88 tiết chiếc khăn vàng trên đầu Trạng Sặt rơi xuống, hai cha con đức vua nhận ra nhau. Có thể nói, với dạng cấu trúc trần thuật này, truyện ngắn Kim Lân đã tồn tại một dạng cấu trúc trần thuật khá độc đáo. Đó là dạng cấu trúc trần thuật truyện bên truyện. 3.2.3. Dạng cấu trúc trần thuật theo tâm lí 3.2.3.1. Trần thuật là sự trình bày liên tục bằng lời văn nhằm tái hiện lại các chi tiết, sự kiện, biến đổi về xung đột và nhân vật theo một trình tự nào đó với một cách nhìn, cách cảm nhất định. Nếu như, trong các sáng tác truyện dân gian, trật tự trần thuật thường được tiến hành theo trình tự từ trước đến sau, từ mở đầu đến kết thúc với sự tập trung vào hành động xung đột bên ngoài thì trong cách tự sự hiện đại, các nhà văn đã đi sâu vào khám phá, thể hiện đời sống nội tâm của con người. Một trong những cái mốc quan trọng của tự sự hiện đại là dùng tâm lí nhân vật như một không gian để triển khai cốt truyện. Không có nhiều những tác phẩm mẫu mực như Nam Cao nhưng Kim Lân vẫn có những cách đi của riêng mình. 3.2.3.2. Trong các truyện ngắn tổ chức trần thuật theo tâm lý, chúng tôi thấy thế giới tinh thần của các nhân vật được nhà văn mổ xẻ thấu đáo, thể hiện rất phong phú và đa dạng. Góp vào sự đa dạng sinh động của cấu trúc trần thuật, dạng cấu trúc trần thuật theo tâm lí là một biểu hiện khá độc đáo trong cách tổ chức trần thuật của Kim Lân. Truyện Vợ nhặt kể về nhân vật chính (Tràng) xoàng xĩnh về ngoại hình, ăn nói thô kệch. Tràng làm công việc đẩy xe thóc liên đoàn lên tỉnh. Một lần, Tràng đang cố sức kéo xe thóc vào dốc tỉnh. Mệt quá hắn hò một câu cho đỡ nhọc. Tràng chỉ đùa tầm phơ tầm phào. Lần thứ hai ra chợ tỉnh, với bốn bát bánh đúc và vài câu nói đùa, Tràng đã có vợ. Hắn đưa người vợ nhặt về nhà trong cảnh người chết đói như ngã rạ. Trong cảnh đói kém và ngạc nhiên của mọi người, Tràng cảm thấy hãnh diện vô cùng. Mặt hắn có vẽ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười, hai con mắt sáng lấp lánh. Người vợ nhặt đi theo hắn về nhà. Thị tỏ ra rón rén e thẹn. Về đến nhà, Tràng thưa chuyện cùng mẹ. Sau một thoáng ngạc nhiên, thương xót cho cảnh ngộ người đàn bà, bà cụ Tứ chấp nhận trong tâm 89 trạng vừa mừng, vừa tủi, vừa lo… Sáng hôm sau, trong bữa ăn ngày mới, cả nhà ai nấy đều vui vẻ trò chuyện và hy vọng vào ngày mai tốt đẹp hơn. Với cốt truyện này, Kim Lân tổ chức trần thuật rất tự nhiên, hấp dẫn. Mạch tự sự diễn ra theo quá trình tâm lý nhân vật Tràng. Mở đầu tác phẩm là cảnh Tràng đưa người vợ nhặt về nhà trước sự ngạc nhiên của mọi người. Trong sự ngạc nhiên của mọi người và bản thân, Tràng nhớ lại câu chuyện nhặt được vợ. Tiếp đó mạch tự sự chảy xuôi cho đến thời điểm kết thúc. Với mạch tự sự theo diễn biến tâm lý nhân vật, Kim Lân đã tạo cho tác phẩm một mạch trần thuật rất tự nhiên, hấp dẫn. Có thể nói, dạng cấu trúc trần thuật này đã góp phần rất lớn vào việc biểu hiện ý nghĩa tố cáo của tác phẩm: cuộc sống khủng khiếp đến mức khiến con người nghĩ rằng mình không thể có được hạnh phúc ngay cả khi nó trở thành hiện thực. Tương tự, trong truyện Trả lại đòn, mạch tự sự dẫn dắt người đọc đi từ thắc mắc này đến thắc mắc khác. Sư Tuệ, Chánh Bảy là người như thế nào? Câu chuyện mối thù cầu Đôi ra sao mà khiến con cháu làng Đồng Kỵ phải thực hiện lời nguyền: “Có gặt của làng Trang Liệt được năm bảy sào ruộng thì làm ăn mới mát mẻ thịnh vượng”. Câu chuyện mối thù cầu Đôi được mở ra bí mật với kiểu cấu trúc trần thuật truyện lồng truyện qua lời kể của Chánh Bảy. Đỉnh điểm của câu chuyện trả lại đòn là cuộc so tài giữa Chánh Bảy, sư Tuệ và bọn đàn em với cánh Ba Lai Hà Đông. Qua tâm trạng thất bại ê chề của Chánh Bảy, mạch tự sự đưa người đọc đến cuộc chiến ngang tài ngang sức bằng hồi ức của nhân vật. Thế rồi, cùng với cái chết của con Vện, Chánh Bảy phải tháo chạy về địa phận Đồng Kỵ mà chưa gặt được sào lúa nào. Ở đây, sự ngắt quãng, trở ngược của thời gian cốt truyện được giải thích như không phải bởi sự chú ý của tác giả mà bởi quy luật tâm lý của nhân vật. Với việc tổ chức mạch tự sự theo cơ chế tâm lí của hồi tưởng, tác giả đã làm nổi rõ hơn nỗi nhục nhã của một con người mà khi thất bại mới biết “thiên hạ có lắm người tài”. Cách tổ chức trần thuật này đặt trong mối tương quan về sự di chuyển điểm nhìn: từ điểm nhìn tác giả sang điểm nhìn nhân vật. Sự di chuyển điểm nhìn này đã tạo nên cái nhìn nhiều chiều về nhân vật Chánh Bảy, về mối thù cầu Đôi giữa làng Trang Liệt và làng Đồng Kỵ. Đây 90 chính là lô gích để tác phẩm kết thúc theo lối để ngỏ nhằm thể hiện một ý nghĩa sâu sắc: trong con người luôn tồn tại cái thiện, vấn đề là ở chỗ phải có một tình thế và phải biết nhen nhóm để cái thiện ấy bùng toả. Ở truyện ngắn Đứa con người vợ lẽ, mạch tự sự cũng xuôi chảy rất tự nhiên theo diễn biến tâm trạng nhân vật. Đoạn hồi ức và cảm xúc của nhân vật Tư khi bị cái đói hành hạ thể hiện rất rõ dấu ấn tự truyện của nhà văn: Tư đưa “bát phở” lên mũi ngửi, mùi thơm ngào ngạt bốc lên anh nếm một hụm chèm chẹp miệng. Trời ơi sao mà ngon thế! Anh ước ao giá được một bát cơm nguội trộn ăn thì phải biết! Nghĩ đến cơm nguội, anh lại nhớ đến một hôm, cũng đói như hôm nay. Thân, bạn chí thiết của anh, đến chơi nèo mãi anh về nhà. Rồi mời anh: - Nhà đi vắng cả, chỗ anh em với nhau, tôi nói thật: anh ở đây ăn cơm nguội - cơm nguội thôi - với tôi cho vui nhé. Cái bữa cơm nguội với cà ấy sao mà ngon thế! Tư còn nhớ mãi, có lẽ suốt đời: Tư so sánh ông Cả với Thân. Nỗi căm hờn nổi dậy trong lòng. Hai mắt anh quắc lên một cách dữ dội. Anh nghiến răng ném mạnh “bát phở” ra sân. Tiếng bát vỡ làm cho lòng anh dịu. Anh bật cười thấy mình vô lý và hơi tiêng tiếc. Tư thấy, mỏi rã rời. Toàn thân run lên. Anh nằm lả xuống [54, tr.30 - 31]. Cũng với mạch tự sự như trên, trong truyện Cơm con, câu chuyện thời trẻ của cụ Nhiêu hiện ra rất tự nhiên hợp lý sau những lần gây sự của đứa con bất hiếu (cả Anh). Càng nghĩ, cụ càng giận uất cái thằng con bạc bẽo. Nó dám mở mồm nói: “Có được nhờ ông cái gì tôi không phải” mà nghe cho được. Nó không nhớ cái hồi mẹ nó chết đi ư? Em nó còn đỏ hỏn; nó mới biết bò. Ai nuôi nó nhớn đến ngày nay? Ai lo lắng vợ con cho nó? Ai gây cửa hàng cửa họ cho nó? Chao ôi! Cứ nghĩ đến cái đận gà trống nuôi con ấy mà phát sợ. Một mình cụ tần tảo buôn rau bán hành, buôn đấu bán thúng, thôi thì xoay xoả đủ vành [54, tr.549 - 550]. 91 Theo mạch hồi ức, cụ Nhiêu nhớ lại những ngày tháng lận đận, một thân một mình nuôi con. Cụ bỏ qua ngoài tai lời khuyên của mọi người, cụ không dám nghĩ đến cảnh vợ lẽ con thêm. Là người lo xa nên cụ đã tậu hơn mẫu ruộng thượng đẳng điền để phòng thân. Những ngày còn ruộng, vợ chồng cả Anh tử tế với cụ quá chừng. Thế rồi sau khi sang tên mẫu ruộng ấy, vợ chồng cả Anh tỏ ý khủng khỉnh với cụ ngay. Chúng nó xem cụ như là cái nợ… Như vậy, ở truyện ngắn này, mạch tự sự không chỉ diễn ra tự nhiên, hợp lý mà nó còn góp phần khám phá ra ý nghĩa tâm lý của nhân vật trong mối tương quan với hiện tại của câu chuyện. Ở đây, sự đối sách có ý thức của nhà văn về câu chuyện “cha mẹ nuôi con bằng giời bằng bể, con nuôi cha mẹ con kể từng ngày” là rất rõ. Nhà văn Kim Lân từng đưa ra quan niệm: trong truyện ngắn chi tiết có vai trò vô cùng quan trọng. Quan niệm này đã đưa đến đặc điểm: truyện ngắn của ông thường rất nhiều chi tiết. Có khi chi tiết lấn át cả cốt truyện. Chi tiết góp phần thể hiện tinh tế, rõ ràng tính cách nhân vật nhất là khi nó được thể hiện như là kết quả của quá trình tâm lí. Đoạn miêu tả hành động của nhân vật Đoàn (Ông lão hàng xóm) khi nghe tin chị vợ bị đuổi ra khỏi cuộc họp được tác giả thể hiện rất hợp lí: - Sao? Mình?… Ô kìa, sao tôi hỏi mình lại khóc. Chị vợ nức nở: - Đang họp dở chừng… Người ta đuổi không cho họp nữa… - Người ta đuổi không cho họp à? Người ta đuổi không cho mình họp nữa à? Làm sao mà người ta đuổi?… Giời ơi! Thế này thì tôi sống làm sao được!… Mình ơi! Mình ơi!… Đoàn bấu chặt lấy hai vai vợ, vừa nói, vừa rít. Cái ý nghĩ định chết khi nãy vừa dịu xuống lại đau xé trong người Đoàn, Đoàn bỗng ôm chầm lấy vợ vào lòng. Vừa đau đớn, khổ sở, vừa căm tức, điên cuồng, Đoàn cắn vào cổ, vào vai, vào ngực vợ… [54, tr.258]. Hành động của nhân vật Đoàn là hành động hợp với diễn biến tâm trạng. Chính nỗi đau khổ tuyệt vọng, tình cảm thương vợ và thương bản thân đã khiến anh ôm choàng lấy vợ. Ở đây, hành động của nhân vật không chỉ là kết quả của 92 một quá trình tâm lí mà nó còn trở thành chi tiết rất đắt góp phần thể hiện chủ đề tác phẩm. Khai thác hình tượng nhân vật và tổ chức mạch tự sự theo quá trình tâm lí, ngòi bút Kim Lân còn thể hiện thế mạnh ở khả năng phân tích và biểu hiện tâm trạng nhân vật. Trong truyện ngắn Làng, Kim Lân đã thể hiện rất xúc động tâm trạng nhân vật lão Hai. Lão vô cùng đau khổ khi nghe tin làng chợ Dầu theo Tây. Nỗi đau lên đến tột độ, lão căm thù cả làng chợ Dầu. Nỗi mặc cảm, nhục nhã về cái tin làng chợ Dầu theo giặc khiến lão tưởng như tuyệt đường sinh sống: Ông Hai ngồi lặng trên một góc giường, bao nhiêu ý nghĩ đen tối, ghê rợn, nối tiếp bời bời trong đầu óc ông lão. Biết đem nhau đi đâu bây giờ? Biết đâu người ta chứa bố con ông mà đi bây giờ?… Thật là tuyệt đường sinh sống! Mà không một gì cái đất Thắng này. Ở Đài, ở Nhã Nam, ở Bố Hạ, Cao Thượng… đâu đâu có người chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi. Mà cho dẫu vì chính sách Cụ Hồ người ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu. “Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây…” cái câu nói của người đàn bà tản cư hôm trước lại dội lên trong tâm trí ông. Hay là quay về làng?… Vừa chớm nghĩ như vậy. Lập tức ông lão phản đối ngay. Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ… [54, tr.192] Với sự sâu sắc, Kim Lân đã thể hiện rất xúc động cõi lòng thâm sâu của người nông dân. Họ một lòng đi theo cách mạng. Dù hoàn cảnh nào họ cũng hướng về kháng chiến, hướng về Cụ Hồ. Chính những tình cảm ấy đã khiến lão Hai vô cùng sung sướng và tự hào khi nghe tin làng chợ Dầu không theo giặc. Nhìn lại toàn bộ sáng tác của Kim Lân trong cả hai giai đoạn trước và sau cách mạng tháng tám, người đọc có thể nhận ra sự am hiểu sâu sắc về tâm lí con người của nhà văn. Sự am hiểu này đã giúp Kim Lân có những trang biểu hiện một cách tinh tế, chân thực và cảm động những tình cảm của người lao động 93 nghèo. Có thể nói, chính vốn sống và sự sâu sắc đã đưa ngòi bút của ông gần như đến tận cùng những tâm trạng, nỗi niềm của con người. Điều này cũng như sự thành công của Nam Cao khi khắc hoạ những bi kịch của người nông dân và người trí thức trước cách mạng tháng tám. Cũng bởi những thành công này mà nhà thơ Trần Ninh Hồ đã đưa ra một nhận xét khá sát đáng về truyện ngắn của Kim Lân. “Tất cả, tất cả, dường như đã được ghi lại bằng những thân phận, những tâm trạng sắc sảo đến cốt, đến lõi. Nếu như cho rằng văn chương là lịch sử tâm trạng con người thì Kim Lân quả là nhà văn đích thực trên cái ý nghĩa ấy” [75, tr.87]. 3.2.3.3. Cùng với việc tổ chức mạch tự sự theo quá trình diễn biến tâm lí nhân vật, việc tổ chức điểm nhìn trần thuật cũng là một yếu tố trong sáng tạo nghệ thuật của nhà văn Kim Lân. Khi miêu tả, trần thuật các sự kiện nhà văn bao giờ cũng bộc lộ quan điểm đánh giá, cảm thụ về các sự kiện, các loại nhân vật trong tác phẩm. Ở những truyện viết về đề tài những sinh hoạt văn hoá nhà văn thường tiến hành trần thuật theo quan điểm ca ngợi, trân trọng những giá trị văn hoá truyền thống. Ở các truyện viết về đề tài xã hội, vấn đề tổ chức điểm nhìn trần thuật diễn ra rất linh hoạt. Có khi nhà văn tiến hành trần thuật theo quan điểm của mình, có khi theo quan điểm nhân vật, có khi là sự kết hợp luân phiên giữa các quan điểm. Trong các truyện ngắn cấu trúc trần thuật theo quá trình tâm lí, Kim Lân thường sử dụng linh hoạt hai loại điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài. Đặc biệt, với loại điểm nhìn bên trong, sự trần thuật thường được tiến hành qua lăng kính của một tâm trạng cụ thể. Điều này giúp nhà văn tái hiện thành công các quá trình tâm lí của nhân vật. Có thể nói, với dạng cấu trúc trần thuật theo tâm lí, Kim Lân đã mang đến cho nhân vật một đời sống nội tâm phong phú, đa chiều hơn các nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố… Dạng cấu trúc trần thuật này chúng ta thường gặp trong các truyện ngắn của Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Minh Châu,… 3.2.4. Dạng cấu trúc trần thuật đảo lộn trình tự thời gian 3.2.4.1. Hình thức tổ chức sự kiện cơ bản nhất là liên kết các sự kiện thành truyện. Lối tự sự truyền thống thường tổ chức mạch phát triển của câu chuyện 94 theo trật tự từ trước đến sau, từ mở đầu đến kết thúc. Cách tổ chức sự kiện này thường hướng đến sự thể hiện ý nghĩa của chuỗi sự kiện trong mối quan hệ nhân quả. Kim Lân cũng kế thừa cách tổ chức trần thuật này. Bên cạnh đó, có một số lượng đáng kể truyện ngắn của ông mở đầu thời điểm trần thuật ở nhiều thời điểm khác nhau của thời gian cốt truyện. Ở những trường hợp như vậy, mạch tự sự của tác giả sẽ không xuôi chiều mà có sự trở đi trở lại, có sự xen kẽ giữa hiện tại và quá khứ. Sự xáo trộn thời gian này thường gắn với quy luật tâm lí, với việc hướng người đọc đến việc đi tìm nguyên nhân, cội nguồn của hiện tại… Dạng cấu trúc trần thuật đảo lộn trình tự thời gian trong truyện ngắn Kim Lân mang đặc điểm khá đa dạng. Mạch tự sự có thể mở đầu từ hiện tại rồi trở về quá khứ, từ quá khứ gần đến quá khứ xa rồi trở về hiện tại. Hoặc mạch tự sự không xuôi chiều mà có sự trở đi trở lại, xen kẽ giữa quá khứ và hiện tại… 3.2.4.2. So với các dạng cấu trúc trần thuật khác, sự đa dạng và mức độ rõ ràng của dạng cấu trúc trần thuật đảo lộn trình tự thời gian được thể hiện ít hơn. Nhưng với con số 10/28 truyện là một con số đáng kể để định hình nên một dạng cấu trúc trần thuật khác của nhà văn Kim Lân. Ở nhóm truyện thứ nhất (gồm các truyện: Nên vợ nên chồng, Chị Nhâm…), mạch tự sự không xuôi chiều mà đi từ hiện tại trở về quá khứ, từ quá khứ gần đến quá khứ xa. Trong truyện Nên vợ nên chồng, mạch trần thuật bắt đầu từ sự kiện anh Thế chị Hoà xây dựng gia đình trong một hoàn cảnh hết sức cảm động và được mọi người vun vén rất nhiệt tình. Từ sự kiện này, mạch tự sự trở về quá khứ gần với câu chuyện về các tên “anh cu Ế” trong những ngày tháng sống tủi nhục. Từ quá khứ gần, mạch trần thuật trở về quá khứ xa với nhiều chuyện: chuyện “một năm đói mẹ Thế đem bốn đứa con nhỏ lên đất Triều Dương kiếm việc”, chuyện đồng chí Vân giúp Thế kể khổ, chuyện hai lần lấy vợ không thành của Thế. Ở phần hai của truyện, mạch tự sự cũng trở về quá khứ với các câu chuyện: chuyện bố mẹ Hoà đem con tìm đất kiếm sống, chuyện bố Hoà và em Hoà bị giết, chuyện mẹ Hoà thương chồng thương con khóc cho đến chết, chuyện Hoà dũng cảm kể tội thằng Khang… Tương tự, ở truyện Chị Nhâm, mạch tự sự mở đầu bằng việc giới thiệu câu chuyện chị Nhâm vì địa chủ phải 95 trốn lên rừng 27 tháng. Tiếp đó, mạch truyện trở về quá khứ hai mươi năm trước với câu chuyện hai vợ chồng ông lão đánh dậm có hai cô con gái là Nhâm và Cấn. Sau những sự kiện về quãng đời bất hạnh của Nhâm và gia đình, truyện kết thúc bằng sự kiện Dung và Nhâm trở thành vợ chồng. Họ thoát khỏi cảnh đời khốn khổ, trở thành chủ nhân của cuộc đời mình. Ở hai truyện Nên vợ nên chồng, Chị Nhâm, với việc tổ chức mạch tự sự từ hiện tại trở về quá khứ, tác giả đã làm nổi bật quá khứ đau thương của những số phận bất hạnh. Sự đối lập giữa hiện tại cuộc đời mới với quá khứ bất hạnh đã làm nổi bật chủ đề tác phẩm: chỉ có cách mạng mới thay đổi được số phận bất hạnh của người nông dân, chỉ có cách mạng mới đem lại hạnh phúc cho họ. Ở nhóm truyện thứ hai (gồm các truyện: Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng vật, Người chú dượng, Bà mẹ Cẩn…), cấu trúc trần thuật lại mang một đặc điểm khác: mạch tự sự không xuôi chiều mà có sự trở đi trở lại, có sự xen kẽ giữa hiện tại và quá khứ. Trong truyện Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng Vật, mạch tự sự bắt đầu từ thời điểm một đêm cuối xuân Tần ru con ngủ với bao tâm trạng ngổn ngang. Tiếp đó, mạch tự sự có sự trở đi trở lại, xen kẽ giữa nhiều câu chuyện của quá khứ với hiện tại: chuyện tình giữa Tần và Đức Thái Tông Trần Cảnh; chuyện về chàng đô vật Trạng Sặt; chuyện về hai ông đô Voi, đô Nghê thời Lý; chuyện cha con Đức Thái Tông Trần Cảnh nhận ra nhau… Như vậy, ở truyện ngắn này, sự trở đi trở lại xen kẽ của quá khứ nhằm hướng người đọc đến việc giải thích nguyên nhân, cội nguồn của hiện tại . Đó là sự dở dang của cuộc đời Tần; sự say mê, hiểu biết cặn kẽ của Đức Thái Tông Trần Cảnh với môn võ vật… Nói cách khác, việc xáo trộn trật tự cốt truyện trong truyện ngắn này đã mở hướng đưa thêm vào tác phẩm một số cốt truyện khác: cốt truyện của câu chuyện tình giữa cô gái tên Tần với Đức Thái Tông Trần Cảnh, cốt truyện của câu chuyện về hai ông tướng Đá Rãi… Tương tự, trong truyện Bà mẹ Cẩn, sự xen kẽ giữa hiện tại và quá khứ trong mạch tự sự cũng mang ý nghĩa đi tìm nguyên nhân hoàn cảnh hình thành nên tính cách “khó hiểu” của bà mẹ Cẩn. Đó là quá khứ đau khổ, dở dang về đường chồng 96 con. Ngoài ra, ở đây mạch tự sự còn nhằm hướng người đọc đến sự đồng cảm với nhân vật. Ở truyện Người chú dượng, với kiểu người trần thuật xưng tôi vừa là người dẫn truyện vừa là một nhân vật, Kim Lân có chín lần hồi ức. Theo mạch hồi ức, mạch tự sự không xuôi chiều mà có sự trở đi trở lại, xen kẽ giữa quá khứ và hiện tại. Mỗi khi hồi ức hiện ra, mạch tự sự lại chuyển sang một câu chuyện thuộc về quá khứ: chuyện cái bến Mảng - thủ đô Lửa với bao con người thân thiết mà nhân vật tôi đã từng gắn bó; chuyện cái lối đi qua làng U, làng Ngò; chuyện thân một cây trám và những cụm sau sau xơ xác; chuyện vợ chồng ông phán già; chuyện về trại Han những ngày kháng chiến; chuyện dì Bản; chuyện ông Mạc và con dao rừng vỏ gỗ… Những câu chuyện xuất hiện theo kí ức của nhân vật tôi có khi vài trang, có khi là một đoạn. Đó là những thông tin ngắn gọn về quá khứ nhân vật. Cũng có khi, chỉ mấy dòng ngắn ngủi mà Kim Lân đã có cả hình ảnh gợi nhớ của hiện tại và một câu chuyện thuộc về quá khứ: Tôi đã đến dẫy tường đổ, trơ vơ bên sườn một quả đồi sỏi đỏ. Cái nhà này tôi biết. Đấy là nhà vợ chồng một ông phán già ở Hà Nội có con cùng làm một cơ quan với vợ tôi. Anh con giai ấy ốm, rồi chết từ hồ còn kháng chiến. Vợ chồng ông phán tôi có gặp mấy lần ở Hà Nội, tôi có lại nhà chơi. Bây giờ vợ chồng ông ở với người con gái đã luống tuổi làm trong một hợp tác xã đan len gần chợ Cửa Nam [54, tr.453]. 3.2.4.3. Ở dạng cấu trúc trần thuật này, chúng tôi nhận thấy mạch tự sự thường diễn ra theo hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất, mạch từ sự bắt đầu từ thời điểm hiện tại sau đó trở về quá khứ rồi kết thúc ở hiện tại. Ở trường hợp này, mạch tự sự thường trở về một khoảng dài của quá khứ. Trường hợp thứ hai, mạch tự sự có sự trở đi trở lại, xen kẽ giữa hiện tại và quá khứ với những khoảnh khắc nhớ ở nhiều thời điểm khác nhau. Trong cả hai trường hợp, mạch tự sự có thể diễn ra theo mạch hồi ức nhân vật, theo hướng đi tìm nguyên nhân cội nguồn của hiện tại hay theo hướng truyện lồng truyện… Ở cả hai trường hợp trên, tác giả thường hướng đến sự so sánh, đối lập giữa quá khứ đau buồn bất hạnh với hiện tại về sự đổi đời của nhân vật trong cuộc sống mới. Có thể nói, ở dạng cấu trúc 97 trần thuật này, Kim Lân có những nét tương đồng và khác biệt với Nam Cao. Trong truyện ngắn Nam Cao, mạch tự sự cũng có sự trở về của những khoảng dài quá khứ nhân vật. Nhưng trong truyện ngắn Nam Cao, quá khứ nhân vật thường là quá khứ êm đềm, trong sáng, đáng nhớ hơn so với hiện tại (Đời thừa, Trăng sáng, Chí Phèo…). Những quá khứ này thường đặt Trong sự so sánh đối lập với tương lai bế tắc do hoàn cảnh xã hội tạo ra. Ở truyện ngắn của Nam Cao, sự trở về của quá khứ trong mạch tự sự thường nhằm chuyển sự chú ý của người đọc từ sự việc sang nội tình bên trong của nhân vật. Đó là những bi kịch của con người trong xã hội cũ… 98 KẾT LUẬN Kim Lân đến với văn học bằng sự say mê ham thích và ý chí vượt lên số phận. Ông viết văn với một tâm niệm chân thành: đòi cho mình một chỗ đứng, một nhân phẩm trong cuộc sống quẩn quanh ở nông thôn bấy giờ. Chính vì tâm niệm chân thành, đẹp đẽ ấy mà hầu hết các sáng tác của Kim Lân đều tập trung vào hai mảng đề tài lớn: cuộc sống, tâm tư tình cảm của người nghèo khổ và những sinh hoạt văn hoá cổ truyền, những thuần phong mỹ tục ở nông thôn. Trước cách mạng tháng tám, Kim Lân bước vào làng văn với những truyện ngắn mang tính tự truyện đăng trên báo Tiểu thuyết thứ bảy và Trung Bắc chủ nhật. Ở giai đoạn sáng tác này, ý thức trách nhiệm của nhà văn đối với ông còn mơ hồ. Ông thường viết về bản thân và cái mình thích. Tuy nhiên, với tấm lòng của người vốn là con đẻ của đồng ruộng, Kim Lân đã hướng ngòi bút vào cuộc sống và con người của quê hương. Ông tập trung phản ánh cuộc sống nông thôn cùng với những cảnh đời nghèo khổ, lam lũ của người nông dân. Bên cạnh đó, Kim Lân còn có một số tác phẩm viết về những thú vui, trò chơi nơi thôn dã như: chọi gà, thả chim, chó săn, đánh vật… Có thể nói, những truyện ngắn viết về những sinh hoạt văn hoá cổ truyền của ông đã tạo được những ấn tượng sâu sắc đối với người đọc. Đây là những trang viết thể hiện rất rõ vốn hiểu biết tường tận, phong phú của nhà văn về những giá trị văn hoá truyền thống. Sau cách mạng tháng tám, nhà văn ý thức hơn về trách nhiệm của mình đối với cuộc sống và xã hội. Ông tiếp tục viết về những cảnh đời khốn khó, tội nghiệp. Ông đi sâu vào thể hiện những thay đổi tình cảm, nhận thức, sự đổi đời của người nông dân nhờ cách mạng, những hoạt động phục vụ cách mạng bình thường nhưng đáng quí của họ. Với một tầm nhìn, tầm nghĩ mới, Kim Lân đã sáng tạo ra những tác phẩm có giá trị như: Vợ nhặt, Làng… Cả đời văn, Kim Lân chủ yếu viết truyện ngắn. Hơn ba mươi truyện ngắn là con số không nhiều so với các nhà văn cùng thời nhưng ông đã có những đóng góp đáng kể cho đề tài nông thôn, thể tài truyện ngắn và nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Thành công của Kim Lân xuất phát từ tài năng bẩm sinh, vốn sống đầy 99 đặn, phong phú, khả năng quan sát và thể hiện độc đáo. Mỗi tác phẩm của ông là một sự phát hiện, khẳng định bản chất tốt đẹp của con người. Ông luôn hướng ngòi bút của mình tới điều thiện, cố gắng tìm tòi để nhận ra những biểu hiện tốt đẹp của cuộc sống và của con người với tấm lòng bao dung, nhân ái tràn đầy. Bởi vậy, đọc truyện Kim Lân, người đọc luôn cảm nhận được ở tác phẩm của ông thường toát lên cảm hứng ca ngợi những giá trị tốt đẹp của cuộc sống, cảm hứng yêu thương trân trọng con người và cuộc sống của con người. Nguồn mạch cảm hứng ấy xuất phát từ cái tâm của con người nhân ái, cái tâm của người cầm bút. Cái tâm ấy bình dị, chất phác mà sâu sắc như con người ông. Trong văn Kim Lân, người đọc không bắt gặp những câu chữ được đánh bóng mạ kền. Ông có cái nhìn, lối nghĩ và cách diễn đạt của người vốn bình dị chất phác. Văn của ông không ồn ào mà chân chất, trong sáng mà chững chạc. Kim Lân từng quan niệm: trong truyện ngắn, chi tiết vô cùng quan trọng. Truyện của ông đầy ắp những chi tiết. Trước khi viết, nhà văn chuẩn bị rất kỹ chi tiết, cốt truyện và nhân vật. Để khắc hoạ chân thật, giản dị hình ảnh con người và cuộc sống của con người, nhà văn thường vận dụng các kiểu trần thuật trong phương thức trần thuật khách quan và phương thức trần thuật chủ quan. Ở phương thức trần thuật khách quan, kiểu trần thuật lạnh lùng là kiểu trần thuật được sử dụng nhiều nhất. Với những đặc điểm của kiểu trần thuật này, tác giả để cho nhân vật, sự kiện tự nó hiện ra và diễn biến như trong đời sống thật. Nhà văn tách khỏi câu chuyện, tạo cho người đọc cảm giác Như được tiếp xúc trực tiếp với các nhân vật và các sự kiện. Từ đó, người đọc có thể cảm nhận, đánh giá theo cách của riêng mình. Bên cạnh đó, trong một số truyện ngắn, khi cần thiết, tác giả lại hoà mình vào nhân vật để bộc lộ thế giới nội tâm của nhân vật. Ở những trường hợp này, lời nói nửa trực tiếp được sử dụng nhằm khai thác triệt để tâm lý nhân vật. Ngoài ra, trong một số truyện ngắn như: Đứa con người vợ lẽ, Cô Vịa, Vợ nhặt, Làng… người đọc bắt gặp rất nhiều yếu tố tự truyện. Đó là nét tương đồng giữa những dấu vết về hoàn cảnh, những trải nghiệm, những ấn tượng của nhà văn với thế giới nhân vật mà nhà văn thể hiện trong tác phẩm. Ở đặc điểm này, nhà văn đã vận dụng sáng tạo phương thức trần thuật khách quan. 100 Sự vận dụng sáng tạo này đã mang đến cho truyện ngắn Kim Lân sự đa dạng về phương thức trần thuật và mang đến cho chủ thể trần thuật một tư cách xuất hiện mới. Ở phương thức trần thuật chủ quan, truyện ngắn Kim Lân trần thuật chủ yếu với hai kiểu trần thuật: kiểu người trần thuật xưng tôi đóng vai trò dẫn truyện và kiểu người trần thuật xưng tôi vừa là người dẫn truyện vừa là một nhân vật. Ở kiểu người trần thuật xưng tôi đóng vai trò người dẫn truyện, người trần thuật là một hình tượng giả định đóng vai trò người dẫn truyện và thường bộc lộ quan điểm của tác giả. Ở kiểu người trần thuật xưng tôi vừa là người dẫn truyện vừa là một nhân vật, do khoảng cách giữa người trần thuật và câu chuyện được rút ngắn nên tạo điều kiện thuật lợi cho việc miêu tả trực tiếp các biến cố, sự kiện xảy ra cũng như khả năng thâm nhập vào chiều sâu thế giới nội tâm của nhân vật. Ngoài ra, ở một số truyện, hai kiểu trần thuật trên còn được vận dụng trong sự kết hợp với kiểu trần thuật uỷ thác cho nhân vật. Phương thức trần thuật liên chủ quan này đã góp phần rất lớn vào việc thể hiện chủ đề tác phẩm và cảm hứng của nhà văn. Góp vào đặc điểm của nghệ thuật trần thuật, cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân cũng là một yếu tố quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Trong những sáng tác của mình, Kim Lân thường sử dụng nhiều dạng cấu trúc trần thuật: dạng tự sự theo trình tự thời gian, dạng tự sự hay rẽ ngang với những kiểu rất riêng, dạng tự sự theo quá trình tâm lí và dạng tự sự đảo lộn trình tự thời gian. Các dạng cấu trúc trần thuật này được sử dụng, kết hợp với nhau rất linh hoạt, hợp lí và đa dạng. Bên cạnh đó, việc thâm nhập, khám phá thế giới hình tượng nhân vật từ nhiều điểm nhìn trần thuật cũng góp phần tạo nên sự hấp dẫn, nét độc đáo trong cách tự sự của nhà văn. Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Kim Lân thuộc lớp nhà văn viết không nhiều. Kim Lân viết không nhiều cũng bởi ông rất thận trọng với mình và với người. Trong những sáng tác thành công của Kim Lân, người đọc đều tìm 101 thấy con người ông trong đó. Văn ông thường bộc lộ sự thận trọng, sâu sắc trong suy nghĩ; sự nhân hậu, ôn hoà trong tình cảm. Dù số lượng trang viết không nhiều nhưng với ba truyện ngắn được đưa vào chương trình giảng dạy của tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông (Ông Cản Ngũ, Làng, Vợ nhặt) và hai truyện ngắn được xem là mẫu mực về nghệ thuật viết truyện (Vợ nhặt, Làng), có thể nói, văn xuôi Kim Lân rất tương đắc khi đứng cạnh văn xuôi của các nhà văn cùng thời như: Tô Hoài, Nguyên Hồng,… 102 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoài Anh (2003), “Kim Lân nhà tiểu thuyết phong tục, sở trường về miêu tả trạng thái nhân thế”, Tạp chí Văn (số 13), Hội văn nghệ TP.HCM. 2. Lại Nguyên Ân (1986), “Văn xuôi Kim Lân”, Tạp chí Văn học (số 6), Viện văn học - uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam. 3. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 4. Bakhtin M. (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết (bản dịch của Phạm Vĩnh Cư), Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội. 5. Bakhtin M. (1998) Những vấn đề thi pháp Dostoievski (bản dịch của Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 6. Y Ban (2004), “Nhà văn Kim Lân: thuở ấy chúng tôi sống bằng hữu lắm”, Giáo dục và thời đại chủ nhật (số 17). 7. Lê Huy Bắc (1998), “Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại”, Tạp chí Văn học (số 9). 8. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, Nxb Đồng Tháp. 9. Nam Cao (1986), Truyện ngắn chọn lọc, Hội văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh, Nxb Văn học, Hà Nội. 10. Lê Tư Chỉ (1996), Để phân tích một tác phẩm truyện ngắn, Nxb Trẻ, TP.HCM. 11. Nguyễn Văn Dân (1998), Lí luận văn học so sánh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 12. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học lý luận và ứng dụng, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 13. Đặng Anh Đào (2001), Tài năng và người thưởng thức, Nxb Văn nghệ TP.HCM. 14. Lê Tiến Dũng (2003), Giáo trình lý luận văn học phần tác phẩm văn học, Nxb Đại học quốc gia TP.HCM. 103 15. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội. 16. Hà Minh Đức (chủ biên) (1994), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Văn học, Hà Nội. 17. Hà Minh Đức (2000), Đi tìm chân lý nghệ thuật, Nxb Văn học, Hà Nội. 18. Lê Bá Hán (chủ biên) (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 19. Nguyễn Văn Hạnh (2002), Văn học văn hoá - vấn đề và suy nghĩ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 20. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lý luận văn học - Vấn đề và suy nghĩ, Nxb Giáo dục, TP.HCM. 21. Hoàng Ngọc Hiến (1999), Năm bài giảng về thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 22. Hoàng Ngọc Hiến (1999), Văn học và học văn, Nxb Văn học, Hà Nội. 23. Hoàng Ngọc Hiến (2003), Nhập môn văn học và phân tích thể loại, Nxb Đà Nẵng. 24. Phùng Minh Hiến (2002), Tác phẩm văn chương một sinh thể nghệ thuật, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 25. Đỗ Đức Hiểu (1993), Đổi mới phê bình văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 26. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội . 27. Nguyễn Thái Hoà (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 28. Nguyễn Công Hoan (1969), “Viết truyện ngắn”, Văn nghệ (số 30). 29. Nguyễn Công Hoan (1995), Bước đường cùng, Nxb Văn nghệ TP.HCM. 30. Trần Ninh Hồ (1991), “Một ngày Kim Lân”, Văn nghệ (số 34). 31. Nguyên Hồng (1970), Bước đường viết văn, Nxb Văn học, Hà Nội. 32. Nguyên Hồng (1978), Những nhân vật ấy đã sống với tôi, Nxb Tác phẩm mới. 33. Nguyễn Khải (2003), Nghề văn cũng lắm công phu, Nxb Trẻ, TP.HCM. 104 34. Nguyễn Thị Dư Khánh (1995), Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp, Nxb Giáo dục TP.HCM. 35. Trần Đăng Khoa (1998), Chân dung và đối thoại, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 36. Lê Đình Kỵ (1984), Cơ sở lí luận văn học, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 37. M.B. Khrapchenco (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học, Nxb Tác phẩm mới (Hội nhà văn Việt Nam), Hà Nội. 38. M.B. Khrapchenko (2002), Những vấn đề lí luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 39. Đinh Trọng Lạc (1994), Phong cách học văn bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 40. Đinh Trọng Lạc (1999), Phong cách học tiếng việt, Nxb Giáo dục,Hà Nội. 41. Thạch Lam (1988), Tuyển tập, Nxb Văn học, Hà Nội. 42. Đặng Thị Huy Lam (2005), Đặc điểm truyện ngắn Kim Lân, Luận văn thạc sĩ, Đại học sư phạm TP.HCM . 43. Kim Lân (1942), Cô Vịa, Trung Bắc chủ nhật (số 135) (in lại trong luận văn thạc sĩ Đặc điểm truyện ngắn Kim Lân, Đặng Thị Huy Lam (2005), Đại học sư phạm TP.HCM). 44. Kim Lân (1955), Làng, Truyện ngắn, Nxb Văn nghệ, Hà Nội. 45. Kim Lân (1957), Ông lão hàng xóm, Nxb Văn nghệ, Hà Nội. 46. Kim Lân (1958), Anh Chàng hiệp sĩ gỗ, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 47. Kim Lân (1960), Cô gái công trường, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 48. Kim Lân (1962), Con chó xấu xí, Nxb Văn học, Hà Nội. 49. Kim Lân (1965), Vợ chồng anh đội trưởng, Văn nghệ (số 13), Tuần báo của hội liên hiệp văn học - nghệ thuật Việt Nam. 50. Kim Lân (1982), “Nguyên Hồng - một nhà văn”, Tạp chí văn học, (số 3). 51. Kim Lân (1983), Vợ nhặt, Nxb Văn học, Hà Nội. 52. Kim Lân ( 1984), “Chặng đường đi tới”, Tạp chí Văn học (số 4). 53. Kim Lân(1984), Ông Cản Ngũ, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 54. Kim Lân (1996) Tuyển tập Kim Lân, Nxb Văn học, Hà Nội. 105 55. Kim Lân (2004), Tác phẩm chọn lọc, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 56. Nguyễn Văn Long, Trần Đăng Xuyền (1999), Tư liệu văn 12 - phần văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 57. Phương Lựu (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hoà, Thành Thế Thái Bình, (2001), Lý luận Văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 58. Hoàng Như Mai, Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Hữu Tá (1992), Văn học 12 (tập1) Nxb Giáo dục TP.HCM . 59. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nxb Văn học, Hà Nội. 60. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (1986), Các nhà văn nói về văn (tập 2), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 61. Nguyễn Đăng Mạnh (1993), Các tác giả văn học Việt Nam (tập 2), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 62. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 63. Nguyễn Đăng Mạnh (1995), Tổng tập văn học Việt Nam tập 30A, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 64. Nguyễn Đăng Mạnh, Hoàng Dung, Trần Hữu Tá (1995), Tổng tập văn học Việt Nam tập 30B, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 65. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nhà văn Việt Nam hiện đại chân dung và phong cách, Nxb Trẻ, TP.HCM. 66. Trần Đồng Minh (1994), Tiếng nói tri âm, Nxb Trẻ, TP.HCM. 67. Hồ Quí Nghĩa (2004), “Sức sống trong truyện ngắn Vợ nhặt”, Giáo dục và thời đại, (số 49). 68. Bảo Nguyên (1997), “Sử dụng ngôn ngữ - nghệ thuật đặc sắc của truyện ngắn Kim Lân”, Tạp chí Ngữ học trẻ, Nxb Hội ngôn ngữ học VN. 69. Lữ Huy Nguyên (1997), “Kim Lân với những thú chơi ngày xuân Kinh Bắc”, Văn nghệ (số 5 + 6), Hội nhà văn VN. 70. Lữ Huy Nguyên (2000), Ấn tượng văn chương, Nxb Văn hoá thông tin. 106 71.Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Văn nghệ TP.HCM. 72. Phùng Quý Nhâm (2003), Văn học và văn hoá - Từ một góc nhìn, Nxb Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc Học. 73. Ngô Văn Phu, Phong Vũ, Nguyễn Phan Hách (1999), Nhà văn Việt Nam thế kỷ XX (tập 4), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 74. G.N.Pospelov (chủ biên) (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 75. Vũ Dương Quỹ (tuyển chọn và biên soạn) (1999), Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường phổ thông, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 76. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, Trường Đại học sư phạm TP.HCM. 77. Vương Thảo(2004), “Nhà văn Kim Lân và sự im lặng của nỗi buồn”, An ninh thế giới cuối tháng (số 30). 78. Bùi Việt Thắng (2002), Văn học Việt Nam 1945 - 1954 (văn tuyển), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 79. Nguyễn Quang Thiều (chủ biên), Nguyễn Quyến, Trần Thanh Hà (2000), Tác giả nói về tác phẩm, Nxb Trẻ, TP.HCM. 80. Phạm Ngọc Thưởng (2004), “ Nghệ thuật xây dựng đối thoại trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân”, Tuyển tập 10 năm tạp chí Văn học và tuổi trẻ, Nxb Giáo dục. 81.TIMÔFÊÉP(1962), Nguyên lý lý luận văn học, Nxb Văn hoá, Hà Nội. 82. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ TP.HCM. 83. Nguyễn Tuân (1995), Vang bóng một thời , Nxb Văn nghệ TP.HCM. 84. Phùng Văn Tửu (1996), “Một phương diện của truyện ngắn”, Tạp chí Văn học (số 2). 85. Phùng Văn Tửu (2002), Tiểu thuyết pháp hiện đại, những tìm tòi đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 86. Hoà Vang (2004), “Kim Lân những ấn tượng”, Văn học và tuổi trẻ (số7), Nxb Giáo dục. 107 87. Hoài Việt (1999), Nhà văn trong nhà trường Kim Lân, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 88. YuLốtman, Kết cấu tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, (in trong sách: Trịnh Bá Đĩnh, (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học, Hà Nội). 89. Nhiều tác giả (2003), Từ điển văn học bộ mới, Nxb Thế giới, Hà Nội. 90. Nhiều tác giả (2004), Từ điển tác giả tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho nhà trường, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội. 91. Nhiều tác giả (1992), Khảo cứu về các phong tục và những thú chơi đẹp ở đồng quê miền Bắc Việt Nam, Nxb Văn hoá, Hà Nội. 92. Nhiều tác giả (2001), Hợp tuyển công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 108 PHỤ LỤC Bảng khảo sát phương thức trần Thuật trong truyện ngắn của Kim Lân PHƯƠNG THỨC TRẦN THUẬT SỐ THỨ TỰ TÊN TÁC PHẨM NĂM SÁNG TÁC CHỦ QUAN KHÁCH QUAN 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 Đứa con người vợ lẽ Cô Vịa Đứa con người cô đầu Người kép già Đôi chim thành Cầu đánh vật Chó săn Nỗi này ai có biết Con Mã Mái Trả lại đòn Cơm con Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng Vật Đuổi tà Làng Thư phát động Nên vợ nên chồng Tìm em Chị Nhâm Vợ nhặt Ông lão hàng xóm Anh chàng hiệp sĩ gỗ Ông Cản Ngũ Ông Cả Luốn gốc me Con chó xấu xí Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê Người chú dượng 1942 1942 1942 1942 1943 1943 1943 1943 1944 1944 1944 1945 1948 1952 1954 1954 1954 1957 1957 1958 1960 1962 1965 1969 X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X 109 Vợ chồng anh đội trưởng Bà mẹ Cẩn Tổng Cộng 8 22 110 Bảng khảo sát sự phân bố các dạng cấu trúc trần Thuật trong truyện ngắn của Kim Lân DẠNG CẤU TRÚC TRẦN THUẬT SỐ THỨ TỰ TÊN TÁC PHẨM (1) (2) (3) (4) 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 Đứa con người vợ lẽ Cô Vịa Đứa con người cô đầu Người kép già Đôi chim thành Cầu đánh vật Chó săn Nỗi này ai có biết Con Mã Mái Trả lại đòn Cơm con Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng vật Đuổi tà Làng Thư phát động Nên vợ nên chồng Tìm em Chị Nhâm Vợ nhặt Ông lão hàng xóm Anh chàng hiệp sĩ gỗ Ông Cản Ngũ Ông Cả Luốn gốc me Con chó xấu xí Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê Người chú dượng Vợ chồng anh đội trưởng Bà mẹ Cẩn X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X Tổng cộng 17 10 13 10 111 (1): Dạng cấu trúc trần thuật theo trình tự thời gian. (2): Dạng cấu trúc trần thuật theo tâm lí. (3): Dạng cấu trúc trần thuật rẽ ngang lồng ghép nhiều tầng bậc trần thuật. (4): Dạng cấu trúc trần thuật đảo lộn trình tự thời gian.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVVHLLVH003.pdf
Tài liệu liên quan