CÔNG CUỘC XOÁ NẠN MÙ CHỮ Ở THÁI NGUYÊN
(1945 - 1954)
Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM
Mã số: 60.22.54
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
1- Lí do chọn đề tài
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra
đời. Vừa mới ra đời, Nhà nước cách mạng non trẻ đã phải đối mặt với nhiều
khó khăn thử thách rất nghiêm trọng. Bên cạnh giặc ngoại xâm, giặc đói, là
giặc dốt do chế độ thực dân phong kiến để lại hết sức nặng nề, hơn 90% dân
số không biết chữ.
Trong tình hình ấy, Hội đồng Chính phủ họp và xác định việc xoá nạn
mù chữ, nâng cao trình độ văn hoá cho nhân dân là một trong sáu nhiệm vụ
cấp bách cần giải quyết của Nhà nước cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhận xét: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở một
chiến dịch chống nạn mù chữ” [12, tr.121].
Ngày 8-9-1945, Chính phủ đã ban hành sắc lệnh thành lập Nha Bình
dân học vụ để xoá nạn mù chữ cho nhân dân. Tháng 10-1945, Hồ Chí Minh ra
Lời kêu gọi toàn dân chống nạn thất học: “Những người đã biết chữ hãy dạy
cho những người chưa biết chữ .Những người chưa biết chữ hãy gắng sức
mà học cho biết chữ: Vợ chưa biết thì chồng bảo, cha mẹ không biết thì con
bảo, người ăn người làm chưa biết thì chủ nhà bảo, các người giàu có thì mở
lớp học ở tư gia dạy cho những người không biết chữ ở hàng xóm, láng
giềng .” [36, tr.12].
Thực hiện “Lời kêu gọi toàn dân chống nạn thất học” của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, tại Thái Nguyên, phong trào chống nạn mù chữ diễn ra sôi nổi, lôi
cuốn hàng vạn người tham gia, không phân biệt giai cấp, giàu nghèo và địa vị
xã hội. Khi cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ, phong
trào bình dân học vụ ở Thái Nguyên vẫn tiếp tục phát triển mạnh.
Cuộc đấu tranh chống nạn thất học, xoá mù chữ trong cả nước nói chung
và của tỉnh Thái Nguyên nói riêng có một vai trò rất quan trọng trong cuộc
đấu tranh củng cố, bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ (1945-1946) và
cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp xâm lược (1946 –
1954). Vì vậy, nghiên cứu quá trình hoạt động và thành tích của phong trào
xoá nạn mù chữ ở tỉnh Thái Nguyên trong những năm 1945 – 1954 là việc
làm rất cần thiết, có ý nghĩa khoa học. Mặt khác, việc nghiên cứu này còn có
ý nghĩa thực tiễn đối với công cuộc xoá mù chữ hiện nay ở Thái Nguyên.
Với những lí do trên, chúng tôi chọn vấn đề: “Công cuộc xoá nạn mù chữ
ở Thái Nguyên trong những năm 1945 – 1954” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ
Khoa học Lịch sử.
MỤC LỤC
Mở đầu
1
1- Lí do chọn đề tài . 1
2- Lịch sử nghiên cứu vấn đề
. 2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
. 4
. 5
5. Đóng góp của luận văn 6
6. Bố cục
6
Chương 1: Tình hình giáo dục ở Thái Nguyên trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
. 7
1.1. Tỉnh Thái Nguyên dưới ách cai trị của thực dân Pháp
1.2. Khái quát tình hình giáo dục ở tỉnh Thái Nguyên
7
10
Chương 2: Cuộc vận động xoá mù chữ ở Thái Nguyên trong những năm 1945 - 1950
2.1. Chủ trương của chính quyền cách mạng về “diệt giặc dốt”
26
. 26
2.2. Cuộc vận động xoá mù chữ ở Thái Nguyên trong những năm
1945 – 1950 34
2.2.1. Từ năm 1945 đến năm 1947 . 34
2.2.2. Từ năm 1947 đến năm 1950 . 51
Chương 3: Công cuộc vận động xoá mù chữ ở Thái Nguyên trong những năm 1951 -
1954 63
3.1. Khái quát tình hình Thái Nguyên từ 1951 – 1954 63
3.2. Cuộc vận động xoá nạn mù chữ . 65
Kết luận
. 76
Tài liệu tham khảo 84
99 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2277 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Công cuộc xoá nạn mù chữ ở Thái Nguyên (1945 - 1954), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác
quan trọng của tỉnh. Tính đến giữa năm 1950, ngành Bình dân học vụ đã mở
thêm 17 lớp huấn luyện giáo viên; trong đó có 5 lớp huấn luyện 122 giáo viên
Sơ cấp trong thời gian 44 ngày, 5 lớp huấn luyện trong 66 ngày cho 146 giáo
viên bậc Dự bị, 7 lớp huấn luyện ngắn ngày (từ 7 đến 15 ngày) cho 120 giáo
viên Sơ cấp và 192 giáo viên bậc Dự bị [52, tr.3]. Tháng 8-1950, tỉnh đã mở
đƣợc một lớp đào tạo 25 anh em thƣơng binh làm giáo viên để thay thế cho
giáo viên khoẻ mạnh đi tòng quân. Ty còn vận động các học sinh lớp 4 tiểu
học và nhân viên các cơ quan làm giáo viên dạy các lớp dự bị bình dân. Sáng
kiến này dần đƣợc áp dụng phổ biến ở các huyện. Hội nghị rèn cán chỉnh cơ
do Tỉnh tổ chức trong 5 ngày đã thu hút 300 giáo viên bình dân học vụ và
giáo viên các ngành khác đến dự. Qua hội nghị, mọi ngƣời đều nhận rõ
khuyết điểm và nhƣợc điểm của mình, thấy sự cần thiết phải học tập để cải
tạo tƣ tƣởng và con ngƣời cho hợp với trào lƣu mới.
Trong những tháng cuối năm, mặc dù ảnh hƣởng của tình hình chiến sự,
ngành bình dân học vụ đã thành lập các phái đoàn xuống xã, củng cố Ban
Bình dân xã và động viên dân chúng đi học. Thành công nhất là đã mở đƣợc
một chiến dịch thanh toán nạn mù chữ ở một số xã thuộc hai huyện là Đồng
Hỷ và Đại Từ. Huyện Đại Từ đã thành lập đƣợc 10 đoàn trợ lực xuống các xã,
đã thanh toán nạn mù chữ cho 3 xã, 2 thôn. Phong trào bình dân học vụ trong
giới phụ nữ đƣợc đẩy mạnh, nhiều phụ nữ đã xung phong dạy lớp bình dân
học vụ. Tại Đồng Hỷ, các đoàn trợ lực xuống các xã ghi tên những ngƣời còn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
63
mù chữ và động viên họ đi học. Kết quả của chiến dịch là động viên đƣợc
hàng ngàn ngƣời đi học, trong đó có 581 phụ nữ.
Ở huyện Phổ Yên, các đoàn trợ lực xuống các xã để giúp đỡ mở các lớp
tƣ gia. Huyện Định Hoá cũng mở đƣợc một tuần lễ kiểm soát ngƣời mù chữ
tại các cổng chợ và đầu mối giao thông. Ngoài ra, Ty Bình dân học vụ còn mở
lớp huấn luyện thƣơng binh dạy học và vận động dân nuôi các giáo viên là
thƣơng binh. Một số huyện có sáng kiến cấp ruộng công của xã cho giáo viên
bình dân học vụ cày cấy, để họ đỡ khó khăn và nhiệt tình công tác.
Phong trào xoá nạn mù chữ tiếp tục có những chuyển biến mới, ngay
những tháng đầu năm 1950 đã thanh toán thêm đƣợc một số xã và thôn, nhƣ:
xã Phú Cát (Đại Từ), xã Dân Chủ (Đồng Hỷ), xã Phấn Mễ và thôn Đồng
Lƣơng thuộc xã Động Đạt (Phú Lƣơng). Đặc biệt, phong trào tự học trong
nhân dân bắt đầu lên cao, ở các xã và các cơ quan đều có nhóm học tập. Tiêu
biểu là xã Thƣợng Đình (Phú Bình), tất cả các thôn, xóm đều có nhóm học tập
sinh hoạt rất đều đặn và đầy đủ.
Năm 1950, tuy chƣa thực hiện đƣợc kế hoạch đề ra, nhƣng ngành Bổ túc
văn hoá cũng đã tổ chức đƣợc 542 lớp xoá mù chữ, kết quả là 6.315 ngƣời
thoát nạn mù chữ, nâng tỷ lệ số ngƣời biết chữ trong toàn tỉnh lên 71,7%
[22, tr.1].
Nhiều ngƣời sau khi học xong lớp Sơ cấp lại tiếp tục học lớp Dự bị bình
dân để thoát nạn mù chữ một cách chắc chắn và có kiến thức thƣờng dùng
phục vụ kháng chiến, nâng cao đời sống văn hoá. Trong những tháng đầu
1950, hàng trăm lớp Dự bị bình dân đƣợc mở ở các huyện, tiêu biểu nhƣ ở
Phú Bình mở đƣợc 75 lớp, Đại Từ 62 lớp, Phổ Yên 59 lớp, Đồng Hỷ 25
lớp,… [51, tr.2]. Đến tháng 6-1950, số lớp Dự bị đã tăng lên 265 lớp với 272
giáo viên và 5.457 học viên tham gia. [52, tr.5]. Mặc dù bậc Dự bị bình dân
mới chỉ đáp ứng đƣợc 1/15 nhu cầu cho số ngƣời đã thoát nạn mù chữ từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
64
trƣớc tới nay (87.995 ngƣời), nhƣng đã có tác dụng quan trọng về mặt nâng
cao kiến thức cũng nhƣ về mặt phục vụ kháng chiến cho các học viên.
Đến cuối năm 1950, cao trào thi đua diệt giặc dốt đã giành thắng lợi to
lớn. Cả nƣớc đã có hơn 10 triệu ngƣời thoát nạn mù chữ, riêng tỉnh Thái
Nguyên có 87.995 ngƣời. 2 huyện Phổ Yên, Phú Bình cùng với 27 xã và 12
thôn của các huyện khác đƣợc công nhận hoàn thành thanh toán nạn mù chữ.
Kết quả xoá nạn mù chữ ở Thái Nguyên từ 1946 đến 1950 [22, tr.1].
Năm Số lớp Giáo viên Đã thanh toán % dân số Chƣa thanh toán
1946 704 633 14.906 12,1 107.795
1947 1120 1063 21.045 29,3 86.750
1948 1708 1781 26.026 55,5 60.724
1949 1267 1230 19.703 66,6 41.021
1950 807 695 6.315 71,7 34.706
Nhƣ vậy, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, thực hiện Chỉ thị
“Kháng chiến - kiến quốc” của Trung ƣơng Đảng, nhân dân tỉnh Thái Nguyên
đã từng bƣớc vƣợt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” và giành đƣợc những
thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực mà tiêu biểu nhất là xoá nạn mù chữ.
Dƣới chế độ mới, nhân dân tỉnh Thái Nguyên phấn khởi nô nức tham gia
phong trào xoá nạn mù chữ do Chính phủ phát động. Sau 5 năm, số ngƣời
thoát nạn mù chữ đã tăng từ 12,1% lên 71,7% dân số toàn tỉnh. Đây là thành
tích to lớn của ngành Bình dân học vụ tỉnh Thái Nguyên.
Trên cơ sở những thành tích đã đạt đƣợc trong công tác xoá nạn mù chữ,
đầu năm 1951, Nha Bình dân học vụ đã đƣợc Chính phủ thƣởng Huân chƣơng
kháng chiến - Đây là phần thƣởng vinh dự cho ngành Bình dân học vụ, trong
đó có đóng góp to lớn của Ty Bình dân học vụ Thái Nguyên. Nhân dịp này,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
65
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thƣ cho cán bộ, giáo viên bình dân học vụ, trong
đó nhấn mạnh: “Đó là một khen thưởng rất xứng đáng, cũng là một khen
thưởng chung:
- Cho tất cả nam nữ cán bộ trong nước và ngoài nước đã có công trên
mặt trận diệt giặc dốt.
- Cho tất cả các vị phụ lão và thân sĩ đã ủng hộ bình dân học vụ”
[35, tr.28].
Thành tích của ngành Bình dân học vụ đã góp phần quan trọng vào thắng
lợi trên mặt trận quân sự, đƣa cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta
sang một giai đoạn mới, đồng thời công cuộc chống nạn mù chữ cũng chuyển
vào thời kì song song tiến hành 2 mặt công tác: tiếp tục công cuộc chống nạn
mù chữ và tổ chức việc bổ túc văn hoá cho những ngƣời đã thoát nạn mù chữ.
Trong đó, công cuộc thanh toán nạn mù chữ tiếp tục gặt hái thêm những thắng
lợi mới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
66
CHƢƠNG 3
CÔNG CUỘC VẬN ĐỘNG XOÁ MÙ CHỮ Ở THÁI NGUYÊN
TRONG NHỮNG NĂM 1951 – 1954
3.1. Khái quát tình hình Thái Nguyên từ 1951 – 1954
Từ năm 1951, thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái
Nguyên lần thứ IV (4-1951) nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên tập trung
khôi phục, phát triển kinh tế, xã hội, ổn định đời sống, bồi dƣỡng lực lƣợng
kháng chiến, chi viện chiến trƣờng.
Về kinh tế, Đảng bộ Thái Nguyên lãnh đạo nhân dân thực hiện chính
sách giảm tô và tạm cấp ruộng đất thu đƣợc nhiều thắng lợi to lớn, đem lại
quyền lợi cho nông dân, đặc biệt là nông dân nghèo.
Tháng 11-1952, hai xã Đồng Bẩm và Dân Chủ (huyện Đồng Hỷ) đƣợc
Trung ƣơng Đảng chọn làm nơi thí điểm thực hiện chính sách ruộng đất. Tiếp
đó, Trung ƣơng chọn thêm 4 xã: Phúc Xuân (Đồng Hỷ), Hùng Sơn (Đại Từ),
Đức Liên và Nhã Lộng (Phú Bình) cùng với 2 xã Đồng Bẩm, Dân Chủ (Đồng
Hỷ) đã làm thí điểm đợt trƣớc, tiếp tục thực hiện thí điểm triệt để giảm tô. Sau
3 tháng thực hiện thí điểm triệt để giảm tô ở 6 xã, hơn 1.819 mẫu ruộng, đất
đã đƣợc giảm tô. Hơn 4.070 hộ gia đình nông dân đã đƣợc thoái tô với số thóc
gần 406 tấn; 944 hộ gia đình nông dân với 3.645 nhân khẩu đã đƣợc chia
ruộng đất. Nông dân phấn khởi gia nhập nông hội, hăng hái thi đua lao động
sản xuất và tích cực đóng góp sức ngƣời sức của cho kháng chiến.
Từ cuối năm 1953, tỉnh Thái Nguyên tiếp tục thực hiện chính sách giảm
tô và đồng thời tiến hành đợt thí điểm cải cách ruộng đất ở 6 xã thuộc huyện
Đại Từ do Trung ƣơng Đảng trực tiếp chỉ đạo. Từ tháng 4-1954, khi Chiến
dịch Điện Biên Phủ sắp kết thúc thắng lợi, tỉnh Thái Nguyên bắt đầu tiến hành
cải cách ruộng đất đợt I ở 47 xã thuộc các huyện Đại Từ, Đồng Hỷ, Phú Bình,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
67
Phổ Yên. 200 cán bộ đƣợc Tỉnh huy động đi làm công tác cải cách ruộng đất.
Kết quả, hơn 24.000 mẫu ruộng và hơn 24.000 con trâu, bò, 798 ngôi nhà và
trên 139 tấn thóc của địa chủ đã đƣợc tịch thu, trƣng thu, trƣng mua, chia cho
868 hộ nông dân nghèo. Sau cải cách ruộng đất, giai cấp địa chủ đã hoàn toàn
bị đánh đổ, nông dân đã thực sự trở thành ngƣời làm chủ nông thôn.
Nhân dân Thái Nguyên ngoài việc hƣởng ứng cuộc vận động giảm tô,
cải cách ruộng đất còn hăng hái đi dân công sửa chữa các công trình thuỷ lợi,
đƣờng giao thông, và đặc biệt là vận chuyển lƣơng thực, thực phẩm, thuốc
men, đạn dƣợc… phục vụ cho kháng chiến.
Từ cuối năm 1950 đến khi chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi,
nhân dân Thái Nguyên đã huy động hàng chục ngàn dân công sửa chữa cầu,
đƣờng và đóng góp gần 300 ngàn ngày công vận chuyển lƣơng thực, thực
phẩm và súng đạn phục vụ chiến dịch [11, tr.4].
Do phải tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm nhƣ giảm tô, cải cách
ruộng đất, đi dân công sửa chữa cầu đƣờng, phục vụ chiến đấu… nên ít nhiều
ảnh hƣởng đến phong trào xoá nạn mù chữ.
Đầu năm 1951, Đảng ban hành chính sách nông thôn, trong đó chủ
trƣơng về văn hoá là tích cực bồi dƣỡng cán bộ công nông đã đƣợc rèn luyện
trong ngọn lửa cách mạng, mạnh dạn đƣa nông dân vào các vị trí lãnh đạo
then chốt của chính quyền các cấp, nhất là ở cơ sở, phải tìm mọi cách giúp đỡ
nông dân đƣợc học văn hoá để có đủ năng lực lãnh đạo.
Nha Bình dân học vụ cùng Ban liên lạc nông dân toàn quốc đề ra chỉ thị
chung, phối hợp công tác của nông hội với việc đẩy mạnh công tác giáo dục
văn hoá cho nông dân. Ngày 15-7-1952, Ban liên lạc nông dân toàn quốc chỉ
thị cho các cấp của Hội, thực hiện chủ trƣơng xây dựng lớp bình dân học vụ
trên cơ sở Nông hội. Chỉ thị ghi rõ các hội viên còn mù chữ phải nhanh chóng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
68
đi học cho biết chữ, nông dân đã thoát mù chữ cần học tiếp các lớp dự bị bình
dân. Cũng theo chỉ thị này, Nông hội phụ trách việc vận động ngƣời đi học, tổ
chức trƣờng lớp, cử giáo viên, sắp xếp thời giờ học cho phù hợp, kết hợp học
tập với sản xuất và các công tác kháng chiến khác.
Việc phối hợp cùng công tác với Nông hội có tác dụng rất tốt với Bình
dân học vụ, nâng cao nhận thức của cán bộ, giáo viên về tính giai cấp của
Bình dân học vụ và là bƣớc chuẩn bị tốt cho Bình dân học vụ đi vào cuộc phát
động quần chúng cải cách ruộng đất sắp tới.
Đầu năm 1952, Chính phủ chủ trƣơng thực hiện cuộc Vận động sản xuất
và tiết kiệm trong cả nƣớc. Tất cả các ngành đều có trách nhiệm thúc đẩy cuộc
vận động này bằng hai công tác. Một là giáo dục tƣ tƣởng, nâng cao ý thức
chính trị trong thi đua sản xuất, tiết kiệm và hai là tích cực kết hợp công tác
của ngành, góp phần thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, ngành quan trọng nhất
trong sản xuất lúc đó, phát triển kịp với yêu cầu của kháng chiến.
Đây chính là những điều kiện thuận lợi lợi thúc đẩy phong trào xoá nạn
mù chữ của nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên tiếp tục phát triển.
3.2. Cuộc vận động xoá nạn mù chữ
Trong hoàn cảnh thuận lợi mới, đƣợc sự quan tâm, động viên của Đảng,
Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào xoá nạn mù chữ từ 1951 tiếp
tục phát triển và có nhiều nét mới.
Ngoài việc xoá mù chữ cho học viên, các giáo viên bình dân học vụ còn
đƣa chính sách thuế nông nghiệp, sản xuất, tiết kiệm hay dân công vào nội
dung bài giảng. Mỗi lớp bình dân học vụ là một nơi phổ biến chủ trƣơng, mỗi
giáo viên, học viên là một ngƣời tuyên truyền và thực hiện sản xuất, tiết kiệm.
Các cơ sở Nông hội cũng tích cực xây dựng bình dân học vụ, vận động nông
dân đi học các lớp Sơ cấp và Dự bị bình dân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
69
Tài liệu giảng dạy cũng đƣợc biên soạn lại theo hƣớng bổ sung những
nội dung phục vụ cho nhiệm vụ trọng tâm của địa phƣơng, thiết thực phục vụ
cho sự phát triển của cuộc kháng chiến toàn dân và trên các mặt trận quân sự,
chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá…
Bài tập chép sau đây ở một lớp dự bị là một thí dụ:
Đồng bào xóm Cọc Cùng nhau thách thức
Vừa học vừa làm Vượt mức thi đua
Giờ học thì ham Cấy lúa trồng ngô
Giờ làm gắng sức Cũng là kháng chiến.
Sách Tập bài Dự bị bổ túc ấn hành năm 1952 có những bài soạn theo
chủ điểm: Vận động sản xuất và tiết kiệm.
Ví dụ: Tập làm văn: Điền một phần câu để làm câu đủ nghĩa:
1. Giặc Pháp bị thua to tìm cách phá hoại … (mùa màng – kinh tế của ta)
2. Để chống lại âm mƣu của giặc có thể gây ra nạn đói, nhân dân … (tích
cực tăng gia sản xuất và tiết kiệm).
3. Hoa màu năm nay tăng nhiều nhờ nhân dân đã triệt để thi hành
…(chính sách sản xuất và tiết kiệm của Chính phủ). [45, tr.102]
Mặc dù cán bộ phải tập trung đi làm công tác trọng tâm, Ty Bổ túc văn
hoá vẫn tiến hành biên soạn tài liệu dạy chính tả, tập đọc, tập làm văn, làm
phép tính để cấp phát kịp thời cho các giáo viên và học viên. Nội dung các
cuốn sách này nhằm tuyên truyền cho công tác sản xuất, tiết kiệm, công trái
quốc gia và đi dân công.
Trong các đoàn dân công ở các công trƣờng hay dân công vận tải, các
lớp học bình dân đƣợc mở ra. Học viên và giáo viên là đồng đội, đồng chí.
Học ở mọi nơi, mọi lúc, học trên đƣờng hành quân, khi tạm dừng chân giữa
rừng, bên suối. Tranh thủ học những lúc nghỉ ngơi, học ban ngày để đến đêm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
70
đốt đuốc lên đƣờng. Trong hoàn cảnh đặc biệt ấy, việc học đƣợc tiến hành
một cách tự nhiên, mỗi ngày một vài chữ và rất nhiều ngƣời tới một lúc nào
đó đã đọc và viết đƣợc chữ quốc ngữ.
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi, lại là trung tâm của Căn cứ địa kháng
chiến của cả nƣớc – nơi mà chủ yếu là bà con ngƣời dân tộc thiểu số sinh
sống, nên việc tổ chức dạy chữ quốc ngữ cho đồng bào các dân tộc là một mặt
quan trọng của công tác xây dựng và bảo vệ căn cứ địa kháng chiến.
Mặc dù nguồn ngân sách của tỉnh còn rất hạn chế, nhƣng năm 1951, Uỷ
ban kháng chiến - hành chính tỉnh đã quyết định cấp cho ngành Bình dân học
vụ 60.000 đồng bạc để trợ cấp cho giáo viên xung phong đi dạy ở các huyện
miền núi khó khăn, cấp 100.000 đồng bạc để thực hiện chƣơng trình huấn
luyện cán bộ và giáo viên bình dân học vụ [20, tr.1].
Công tác huấn luyện và đào tạo giáo viên tiếp tục đƣợc tỉnh quan tâm
nhằm duy trì và nâng cao chất lƣợng phong trào “diệt dốt”. Năm 1951, tỉnh
đã tổ chức huấn luyện đƣợc 240 giáo viên sơ cấp và 146 giáo viên dự bị, đào
tạo thêm 209 giáo viên; trong đó có 66 giáo viên nữ, 20 giáo viên là ngƣời
Dao, Trại, 51 giáo viên thƣơng binh và 29 cán bộ xã [54, tr.2].
Chủ trƣơng của tỉnh trong 6 tháng đầu năm 1951, sẽ thanh toán ở bậc Sơ
cấp cho nhân dân 4 huyện phía Bắc là Đại Từ, Đồng Hỷ, Phú Lƣơng, Võ Nhai
và 4 xã của huyện Định Hoá. Bậc Dự bị, tỉnh chủ trƣơng ở huyện Phổ Yên,
Phú Bình mỗi thôn mở một lớp, các huyện khác mỗi xã một lớp và 20% số
ngƣời biết chữ phải đi học lớp dự bị [20, tr.3].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
71
Bảng thống kê kết quả xoá nạn mù chữ ở các huyện năm 1951 [54, tr.2]
Tên huyện Dân số từ 8 tuổi Dân số biết chữ Dân số mù chữ
Đồng Hỷ 24.099 18.209 5.890
Phú Bình 24.604 17.459 7.145
Phổ Yên 21.656 14.276 7.380
Phú Lƣơng 9.964 6.640 3.324
Định Hoá 14.504 8.205 6.299
Võ Nhai 7.921 5.419 2.502
Đại Từ 19.853 15.091 4.762
Số ngƣời thoát nạn mù chữ năm 1951 tăng 1.696 ngƣời so với năm 1950,
nâng tỉ lệ số ngƣời biết đọc, biết viết từ 8 tuổi trở lên đạt 73,1%. Đến cuối
năm 1952, 44 xã vùng thấp của Thái Nguyên đã hoàn thành thanh toán nạn
mù chữ [54, tr.2]. Năm 1952, Ty Bổ túc văn hoá tiếp tục mở các lớp bậc Sơ
cấp và bậc Dự bị, kết quả đã xoá nạn mù chữ cho 1.208 ngƣời, nâng tỉ lệ số
ngƣời biết chữ trong toàn tỉnh lên 74,1%.
Ở nhiều huyện miền núi, ngoài những lớp do Ty Bổ túc văn hoá trực tiếp
tổ chức theo một kế hoạch chỉ đạo chung của ngành, còn có hàng loạt lớp
bình dân học vụ không thể thống kê đƣợc, do các cơ quan, nhà máy, đơn vị bộ
đội tổ chức cho nhân dân trong công tác dân vận của mình.
Trường tôi vui giữa rừng sâu,
Chữ theo đuốc lửa, đêm thâu, tiếng người.
Trường tôi, không đợi ai mời.
Theo anh Vệ quốc, lập đời chiến khu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
72
Lớp học bình dân bên bếp lửa nhà sàn hay trong một lán nhỏ bên sƣờn
núi, thể hiện tình nghĩa gắn bó giữa cơ quan và thôn bản, gắn với toàn bộ
cuộc sống của cán bộ và nhân dân ở chiến khu:
Nhớ sao lớp học i tờ,
Đêm khuya đuốc sáng những rừng liên hoan.
Ngoài ra còn phải kể đến những lớp do bà con ngƣời Kinh tản cƣ lên
miền núi tổ chức dạy cho đồng bào địa phƣơng để đáp lại tấm lòng nhân ái,
đùm bọc của họ. Ông Nguyễn Hồng Dƣơng, một giáo viên bình dân học vụ
của thủ đô những năm trƣớc đây, đã thuật lại việc dạy bình dân học vụ ở Thái
Nguyên trong lúc tản cƣ thời kháng chiến chống Pháp nhƣ sau:
“Kháng chiến, tôi tản cư lên huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Tôi làm
giáo viên bình dân học vụ ở đấy. Tôi dạy học ở một làng đồng bào thiểu số
hoàn toàn mù chữ. Bàn ghế, ánh sáng, giấy bút đều thiếu.
Chúng tôi dùng các ván gỗ thay giấy, bút là tre vót nhọn, mực làm bằng
nhựa vỏ cây vang nấu thành nước và cô lại.
Lớp học làm gần bờ khe, dưới lùm cây và chúng tôi giữ gìn không để
ánh sáng lọt ra ngoài.
Buổi đầu, tôi lấy một đoạn nứa ngắn, giống chữ “i” không có dấu rồi
lấy viên đá tròn đặt lên trên. Tôi nói đó là chữ “i”. Bà con cười, ai cũng cho
là dễ cả. Buổi học sau, đồng bào ham thích. Tôi hướng dẫn cách viết. Với chữ
“t” tôi cũng dạy theo cách đó. Phải bốn tháng sau mới học xong vần. Và một
năm sau, toàn lớp đều đọc thông viết thạo” [15, tr.88].
Trong đợt phát động quần chúng giảm tô, việc học tập bình dân học vụ ở
nhiều xã bị giảm sút. Tƣ tƣởng phổ biến lúc đầu là mọi công tác đều đình chỉ,
để tập trung vào việc đấu tranh chống địa chủ. Nhiều cán bộ và giáo viên bình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
73
dân học vụ chuyển sang làm công tác phát động quần chúng. Một số là trung
nông chƣa hiểu chính sách, có thái độ chờ đợi, hoang mang.
Sau đợt phát động quần chúng đấu tranh triệt để giảm tô, theo số liệu
điều tra của Trung ƣơng, ở Thái Nguyên có 2/3 tổng số cán bộ xã còn mù chữ
hay mới biết bập bẹ. Xã Quyết Tiến (Phú Bình) có 2 uỷ viên không biết chữ,
ở Minh Lập (Đồng Hỷ) toàn thể Ban chấp hành phụ nữ (9 ngƣời) đều không
biết chữ. Đa số cán bộ khác còn đọc viết chậm, vừa đọc vừa đánh vần. Bà
Chích là cốt cán, Bí thƣ Phụ nữ xã Đồng Bẩm (Đồng Hỷ) khi đƣợc đi học đã
tâm sự: Tôi bị địa chủ đánh lừa bảo: Cứ cố làm thêm mỗi ngày vài giờ rồi
cho đi học. Khi được làm Bí thư chi bộ, tôi phải nhờ người xem công văn hộ,
có hôm công văn cần để mãi hôm sau mới nhờ được người xem thì việc đã
chậm [21, tr.2].
Trƣớc thực tế phần lớn cán bộ cốt cán, cán bộ xã còn mù chữ, Trung
ƣơng Đảng đã yêu cầu việc bổ túc văn hoá cho cán bộ xã là một nhiệm vụ cấp
bách, nhằm tăng thêm khả năng công tác cho cán bộ.
Cán bộ giáo dục đã kết hợp công tác với cán bộ Đội phát động quần
chúng để phát huy vai trò ngành giáo dục. Ngành Bình dân học vụ đã phục vụ
phát động quần chúng rất kịp thời, lấy ngay những chính sách vừa đƣợc học
tập tối hôm trƣớc biên soạn thành bài tập đọc, tập chép cho lớp bình dân học
vụ.
Ở các xã phát động quần chúng triệt để giảm tô và cải cách ruộng đất,
các lớp học bình dân tiếp tục đƣợc duy trì và phát triển. Nhiều lớp chuyển giờ
học về buổi sáng, buổi trƣa hoặc vào các giờ rảnh rỗi khác. Có nơi, Nông hội
kiểm điểm tình hình học văn hoá vào đầu mỗi buổi họp tổ, nhắc nhở, yêu cầu
cán bộ đi học đều đặn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
74
Vào thời gian này, ngành Bình dân học vụ đã xác định đƣợc đối tƣợng
học chủ yếu là cốt cán bần, cố nông, cán bộ mới đƣợc đề bạt. Việc xoá nạn
mù chữ và mở lớp Dự bị bổ túc cho những đối tƣợng này đƣợc tổ chức tích
cực và khẩn trƣơng. Nhiều nơi cán bộ, giáo viên bình dân học vụ cần cù vận
động cốt cán đi học, mở những lớp nhỏ, thuận tiện cho nông dân lao động.
Qua việc học tập, lập trƣờng giai cấp của cán bộ đƣợc nâng lên, đa số cán bộ
đã nhận rõ tầm quan trọng của việc học tập, thấy trách nhiệm của mình phải
đi học, đồng thời đã chú ý đến việc lãnh đạo phong trào. Chị Hậu, Bí thƣ Phụ
nữ xã Thuận Thành (Phổ Yên) đã phát biểu: Tôi thấy đau khổ vô cùng khi
được cử làm cán bộ mà không biết chữ kí. Tôi hứa quyết tâm học tập
[21, tr.1].
Năm 1953, với kết quả bƣớc đầu của việc thực hiện chính sách ruộng
đất, nhân dân lao động Thái Nguyên có nhiều điều kiện thuận lợi để đi học,
công tác chỉ đạo của ngành Bình dân học vụ cũng đƣợc chấn chỉnh, cải thiện
từng bƣớc, nên phong trào xoá nạn mù chữ tiếp tục tổ chức đƣợc 117 lớp học,
thu hút 3.199 học viên mà chủ yếu là nông dân tham gia.
Hội nghị giáo dục toàn quốc tháng 2-1954 đã giao cho Bình dân học vụ
soạn những bài mẫu phục vụ phát động quần chúng, cung cấp tài liệu tham
khảo, hƣớng dẫn cách giáo dục tƣ tƣởng, giáo dục chính sách trong bài dạy
cho giáo viên, các Ty có trách nhiệm biên soạn các bài dạy sát với thực tế địa
phƣơng mình. Hội nghị đã đề cập và nhấn mạnh việc bổ túc văn hoá cho cán
bộ công nông, sau khi đã thoát khỏi nạn mù chữ.
Tại Thái Nguyên, qua điều tra trình độ của cán bộ xã trong 6 tháng đầu
năm 1954 cho thấy, số cán bộ cần đi học lớp Sơ cấp có 4.914 ngƣời, số cán bộ
cần đi học lớp Dự bị có 5.728 ngƣời [21, tr.4] .Căn cứ thực tế đó, để giúp cán
bộ xã và những phần tử tích cực ở nông thôn sau khi phát động quần chúng có
trình độ tạm đủ để làm việc thì lớp Dự bị bình dân là chủ yếu, đồng thời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
75
không thể chủ quan coi nhẹ việc chống mù chữ trở lại, trƣớc hết với các cốt
cán và cán bộ xã.
Hội nghị giáo dục toàn ngành tháng 2-1954 đã chỉ ra những phƣơng
hƣớng, nhiệm vụ rất phù hợp với thực tế của địa phƣơng:
Về địa bàn: Trọng tâm là các xã đã và đang phát động quần chúng giảm
tô, cải cách ruộng đất, cần chú trọng hơn đến các xã có nhiều khó khăn.
Về đối tượng: Chủ yếu là cốt cán trong phát động quần chúng và các cán
bộ xã, xóm đƣợc đề bạt trong phát động quần chúng.
Về trình độ học: Xóa mù chữ, chống mù chữ trở lại, dạy liền một mạch
lớp Sơ cấp và lớp Dự bị để đảm bảo xoá mù chữ chắc chắn, giải quyết đƣợc
công việc ở xã, xóm.
Về tổ chức trường, lớp: Phải linh hoạt, phù hợp với đối tƣợng ngƣời học
và thời gian học.
Làm theo phƣơng hƣớng trên, nhiều lớp học đƣợc mở riêng cho cán bộ
từng miền hoặc tổ chức lớp học chung cho cán bộ và nhân dân, có nơi tổ chức
lớp học cho cán bộ thƣờng trực ngay tại trụ sở uỷ ban nhƣ ở xã Xuân Phƣơng
(Phú Bình), Quang Vinh (Đồng Hỷ)…
Ty còn cử cán bộ xuống mở lớp học xoá mù chữ cho anh chị em dân
công đang lao động trên các công trƣờng, nhƣ công trƣờng Bình Long, Thác
Huống, Phúc Thuận, Vạn Già, Vân Lăng. Vừa thi đua đảm bảo sản xuất, anh
chị em dân công vẫn hăng hái tham gia các lớp học bình dân nhƣ ở công
trƣờng Bình Long đã có 419 ngƣời vừa cán bộ vừa nhân dân theo học, ở công
trƣờng Vạn Già tổ chức đƣợc 12 lớp cho 40 dân công.
Đƣợc các cấp chính quyền từ tỉnh đến xã quan tâm lãnh đạo, lại đƣợc bổ
sung lực lƣợng giáo viên phổ thông và học sinh cấp II, III tham gia vào công
tác xoá nạn mù chữ, Trong 6 tháng đầu năm 1954, phong trào bình dân học vụ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
76
phát triển mạnh, mạnh nhất là ở huyện Phú Bình và Phổ Yên. Yếu nhất là 12
xã giảm tô thuộc huyện Võ Nhai và Đại Từ.
Nhân dân và cán bộ sau khi đƣợc đả thông tƣ tƣởng, thấy sự cần thiết
phải biết chữ, nên kết quả học tập tiến bộ rất nhanh. Ở xã Cao Ngạn đồng chí
Bí thƣ và Chủ tịch sau khi đƣợc đả thông tƣ tƣởng thì rất tiếc buổi học, khi
giáo viên đi họp, hai đồng chí đã đề nghị với xóm cử ngƣời khác tạm dạy
thay. Ở Hƣơng Sơn (Phú Bình) 2 cán bộ mới đi học 1 tháng đã đọc viết đƣợc,
Ở Hà Châu (Phú Bình) 4 cán bộ mới đi học đƣợc 2 tháng đã viết đƣợc chính
tả. Ở Phú Lƣơng có 760 học viên mù chữ, trong đó có 163 cán bộ, sau khi học
tập đã đọc thông chữ viết và chữ in, viết đƣợc chính tả và làm đƣợc 2 phép
tính.
Năm 1954, hơn 3 nghìn cán bộ cốt cán các xã xuất thân từ nông dân lao
động, đƣợc chọn lọc qua phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất,
đƣợc học văn hoá ở các lớp bình dân học vụ là một thành tích rất lớn của
phong trào Bình dân học vụ tỉnh Thái Nguyên. Trong bối cảnh cuộc đấu tranh
giai cấp đang diễn ra quyết liệt ở nông thôn, thành tích của Bình dân học vụ
có ý nghĩa rất to lớn, nó không chỉ nâng cao chất lƣợng công tác của cán bộ
nông thôn, mà còn nâng cao lập trƣờng giai cấp cách mạng trong cuộc đấu
tranh đánh đổ hoàn toàn giai cấp địa chủ phong kiến.
Phong trào xoá nạn mù chữ (1951 – 1954) cũng bộc lộ một số hạn chế
thiếu sót không những về chỉ đạo thực hiện mà cả về nhận thức tƣ tƣởng, nhƣ
sự phối hợp công tác với chính quyền, các ngành, các đoàn thể chƣa đƣợc
chặt chẽ. Ở nhiều nơi, Uỷ ban kháng chiến hành chính có tƣ tƣởng khoán
trắng cho Bình dân học vụ, không đi sâu vào phong trào, nhất là cấp huyện.
Công tác kiểm tra còn ít, lề lối làm việc của một số cán bộ bình dân học vụ
còn nặng hình thức, giấy tờ, ít trực tiếp xuống xã để đôn đốc, hƣớng dẫn nên
không nắm vững đƣợc phong trào. Giáo viên bậc Dự bị bình dân đa số còn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
77
non nớt về sƣ phạm, nhiều giáo viên chƣa đƣợc huấn luyện lần nào. Một số
giáo viên dạy không hiệu quả, nên khi đƣợc phân công dạy lại xung phong đi
dân công, dẫn đến thiếu giáo viên.
Mặc dù có những hạn chế, nhƣng những bƣớc tiến mới về việc nâng cao
đời sống văn hoá tinh thần cho nhân dân trong thời gian từ cuối 1950 đến
1954 có ý nghĩa thực sự to lớn. Nhân dân các dân tộc Thái Nguyên thoát dần
khỏi tình trạng tăm tối trƣớc đây, các tập tục lạc hậu, các tệ nạn xã hội trong
đồng bào các dân tộc nhờ đó giảm xuống nhanh chóng. Cuộc sống mới có văn
hoá đang đƣợc sinh sôi, nẩy nở. Có thể lấy sự biến đổi của làng Hoẻn - một
làng ngƣời Dao ở xã Phúc Chu (Định Hoá) làm ví dụ: Sau ngày Cách mạng
tháng Tám thành công, làng Hoẻn có 7 hộ với 42 nhân khẩu, cả làng không
có ai biết chữ, không có ai tham gia công tác gì; các tổ chức đoàn thể Cứu
quốc (Thanh niên, Phụ nữ, Nông hội) đều chưa có cơ sở nào. Thực hiện chủ
trương xoá nạn mù chữ, Ty Bình dân học vụ Thái Nguyên và Ban Bình dân
học vụ huyện Định Hoá cử cán bộ xuống làng Hoẻn tổ chức một lớp bình dân
học vụ, do một thanh niên người Tày ở xóm khác cách làng Hoẻn 3km làm
giáo viên. Khi lớp học bắt đầu mở có 8 người, sau lên 12, rồi 14 và cuối cùng
là 17 người đến lớp, kết quả đã có 14 người (9 nam và 5 nữ) thoát nạn mù
chữ. Sau khi được xoá nạn mù chữ, trong nhân dân làng Hoẻn có người đã
tham gia vào chính quyền xã, có người làm giáo viên Bình dân học vụ. Nhân
dân trong làng đã làm chuồng trâu, chuồng lợn xa nhà, đường làng phát
quang, lối đi sạch sẽ… Chính công cuộc xóa nạn mù chữ đã tạo cho làng
Hoẻn những sự biến đổi cách mạng diệu kì đó. [15, tr.184]
Tóm lại, trong những năm 1951 - 1954, phong trào xoá nạn mù chữ đã
thực sự trở thành phong trào quần chúng, thu hút đông đảo cán bộ và các tầng
lớp nhân dân tham gia. Đó thật sự là một thành công lớn của bình dân học vụ
trong toàn cảnh cả nƣớc có chiến tranh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
78
Tổng hợp kết quả công cuộc xoá nạn mù chữ (1945 - 1954) [22, tr.1].
Năm Đã thanh toán Chƣa thanh toán Tỷ lệ %
Đến 2/1946 Hàng ngàn ngƣời
Đến cuối 1946 14.906 107.795 12,1
Đến 10/1947 21.045 86.750 29,3
Đến cuối 1948 26.026 60.724 50,5
Đến cuối 1949 19.703 41.021 66,6
Đến cuối 1950 6.315 34.706 71,7
Đến cuối 1951 1.696 33.010 73,1
Đến cuối 1952 1.208 31.802 74,1
Đến cuối 1953 3.199 28.603 76,7
Đến cuối 1954 4.331 25.404 79,5
Sự phát triển mạnh mẽ, liên tục của phong trào xoá mù chữ từ năm 1945
đến 1954, đã tác động mạnh mẽ đến các mặt hoạt động khác của cuộc kháng
chiến, góp phần đƣa cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc đến thắng lợi
cuối cùng, đồng thời đã thể hiện lòng yêu nƣớc thiết tha và tinh thần hiếu học
của nhân dân Thái Nguyên, lòng tin của nhân dân Thái Nguyên với lãnh tụ
Hồ Chí Minh, khi cùng toàn dân hƣởng ứng sôi nổi và thực hiện khẩu hiệu do
Ngƣời nêu ra: “Chống giặc dốt cũng như chống giặc ngoại xâm”.
Thắng lợi của phong trào thi đua diệt dốt đã góp phần xây dựng hậu
phƣơng Thái Nguyên vững mạnh, xứng đáng là An toàn khu Trung ƣơng
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Mặt khác, những kết quả đạt
đƣợc trong phong trào bình dân học vụ thời kì này còn tạo ra những điều kiện
thuận lợi cho công cuộc xoá nạn mù chữ của tỉnh Thái Nguyên tiếp tục phát
triển trong các thời kì cách mạng sau đó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
79
KẾT LUẬN
1- Công cuộc xoá nạn mù chữ ở Thái Nguyên thời kì kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược đã góp phần làm phong phú thêm hình thức và biện
pháp xoá nạn mù chữ trong toàn quốc.
Trong kháng chiến chống Pháp, Thái Nguyên tuy là tỉnh nằm trong
vùng tự do, nhƣng lại ở vị trí giáp ranh với vùng địch tạm chiếm; đồng thời
lại là tỉnh đƣợc chọn làm nơi xây dựng ATK Trung ƣơng. Vì vậy, Thái
Nguyên là địa bàn mà thực dân Pháp tập trung lực lƣợng và áp dụng mọi biện
pháp để phá hoại.
Nhân dân các dân tộc Thái Nguyên vừa phải vất vả lao động kiếm sống,
xây dựng và bảo vệ quê hƣơng nhƣ các tỉnh khác nằm trong vùng tự do; vừa
phải đóng góp sức ngƣời, sức của để xây dựng và bảo vệ An toàn khu kháng
chiến. Trong bối cảnh đó, công cuộc xoá nạn mù chữ ở Thái Nguyên đƣợc các
cấp bộ Đảng, chính quyền trong tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức hết sức linh
hoạt, thu hút mọi đối tƣợng tham gia.
Ngoài việc tổ chức, xây dựng bộ máy Bình dân học vụ từ tỉnh đến cơ sở
làm nhiệm vụ chuyên trách giúp các cấp bộ Đảng, chính quyền lãnh đạo, chỉ
đạo xoá nạn mù chữ, các cấp bộ Đảng, chính quyền ở Thái Nguyên coi trọng
tổ chức động viên mọi thành phần trong xã hội tham gia xoá nạn mù chữ.
Ngoài đội ngũ cán bộ, giáo viên Bình dân học vụ, các cấp bộ Đảng, chính
quyền trong tỉnh còn tổ chức, động viên đƣợc nhiều cán bộ, hội viên các đoàn
thể Cứu quốc (Thanh niên, Phụ nữ, Nông hội…) đã biết chữ dạy cho những
ngƣời chƣa biết chữ. Ngoài các lớp học Bình dân học vụ tổ chức học vào các
buổi trƣa, buổi tối nhƣ các địa phƣơng khác, Thái Nguyên còn tổ chức việc
dạy chữ và học chữ ở khắp mọi lúc, mọi nơi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
80
Thực hiện Lời kêu gọi chống nạn thất học của Chủ tịch Hồ Chí Minh là
“Vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ không biết thì
con bảo, người làm không biết thì chủ nhà bảo”, ngoài các lớp học do ngành
giáo dục tổ chức, các lớp học tƣ gia (lớp học gia đình) đƣợc mở ở khắp mọi
nơi trong tỉnh. Đến giữa năm 1948, số lớp học tƣ gia chiếm tỷ lệ trên 35,16 %
so với tổng số lớp Bình dân học vụ của tỉnh. Bên cạnh các lớp học tƣ gia, các
cấp bộ Đảng, chính quyền Thái Nguyên còn lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức các lớp
học xoá nạn mù chữ ở các đồn điền, nhà máy, mỏ than, với khẩu hiệu mỗi nhà
máy, đồn điền, mỏ than là một lớp học Bình dân học vụ.
Tổ chức lớp học giữa trời cũng là một hình thức, biện pháp xoá nạn mù
chữ ở Thái Nguyên. Tại các huyện Phú Bình, Phổ Yên, ở những nơi có đông
nhân dân thƣờng qua lại hằng ngày, Ban Bình dân học vụ xã hoặc một, hai
giáo viên Bình dân học vụ đặt một cái bảng đen. Khi đông ngƣời tụ tập hoặc
đi qua lại, giáo viên mời một vài ngƣời bất kì đọc một số chữ, vần, hay câu
trên bảng; nếu sai thì sửa, thiếu thì bổ sung, nếu chƣa biết đọc thì dạy và
giảng giải. Hình thức mở các lớp học giữa trời này của Thái Nguyên chủ yếu
có tính chất cổ động, nhằm ôn lại bài cho những ngƣời đã đi học, gây hứng
thú và vận động những ngƣời chƣa biết chữ đi học.
Từ các lớp học ngoài trời ở các huyện Phổ Yên và Phú Bình, Thái
Nguyên đã phát triển thành các lớp hỏi chữ vào những ngày lễ hoặc các ngày
phiên chợ, thống nhất trong cùng một thời gian ở toàn xã, toàn huyện trong
tỉnh và dần dần trở nên chặt chẽ, thậm chí có lúc, có nơi găy gắt.
Việc mở các lớp hỏi chữ ở Thái Nguyên tuy nhiều khi cũng gây phiền
phức, bực bội, thậm chí có lúc, có nơi còn xúc phạm đến lòng tự trọng của
nhân dân, nhƣng nó cũng có nhiều tác dụng tích cực trong việc thúc đẩy
những ngƣời chƣa biết chữ đi học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
81
Có thể nói việc tổ chức đƣợc nhiều lớp học tƣ gia, việc tổ chức các lớp
học giữa trời và các chặng hỏi chữ ở Thái Nguyên đã góp phần làm phong
phú thêm hình thức và biện pháp xoá nạn mù chữ trong toàn quốc.
2 - Công cuộc xoá nạn mù chữ ở Thái Nguyên trong thời kì kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược một lần nữa khẳng định tính chất ưu việt của
chế độ Dân chủ Cộng hoà.
Nhân dân Thái Nguyên vốn có truyền thống hiếu học từ lâu đời, nhƣng
dƣới thời Pháp thuộc, nhân dân Thái Nguyên bị kìm hãm trong vòng ngu dốt,
lạc hậu. Năm học 1932 - 1933 đƣợc coi là đỉnh cao của nền giáo dục của thực
dân Pháp ở Đông Dƣơng, thì số học sinh ở Thái Nguyên cũng chỉ đạt tỉ lệ
1,8% so với dân số. Đa số những ngƣời đƣợc đến trƣờng học là con em giai
cấp thống trị, địa chủ và những ngƣời giàu có; còn con em nhân dân lao động
Thái Nguyên không bao giờ đƣợc cắp sách đến trƣờng. Vì trình độ hiểu biết
thấp kém, nên thực dân Pháp dễ dàng đầu độc nhân dân Thái Nguyên về văn
hoá bằng việc khuyến khích duy trì những phong tục, tập quán lạc hậu, lỗi
thời, mê tín dị đoan và tuyên truyền, phổ biến lối sống ăn chơi, truỵ lạc, trác
táng. Chúng lôi kéo nhân dân Thái Nguyên vào con đƣờng nghiện ngập, ăn
chơi sa đọa, mòn mỏi về thể xác và tinh thần, lãng quên con đƣờng đấu tranh
cách mạng. Vì mù chữ, trình độ hiểu biết thấp kém, nên ngƣời dân Thái
Nguyên không nhận thức đƣợc các truyền thống lịch sử và yêu nƣớc của quê
hƣơng, không hiểu biết đƣợc quyền sống và quyền mƣu cầu hạnh phúc của
mỗi con ngƣời.
Từ ngày Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, quán triệt và
hƣởng ứng Lời kêu gọi chống thất học của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giữa muôn
vàn khó khăn chồng chất do "giặc đói" và giặc ngoại xâm gây ra, các cấp bộ
Đảng và chính quyền Thái Nguyên đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công cuộc
xoá nạn mù chữ, đƣa việc xoá nạn mù chữ trở thành phong trào quần chúng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
82
sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân các dân tộc Thái Nguyên. Các lớp bình
dân học vụ, xoá nạn mù chữ đƣợc tổ chức ở khắp nơi, thu hút hàng vạn ngƣời
mù chữ thuộc đủ các lứa tuổi và thành phần các dân tộc đến học. Kết thúc
cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lƣợc, các cấp bộ Đảng,
chính quyền, đoàn thể và nhân dân các dân tộc Thái Nguyên đã thực hiện
thắng lợi công cuộc diệt dốt, hoàn thành việc xoá nạn mù chữ cho 140.540
ngƣời.
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi và trung du, gồm nhiều thành phần
dân tộc khác nhau; trong đó có nhiều thành phần dân tộc thiểu số, đời sống
kinh tế và văn hoá nhìn chung thấp. Công cuộc xoá nạn mù chữ ở Thái
Nguyên đã tạo cho nhân dân các dân tộc Thái Nguyên một sự tiến bộ về văn
hoá - xã hội, làm cơ sở cho sự phát triển về nhiều mặt, nhất là về mặt kinh tế
và xã hội. Có thể nói, ở các cơ sở xóm, làng công cuộc xoá nạn mù chữ đã tác
động nhƣ một nhân tố quyết định đến sự biến đổi về kinh tế, văn hoá, xã hội.
Từ một ví dụ đã nêu ở làng Hoẻn (xã Phúc Chu, huyện Định Hoá), chúng ta
thấy công cuộc xoá nạn mù chữ ở Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho
nhân dân các dân tộc trong tỉnh phát huy vai trò làm chủ xã hội, làm chủ cuộc
sống của mình.
Nhƣ vậy, sống dƣới chế độ Dân chủ Cộng hoà, mọi ngƣời dân Thái
Nguyên không phân biệt giàu hay nghèo, sang hay hèn đều đƣợc đi học chữ
để lĩnh hội các kiến thức khoa học và hiểu biết chủ trƣơng của Đảng, của Nhà
nƣớc. Có thêm hiểu biết, mọi ngƣời dân Thái Nguyên càng tăng thêm niềm
tin về con đƣờng đi lên của đất nƣớc, về quyền lợi và nghĩa vụ của ngƣời
công dân và mới có thêm khả năng sản xuất, chiến đấu và làm chủ xã hội. Chỉ
có xoá đƣợc nạn mù chữ cho đông đảo quần chúng nhân dân Thái Nguyên
mới đảm bảo cho công cuộc xây dựng, củng cố và bảo vệ chính quyền cách
mạng, kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc và kiến quốc trên địa bàn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
83
tỉnh thắng lợi. Với các nội dung và ý nghĩa đó, công cuộc xoá nạn mù chữ ở
Thái Nguyên đã thể hiện rõ tính chất ƣu việt của chế độ mới - chế độ Dân chủ
Cộng hoà.
3 - Công cuộc xoá nạn mù chữ ở Thái Nguyên trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược diễn ra liên tục, thể hiện sự cố gắng của cán
bộ, giáo viên Bình dân học vụ và tinh thần hiếu học của nhân dân các dân
tộc..
Trong hoàn cảnh chồng chất khó khăn sau Cách mạng tháng Tám, Đảng,
chính quyền các cấp trong tỉnh đã coi trọng xây dựng, củng cố bộ máy lãnh
đạo, chỉ đạo phong trào bình dân học vụ và phân công nhiều cán bộ, đảng
viên có năng lực, có tinh thần trách nhiệm cao, có khả năng gần gũi với quần
chúng, hiểu biết quần chúng và đƣợc quần chúng tin yêu trực tiếp phụ trách
bộ máy lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức và duy trì phong trào xoá nạn mù chữ
thƣờng xuyên, liên tục. Sau ngày toàn quốc kháng chiến, các cấp bộ Đảng,
chính quyền Thái Nguyên tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân, toàn dân trên
địa bàn vừa đẩy mạnh sản xuất lƣơng thực, thực phẩm để đảm bảo đời sống
cho cán bộ, nhân dân trong tỉnh và cung cấp cho căn cứ địa, vừa làm tốt công
tác chuẩn bị kháng chiến, đồng thời vẫn giữ vững và phát triển phong trào
bình dân học vụ. Kết quả, từ ngày toàn quốc kháng chiến (19/12/1946) đến
đầu tháng 10-1947, tỉ lệ số ngƣời biết chữ trong toàn tỉnh tăng từ 12% lên
28% .
Sau các cuộc hành quân, càn quét của thực dân Pháp vào địa bàn Thái
Nguyên trong Thu - Đông 1947 và Thu - Đông 1950, phong trào xoá nạn mù
chữ ở Thái Nguyên không những không bị giảm sút mà còn đƣợc các cấp bộ
Đảng, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn. Kết
quả, tỉ lệ số ngƣời đƣợc xoá mù chữ trong tỉnh tăng lên nhanh chóng từ 28%
(đầu tháng 10/1947) lên 50% (cuối năm 1948) và đến cuối năm 1951 tỉ lệ số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
84
ngƣời thoát nạn mù từ 8 tuổi trở lên trong toàn tỉnh tăng lên 73%. Những số
liệu nêu trên không chỉ thể hiện sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của
các cấp bộ Đảng và chính quyền, sự nỗ lực của cán bộ, giáo viên bình dân học
vụ, mà còn nói lên tinh thần hiếu học của nhân dân các dân tộc tỉnh Thái
Nguyên lúc bấy giờ.
Nhờ các cấp bộ Đảng, chính quyền trong tỉnh thƣờng xuyên tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo, nên công cuộc xoá nạn mù chữ ở Thái Nguyên trong thời kì
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc đã diễn ra liên tục và đạt đƣợc
nhiều kết quả to lớn. Chính nhờ kết quả này cùng với những thành tích đóng
góp xuất sắc trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, tỉnh Thái Nguyên đã
đƣợc Đảng và Nhà nƣớc phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang
nhân dân.
4 - Công cuộc xoá nạn mù chữ ở Thái Nguyên trong thời kì kháng chiến
chống Pháp đã tạo điều kiện cho nhân dân các dân tộc trong tỉnh phát huy
vai trò làm chủ xã hội; đồng thời cung cấp nhiều kinh nghiệm cho việc xoá
nạn mù chữ trong những năm sau ngày hoà bình lập lại.
Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), phong
trào xoá nạn mù chữ đã mang lại cho 140.540 ngƣời dân Thái Nguyên bị thất
học dƣới chế độ thực dân, phong kiến biết đọc, biết viết, thoát khỏi nạn dốt,
có điều kiện để nâng cao trình độ văn hoá, phát huy vai trò làm chủ và khả
năng đóng góp tích cực vào việc xây dựng và bảo vệ chế độ mới. Từ khi thực
hiện giảm tô và cải cách ruộng đất, trong bối cảnh cuộc đấu tranh giai cấp
diễn ra quyết liệt ở nông thôn Thái Nguyên, thì công cuộc xoá nạn mù chữ có
ý nghĩa rất to lớn, nó không chỉ nâng cao chất lƣợng công tác của cán bộ nông
thôn, mà còn nâng cao lập trƣờng giai cấp cách mạng trong cuộc đấu tranh
đánh đổ hoàn toàn giai cấp địa chủ phong kiến. Thực tiễn phong trào xoá nạn
mù chữ đã giáo dục cho ngƣời dân Thái Nguyên những tình cảm mới, chan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
85
hoà tình cảm công - nông, tha thiết với việc chung, nhận rõ sự khác biệt giữa
chế độ Dân chủ Cộng hoà do ta xây dựng với chế độ thực dân, phong kiến cũ
vừa bị xoá bỏ.
Công cuộc xoá nạn mù chữ ở Thái Nguyên trong thời kì kháng chiến
chống Pháp đã cung cấp một số kinh nghiệm cho lãnh đạo tỉnh vận dụng vào
việc xoá nạn mù chữ những năm sau ngày hoà bình lập lại.
Một là, việc xoá nạn mù chữ phải đặt dƣới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp
của các cấp bộ Đảng và chính quyền trong tỉnh. Các cấp bộ Đảng, chính
quyền từ tỉnh đến các huyện, xã phải thành lập đƣợc cơ quan chuyên trách
làm công tác diệt dốt do đại diện cấp uỷ Đảng hoặc chính quyền phụ trách, có
sự tham gia của các ngành và các đoàn thể nhân dân. Ngành Giáo dục phải là
nòng cốt trong công tác xoá nạn mù chữ.
Hai là, xoá nạn mù chữ là việc chung của toàn xã hội, phải huy động các
ngành, các đoàn thể quần chúng nhân dân và phải phối hợp các lực lƣợng xã
hội làm công tác xoá nạn mù chữ; phải động viên mạnh mẽ từng ngƣời mù
chữ xây dựng quyết tâm và hành động xoá nạn mù chữ cho bản thân mình.
Ba là, xoá nạn mù chữ phải đƣợc tiến hành thƣờng xuyên, liên tục; đồng
thời phải phát động thành các chiến dịch xoá nạn mù chữ rộng rãi trong các
tầng lớp nhân dân; phải đẩy mạnh việc thi đua xoá nạn mù chữ giữa các
huyện trong tỉnh, các xã trong huyện; phải động viên, khen thƣởng, đúng
mức, kịp thời các đơn vị có thành tích và phê bình nghiêm khắc các đơn vị
yếu, kém.
Ba bài học kinh nghiệm chính rút ra trong công cuộc xoá nạn mù chữ ở
Thái Nguyên thời kì kháng chiến chống Pháp đã khẳng định tƣ tƣởng cốt lõi,
quan trọng và xuyên suốt mọi mặt của công cuộc xoá nạn mù chữ là tính cách
mạng và tính quần chúng của nó. Tính cách mạng và tính quần chúng trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
86
phong trào bình dân học vụ là hai nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thắng lợi
trong công cuộc xoá nạn mù chữ ở Thái Nguyên thời kì kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lƣợc. Ba bài học kinh nghiệm và hai nguyên nhân chủ yếu
dẫn đến thắng lợi trong công cuộc xoá nạn mù chữ ở Thái Nguyên thời kì
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc nêu trên đã đƣợc các cấp bộ
Đảng, chính quyền trong tỉnh nghiên cứu, vận dụng vào việc xoá nạn mù chữ
trong những năm sau ngày hoà bình lập lại trên miền Bắc (21/7/1954).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
87
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Alfred Echinard (1933), Lịch sử chính trị và quân sự tỉnh Thái Nguyên.
2- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Thái Nguyên, tập 1 (1936 - 1965).
3- Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (1951), Báo cáo tình hình
mọi mặt năm 1951, Thái Nguyên.
4- Ban chỉ huy quân sự huyện Đại Từ (2004), Lịch sử kháng chiến chống
TD Pháp, ĐQ Mĩ xâm lược và xây dựng bảo vệ tổ quốc 1945 - 2000.
5- Ban chỉ huy quân sự huyện Phổ Yên (2005), Lịch sử kháng chiến chống
xâm lược và xây dựng - bảo vệ tổ quốc 1945 - 2000.
6- Ban chỉ huy quân sự thành phố Thái Nguyên (2007), Lịch sử kháng
chiến chống xâm lược và xây dựng - bảo vệ tổ quốc 1945 - 2000.
7- Ban TV Tỉnh uỷ Thái Nguyên (1946), Báo cáo công tác tháng 1 đến
tháng 10 năm 1946, Thái Nguyên.
8- Ban TV Tỉnh uỷ Thái Nguyên (1949), Báo cáo tình hình 3 tháng thứ 2
năm 1949, Thái Nguyên.
9- Ban TV Tỉnh uỷ Thái Nguyên (1949), Báo cáo tình hình quý IV năm
1949, Thái Nguyên.
10- Ban TV Tỉnh uỷ Thái Nguyên (1952), Báo cáo tình hình mọi mặt năm
1951, Thái Nguyên.
11- Ban TV Tỉnh uỷ Thái Nguyên (1954), Thông tri về việc thống kê các
thành tích công tác mọi mặt của tỉnh để lấy tài liệu tuyên truyền Quốc tế.
12- Nguyễn Đức Bình (1986), Công tác giáo dục và nghiên cứu lí luận,
Nxb Sách giáo khoa Mác Lênin, Hà Nội.
13- Bộ Chỉ huy quân sự Bắc Thái (1990), Bắc Thái lịch sử kháng chiến
chống thực dân Pháp 1945 - 1954, Nxb Quân đội.
14- Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Thái Nguyên (1999), Thái Nguyên Lịch sử
đấu tranh vũ trang cách mạng và kháng chiến chống Pháp (1941-1954).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
88
15- Ngô Văn Cát (1980), Việt Nam chống nạn thất học, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
16- Cẩm nang giáo viên lớp Dự bị bình dân (1949), Tài liệu lƣu trữ tại Bảo
tàng tỉnh Thái Nguyên.
17- Câu lạc bộ chiến sĩ diệt dốt Hà Nội (1995), Hồi kí của các chiến sĩ diệt
dốt, Hà Nội.
18- Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (1948), Biên bản Hội nghị đại biểu toàn
Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên họp từ ngày 15 đến 21 tháng 6 năm 1948, Thái
Nguyên.
19- Hồ sơ lƣu trữ số 1077 cặp 100 – Phòng Lƣu trữ Sở Nội vụ
Thái Nguyên.
20- Hồ sơ lƣu trữ số 1081 cặp 100 – Phòng Lƣu trữ Sở Nội vụ
Thái Nguyên.
21- Hồ sơ lƣu trữ số 1086a cặp 101 – Phòng Lƣu trữ Sở Nội vụ
Thái Nguyên.
22- Hồ sơ lƣu trữ số 1110 cặp 103 – Phòng Lƣu trữ Sở Nội vụ
Thái Nguyên.
23- Hội Liên hiệp phụ nữ Thái Nguyên (2002), Lịch sử phong trào phụ nữ
tỉnh Thái Nguyên (1930 - 2000).
24- Nguyễn Văn Huyên (1946), 10 năm xây dựng nền giáo dục Việt Nam
xưa và nay, Báo cứu quốc, 1946.
25- Huyện uỷ Định Hoá (2000), Lịch sử Đảng bộ huyện Định Hoá (1930 -
2000).
26- Huyện uỷ Đồng Hỷ (1997), Lịch sử Đảng bộ huyện Đồng Hỷ (1930 -
1995).
27- Huyện uỷ Phú Bình (2003), Lịch sử Đảng bộ huyện Phú Bình (1930 -
2005).
28- Huyện uỷ Phú Lƣơng (1996), Lịch sử Đảng bộ huyện Phú Lương
(1930 - 1954).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
89
29- Huyện uỷ Võ Nhai (1993), Lịch sử Đảng bộ huyện Võ Nhai (1930 -
1954).
30- Vũ Ngọc Khánh (1991), Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước 1945,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
31- Liên khu Việt Bắc (1951), Báo cáo thành tích thanh toán nạn mù chữ
năm 1950, Thái Nguyên.
32- Liên khu Việt Bắc (1953), Báo cáo tình hình BDHV năm 1952,
Thái Nguyên.
33- Liên khu Việt Bắc (1954), Báo cáo tình hình BDHV năm 1953,
Thái Nguyên.
34- Hồ Chí Minh (1972), Bàn về công tác giáo dục, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
35- Hồ Chí Minh (1958), Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật,
Hà Nội.
36- Hồ Chí Minh (1955), Thư gửi cán bộ và giáo viên BDHV, Bộ Giáo
dục, Hà Nội.
37- Hồ Chí Minh - Toàn tập (1981), Tập II, Nxb Sự thật, Hà Nội.
38- Hồ Chí Minh - Toàn tập (1986), Tập IV, Nxb Sự thật, Hà Nội.
39- Hồ Chí Minh - Toàn tập (1986), Tập V, Nxb Sự thật, Hà Nội.
40- Nguyễn Xuân Minh (2006), Lich sử Việt Nam 1945 - 2000, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
41- Nguyễn Ái Quốc (1976), Bản án chế độ thực dân Pháp. Nxb Sự thật,
Hà Nội.
42- Trần Dân Tiên (1976), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ
Chủ tịch, Nxb Sự thật. Hà Nội.
43- Tỉnh uỷ Thái Nguyên (1951), Báo cáo một năm chuyển mạnh sang
tổng phản công, Tài liệu lƣu trữ tại Phòng Lịch sử Đảng , Ban Tuyên giáo
Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
90
44- Tỉnh uỷ Thái Nguyên (1997), Lịch sử Đảng bộ Thành phố Thái
Nguyên (1930 - 1975).
45- Nguyễn Mạnh Tùng (1996), Công cuộc xoá nạn mù chữ và bổ túc văn
hoá ở Bắc Bộ (1945 – 1954), Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học lịch sử, Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
46- Ty Bình dân học vụ Thái Nguyên (1952), Báo cáo một năm hoạt động
1951, Thái Nguyên.
47- UBKCHC tỉnh Thái Nguyên (1948), Báo cáo cả năm 1948, Tài liệu
lƣu trữ tại Phòng Lƣu trữ Sở Nội vụ Thái Nguyên.
48- UBKCHC tỉnh Thái Nguyên (1948), Báo cáo quý II và III, Tài liệu lƣu
trữ tại Phòng Lƣu trữ Sở Nội vụ Thái Nguyên.
49- UBKCHC tỉnh Thái Nguyên (1948), Báo cáo tình hình Thái Nguyên từ
1945 đến 5/1948.
50- UBKCHC tỉnh Thái Nguyên (1949), Báo cáo bao quát tình hình trong
tỉnh năm 1949.
51- UBKCHC tỉnh Thái Nguyên (1950), Báo cáo của các huyện năm 1950.
52- UBKCHC tỉnh Thái Nguyên (1950), Báo cáo kiểm điểm công tác cả
năm 1950.
53- Uỷ ban HC Liên khu Việt Bắc (1951), Thông tư về cách làm việc của
các Liên khu và tỉnh – Nha Bình dân học vụ, Thái Nguyên.
54- Uỷ ban KCHC tỉnh Thái Nguyên (1951), Báo cáo tình hình Thái
Nguyên năm 1951, Thái Nguyên.
55- Uỷ ban KCHC tỉnh Thái Nguyên (1952), Báo cáo tình hình tỉnh Thái
Nguyên năm 1952, Thái Nguyên.
56- Văn kiện Đảng 1929 – 1935 (1964), Nxb Sự thật, Hà Nội.
57- Văn kiện Đảng 1930 – 1945 (1977), Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng
Trung ƣơng, Hà Nội.
58- Văn kiện Đảng 1945 – 1947 (1969), Nxb Sự thật, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
91
59- Văn kiện Đảng 1945 – 1954 (1978), Ban NCLS Đảng Trung ƣơng,
Hà Nội.
60- Văn kiện Đảng bộ Liên khu Việt Bắc 1949 – 1954.
61- Vần quốc ngữ kháng chiến 1952, Tài liệu lƣu trữ tại Bảo tàng tỉnh
Thái Nguyên.
62- Việt Bắc diệt dốt - Tập san phát hành trong dịp chiến dịch diệt dốt
Nguyễn Công Mỹ, Tài liệu lƣu trữ tại Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
92
Thi mãn khoá sơ cấp bình dân ở xã Đông Diễn (Thái Nguyên)
Nguồn: Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên
Học sinh tham ra diệt dốt. Nguồn: Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
93
Dân tộc Dao HTX Tiên Phong, xã Phú Thắng, huyện Võ Nhai
thanh toán nạn mù chữ. Nguồn: Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
94
Bìa cuốn Vần Quốc ngữ
Nguồn: Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
95
Bìa Tập san số 2 phát hành trong chiến dịch Diệt dốt Nguyễn Công Mỹ
Nguồn: Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
96
Một trang trong Tập san số 2. Nguồn: Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
97
Một trang trong Tập san số 2. Nguồn: Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
98
Một trang trong Tập san số 2. Nguồn: Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
99
Một trang trong cuốn Vần Quốc ngữ. Nguồn: Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV2010_SP_NguyenXuanHong.pdf