Luận văn Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu chè tại Tổng Công ty chè Việt Nam giai đoạn 2001-2005

Đề nghị Chính phủ cho sứ quán, cơ quan đại diện thương mại của Việt Nam ở các nước có sản xuất kinh doanh chè thu thập các thông tin về kinh tế, kỹ thuật, về thị trường, tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý của các doanh nghiệp kinh doanh chè tiên tiến, để từ đó hỗ trợ cho Tổng công ty chè Việt Nam và các doanh nghiệp chè khác phát triển có hiệu quả hơn. * Tăng cường vai trò của các đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài. Trong lĩnh vực này nên học tập kinh nghiệm của một số nước như Nhật Bản, Mỹ hàng hoá của họ có thể thâm nhập và cạnh tranh ở hầu hết các thị trường trên thế giới không chỉ nhờ yếu tố chất lượng mà còn do nhiều yếu tố khác, trong đó không thể không kể đến mạng lưới cơ quan kinh tế - thương mại ở nước ngoài quan tâm và hoạt động cực kỳ có hiệu quả. Đặc biệt là thu thập thông tin về thị trường các nước đối tác, về điều kiện buôn bán, về phong tục tập quán, cách thức làm ăn của các công ty có khả năng hợp tác để lập một ngân hàng dữ liệu thông tin. Đại diện thương mại ở nước ngoài còn giúp đỡ các nhà xuất khẩu mở chi nhánh ở nước ngoài, lập chương trình cho các đoàn đàm phán xuất khẩu gặp gỡ các bạn hàng tiềm năng, các cơ quan xúc tiến thương mại ở các nước sở tại. Thậm chí với các bạn hàng lớn có nhiều cơ hội hợp tác, đại diện thương mại có thể tổ chức cho họ những chuyến tham quan nước mình để tận mắt tìm hiểu và phát triển quan hệ thương mại. Nói như vậy không có nghĩa là các đại diện thương mại của ta cũng phải thực hiện đầy đủ từng ấy chức năng, bởi vì nếu so với Nhật Bản, Mỹ thì ta còn quá ít kinh nghiệm về thương mại quốc tế và thua xa về tiềm lực kinh tế. Tuy vậy, các đại diện thương mại của ta không thể chỉ thực hiện mãi các nhiệm vụ chung chung như hiện nay. Để các đại diện thương mại thực sự vào cuộc, Nhà nước cần có các biện pháp: + Cử các cán bộ thực sự có trình độ về kinh tế và nhanh nhẹn trong việc nắm bắt thông tin thị trường, có thể xem xét lựa chọn một số nhà xuất khẩu có kinh nghiệm trên cơ sở thi tuyển chứ không phải theo chế độ bổ nhiệm như hiện nay. + Ở các khu vực kinh doanh lớn có thể thành lập riêng phòng đại diện thương mại, không nhất thiết phải gắn liền với cơ quan đại diện ngoại giao. + Định kỳ, Bộ Thương mại tiến hành đánh giá hoạt động của các cơ quan, nếu thị trường nào không đạt tiêu chuẩn thì đại diện thương mại ở đó sẽ phải chịu trách nhiệm, trước hết là giải thích lý do và đề xuất các biện pháp phấn đấu đẩy mạnh xuất khẩu để đạt chỉ tiêu. Đề nghị Chính phủ hỗ trợ về tài chính và cho phép Tổng công ty chè Việt Nam sớm thành lập các công ty con hoặc các chi nhánh của mình tại các nước có nhu cầu nhập khẩu chè lớn, trước hết tại Liên Bang Nga. Công ty con sẽ nhập khẩu chè của Tổng công ty dưới dạng thành phẩm và tổ chức hệ thống các kênh phân phối trực tiếp, hoặc nhập khẩu nguyên liệu, tổ chức đóng gói tại chỗ và tiêu thụ với sản phẩm có thương hiệu riêng của mình. * Phối hợp với các biện pháp tài chính, tín dụng để hỗ trợ xuất khẩu: Các biện pháp như bảo đảm tín dụng xuất khẩu, cấp tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu, công cụ tỷ giá hối đoái, các chính sách miễn giảm thuế. Từ trước đến nay, Nhà nước ta chỉ tập trung vào các biện pháp hỗ trợ nhà xuất khẩu trong nước, tức là hỗ trợ người bán. Nhưng theo các nhà kinh tế thì biện pháp khuyến khích người tiêu dùng, ở đây là các nhà nhập khẩu bao giờ cũng có tác dung hơn. Và trên thức tế, đẫ có nhiều nước áp dụng hình thức này mà cho vay vốn ODA giữa các quốc gia chính là một ví dụ. Trong điều kiện ngoại thương và vận tải đường biển của ta phát triển chưa mạnh, việc khuyến khích trực tiếp các doanh nghiệp nước ngoài nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam là con đường ngắn và hiệu quả nhất. Có thể lập quỹ bảo lãnh xuất khẩu và cho phép doanh nghiệp Việt Nam bán hàng theo phương thức trả chậm với lãi suất ưu đãi.

doc100 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1487 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu chè tại Tổng Công ty chè Việt Nam giai đoạn 2001-2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
truyền thống về trồng và chế biến chè như ấn Độ, Nhật Bản…Mỗi xí nghiệp hình thành một vườn giống để đồng thời cùng trồng thử các giống này. Trên cơ sở xem xét khả năng thích nghi với các điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu khác nhau, tiến hành tuyển chọn và lai tạo tại chỗ nhằm chọn ra giống thích nghi theo vùng. Các xí nghiệp phải có sự đánh giá đúng mức tầm quan trọng của giống vì cây chè là cây lâu năm, giống có ảnh hưởng suốt cả chu kỳ kinh tế, hơn nữa chúng ta không dễ dàng thay giống chè mới như các giống cây ngắn hạn khác vì vốn để trồng một nương chè rất lớn và thời gian để tạo ra một nương chè đưa vào kinh doanh là rất dài. + Phổ biến và giám sát việc thực hiện các kỹ thuật canh tác của nông dân. Kỹ thuật canh tác bao gồm một hệ thống các biện pháp kỹ thuật để thâm canh như: tăng mật độ trồng chè để che phủ đất, chống cỏ dại và xói mòn, áp dụng phương pháp tạo hình đồi chè tăng năng suất, bảo vệ đất. Chỉ đạo bón phân có cơ cấu thích hợp với từng loại đất, bón phân theo đúng quy trình, tăng lượng phân hữu cơ và phân vi sinh để tăng độ phì cho đất. Trồng cây bóng mát để khắc phục nắng nóng mùa hè, đồng thời tạo ra một lượng phân xanh khi cây rụng lá. Phòng trừ sâu bệnh theo phương pháp tổng hợp IPM không để lại dư lượng độc chất trong sản phẩm. Nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp sử dụng các loại côn trùng ký sinh, côn trùng ăn thịt, vi khuẩn…để diệt trừ sâu bệnh mà đã được nhiều nước áp dụng có hiệu quả. Cải tạo và nâng cấp các nhà máy chế biến. Hiện nay, ta đang sử dụng rộng rãi thiết bị công nghệ chè đen của Liên Xô và ấn Độ. Dây chuyền sản xuất của Liên Xô cho phép cơ giới hoá cao nhưng công nghệ đã lỗi thời tới gần nửa thế kỷ. Ngược lại, dây chuyền chế biến của ấn Độ công nghệ mới, có nhiều ưu điểm nhưng mức độ cơ giới hoá không cao. Trong thời gian tới, khi ta chưa đủ điều kiện tài chính để đổi mới công nghệ ở tất cả các nhà máy cùng một lúc thì kết hợp ưu điểm của hai loại công nghệ cũng là một giải pháp tình thế cho phép ta cải tạo các nhà máy hiện có, đưa chúng ra khỏi tình trạng lạc hậu hiện nay. Riêng đối với các xưởng chè nhỏ phải cải tạo theo hướng công nghệ ấn Độ, đặc biệt ở khâu héo và lên men. áp dụng thử một số kỹ thuật mới như: Kết hợp vò mở với vò ép để làm tăng độ dập tế bào, rút ngắn thời gian vò và lên men, giảm tỷ lệ chua thiu, tạo hình cánh chè xoắn chặt hơn. Thay quá trình lên men độc lập điều tiết không khí toàn phần hiện nay bằng hệ thống lên men nhiều tầng để điều tiết không khí một cách chủ động hơn. Xây dựng hệ thống chứa chè thành phẩm có điều tiết nhiệt và độ ẩm để giữ cho chè luôn có thuỷ phần ổn định. Với các nhà máy mới, phải trang bị công nghệ hiện đại ngay từ đầu. Thà rằng chỉ đầu tư xây ít nhà máy với dây chuyền tiên tiến và đồng bộ còn hơn đầu tư tràn lan, số lượng thì nhiều nhưng chất lượng lại thấp. Định hướng đầu tư là trang bị máy móc, kỹ thuật sản xuất của ấn Độ, Srilanca, Trung Quốc cho sản xuất chè đen và của Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản cho sản xuất chè xanh. Tăng cường công tác quản lý chất lượng sản phẩm ở cơ sở: Phải coi trọng công tác quản lý chất lượng tại cơ sở. Duy trì và tăng cường công tác kiểm tra sản xuất ở từng khâu trên dây chuyền công nghệ, kiểm tra chất lượng bán thành phẩm và sản phẩm, nhằm phát hiện kịp thời và xử lý những khuyết tật của sản phẩm ngay trên dây chuyền sản xuất. Phải có hệ thống cập nhật sổ sách, ghi lý lịch sản xuất, biên bản đánh giá chất lượng, tránh làm hình thức không đến nơi đến chốn. Phải trang bị các dụng cụ đo nhiệt độ, độ ẩm ở phòng lên men, ở máy sấy, các thiết bị xác định độ ẩm của chè như cân phân tích, máy sấy, đảm bảo cho việc đánh giá chất lượng sản phẩm ở cơ sở theo tiêu chuẩn quy định. Xây dựng hệ thống kiểm tra, đánh giá chất lượng sản phẩm ở cơ sở, mỗi nơi đều phải có phòng KCS làm hạt nhân quản lý và theo dõi chất lượng ở cơ sở. Phối hợp chặt chẽ hữu cơ giữa KCS cơ sở và trung tâm KCS chè (Tổng Công ty), nhằm tạo thành hệ thống kiểm tra chất lượng sản phẩm trong ngành, thống nhất về tiêu chuẩn chất lượng và phương pháp kiểm tra. Tiến tới áp dụng hệ thống chất lượng theo ISO9000 ở những cơ sở có điều kiện. 2. Giải pháp về thị trường 2.1 Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thị trường. Đối với Tổng Công ty, hoạt động nghiên cứu thị trường nước ngoài thời gian qua còn chưa được chú ý. Mục tiêu của việc nghiên cứu thị trường là nhằm xác định các bạn hàng ổn định lâu dài cho từng mặt hàng xuất khẩu, xác định dung lượng hàng xuất khẩu tính cho mỗi loại mặt hàng, mỗi loại thị trường khác nhau là bao nhiêu. Đồng thời nhằm phát hiện ra thị trường mới. Sản phẩm chè của Tổng Công ty đã có mặt trên thị trường quốc tế, có những thị trường đã trở thành quen thuộc, có những thị trường mới. Do vậy củng cố và tìm kiếm thị trường chè là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của chiến lược thị trường xuất khẩu của Tổng Công ty. Để đạt mục tiêu đến năm 2010 tiêu thụ khoảng trên 50.000 tấn chè các loại (so với 30.000 tấn hiện nay) vấn đề củng cố giữ vững thị trường hiện có, mở rộng thị trường mới trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Với thị trường quen thuộc như Nga, các nước thuộc SNG, các nước Đông Âu đã nhập chè Việt Nam từ 40 năm nay. Đây là thị trường quen thuộc nên cần cố gắng duy trì phát triển ổn định và tăng thị phần nhập khẩu chè của họ đối với chè của ta. Cần chú ý đến công tác tiếp thị, nghiên cứu nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng tại thị trường này để cải tiến chất lượng sản phẩm xuất khẩu kể cả bao bì, nhãn mác. Thị trường Trung Cận Đông- đây là thị trường mới bao gồm Irắc, Iran, Libi, Giooc Đani tuy là thị trường mới nhưng khách hàng có nhiều tiềm năng, chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu của Tổng Công ty. Dự kiến đến năm 2005 nhu cầu nhập khẩu của các nước Cận Đông là 383,6 nghìn tấn, trong đó Ai Cập là 104,6 nghìn tấn, Irắc 39,1 nghìn tấn, Iran 57,1 nghìn tấn (Tài liệu FAO). Điều này cho thấy nhu cầu nhập khẩu của các nước này là rất lớn so với luợng chè mà ta có khả năng cung ứng. Do vậy đây là thị trường đáng chú ý cần có chính sách giữ vững và ổn định để tăng khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Cần đẩy mạnh hơn nữa khâu tiếp thị, quảng cáo giới thiệu sản phẩm mới của chè nhất là những sản phẩm tổng hợp của chè để có thể cạnh tranh với các đồ uống khác thích ứng với tập quán không dùng đồ uống có cồn của người dân theo đạo Hồi. Thị trường Châu á như Pakistan, Singapor, Nhật Bản, Đài Loan có thể nhập từ 7.000-10.000 tấn/năm. Đây cũng là thị trường mới, thị hiếu lại gần giống với thị hiếu của người Việt Nam, tuy nhiên thị trường này đòi hỏi chất lượng cao hơn. Khâu chế biến sản phẩm chè đối với thị trường này cần lưu ý cải tiến chất lượng mẫu mã, bao bì, nhãn mác. Các thị trường khác như Bắc Mỹ và Tây Âu gồm các nước như: Anh, Mỹ đã sử dụng sản phẩm chè của Tổng Công ty. Đây là thị trường rất khó tính nhưng cũng có nhiều hứa hẹn. Tăng cường công tác tiếp thị dưới các hình thức khác nhau để mở rộng thị trường Tây Âu. Để làm tốt công tác này, Tổng Công ty cần phải đầu tư hơn nữa việc nắm bắt thông tin thị trường chè thế giới cũng như tăng cường kinh phí nghiên cứu những xu hướng biến đổi của thị trường chè. Để công tác nghiên cứu thị trường, tìm kiếm cơ hội xuất khẩu có hiệu quả, cần giải quyết một số vấn đề sau: Thứ nhất: Tổng Công ty cần phải thành lập bộ phận chuyên xử lý các thông tin về thị trường chè, tổ chức lớp học bồi dưỡng để nâng cao năng lực của đội ngũ làm công tác Marketing, cần có chính sách tuyển chọn đội ngũ làm công tác này một cách kỹ lưỡng và hiệu quả, cán bộ làm công tác marketing phải nhạy bén, năng động, biết phân tích các tình huống trên thị trường một cách chính xác để có phương án kinh doanh phù hợp. Thứ hai: Tổng Công ty cần phải thấy rằng các cuộc hội thảo, hội chợ, triển lãm được tổ chức trong nước và quốc tế là những cơ hội tốt cho Tổng Công ty trao đổi thông tin, nắm bắt nhu cầu chào hàng, bán hàng và ký kết hợp đồng. Tổng Công ty cũng cần tranh thủ thu thập thông tin, tiếp xúc với các đối tác, bạn hàng, đối thủ cạnh tranh để chọn cho mình hướng phát triển kinh doanh thích hợp đặc biệt trong việc lựa chọn thị trường và mặt hàng phù hợp với thị trường đó. Khi cần thiết phải nghiên cứu kỹ hơn về một thị trường nào Tổng Công ty có thông tin để cử cán bộ có kinh nghiệm trực tiếp sang các thị trường này để tìm hiểu một cách chính xác hơn. Thứ ba: là thông qua các chi nhánh đại diện ở nước ngoài, Tổng Công ty xúc tiến việc trao đổi tiếp xúc với các bạn hàng tại thị trường đó. Tổng Công ty nên có mối quan hệ tốt với khách hàng, thường xuyên gặp gỡ với khách hàng để lắng nghe ý kiến của khách hàng và có những chiến lược mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Tổng Công ty có thể thành lập thêm nhiều công ty, chi nhánh đại diện khác ở các nước, giúp Tổng Công ty duy trì sự hiện diện của mình trên thị trường quốc tế, quan hệ thường xuyên với các tổ chức, các doanh nghiệp qua đó khuyếch trương hoạt động của mình. Công tác tìm kiếm thông tin và tiếp cận thị trường là hoạt động quan trọng và không thể thực hiện một cách nửa vời. Nó đòi hỏi Tổng Công ty phải nỗ lực và có phương án đầu tư thích đáng thì mới mong đạt kết quả tốt. Nó sẽ giúp cho Tổng Công ty xác định đúng đâu là thị trường cho mình và có biện pháp khai thác hiệu quả thị trường đó. 2.2 Chiến lược marketing. Để làm tốt công tác thị trường, lãnh đạo Tổng Công ty phải thay đổi quan điểm theo hướng marketing hiện đại, đặt nghiên cứu nhu cầu lên hàng đầu, nghiên cứu và dự đoán nhu cầu trước rồi mới sản xuất để thoả mãn nhu cầu đó, nghĩa là luôn phải tâm niệm: “ Bán những gì thị trường cần chứ không phải bán những gì ta có ”. Trong thời gian tới, Tổng Công ty nên yếu tố chức một đội ngũ chuyên gia Marketing thành thạo để xây dựng và thực hiện chiến lược marketing hiệu quả gồm các vấn đề: Về sản phẩm: Thị hiếu tiêu thụ trên các thị trường chè hiện nay rất đa dạng, chủ yếu là các loại chè đóng gói ( chiếm 80% lượng chè tiêu thụ). Người tiêu dùng Mỹ đang ưa chuộng các loại chè ướp lạnh (chiếm 30% tổng nhu cầu) và chè uống liền. ở Indonesia, tỷ lệ chè đóng chai đã tăng 11,7% trong những năm 1991-1995, chiếm 28% thị trường nước giả khát. ở Nhật Bản, chè đóng lon cũng được tiêu thụ với một lượng đáng kể (chiếm 20% và là nhân tố chính làm cho tổng nhu cầu tiêu thụ chè của Nhật Bản tăng)…Ngày nay, trên thế giới đang có xu hướng coi trọng sức khoẻ và bảo vệ môi trường, gắn việc tiêu dùng ( nhất là thực phẩm và đồ uống ) với việc bảo vệ sức khoẻ. Vì vậy, chiến lược phổ biến trong kinh doanh chè hiện nay là đa dạng hoá sản phẩm chè và chú trọng tới các công dụng chữa bệnh của chè. Ngày càng xuất hiện nhiều loại chè thuốc như chè sâm, chè thanh nhiệt, chè giảm cafein, chè dược thảo… Tổng Công ty nên có một chính sách phát triển sản phẩm theo hướng trên và xác định cụ thể: Loại chè nào ta có thể bắt chước? Bắt chước ở mức độ nào? Loại chè nào có thể cải tiến bằng cách ướp hương, thêm một số công dụng hay thay đổi mẫu mã?. Với tiềm năng chất đất, khí hậu và nguồn dược liệu quý, ta có thể nghiên cứu, sáng tạo ra loại sản phẩm mới nào? Trong các cách phát triển sản phẩm này, sáng tạo ra sản phẩm mới là cách tốn chi phí, thời gian, công sức nhất, dễ gặp rủi ro nhất nhưng cũng chính là cách đem lại kết quả khả quan và lâu bền nhất. Đặc biệt trong thời gian này, khi ngành chè có kế hoạch trồng mới chè với nhiều loại giống mới thì khả năng sáng tạo ra sản phẩm mới càng có nhiều cơ hội trở thành hiện thực. Vấn đề bao gói cũng rất quan trọng vì nó là một trong các yếu tố cấu thành nên sản phẩm thực tế. Nhất là bao bì cho đồ ăn uống hàng ngày phải thật đảm bảo các yêu cầu về vệ sinh, tính cân đối và tính tiện dụng. Về vệ sinh, hầu hết các nước đều có những yêu cầu nghiêm ngặt đối với chất lượng bao bì, độ kín, diệt khuẩn…thậm chí ở Nhật, người tiêu dùng sẽ không mua các loại bánh kẹo, hàng nông sản chỉ vì không có giấy chống ẩm. Về tính cân đối, lượng chè đóng gói trong một gói phải được tính toán cho phù hợp với thói quen tiêu dùng ( chỉ vừa đủ pha một ấm, hoặc nếu đóng gói to cũng chỉ nên đủ dùng trong thời gian ngắn vì chè để lâu rất dễ mốc hay mất mùi). Về tính tiện dụng ( sự dễ dàng trong việc sử dụng sản phẩm ), chè có thể được đóng trong các túi lọc để người dùng không phải đổ bã, mép túi chè nên có một đường xẻ nhỏ để dẽ bóc (việc này tưởng nhỏ, không đáng quan tâm, nhưng thực tế đã có rất nhiều người tiêu dùng khó chịu khi phải tìm kéo cắt hay dùng răng cắn túi chè). Về phân phối: Nên thiết lập các chi nhánh ở nước ngoài. Trước mắt nếu chưa đủ điều kiện chỉ cần mở ở mỗi khu vực ( Trung Cận Đông, Nga ) ta đặt một đại diện ở nước có khối lượng giao dịch lớn nhất. Cùng với các đại diện này, có thể mở những phòng trà để giới thiệu về chè và phong tục uống chè của Việt Nam, đồng thời trương biểu quảng cáo và phổ biến các sản phẩm của Tổng Công ty. Khi xuất khẩu chè của Việt Nam phát triển mạnh, sẽ tiến tới mở rộng hệ thống phân phối sang các thị trường để tiến hành phân phối trực tiếp cho các nhà buôn chè ở các thị trường đó. ở các nước có lượng tiêu thụ nhỏ hơn, nên sử dụng các mạng lưới phân phối có sẵn trên thị trường. Tiến dần từ chỗ áp dụng chiến lược phân phối rộng (chỉ cốt xuất khẩu được thật nhiều như hiện nay) tới chỗ áp dụng chiến lược phân phối chọn lọc: chọn một số nhà nhập khẩu có uy tín, giữ quan hệ tốt để đảm bảo được bạn hàng lâu dài và ổn định. Chính sách phân phối phải đảm bảo yêu cầu đưa hàng đến với người tiêu dùng đúng mặt hàng, đúng nơi, đúng lúc với chi phí thấp nhất. Về chiến lược xúc tiến yểm trợ: Nên sử dụng phối hợp chiến lược kéo và chiến lược đẩy. Để kéo khách hàng về phía mình, phải tăng cường hơn nữa các hoạt động tuyên truyền, quảng cáo vì trong kinh doanh không có chuyện “ hữu xạ tự nhiên hương ”. Nguồn tài chính dành cho quảng cáo của ta còn eo hẹp, nên vấn đề đặt ra không phải là quảng cáo nhiều mà là quảng cáo có chất lượng, để lại ấn tượng trong lòng người tiêu dùng. Quảng cáo cho sản phẩm chè phải chú ý các vấn đề sau: Chè là đồ uống chủ yếu phục vụ nhu cầu giải khát của người lớn (thanh niên, trung niên, người cao tuổi). Người mua có thể là chủ các cửa hàng giải khát hay các bà nội trợ. Nên lựa chọn kiểu quảng cáo nghiêm túc, quảng cáo trên báo, trong siêu thị, trong các chương trình truyền hình gia đình hay sử dụng chính các chủ quán giải khát đó. Thị trường của ta phần lớn là các nước Trung Cận Đông, các nước Châu á và SNG vốn là những nước có nền văn hoá khá bảo thủ, nhiều phong tục tập quán riêng, nhiều điều kiêng kỵ. Bởi vậy khi xây dựng nội dung quảng cáo phải rất cẩn thận về hình ảnh, từ ngữ…vì nhiều khi hàng hoá bị tẩy chay chỉ vì quảng cáo có vi phạm nhỏ về văn hoá. Lưu ý nêu bật được những tác dụng tốt cho sức khoẻ mà sản phẩm của ta có thể đánh vào thị hiếu đã phân tích ở trên, gắn hình ảnh chè của ta với hình ảnh thảo dược phương Đông vốn nổi tiếng về tính lành và hiệu quả. Về giá cả: Hiện nay và ngay cả trong thời gian tới, ta ít có điều kiện áp dụng các chính sách giá để cạnh tranh vì một số lý do sau: Thứ nhất, chè không phải là hàng tiêu dùng xa xỉ nên độ co giãn của cầu so với giá là thấp. Hơn nữa, yếu tố cạnh tranh hiện nay là chất lượng chứ không phải là giá cả, trong khi mà chất lượng của ta còn rất hạn chế. Thứ hai, sản lượng sản xuất và xuất khẩu của ta còn rất nhỏ bé so với thế giới, nên ta vẫn phải theo giá của các nước xuất nhập khẩu chủ yếu khác. Thứ ba, năng lực sản xuất của ta còn hạn chế, giá thành sản phẩm còn cao, không cho phép hạ giá để cạnh tranh. Bởi vậy, chính sách giá trước mắt chỉ nhằm định ra được một mức giá hợp lý, thống nhất, kèm theo một phương thức thanh toán thuận lợi, hấp dẫn. 2.3 Về nguồn hàng. Với đặc thù của một doanh nghiệp Nhà nước lớn, lại hoạt động trong một ngành được Nhà nước giao nhiệm vụ góp phần phát triển kinh tế miền núi vùng sâu, vùng xa thì việc tạo nguồn hàng ở Tổng Công ty không chỉ nhằm đảm bảo đủ nguồn hàng xuất khẩu mà còn phát triển được vùng nguyên liệu, phát triển được sản xuất ở các đơn vị thành viên. Quan hệ giữa Tổng Công ty với các nhà cung cấp trong ngành trong thời gian tới là quan hệ hợp tác, hỗ trợ, nên tổ chức quản lý nguồn hàng theo hướng: * Liên kết giữa các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Tổng Công ty đã có những thành công đáng kể trong việc tạo ra các mối liên hệ này trong phạm vi quản lý của mình, nên tiếp tục duy trì và củng cố. Gắn hơn nữa lợi ích của người sản xuất nông nghiệp với lợi ích của người sản xuất công nghiệp và xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu tăng phải kéo theo năng lực sản xuất ở các đơn vị sản xuất tăng và đời sống người trồng chè được cải thiện. Bên cạnh đó, từng bước thống nhất lợi ích giữa các đơn vị của Tổng Công ty và các đơn vị sản xuất khác (ở vùng chè lớn hay trên toàn tỉnh) nhằm loại bỏ yếu tố cạnh tranh không lành mạnh, gây phương hại tới lợi ích chung. Cần gắn sản xuất với thị trường, áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến để dần công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp. Tạo nên sự phối hợp thống nhất từ khâu sản xuất nông nghiệp tới tận khâu lưu thông làm cho sản phẩm luôn được đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng. * Về quan hệ giữa các đơn vị với nguồn nguyên liệu. Ông tổng giám đốc đã ví các doanh nghiệp chè như những “ Nhà nước nhỏ” thực hiện chức năng điều tiết thị trường, phân phối lại thu nhập, tạo động lực cho quá trình xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung. Hiện nay, khi đồi chè đã được giao khoán cho người lao động, họ có quyền thế chấp, chuyển nhượng, thừa kế, do đó sản xuất nguyên liệu phân tán hơn, doanh nghiệp không còn dễ dàng can thiệp vào việc trồng và chăm sóc chè bằng chỉ thị, mệnh lệnh như trước đây nữa. Để có thể thực hiện được vai trò “ Nhà nước nhỏ”, công cụ của các doanh nghiệp bây giờ là một chính sách giá mua nguyên liệu ổn định và có tính cạnh tranh, cùng với những định hướng sản xuất, những hỗ trợ về mặt vốn kỹ thuật…sao cho người trồng chè có thể thu được lợi nhuận cao nhất từ tài sản được giao. Cần tiếp tục các hình thức khoán vườn, đấu thầu đồi chè làm cơ sở tiến hành cổ phần hoá rộng rãi hơn tạo điều kiện để người lao động có đủ thu nhập và có khả năng tăng vốn để góp cổ phần. Với các cơ sở chế biến công nghiệp, có thể áp dụng hình thức khoán sản lượng, khoán chất lượng, đấu thầu thiết bị, hoá giá tài sản, tạo điều kiện cho công nhân mua cỏ phiếu với các ưu đãi như trả chậm, lãi suất thấp. Giải quyết triệt để tình trạng buông lỏng, khoán trắng. Song song với việc cung cấp giống, phân bón cần phải kiểm tra đôn đốc việc thực hiện đúng quy trình canh tác. Phát hiện và xử lý kịp thời các sai phạm, khi cần thiết phải dùng các biện pháp mạnh như thu lại đất chè. Cần khuyến khích phát triển các mô hình trang trại và tiểu trang trại. Có thể tham khảo một số công thức đã có kết quả như (5+10+4 đối với trang trại) và (2+3+5 đối với tiểu trang trại), nghĩa là đối với trang trại thì chè, cà phê, các cây công nghiệp chiếm 5 ha, rừng khoanh nuôi chiếm 10 ha, nuôi 4 loại gia súc; đối với tiểu trang trại các con số tương ứng là 2ha, 3ha, 5 loại gia súc (trâu, bò, lợn dê, hươu ). Xoá bỏ thế độc canh thực hiện đa dạng cây, con, hoa màu để phân tán rủi ro và tạo quần thể sinh thái thích hợp. * Về quan hệ giữa Tổng Công ty và các đơn vị. Các đơn vị thành viên giao hàng cho Tổng Công ty trên cơ sở kế hoạch năm. Nếu giao chỉ tiêu cho các đơn vị không đúng với khả năng của họ và sai sót đó không được phát hiện kịp thời thì việc mua hàng xuất khẩu sẽ dễ rơi vào thế bị động. Vì vậy, để đảm bảo đủ hàng xuất khẩu, Tổng Công ty phải làm tốt công tác lập và giám sát thực hiện kế hoạch trên cơ sở nắm chắc khả năng sản xuất, tiêu thụ của từng mặt hàng và năng lực sản xuất, cung ứng của từng đơn vị. 3. Giải pháp về vốn. Vốn cho sản xuất kinh doanh là bài toán khó đặt ra cho các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu nói riêng. Nhu cầu về vốn đối với Tổng Công ty chè nhằm đáp ứng cho các khâu từ thâm canh trồng mới đến khâu chế biến, theo dự kiến thời kỳ 2001-2010 là 947 tỷ đồng. Bảng 9: Vốn và nguồn vốn đầu tư cho việc phát triển chè của Tổng Công ty chè Việt Nam giai đoạn 2001-2010. Đơn vị: tỷ đồng Vốn đầu tư Thời kỳ 2001-2010 Tổng 553,58 Đầu tư công nghiệp 363,15 Đầu tư nông nghiệp 190,43 Vốn của Tổng Công ty chia ra các nguồn ODA 96 Hợp tác liên doanh 72 Khấu hao cơ bản 45 Các dự án 327; 733 2,75 Vốn huy động của dân và các doanh nghiệp 43,93 Vốn Ngân sách 120 Vốn vay tín dụng và các dự án vùng 173,9 Nguồn: Chương trình phát triển sản xuất kinh doanh 1996-2000 của Tổng Công ty chè Việt Nam. Để có được lượng vốn này, các cấp lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân viên rong Tổng Công ty chè Việt Nam nói riêng và ngành chè nói chung phải năng động phát huy sức mạnh tự chủ, khai thác tận dụng và huy động triệt để nguồn vốn có thể có. Cụ thể là phải: + Mở rộng và phát triển các hình thức liên doanh, liên kết trong sản xuất chế biến tiêu thụ chè, đặc biệt là sử dụng hình thức công ty cổ phần nhằm thu hút các nguồn vốn của nước ngoài, của các ngành và địa phương trong cả nước. Đây là một khả năng to lớn mà ngành chè Việt Nam có thể khai thác và sử dụng. + Huy động các nguồn vốn trong dân thông qua việc giao đất, giao rừng cho dân để người nông dân nâng cao trách nhiệm và lợi ích của mình trong thâm canh, tăng năng suất cây chè. Đây là hình thức huy động vốn có hiệu quả kinh tế cao mà chúng ta cần phải phát huy. + Vay vốn nước ngoài nhất là các khoản vay ưu đãi, có thời hạn trả thuận lợi, vay của các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hành thế giới, Ngân hàng phát triển Châu á, tổ chức Nông nghiệp và Lương thực của Liên Hợp Quốc…để phát triển ngành chè Việt Nam. + Vay từ dự án quốc gia phát triển kinh tế, vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch Nhà nước như đầu tư cho các dự án cải tạo đổi mới công nghệ, thiết bị và đầu tư mới cho sơ chế và chế biến chè, vốn xoá đói giảm nghèo và tạo công ăn việc làm cho người lao động… + Nâng cao chất lượng sản phẩm chè để đạt hiệu quả kinh doanh lớn hơn từ đó tạo điều kiện cho ngành chè tích luỹ vốn để phát triển. Để huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn này, cần phải đầu tư có điều kiện, chỉ đầu tư cho các công trình trọng điểm, có luận chứng kỹ thuật cũng như có quan hệ thúc đẩy sự phát triển sản xuất kinh doanh, trong đó chủ đầu tư phải là Tổng Công ty chè Việt Nam. Chỉ có huy động và sử dụng tối ưu các nguồn vốn trên thị trường Tổng Công ty mới có khả năng đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh, mở rộng xuất khẩu chè trong diều kiện mới. 4. Giải pháp về tổ chức quản lý và công tác cán bộ. Với sự biến động của môi trường kinh doanh hiện nay (cả trong nước và quốc tế ) đòi hỏi Tổng Công ty phải có cấp tổ chức gọn nhẹ, có đội ngũ cán bộ kinh doanh giỏi để nắm bắt thông tin cũng như xử lý linh hoạt trước các biến động của môi trường. 4.1 Tổ chức quản lý. Tiếp tục hoàn thiện và củng cố cơ cấu bộ máy quản lý từ Tổng Công ty đến các đơn vị cơ sở, áp dụng mô hình Tổng Công ty (mẹ) và các công ty thành viên để đảm bảo tinh chế chè xuất khẩu. Đồng thời sắp xếp lại bộ phận của Tổng Công ty theo chức năng phù hợp. Mở rộng việc đa dạng hoá quyền sở hữu đối với một số công ty thuộc Tổng Công ty. Tổ chức các công ty chuyên doanh, kinh doanh các mặt hàng, phân định chức năng của các doanh nghiệp Trung ương và công ty cổ phần trong chế biến xuất nhập khẩu chè. Thành lập các chi nhánh đặc biệt là Miền trung để khai thác nguyên liệu và thị trường. Xây dựng hệ thống quản lý thông tin, dữ liệu trong toàn Tổng Công ty. Bên cạnh đó cần tăng cường sự phối hợp của các cơ quan quản lý ngành (Tổng Công ty chè Việt Nam) với các cơ quan chuyên môn khác như công ty giám định xuất nhập khẩu (Bộ thương mại), trung tâm kiểm tra chất lượng chè (Tổng Công ty chè Việt Nam) để ngăn chặn tình trạng chè không đủ tiêu chuẩn vẫn lọt ra thị trường. 4.2 Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nhằm nâng cao nghiệp vụ kinh doanh cho cán bộ công nhân viên. Trong bất kể thời điểm nào, ngay cả thời đại công nghiệp như hiện nay, yếu tố con người luôn luôn được khẳng định mà không thể loại máy móc nào có thể thay thế được. Xét ngay tại Tổng Công ty điều này càng có ý nghĩa lớn. Cán bộ của Tổng Công ty là một trong những nhân tố không thể thiếu được trong viêc thúc đẩy xuất khẩu của Tổng Công ty. Đào tạo cán bộ đảm bảo rằng Tổng Công ty luôn tiếp cận được với những vấn đề mới, học hỏi được kinh nghiệm từ phía bạn hàng, đối thủ cạnh tranh và cách làm việc của các nước phát triển. Thị trường chè thế giới ngày càng phức tạp, nhu cầu về sản phẩm chè ngày càng đòi hỏi chất lượng cao. Hơn nữa tập quán thương mại, ngôn ngữ giao dịch với các nước ở các thị trường khác nhau. Do đó đòi hỏi người làm công tác xuất khẩu phải hết sức linh hoạt, tinh thông nghiệp vụ ngoại thương, giỏi ngoại ngữ và hiểu biết chuyên môn về ngành chè. Mặt khác nhu cầu nguồn nhân lực của Tổng Công ty đến năm 2010 là rất lớn với kỹ sư nông nghiệp và chế biến khoảng 2000 người, công nhân kỹ thuật 4500 người (cho nhà máy mới) và đào tạo bổ sung cho nhà máy luôn có 3600 người, bồi dưỡng nghiệp vụ 216 người. Ngoài ra công tác tập huấn cho 200.000 người chuyên môn trồng chè cung cấp nguyên liệu cho Tổng Công ty. Như vậy, giải pháp về nguồn nhân lực của Tổng Công ty là cần có chiến lược đào tạo cả cán bộ quản lý và nhân viên thường xuyên có hệ thống về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ phải được nâng lên tương xứng. Với phương thức đào tạo: đa dạng hoá các loại hình đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ cán bộ khoa học kỹ thuật và nghiên cứu khoa học hiện có bao gồm: + Đào tạo tại chỗ. + Cử đi đào tạo tại các trường chuyên ngành. + Mở các khoá huấn luyện ngắn hạn. + Cử các cán bộ thực sự có năng lực đi nghiên cứu sinh ở nước ngoài. + Nâng cao chất lượng đào tạo, đào tạo phải gắn với thực tiễn. Các tỉnh gửi cán bộ đi đào tạo kỹ sư tại các trường đại học, trung học chuyên nghiệp phải có hợp đồng cam kết với doanh nghiệp sau khi tốt nghiệp phải trở lại địa phương công tác. * Đối với cán bộ quản lý: Đội ngũ lãnh đạo của các công ty phải được đào tạo bổ sung về kiến thức quản trị doanh nghiệp nói chung, kiến thức về thị trường, về Marketing… Ngoài các kiến thức về kỹ thuật, cán bộ quản lý cần phải hoàn thiện các kiến thức về kỹ thuật, về máy móc thiết bị, đặc tính của chè nguyên liệu, về quy trình sản xuất, am hiểu về luật pháp, các quy định, chính sách cũng như luật pháp, thông lệ quốc tế. * Đối với lao động trực tiếp: Hàng năm Tổng Công ty cùng các đơn vị thành viên tổ chức các cuộc thi kiểm tra trình độ và nâng bậc thợ cho những người đủ tiêu chuẩn. Các doanh nghiệp cần có kế hoạch đào tạo cụ thể để họ có trình độ chuyên môn phù hợp, nhất là đối với các máy móc thiết bị mới đòi hỏi trình độ kỹ thuật, năng lực vận hành cao. Tổng Công ty có thể tổ chức các lớp học ngắn ngày để hướng dẫn đồng thời giới thiệu những công nghệ mới, phương pháp sản xuất mới. Do quá trình trồng trọt, thu hái cũng ảnh hưởng đến chất lượng chè thành phẩm nên bên cạnh việc đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật cần tổ chức tập huấn kỹ thuật thâm canh, canh tác chè cho nông dân để đảm bảo chất lượng chè tốt đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng của thị trường. Bên cạnh đó Tổng Công ty cần có những khuyến khích về lợi ích thoả đáng cho người theo học các trường trên, để họ yên tâm, dốc lòng, dốc sức cho công việc. Qua đó giúp họ hiểu rõ, nắm chắc sâu sắc nghiệp vụ xuất nhập khẩu, khơi dậy tính tích cực sáng tạo của mỗi cán bộ công nhân viên. Đâu thực sự là cách đầu tư lâu dài tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Tổng Công ty. Nếu đào tạo được đội ngũ cán bộ công nhân viên năng động sáng tạo, nhiệt tình vì công việc, là “người của công việc” thì đó chính là tiền đề để Tổng Công ty phát triển trong nay mai và là nhân tố chính giúp Tổng Công ty đứng vững trên thương trường quốc tế, nắm bắt thông tin kịp thời và tận dụng được mọi cơ hội kinh doanh. III. Một số kiến nghị. 1. Quy hoạch và phát triển vùng chè. Nguồn chè ổn định, phong phú, đa dạng là tiền đề cho xuất khẩu chè đi vào ổn định theo chiều có lợi hơn. Khi có quy hoạch vùng chè công tác thu mua, bảo quản sẽ diễn ra nhanh hơn, thuận lợi hơn, hiệu quả hơn, giảm bớt các chi phí trung gian. Với điều kiện hiện tại có nhiều khó khăn về vốn và các điều kiện cần thiết khác. Tổng Công ty rất khó thực hiện việc quy hoạch các vùng chè trong điểm. Vì vậy mà Nhà nước trực tiếp là Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn cần tạo điều kiện cho Tổng Công ty bố trí quy hoạch các vùng chè cho sản xuất chè xuất khẩu. Hiện nay ở miền Bắc nước ta có trên 30 tỉnh có cây chè. Các nhà máy chè và cơ sở chế biến lớn cũng phần lớn tập trung ở đây. Các tỉnh này đã chiếm 53,4% sản lượng và 63,4% diện tích chè cả nước. Cắn cứ vào đặc điểm sinh thái và địa hình, có thể hình thành 3 loại vùng chè, từ đó có định hướng cho việc đầu tư và cả cho hướng thị trường: - Vùng có độ cao dưới 100 m so với mặt biển vùng này tương đối rộng bao gồm một số huyện thuộc các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Tuyên Quang, Yên Bái, Hoà Bình, các tỉnh Bắc Thái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh. Đây là vùng có điều kiện thuận lợi cho việc trồng chè, tuy nhiên chất lượng chè thấp. Sản lượng chè của vùng này là chè đen xuất khẩu cho vùng Trung Cận Đông ( Iran, Irắc, Gioocdani…) và các nước thuộc khối SNG. Vùng này có khả năng mở rộng diện tích 14-15 ngàn hecta. - Vùng có độ cao 100-1000 m so với mặt biển gồm: Mộc Châu, Sơn La và cao nguyên Lâm Đồng. Đây là vùng nguyên liệu tập trung, có điều kiện sinh thái để trồng các loại chè có chất lượng cao. Sản lượng chè của vùng này là chè đen và chè xanh có giá trị cao. Thị trường xuất khẩu Tâu Âu, vùng này có khả năng mở rộng diện tích từ 8000-10000 hecta. - Vùng có độ cao trên 1000 m gồm: Một số huyện vùng cao ở các tỉnh miền núi phía bắc như Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Lai Châu. Vùng này có đại hình phức tạp nhưng lại thích hợp với loại chè tuyết. Phát triển khai thác vùng chè này để chế biến các loại chè đặc sản nội tiêu và xuất khẩu. Vùng này có khả năng mở rộng diện tích 6000-8000 hecta. Để có được những vùng chè tập trung, với cơ cấu giống hợp lý và hình thành vùng nguyên liệu để chế biến công nghiệp. Chính phủ cũng nên thành lập các doanh nghiệp chuyên làm nhiệm vụ khai hoang- trồng mới chăm sóc chè, các doanh nghiệp này đứng ra vay vốn theo các dự án đã được nhà nước duyệt để trồng chè tập trung và khi các vườn chè đã đi vào kinh doanh thì cho phép bán lại cho các hộ gia đình. Có như vậy, mới đảm bảo được các vùng nguyên liệu chè ổn định, chất lượng đồng đều. Hiện nay, các vùng sản xuất và chế biến chè thành phần lớn tập trung ở các tỉnh trung du và miền núi nên cơ sở hạ tầng như đường sá, bệnh viện, mạng lưới điện… đang còn yếu kém. Do vây, Nhà nước cần có hướng đầu tư để tăng cường cơ sở hạ tầng, trước hết là hệ thống đường sá giao thông, hệ thống điện phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân vùng trồng chè để cải thiện điều kiện sống và làm việc của người trồng chè. Việc quy hoạch, bố trí các vùng nguyên liệu tập trung trọng điểm sẽ giúp cho Tổng Công ty dễ dàng khai thác tiềm năng sẵn có về điều kiện tự nhiên, sinh thái và kinh tế xã hội của mỗi vùng, tạo nên nguồn sản phẩm hàng hoá lớn có khả năng cạnh tranh, đặc biệt đối với nguồn sản phẩm xuất khẩu. 2. Phân công và tổ chức lại ngành chè. Việc Nhà nước thống nhất tổ chức, quản lý xuất khẩu chè vừa dễ dàng kiểm soát từ trên xuống, vừa tránh được sự lũng đoạn thị trường. Kết hợp quản lý theo ngành và theo vùng lãnh thổ trên nguyên tắc phát triển trên phạm vi cả nước đồng thời nhằm làm hợp lý và tạo điều kiện thuận lợi đối với từng đối tượng quản lý. Trên cơ sở có thể dự kiến một phương thức quản lý mới tối ưu với ngành chè với tư cách là một ngành kinh tế kỹ thuật gắn với lợi ích của những địa phương có cây chè. Chè là một hàng hoá đặc thù, vì vậy nên tổ chức theo mô hình vừa đa dạng vừa tập trung hoá. Đa dạng hoá các loại hình kinh doanh thu mua và thu gom nhưng cần tập trung xuất khẩu trực tiếp vào những đầu mối lớn. Có như vậy mới tránh được tình trạng có quá nhiều các đầu mối tham gia xuất khẩu và tránh được sự cạnh tranh lẫn nhau giữa các doanh nghiệp Việt Nam. Cụ thể là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần phải phân công và tổ chức lại ngành chè như sau: Các tỉnh, các địa phương chịu trách nhiệm về sản xuất nông nghiệp và chế biến nhỏ phục vụ nội tiêu là chủ yếu, tổ chức khuyến nông, kiểm tra và hướng dẫn quy trình canh tác. Các doanh nghiệp Trung ương lo thị trường xuất khẩu, chế biến các loại chè xuất khẩu có quy mô lớn với các nhà máy lớn, hiện đại để sản phẩm xuất khẩu luôn giữ vững và nâng cao chất lượng, số lượng như tăng sức cạnh tranh của chè Việt Nam trong khu vực cũng như trên thế giới. Ngoài các đơn vị đã là thành viên của Hiệp hội chè Việt Nam như Tổng Công ty chè Việt Nam, các đơn vị thuộc Tổng Công ty…Nhà nước cần có chính sách để các đơn vị chè địa phương, các công ty xuất nhập khẩu tổng hợp và một số công ty trách nhiệm hữu hạn làm nhiệm vụ xuất khẩu chè tự nguyện tham gia Hiệp hội xuất khẩu chè Việt Nam nhằm đảm bảo sự thống nhất về thị trường và giá cả xuất khẩu, tránh sự giảm giá hàng xuất khẩu để dành dật khách hàng nước ngoài cũng như cạnh tranh mua hàng trong nước để xuất khẩu. 3. Cần hoàn thiện một số chính sách. 3.1 Chính sách đầu tư. Để giảm bớt gánh nặng công ích cho các doanh nghiệp chè ở trung du, miền núi, Nhà nước nên tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và công trình phúc lợi. Trước mắt, tập trung vào các nhu cầu bức thiết nhất: đường điện, giao thông, thuỷ lợi (hệ thống đập hồ giữ nước, hệ thống tưới tự chảy) cho vùng chè nguyên liệu. Nhiều nhà máy đã có dự án làm đường, tười nước cho chè…nhưng vẫn chưa có vốn để biến các dự án đó thành hiện thực. Cần tiếp tục thực hiện các chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài đầu tư vào vùng sâu, vùng xa. Nếu chưa đủ tác dụng, có thể thực hiện thêm một số ưu đãi như trợ giá, trợ cước… để tạo cú “huých” ban đầu. Riêng đối với đầu tư nước ngoài, nên khoanh vùng ưu tiên cung cấp nguyên liệu cho các doanh nghiệp liên doanh và dần dần áp dụng các chế độ bình đẳng như các doanh nghiệp trong nước để họ yên tâm đầu tư vào vùng nguyên liệu. 3.2 Chính sách tín dụng. Chè là mặt hàng xuất khẩu có giá trị và mang lại hiệu quả xã hội cao nhưng người làm chè vẫn còn nghèo và gặp nhiều khó khăn về vốn. Vì vậy, Nhà nước cần có chính sách tín dụng thích hợp để hỗ trợ vốn và tạo điều kiện thuận lợi cho họ. Như đã nêu trên, nhu cầu vốn đầu tư cho cả hệ công nghiệp và nông nghiệp trong thời gian tới để đạt được các mục tiêu đề ra cho năm 2000-2010 là rất lớn. Để đáp ứng nhu cầu này, Nhà nước nên có chính sách cho vay vốn cụ thể như sau: Đối với nông nghiệp: Cho vay vốn thâm canh chè trong 12 tháng với định mức 3 triệu đồng/ha, cho vay cải tạo vườn chè trong 3 năm với lãi suất 5,4%/năm. Cho vay trồng mới chè theo thời hạn là 15 năm, lãi suất 3%/năm, ân hạn trong 3 năm đầu ( không phải trả lãi vì đây là giai đoạn kiến thiết cơ bản của cây chè ), từ năm thứ 4 trở đi, doanh nghiệp hoặc hộ gia đình có nghĩa vụ hoàn trả cả gốc lẫn lãi đều trong 11 năm, định mức vay 35 triệu đồng/ha. Nên dùng hình thức cho vay lồng ghép nhiều chương trình để các doanh nghiệp kết hợp giảm lãi suất vay như kết hợp lồng ghép chương trình cai nghiện, chương trình xoá đói giảm nghèo…Đồng thời khi xây dựng các chương trình này, Nhà nước cần quan tâm tới thời hạn vay khả thi chứ không phải chú trọng tới lãi suất. Vì trên thực tế đã có những nguồn vốn với lãi suất rất ưu đãi nhưng thời gian cho vay lại quá ngắn không kịp tạo nguồn trả nợ. Ví dụ chương trình 327/CT cho vay trồng chè định mức hỗ trợ 2,5 triệu đồng/ha, không có lãi suất, cực kỳ ưu đãi, nhưng thời hạn vay chỉ có 3 năm nên dân nghèo khó thực hiện vì thời hạn vay quá ngắn. Đối với công nghiệp: Cho vay vốn ODA một cách rộng rãi hơn để đổi mới thiết bị công nghệ, xây dựng nhà máy mới có công nghệ hiện đại và đồng bộ ngay từ đầu. Cho vay trong vòng 15 năm, ân hạn 4 năm đầu, hoàn trả vốn và lãi phát sinh trong 7 năm tiếp theo với lãi suất 2%/năm. 3.3 Chính sách tài chính. * Thuế: Miễn thuế sử dụng đất trong 5 năm cho các diện tích chè cải tạo và 12 năm cho các diện tích chè trồng mới nêú đất dốc từ 7 độ trở lên. Miễn thu 100% thuế nhập khẩu với thiết bị máy móc chế biến chè và phụ tùng đặc chủng của các máy móc này trong khoảng 5 năm để tạo điều kiện hiện đại hoá ngành chè. Những sản phẩm mới nhờ kinh doanh đa dạng mà có sẽ được miễn các loại thuế trong 5 năm đầu, kể từ khi được thương mại hoá, để khuyến khích việc nghiên cứu và khai thác mặt hàng mới, bổ sung vốn cho kinh doanh chè. Chỉ nên thu thuế thu nhập doanh nghiệp của các nhà sản xuất chè 15% thay vì 35% như hiện nay. Phần lợi nhuận vượt kế hoạch Nhà nước giao được giữ lại 100% để bổ sung cho quỹ phát triển sản xuất và quỹ khen thưởng phúc lợi. * Trích lập quỹ: Nhà nước cho phép sử dụng các khoản thu từ thanh lý tài sản cố định để bổ sung quỹ phát triển sản xuất và quỹ phát triển ngoại thương. Cho thành lập riêng quỹ bình ổn giá để ổn định giá mua chè búp tươi cho nông dân, giữ cho giá này luôn tương đương với giá thóc. Quỹ này còn dùng để dự trữ một lượng chè hợp lý nhằm giữ giá chè xuất khẩu. Để hình thành quỹ, các hộ gia đình và các doanh nghiệp sẽ góp một khoản tương đương 5% giá thành coi như chi phí và được hạch toán đưa vào giá thành. Nhà nước sẽ hỗ trợ một phần bằng cách chi ngân sách và cho trích lại khoảng 5% trị giá các hợp đồng trả nợ bằng chè của Chính phủ (khi ký được giá xuất khẩu cao). 3.4 Chính sách với con người. Nhà nước cần quan tâm hơn nữa tới phúc lợi công cộng ở miền núi như giáo dục, y tế…và các chế độ chính sách đối với giáo viên, cán bộ y tế… ở các nông trường, xí nghiệp chè. Từng bước đầu tư thêm hạ tầng cơ sở phục vụ sinh hoạt cho cán bộ công nhân và từng người dân ở các vùng chè như trường học, bệnh viện, công viên, nhà văn hoá… Nhà nước cần hỗ trợ tài chính cho việc đào tạo các cán bộ quản lý, kỹ thuật làm việc tại các vườn chè. Có chính sách ưu đãi cho đội ngũ cán bộ, sinh viên đến công tác tại các vùng chè như ưu tiên các chế độ và hưởng hệ số lương cao hơn so với cấp bậc và chức vụ tương đương ở đồng bằng thành phố. 3.5 Quản lý chất lượng cấp Nhà nước. Hiện nay chưa có tổ chức nào chịu trách nhiệm trước Nhà nước về quản lý chất lượng chè xuất khẩu. Việc cấp chứng nhận chất lượng chè xuất khẩu còn nhiều kẽ hở, sản phẩm chất lượng kém, xấu vẫn được đưa ra thị trường làm giảm uy tín chè Việt Nam. Vì vậy, cần thống nhất quản lý chất lượng chè cấp Nhà nước như sau: Giao cho Hiệp hội chè Việt Nam tư cách quản lý là người đại diện hợp pháp của những người làm chè cùng với cơ quan Nhà nước quản lý chất lượng chè xuất khẩu. Hiệp hội chè sẽ phối hợp với Tổng cục đo lường chất lượng và các bộ phận chất lượng ở các đơn vị để làm tốt nhiệm vụ của mình. Ban hành và thống nhất tiêu chuẩn một nhà máy chế biến chè làm cơ sở cho các ngành, các cấp trong việc cấp giấy phép thành lập xí nghiệp. Ban hành tiêu chuẩn hoá về giống và xác định trồng ở vùng nào với cơ cấu nào là thích hợp. Thực hiện thanh tra và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy định về chất lượng chè xuất khẩu, kiên quyết không thông qua những lô hàng xuất khẩu kém chất lượng. 4. Một số vấn đề khác liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu. Đề nghị Chính phủ cho sứ quán, cơ quan đại diện thương mại của Việt Nam ở các nước có sản xuất kinh doanh chè thu thập các thông tin về kinh tế, kỹ thuật, về thị trường, tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý của các doanh nghiệp kinh doanh chè tiên tiến, để từ đó hỗ trợ cho Tổng công ty chè Việt Nam và các doanh nghiệp chè khác phát triển có hiệu quả hơn. * Tăng cường vai trò của các đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài. Trong lĩnh vực này nên học tập kinh nghiệm của một số nước như Nhật Bản, Mỹ…hàng hoá của họ có thể thâm nhập và cạnh tranh ở hầu hết các thị trường trên thế giới không chỉ nhờ yếu tố chất lượng mà còn do nhiều yếu tố khác, trong đó không thể không kể đến mạng lưới cơ quan kinh tế - thương mại ở nước ngoài quan tâm và hoạt động cực kỳ có hiệu quả. Đặc biệt là thu thập thông tin về thị trường các nước đối tác, về điều kiện buôn bán, về phong tục tập quán, cách thức làm ăn của các công ty có khả năng hợp tác để lập một ngân hàng dữ liệu thông tin. Đại diện thương mại ở nước ngoài còn giúp đỡ các nhà xuất khẩu mở chi nhánh ở nước ngoài, lập chương trình cho các đoàn đàm phán xuất khẩu gặp gỡ các bạn hàng tiềm năng, các cơ quan xúc tiến thương mại ở các nước sở tại. Thậm chí với các bạn hàng lớn có nhiều cơ hội hợp tác, đại diện thương mại có thể tổ chức cho họ những chuyến tham quan nước mình để tận mắt tìm hiểu và phát triển quan hệ thương mại. Nói như vậy không có nghĩa là các đại diện thương mại của ta cũng phải thực hiện đầy đủ từng ấy chức năng, bởi vì nếu so với Nhật Bản, Mỹ…thì ta còn quá ít kinh nghiệm về thương mại quốc tế và thua xa về tiềm lực kinh tế. Tuy vậy, các đại diện thương mại của ta không thể chỉ thực hiện mãi các nhiệm vụ chung chung như hiện nay. Để các đại diện thương mại thực sự vào cuộc, Nhà nước cần có các biện pháp: + Cử các cán bộ thực sự có trình độ về kinh tế và nhanh nhẹn trong việc nắm bắt thông tin thị trường, có thể xem xét lựa chọn một số nhà xuất khẩu có kinh nghiệm trên cơ sở thi tuyển chứ không phải theo chế độ bổ nhiệm như hiện nay. + ở các khu vực kinh doanh lớn có thể thành lập riêng phòng đại diện thương mại, không nhất thiết phải gắn liền với cơ quan đại diện ngoại giao. + Định kỳ, Bộ Thương mại tiến hành đánh giá hoạt động của các cơ quan, nếu thị trường nào không đạt tiêu chuẩn thì đại diện thương mại ở đó sẽ phải chịu trách nhiệm, trước hết là giải thích lý do và đề xuất các biện pháp phấn đấu đẩy mạnh xuất khẩu để đạt chỉ tiêu. Đề nghị Chính phủ hỗ trợ về tài chính và cho phép Tổng công ty chè Việt Nam sớm thành lập các công ty con hoặc các chi nhánh của mình tại các nước có nhu cầu nhập khẩu chè lớn, trước hết tại Liên Bang Nga. Công ty con sẽ nhập khẩu chè của Tổng công ty dưới dạng thành phẩm và tổ chức hệ thống các kênh phân phối trực tiếp, hoặc nhập khẩu nguyên liệu, tổ chức đóng gói tại chỗ và tiêu thụ với sản phẩm có thương hiệu riêng của mình. * Phối hợp với các biện pháp tài chính, tín dụng để hỗ trợ xuất khẩu: Các biện pháp như bảo đảm tín dụng xuất khẩu, cấp tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu, công cụ tỷ giá hối đoái, các chính sách miễn giảm thuế. Từ trước đến nay, Nhà nước ta chỉ tập trung vào các biện pháp hỗ trợ nhà xuất khẩu trong nước, tức là hỗ trợ người bán. Nhưng theo các nhà kinh tế thì biện pháp khuyến khích người tiêu dùng, ở đây là các nhà nhập khẩu bao giờ cũng có tác dung hơn. Và trên thức tế, đẫ có nhiều nước áp dụng hình thức này mà cho vay vốn ODA giữa các quốc gia chính là một ví dụ. Trong điều kiện ngoại thương và vận tải đường biển của ta phát triển chưa mạnh, việc khuyến khích trực tiếp các doanh nghiệp nước ngoài nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam là con đường ngắn và hiệu quả nhất. Có thể lập quỹ bảo lãnh xuất khẩu và cho phép doanh nghiệp Việt Nam bán hàng theo phương thức trả chậm với lãi suất ưu đãi.. * Cải thiện công tác hải quan Nếu chúng ta khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất thật nhiều hàng xuất khẩu bằng cách tạo ra thật nhiều ưu đãi nhưng lại làm không tốt công tác hải quan, để hàng mắc lại tại cửa khẩu thì khác nào việc cố đổ gạo ra khỏi bao nhưng lại thắt chặt miệng bao. Vì vậy, để khuyến khích xuất khẩu theo đúng nghĩa, cần có một số thay đổi trong lĩnh vực hải quan như: Đơn giản hoá các chứng từ và thủ tục xuất khẩu. Ban hành văn bản quy định chi tiết các chứng từ và thủ tục này để tránh việc nhân viên hải quan lợi dụng những thiếu sót nhỏ để sách nhiễu doanh nghiệp. Dựa vào ý kiến phản ánh của các doanh nghiệp, tiến hành thanh tra và kiên quyết xử lý các trường hợp tiêu cực. * Đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động văn hoá trà Hoạt động văn hoá trà là sự thống nhất của văn minh vật chất và văn minh tinh thần. ở những nước có truyền thống dùng trà từ lâu người ta coi uống trà không chỉ là để giải khát mà còn để tu thân tĩnh dưỡng, nâng cao tinh thần, có cơ hội cho tư duy và tập luyện. Các bậc nho giã sỹ của Việt Nam xưa và nay coi ý nghĩa tinh thần của uống trà còn hơn cả ý nghĩa vật chất. Văn hoá trà gần đây cũng được chú ý tới, song các chương trình hình thức và nội dung hoạt động chưa phong phú hấp dẫn chưa thể hiện khía cạnh văn hoá nghệ thuật và chưa trở thành nhu cầu rộng rãi của nhiều người uống chè. Vì vậy, đã đến lúc chúng ta phải suy nghĩ đến việc hình thành và tạo ra một nét văn hoá trà có đặc thù Việt Nam, của người Việt Nam. Cuối cùng: để tạo động lực mới trên cơ sở quan hệ sản xuất phù hợp tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất. Để thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển đặc biệt là mở rộng thị trường, kiến nghị Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức sản xuất (nông nghiệp, công nghiệp, tiêu thụ) và tổ chức quản lý của Tổng công ty, tiến hành từng bước để cổ phần hoá Tổng công ty chè Việt Nam. Kết luận Chè là đồ uống phổ biến ở nước ta cũng như nhiều nước khác trên thế giới. Trong điều kiện của nền sản xuất hàng hoá như hiện nay, để phát triển sản xuất và xuất khẩu chè thì cần phải giải quyết nhiều vấn đề, trong đó vấn đề thị trường - nhất là thị trường xuất khẩu được xem là nhân tố quyết định. Đề tài “ Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu chè tại Tổng Công ty chè Việt Nam giai đoạn 2001-2005 ” đã tập trung phân tích và làm rõ thực trạng xuất khẩu chè của Tổng Công ty trong thời gian gần đây. Đặc biết đề tài đã rút ra những thành tựu cũng như những tồn tại của Tổng Công ty trong xuất khẩu chè và những nguyên nhân của nó. Trong lịch sử phát triển của ngành chè Việt Nam, sự phát triển nhanh chóng của ngành này đang có một vai trò quan trọng và trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân. Bởi vậy, củng cố thị trường và mở rộng thị trường xuất khẩu chè nằm trong chiến lược phát triển ngành chè nói chung, được coi như là chiến lược phát triển ngành chè Việt Nam. Do vậy, đề tài cũng nghiên cứu, đánh giá triển vọng thị trường chè thế giới nói chung và triển vọng chè xuất khẩu của Việt Nam trong tương lai từ đó đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy xuất khẩu chè của Việt Nam trong thời gian tới. Qua đề tài này, trước hết tôi mong muốn sẽ giúp chính bản thân tổng hợp được những kiến thức đã được học trong những năm qua, tích luỹ được một số kinh nghiệm thực tế và tôi mong rằng chuyên đề này của mình sẽ đóng góp một phần nào đó trong việc giải quyết những vướng mắc, tồn tại trong hoạt động xuất khẩu ở Tổng công ty chè Việt Nam để những năm tới Tổng Công ty chè Việt Nam sẽ có những khởi sắc, đặc biệt đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu chè của Việt Nam theo kịp với tiến trình hội nhập của nền kinh tế thế giới. Mặc dù đã có nhiều cố gắng tìm hiểu thực tế, nghiên cứu tài liệu và tham khảo ý kiến về tình hình xuất khẩu của Tổng công ty chè Việt Nam song do thời gian và khả năng có hạn nên chắc chắn bài viết sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Tôi mong vấn đề này sẽ được tập trung nghiên cứu ở góc độ sâu hơn trong những báo cáo chuyên đề khác, nhằm tiếp tục đưa Tổng công ty hoạt động có hiệu quả hơn. Sinh viên Nguyễn Thị Minh Tú Phụ lục Tổng công ty chè Việt Nam có: + 15 đơn vị thành viên: Công ty chè Yên Bái (Thị xã Yên Bái, Yên Bái) Công ty chè Thái Nguyên (Thái Nguyên) Công ty chè Sông Cầu (Huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên) Công ty chè Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) Công ty chè Hà Tĩnh (Hà Tĩnh) Công ty chè Mộc Châu (Huyện Mộc Châu, Sơn La) Công ty chè Long Phú (Huyện Lương Sơn, Hoà Bình) Công ty chè Hà Nội (Hà Nội) Công ty Xây lắp Vật tư kỹ thuật (46 Tăng Bạt Hổ, Hà Nội) Công ty chè Sài Gòn (Quận Tân Bình, Tp Hồ Chí Minh) Công ty chè Hải Phòng (Quận Ngô Quyền, Hải Phòng) Công ty chè Đoan Hùng (Huyện Đoan Hùng, Phú Thọ) Viện nghiên cứu chè (Huyện Thanh Ba, Vĩnh Phúc) Viện điều dưỡng Đồ Sơn (Thị xã Đồ Sơn, Hải Phòng) Trung tâm công nghệ và KCS (Thanh Nhàn, Hai Bà Trưng, Hà Nội) + 6 công ty cổ phần: Công ty chè cổ phần Trần Phú (Xã Cát Thịnh, Văn Chấn, Yên Bái) Công ty chè cổ phần Nghĩa Lộ (Xã Phù Nham, Văn Chấn, Yên Bái) Công ty chè cổ phần Liên Sơn ( Huyện Văn Chấn, Yên Bái) Công ty chè cổ phần Quân Chu (Huyện Đại Từ, Thái Nguyên) Công ty chè cổ phần Kim Anh (Huyện Sóc Sơn, Hà Nội) Công ty cổ phần Cơ khí chè (Huyện Thanh Ba, Vĩnh Phúc) + 2 Công ty liên doanh: Liên doanh Phú Bền (liên doanh với Bỉ) – Huyện Thanh Ba, Vĩnh Phúc Liên doanh Phú Đa (liên doanh với irắc) – Huyện Thanh Sơn, Vĩnh Phúc Tài liệu tham khảo Giáo trình thương mại quốc tế - Đại học kinh tế quốc dân. Lý luận và thực tiễn thương mại quốc tế - Đại học kinh tế quốc dân. Giáo trình kinh tế thương mại – Trường Đại học KTQD – PGS.TS Đặng Đình Hảo, PGS.TS Hoàng Đức Thân- NXB Thống kê (2001). Kinh tế học lý thuyết và chính sách- Paul R.Krucman Maurice Obstfel, NXB chính trị quốc gia (1996). Cây chè Việt Nam - Đỗ Ngọc Quỹ; Nguyễn Kim Phong- NXB Nông nghiệp (1997). Chè và công dụng - Đặng Thanh Khôi, NXB Khoa học và kỹ thuật 1983. Tạp chí nông nghiệp và phát triển nông thôn năm 1999, 2000, 2001. Báo thương mại năm 2000, 2001, 2002. Báo người làm chè – Hiệp hội chè Việt Nam. Báo đầu tư. Đề án đổi mới và phát triển Tổng công ty chè Việt Nam giai đoạn 2000- 2005. Kế hoạch sản xuất chè 1999- 2000 và chương trình phát triển đến 2005- 2010. Các báo cáo tình hình sản xuất, xuất khẩu chè của Tổng công ty chè Việt Nam năm 1996, 1997, 1998. 1999. 2000, 2001 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 43/1999/QĐ- TTg. Quyết định của Bộ trưởng Bộ NN và PTNT số 394 NN- TCCB/QĐ. Tin thị trường số 5, 14, 16 năm 2000. Trần Tông Mâu, Trung Quốc- Xu hướng tiêu thụ mới trên thị trường chè và tiến bộ kỹ thuật về công nghệ chè. Hội thảo chè thế giới Bắc Kinh, 1996 Hoàng Mạnh Thuấn- Đổi mới quản lý chất lượng sản phẩm trong thời kỳ mới- NXB Khoa học và Kỹ thuật- Hà Nội 1997. Trần Xuân Kiên- Chìa khoá để nâng cao năng lực tiếp thị và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam- NXB Thống Kê- Hà Nội 1998. Mục lục Lời mở đầu………………….……………………………………………………………………...1 Kết luận---------------------------------------------------------------------------------------------.94 Phụ lục-----------------------------------------------------------------------------------------------96 TàI liệu tham khảo----------------------------------------------------------------------------.97

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29899.doc
Tài liệu liên quan