Rủi ro luôn tiềm ẩn trong mọi hoạt động của cuộc sống hàng ngày của con người; nó là những tình huống bất trắc xảy ra mà người ta không lường hết được dẫn đến tổn thất. Và trong hoạt động tín dụng thì nguy cơ không thu được nợ, xác suất khách hàng không trả nợ gốc và lãi vay khi đến hạn là luôn tồn tại. Để có thể phòng ngừa và giảm thiểu nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng thì, mỗi cán bộ tín dụng cần phải quán triệt và thực hiện đúng những chủ trương, chính sách tín dụng của mỗi ngân hàng; thực hiện đúng và đầy đủ quy trình nghiệp vụ tín dụng; thường xuyên nâng cao trình độ nghiệp vụ, đạo đức.
Trên cơ sở những nghiên cứu cơ bản về rủi ro tín dụng và qua quá trình tìm hiểu hoạt động tín dụng cũng như thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, cũng những phân tích về diễn biến hoạt động tín dụng trong những năm gần đây, luận văn đã đưa ra một số giải pháp cũng như kiến nghị nhằm hạn chế phần nào rủi ro tín dụng.
Để có thể giải thích sự vật hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội thì cần phải hiểu được nguyên nhân của nó để từ đó có những giải pháp, biện pháp giải quyết thích hợp. Tuy nhiên, mặc dù đã hết sức cố gắng để hoàn thành được đề tài, nhưng vì trình độ hiểu biết còn nhiều hạn chế nên không thể tránh khỏi những sai sót và khiếm khuyết. Do đó, em rất mong được sự quan tâm và góp ý của quí thầy cô.
72 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1260 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chủ yếu vì phần lớn loại này là do đối tác của khách hàng chậm thanh toán. Nhưng tỷ trọng nợ quá hạn từ 6 đến 12 tháng trong tổng nợ quá hạn năm 2003 là hơi cao bởi loại này thường chứa đựng nhiều nguy cơ mất vốn hơn. Tuy nhiên, năm 2004, mặc dù tổng dư nợ cao hơn nhưng nợ quá hạn lại giảm xuống còn 27,3 tỷ. Trong đó, nợ quá hạn dưới 6 tháng chiếm 55,6%, tương đương với 15,2 tỷ; giảm 2,3 tỷ so với năm 2003. Nợ quá hạn từ 6 đến 12 tháng cũng chỉ còn 10 tỷ, chiếm 36,6% tổng nợ quá hạn, giảm 7,4 tỷ so với năm 2003. Nhưng nợ quá hạn trên 12 tháng lại tăng 0,6 tỷ, tương ứng với 2,1 tỷ năm 2004. Điều này có thể giải thích là do khoản nợ quá hạn từ 6 đến 12 tháng của năm trước tiếp tục quá hạn và bị chuyển sang nhóm này. Để đo lường thực trạng rủi ro tín dụng một cách tổng thể, các ngân hàng sử dụng tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ. Theo đó, tỷ lệ này năm 2003 là 1,3% và năm 2004 là 0,87%. Đối với các ngân hàng khác cùng thời kỳ, tỷ lệ này ở mức 3 đến 5% là tốt. Như vậy, dựa vào đó có thể kết luận rằng mức độ rủi ro tín dụng xảy ra tại ngân hàng nông nghiệp Hà Nội như vậy là thấp.
Bảng 4: Phân loại nợ quá hạn năm 2003 - 2004
Đơn vị tính: tỷ đồng
Năm
2003
2004
04 so với 03
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Tổng nợ quá hạn
36,4
100
27,3
100
-9,1
25
Nợ quá hạn dưới 6 tháng
17,5
48
15,2
55,6
-2,3
-13,1
Nợ quá hạn từ 6 đến 12 tháng
17,4
47,8
10
36,6
-7,4
-42,5
Nợ quá hạn trên 12 tháng
1,5
4,2
2,1
7,8
0,6
40
Nợ quá hạn/Dư nợ
1,3%
0,87%
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội)
Bảng 5: Phân loại nợ quá hạn năm 2005
Đơn vị tính: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Số tiền
Tỷ trọng
Tổng nợ quá hạn
738
100
Nợ cần chú ý (nhóm 2)
644,5
87,3
Nợ dưới tiêu chuẩn(nhóm 3)
46,1
6,3
Nợ nghi ngờ(nhóm 4)
10,5
1,4
Nợ có khả năng mất vốn ( nhóm 5)
36,9
5
Nợ xấu(nhóm 3- nhóm 5)/ Dư nợ
3,48%
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội)
Tuy nhiên, cách phân loại nợ như năm 2003-2004 chưa cho thấy được mức độ rủi ro của các khoản vay còn trong hạn. Bởi vì nếu khách hàng xin gia hạn nợ hoặc đảo nợ thì tổng dư nợ của ngân hàng vẫn tăng lên dẫn đến tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ giảm đi, ngân hàng sẽ không kịp có những biện pháp hạn chế và xử lý rủi ro tín dụng. Năm 2005, ngân hàng phân loại nợ theo quy định 493/2005/QĐ - NHNN nên những vấn đề trên đã được giải quyết. Theo quy định này, nợ quá hạn được phân thành 4 nhóm ( nhóm 2 đến nhóm 5) và trong mỗi nhóm không chỉ bao gồm nợ quá hạn mà còn có những khoản nợ cơ cấu lại kỳ hạn hay trong hạn nhưng bị đánh giá là tiềm ẩn rủi ro. Nhìn vào bảng, ta thấy rằng nợ quá hạn và nợ cơ cấu lại năm 2005 là 738 tỷ nhưng chiếm chủ yếu trong đó là nợ cần chú ý 644,5 tỷ, chiếm tỷ trọng 87,3%. Loại nợ này chiếm tỷ trọng lớn nhưng chưa đáng lo ngại vì phần lớn là do khách hàng chậm nhận tiền hàng. Nhóm nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn chiếm tỷ trọng lần lượt là 6,3%, 1,4% và 5%. Trong đó, ta thấy nợ có khả năng mất vốnlà 36,9 tỷ – không quá cao so với quy mô dư nợ của ngân hàng. Ba nhóm nợ này được gọi là nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ được dùng để đo lường mức độ rủi ro tín dụng tại ngân hàng. Năm 2005, tỷ lệ này tại ngân hàng nông nghiệp Hà Nội là 3,48%. Ngân hàng có thể dựa vào tỷ lệ này để có những giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng.
Để quản lý những khoản nợ có vấn đề và biện pháp hiệu quả hạn chế rủi ro tín dụng, ngân hàng còn phân loại nợ quá hạn theo thời hạn cho vay và theo thành phần kinh tế.
- Theo thời hạn cho vay: nợ quá hạn được phân thành ngắn, trung và dài hạn. Riêng năm 2005, ngân hàng thường theo dõi những khoản nợ xấu để tránh nguy cơ xảy ra rủi ro.
Bảng 6: Phân loại nợ quá hạn 2003 – 2004 và nợ xấu 2005 theo thời hạn
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
Chỉ tiêu
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Nợ quá hạn
36,4
100
27,3
100
93,5
100
Nợ xấu(NX)
NQH ngắn hạn
33,5
92
16,3
59,7
67,1
71,4
NX ngắn hạn
NQH trung hạn
2,9
8
5,8
21,2
14,2
15,3
NX trung hạn
NQH dài hạn
0
0
5,2
19,1
12,2
13,3
NX dài hạn
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội)
Từ biểu trên, ta có thể thấy rằng nợ quá hạn năm 2004 giảm so với 2003 nhưng cơ cấu của từng loại theo thời hạn lại biến động khác nhau. Năm 2003, nợ quá hạn ngắn hạn chiếm tỷ trọng rất lớn 92%, tương đương với 33,5 tỷ. Sang năm 2004, con số này giảm chỉ còn 16,3 tỷ, chiếm tỷ trọng 59,7% mặc dù dư nợ tăng. Trong khi đó, nợ quá hạn trung hạn năm 2004 lại ở mức 5,8 tỷ; tăng gấp đôi so với năm 2003 và chiếm tỷ trọng 21,2% so với tổng nợ quá hạn. Cũng như vậy, nợ quá hạn dài hạn năm 2003 không có nhưng đến năm 2004 đã tăng lên đến 5,2 tỷ, tương đương với 19,1% tổng nợ quá hạn. Phần lớn các khách hàng có dư nợ trung và dài hạn tại ngân hàng đều là những công ty lớn, tổng công ty làm ăn hiệu quả. Do đó việc phát sinh nợ quá hạn trung và dài hạn thường là không cao nên việc tăng nợ quá hạn trung và dài hạn năm 2004 cũng là một điểm đáng lưu ý. Riêng năm 2005, nợ xấu là 93,5 tỷ. Trong đó, nợ xấu ngắn hạn chiếm đến 71,4%, tương đương với 67,1 tỷ. Tỷ trọng nợ xấu ngắn hạn như vậy là rất cao, ngân hàng cần tìm hiểu kỹ nguyên nhân để giảm bớt tỷ lệ này trong thời gian tới. Nợ xấu trung và dài hạn lần lượt ở mức 14,2 và 12,2 tỷ.
- Theo thành phần kinh tế: nợ quá hạn và nợ xấu được chia theo thành phần kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh.
Bảng 7: Phân loại nợ quá hạn 2003 – 2004 và nợ xấu 2005 theo TPKT
Đơn vị tính: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
Chỉ tiêu
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Nợ quá hạn
36,4
100
27,3
100
93,5
100
Nợ xấu
NQH quốc doanh
19,9
54,7
19,1
69,9
44,9
48,2
NX quốc doanh
NQH ngoài quốc doanh
16,5
45,4
8,2
30,1
48,6
51,8
NX ngoài quốc doanh
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội)
Như đã phân tích trong hoạt động tín dụng của ngân hàng, năm 2003 dư nợ thành phần kinh tế quốc doanh chiếm tỷ trọng 55,9%. Qua bảng trên, ta thấy tỷ trọng nợ quá hạn của thành phần kinh tế này là 19,9 tỷ, chiếm 54,7% tổng nợ quá hạn – như vậy là tương đối cân bằng với dư nợ. Đến năm 2004, nợ quá hạn của thành phần kinh tế quốc doanh đã giảm xuống còn 19,1 tỷ nhưng vẫn chiếm 69,9% tổng nợ quá hạn trong khi dư nợ lại tăng so với năm 2003. Đó là do trước đây nhiều doanh nghiệp nhà nước kém về năng lực, trình độ kinh doanh nhưng vẫn được tạo điều kiện được vay vốn và không có khả năng trả nợ ngân hàng. Để giảm tình trạng này, năm 2005, ngân hàng đã tiến hành thắt chặt tín dụng với các thành phần kinh tế quốc doanh nên dư nợ chỉ còn 36,1%. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu của thành phần kinh tế này chiếm 48,2%, tương ứng với 44,9 tỷ. Nợ xấu của thành phần kinh tế quốc doanh tăng cao là do các khoản nợ được xếp loại theo quy định mới, phản ánh đúng rủi ro .
Đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, nợ quá hạn lại diễn biến ngược lại so với thành phần kinh tế quốc doanh. Trong khi ngân hàng mở rộng cho vay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh dẫn đến dư nợ tăng thì tỷ trọng nợ quá hạn lại giảm. Năm 2003, nợ quá hạn của thành phần này chiếm 45,4% ; tương ứng với 16,5 tỷ thì năm 2004 chỉ còn 8,2 tỷ nợ quá hạn, tương ứng với 30,1%. Mặc dù năm 2005, nợ xấu của kinh tế ngoài quốc doanh chiếm 51,8%, tương ứng với 48,6 tỷ nhưng so sánh với 63,9% tổng dư nợ thì chất lượng tín dụng của khu vực này vẫn được đánh giá cao hơn khu vực quốc doanh. Nhưng số các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng trưởng ngày một nhanh, quy mô nhỏ, vốn lại ít, không có các tài sản thế chấp nên tiềm ẩn rủi ro cao. Do vậy, ngân hàng cũng nên thận trọng khi ra quyết định cho vay.
2.3. Đánh giá rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp Hà Nội
2.3.1. Những kết quả đạt được
Trong những năm qua, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội đã có nhiều cố gắng trong công tác tín dụng. Do vậy, chất lượng tín dụng đã được cải thiện rõ rệt theo mỗi năm. Năm 2003, nợ đủ tiêu chuẩn tại ngân hàng là 2760,6 tỷ thì năm 2004 đạt 3111,7 tỷ. Trong khi đó, nợ quá hạn lại giảm từ 36,5 tỷ xuống còn 27,3 tỷ. Cũng như vậy, nợ khoanh năm 2003 là 295 tỷ thì năm 2004 chỉ còn lại 71,8 tỷ. Chính vì vậy mà tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ năm 2004 chỉ là 0,87% so với 1,3% năm 2003. Như vậy, chất lượng tín dụng năm 2004 rõ ràng là được cải thiện hơn so với năm 2003.
Riêng năm 2005, thực hiện theo quy định 493/2005 – NHNN và QĐ 1627/2005 - NHNN, ngân hàng đã triển khai thực hiện nghiêm túc việc rà soát toàn bộ dư nợ hiện tại theo thời điểm hàng tháng để từ đó xác định đúng chất lượng đang lưu hành. Nợ khoanh trong năm chỉ có 71.8 tỷ của tổng công ty vật tư nông nghiệp đã được xử lý vào quí 4 của năm nên tại thời điểm 31/12/2005 ngân hàng không còn nợ khoanh. Việc thu hồi nợ đến hạn, nợ quá hạn, thu lãi cho vay, thu nợ rủi ro cũng được đôn đốc. Do vậy, tỷ lệ thu lãi bình quân đạt trên 97% lãi phải thu, thu nợ quá hạn đã xử lý rủi ro trong năm là 16,3 tỷ.
Cơ cấu cho vay của ngân hàng cũng hợp lý hơn qua các năm. Tỷ trọng cho vay thành phần kinh tế quốc doanh ngày càng giảm, tránh tình trạng cho vay những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, tài sản đảm bảo không điều kiện… Trong khi đó, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng dư nợ ngày càng lớn hơn. Mặc dù là ngân hàng quốc doanh nhưng ngân hàng nông nghiệp Hà Nội đã thấy được tiềm năng của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Cụ thể là tỷ trọng cho vay của thành phần kinh tế này ngày càng tăng, đặc biệt là năm 2005 đã chiếm tới 63,9% tổng dư nợ. Trong khi đó, nợ xấu của thành phần này chiếm 51,8% tổng nợ xấu. Như vậy, việc cơ cấu cho vay hợp lý hơn cũng góp phần hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng.
Kết quả như trên đạt được là do ngân hàng đã kịp thời triển khai các văn bản của Chính phủ, ngân hàng Nhà nước, các bộ, ngành liên quan và các văn bản của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đến từng cán bộ tín dụng. Đặc biệt, đứng trước thực trạng nợ xấu đã xử lý rủi ro là rất lớn, phòng tín dụng đã thành lập riêng tổ thu nợ. Ngoài ra, trong quá trình tự kiểm tra, phát hiện được những sai sót đã yêu cầu cán bộ chỉnh sửa ngay.
2.3.2. Những điểm yếu và nguyên nhân
2.3.2.1. Những điểm yếu
Bên cạnh những kết quả đạt được như trên, ngân hàng nông nghiệp Hà Nội vẫn còn tồn tại một số điểm yếu sau:
Thứ nhất, hoạt động tín dụng vẫn tồn tại nhiều rủi ro tiềm ẩn. Cụ thể là năm 2003 và năm 2004, mặc dù tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ rất thấp nhưng lại không phản ánh hết được rủi ro tín dụng. Do vậy, nhiều khoản nợ được ngân hàng đánh giá là nợ đủ tiêu chuẩn và không phải trích lập dự phòng rủi ro thì sang năm 2005 lại thành nợ xấu. Năm 2005 khi phân loại lại nợ theo quy định mới thì nợ cơ cấu lại thời hạn chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng nợ không đủ tiêu chuẩn. Cũng trong năm này, tuy ngân hàng đã tiến hành thắt chặt tín dụng với một số doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả nhưng tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ vẫn cao, chiếm 3,49% tổng dư nợ. Theo ngân hàng thì tỷ lệ này nên ở mức dưới 3% thì tốt.
Thứ hai, công tác phân loại và xử lý nợ quá hạn còn chưa tốt. Năm 2005, tất cả các nhóm nợ được phân loại theo quy định mới 493 nên có xuất hiện một số sai sót như cuối năm có sự chênh lệch giữa các nhóm. Hơn nữa, nợ có khả năng mất năm 2005 là 36,9 tỷ, tương đương với 5% nợ xấu nhưng cán bộ tín dụng vẫn chưa có biện pháp cụ thể thu hồi các khoản nợ này. Trong năm, nợ quá hạn đã xử lý rủi ro là 118,9 tỷ nhưng thu nợ quá hạn đã xử lý rủi ro chỉ được 16,3 tỷ.
Thứ tư, mặc dù tỷ trọng cho vay thành phần kinh tế quốc doanh giảm dần qua các năm và năm 2005 là 36,1% tổng dư nợ nhưng tỷ trọng nợ xấu của thành phần này lại chiếm 44,2% tổng nợ xấu. Như vậy, ngân hàng vẫn chưa nhận thức được đầy đủ những tác động, rủi ro khi cho vay doanh nghiệp nhà nước trong thời điểm hiện tại nên vẫn tập trung vốn cho vay với nhiều dự án lớn.
2.3.2.2. Nguyên nhân
Còn tồn tại một số điểm yếu trong việc hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội là do các nguyên nhân sau:
Nguyên nhân từ phía ngân hàng
Đầu tiên là phải kể đến đội ngũ cán bộ. Phần lớn cán bộ tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp Hà Nội đều còn trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm, chưa chủ động trong việc thẩm định vay vốn tìm kiếm khách hàng, kỹ năng thương lượng kém. Hơn nữa, nhiều cán bộ mới còn thiếu kiến thức về tài chính doanh nghiệp, thẩm định dự án đầu tư và thanh toán quốc tế nên trong quá trình phân tích tín dụng, tính chính xác của kết quả chưa cao. Trong khi đó, công tác đào tạo, tập huấn nhằm nâng cao trình độ cho cán bộ còn chưa thường xuyên. Hơn nữa, các cán bộ chưa được phân chia để chuyên môn hoá theo từng nhóm khách hàng nên công việc của một cán bộ thường ở mức quá tải, nhưng lại không sâu về một lĩnh vực nào đó. Mặc dù đã được tạo điều kiện nhưng các thông tin mới về tình hình kinh tế, pháp luật các cán bộ tín dụng vẫn chưa nắm bắt và cập nhật đầy đủ.
Thứ hai, việc thực hiện quy trình tín dụng chưa được đầy đủ. Sổ tay tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam được xây dựng rất chi tiết và cụ thể nhằm bảo đảm cho hoạt động tín dụng an toàn và sinh lợi. Nếu thực hiện đúng, đủ như quy định thì có thể hạn chế được rất nhiều rủi ro nhưng đối với những khoản vay không lớn thì việc tuân thủ quy trình là rất ít. Đặc biệt ở khâu phân tích trước khi cho vay và giám sát sau khi giải ngân. Cán bộ thường chỉ quan tâm theo dõi các khoản vay hoạt động kém hiệu quả. Trong khi khách hàng lớn hoạt động chưa có dấu hiệu gì không tốt thì cán bộ tín dụng rất ít xuống cơ sở xem xét tình hình sản xuất kinh doanh, đôn đốc việc thu nợ. Thực tế cho thấy nhiều khi rủi ro xảy ra là do cán bộ không thực hiện đủ hoặc đúng quy trình.
Thứ ba, công tác lập và sắp xếp hồ sơ còn nhiều sai sót. Điển hình là giấy tờ về tài sản đảm bảo tiền vay và một số hợp đồng bảo đảm, hợp đồng tín dụng không đủ tính pháp lý, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhà nước dẫn đến việc xử lý tài sản gặp nhiều khó khăn. Việc soạn thảo các hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm phát sinh mới chưa được chú trọng đúng mức, vẫn còn tồn tại tình trạng soạn thảo để nguyên hướng dẫn của mẫu hướng dẫn mà không soạn thảo lại. Các sai sót như vậy có thể nhỏ nhưng khi khiếu kiện khách hàng không thực hiện đúng hợp đồng tín dụng thì đây cũng có thể là những khe hở gây thiệt hại tới ngân hàng.
Thứ tư, năng lực hiện tại của cán bộ lãnh đạo còn nhiều bất cập. Đặc biệt là năng lực chuyên môn và năng lực điều hành. Do năng lực chuyên môn chưa cao, nên cán bộ lãnh đạo còn chưa nắm bắt được tình hình thực sự của hoạt động tín dụng tại ngân hàng nên chưa có những biện pháp cụ thể, hiệu quả nhanh chóng chấn chỉnh. Hơn nữa, công tác điều hành của cán bộ lãnh đạo còn chưa có sự phối hợp chặt chẽ, chưa khoa học và toàn diện.
Nguyên nhân từ phía khách hàng
Hiện nay, số lượng doanh nghiệp mới thành lập ngày càng tăng. Bên cạnh số đông doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, tôn trọng pháp luật thì cũng không ít doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, trái pháp luật, điển hình là lập hồ sơ giả trong hoàn thuế GTGT, trong hợp đồng bảo hiểm, mua bán đất đai của dự án. Mà trong các doanh nghiệp này có một số doanh nghiệp được đánh giá là có tín nhiệm, được vay vốn khách hàng với số lượng lớn. Do đó, rủi ro là điều dễ hiểu.
Ngoài ra, trong số khách hàng của ngân hàng nông nghiệp Hà Nội, tồn tại nhiều doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ, các tài sản đảm bảo thì thường không đầy đủ về thủ tục pháp lý, lại chuyển sang cổ phần hoá đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Một yếu tố nữa từ cần chú ý là hai nhóm khách hàng chủ yếu của ngân hàng nông nghiệp Hà Nội là ngành lương thực và vật tư nông nghiệp. Doanh số cho vay hai ngành này thường rất lớn , khoảng từ 700 – 800 tỷ mỗi năm. Tuy nhiên, hai ngành này lại chịu tác động rất nhiều của diễn biến thị trường, của thời tiết, dịch bệnh. Khi xảy ra rủi ro thì thiệt hại thường rất lớn như đối với tổng công ty vật tư nông nghiệp.
Nguyên nhân khác
Thứ nhất, sự cạnh tranh về lãi suất giữa các ngân hàng. Sau khi áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận, các ngân hàng Việt nam cạnh tranh nhau bằng cách tăng lãi suất tiền gửi, trong khi đó lại xác định lãi suất khoản vay thấp hơn mức độ rủi ro của khách hàng. Điều này không chỉ làm giảm thu nhập của các ngân hàng mà còn không khuyến khích khách hàng cân nhắc kỹ khi đưa ra quyết định đầu tư, làm thiếu hụt nguồn bù đắp rủi ro của ngân hàng và làm tăng mức độ rủi ro tín dụng từ hai phía ngân hàng và khách hàng. Nếu ngân hàng tiếp tục thực hiện chính sách lãi suất như thế sẽ dẫn đến hậu quả là khi không còn đủ nguồn thì yêu cầu lãi suất cho vay cao cộng với nhiều điều kiện khắt khe sẽ dẫn đến mất dự án có độ an toàn và chỉ có thể chấp nhận được khách hàng có độ rủi ro cao.
Thứ hai, rủi ro chính sách. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia ngân hàng trên thế giới cũng như các nước phát triển khác, rủi ro tín dụng ở Việt Nam chịu nhiều tác động của yếu tố rủi ro chính sách. Chỉ riêng trong năm 2004, những thay đổi liên tục trong điều hành chính sách thuế với đối với ngành thép, ngành kinh doanh bất động sản (không cho bán nền) cho thấy sự không ổn định trong chính sách đã khiến các doanh nghiệp khó chủ động trong chiến lược kinh doanh của mình. Môi trường kinh doanh không ổn định thường xuyên sẽ gián tiếp làm suy yếu điều kiện tài chính của người vay.
Thứ ba, tính chính xác và sẵn có của thông tin. Phần lớn các thông tin do các doanh nghiệp cung cấp đều không phản ánh chính xác, đầy đủ tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các kênh thông tin khác như trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng Nhà nước hay trung tâm phòng ngừa rủi ro tín dụng của ngân hàng nông nghiệp Việt Nam lại hoạt động chưa hiệu quả, chỉ cung cấp được một số lượng và mức độ thông tin nhất định. Thậm chí các bộ, ban ngành liên quan cũng chưa có sự phối hợp nhằm tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng đánh giá chính xác về khách hàng. Chính vì vậy mà còn tồn tại nhiều trường hợp cho vay không hiệu quả.
Chương iii
Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội
3.1. Định hướng hoạt động tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội trong năm tới
Năm 2005, kinh tế cả nước nói chung và kinh tế Hà Nội nói riêng tiếp tục phát triển với tốc độ tăng trưởng cao đã tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp cũng như các ngân hàng, trong đó có ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội. Ngoài ra, nhiều cơ chế chính sách liên quan đến hoạt dộng tín dụng, quản trị điều hành… được chỉnh sửa, hoàn thiện theo hướng phù hợp với thông lệ nhằm nâng cao chất lượng tín dụng như quyết định 127/2005/QĐ/NHNN; quyết định 493/2005/QĐ/NHNN và các văn bản khác ngay từ những tháng đầu năm đã có tác động rất lớn đến ngân hàng nông nghiệp Hà Nội, đặc biệt là hoạt động tín dụng. Hơn nữa, ngân hàng cũng phải đối mặt vói một khó khăn nữa là sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt giữa các tổ chức tín dụng về thị phần và lãi suất, mà trong đó lãi suất cho vay của ngân hàng nông nghiệp lại cao hơn các ngân hàng khác. Từ những thuận lợi và khó khăn đó, ngân hàng nông nghiệp Hà Nội đã đề ra những định hướng cho hoạt động tín dụng trong năm tới như sau:
Tập trung mở rộng hoạt động tín dụng cùng với việc nâng cao chất lượng tín dụng, không để nợ quá hạn khó thu phát sinh mới, hạn chế việc cơ cấu lại nợ và phát triển các hoạt động kèm theo như bảo lãnh, phát hành thẻ…
Đẩy mạnh công tác thu hồi nợ đã được xử lý rủi ro
Tăng cường kiểm tra kiểm soát theo chuyên đề
Nâng cao năng lực lãnh đạo và thay đổi cơ cấu tổ chức
Chú trọng cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các công ty đã cổ phần hoá làm ăn có hiệu quả
Triển khai mạnh việc cho vay ngoại tệ đối với khách hàng ở ngân hàng quận để từ đó đẩy mạnh công tác thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ ở ngân hàng quận.
Phân loại nợ sát theo tình hình thực tế để có thể đánh giá đúng chất lượng tín dụng
Căn cứ vào định hướng trên, các chỉ tiêu tín dụng năm 2006 được cụ thể hoá như sau:
Bảng 8: Phân loại nợ quá hạn 2003 – 2004 và nợ xấu 2005 theo TPKT
Đơn vị tính: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Thực hiện 2005
Kế hoạch 2006
Tăng trưởng 06 so với 05
Tuyệt đối
Tương đối
Tổng dư nợ
2.690
2.780
90
5,5
Nội tệ
1.960
1.940
-20
-1,02
Ngoại tệ
730
840
110
15,06
(Nguồn: Kế hoạch kinh doanh năm 2006 Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội )
Bảng 9: Cơ cấu dư nợ phân theo thời hạn cho vay
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Thực hiện 2005
Kế hoạch 2006
Tăng trưởng 06 so với 05
Tuyệt đối
Tương đối
Tổng dư nợ
2.690
2.780
90
5,5
Cho vay ngắn hạn
1.631
1.648
17
1,04
Cho vay trung dài hạn
1.059
1.132
73
6,89
(Nguồn: Kế hoạch kinh doanh năm 2006 Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội )
Trong đó, nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5 chiếm <=5% tổng dư nợ, số tuyệt đối là 83 tỷ. Đồng thời năm 2006, ngân hàng có kế hoạch trích lập rủi ro là 57 tỷ , trong đó dự phòng chung khoảng 5 tỷ và dự phòng cụ thể phải trích 52 tỷ đồng trên nợ được cơ cấu lại để xử lý rủi ro các khoản nợ quá hạn và nợ tiềm ẩn rủi ro, phấn đấu hết năm 2006 ngân hàng sẽ không còn nợ quá hạn khó thu, nợ tiềm ẩn rủi ro và tỷ lệ thu lãi phải đạt trên 98% lãi phải thu.
3.2. Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp Hà Nội
3.2.1. Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng
Phần lớn cán bộ tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp Hà Nội đều còn trẻ, thiếu kinh nghiệm, năng lực còn hạn chế. Trong khi đó, sự yếu kém của cán bộ tín dụng lại là nguyên nhân chính dẫn đến rủi ro tín dụng. Do vậy, ngân hàng cần có chính sách tập huấn, đào tạo và đào tạo lại cho cán bộ tín dụng, nâng cao trình độ phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế về nhiều mặt như thẩm định, điều tra cho vay, các văn bản chế độ của ngành và ngoài ngành liên quan đến lĩnh vực tín dụng, kiến thức thị trường liên quan đến lĩnh vực đầu tư, để từ đó nâng cao trình độ cán bộ có thể tiếp cận với các dự án lớn. Những cán bộ tín dụng mới phải được giao cho cán bộ cũ kèm cặp, trao đổi kinh nghiệm về nghiệp vụ, công việc.
Ngoài ra, ngân hàng nên phân loại cán bộ tín dụng để từ đó giao phụ trách từng nhóm khách hàng cho phù hợp với trình độ quản lý của cán bộ tín dụng nhằm đạt hiệu quả cao và quản lý chặt chẽ khách hàng. Như vậy, cán bộ tín dụng sẽ chuyên môn hoá hơn với từng nhóm khách hàng của mình, nắm bắt nhanh thông tin, am hiểu sâu về một lĩnh vực nào đó nên rủi ro tín dụng cũng sẽ giảm bớt. Hơn nữa, định kỳ 6 tháng 1 lần ngân hàng nên tổ chức kiểm tra, đánh giá lại trình độ cho cán bộ tín dụng. Nếu kết quả không đạt, cán bộ tín dụng sẽ bị trừ lương, thưởng. Ngân hàng cũng nên khoán triệt để đến từng cán bộ để nâng cao trách nhiệm của cán bộ trong việc mở rộng tín dụng, nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thiểu rủi to và căn cứ vào kết quả đạt được để trả lương.
3.2.2. Thực hiện đầy đủ quy trình cho vay
Hiện nay, quy trình cho vay theo như văn bản hướng dẫn của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam khá chi tiết và đầy đủ. Tuy nhiên, để giảm thiểu rủi ro tín dụng, cần phải tuân thủ một cách nghiêm túc quy trình này. Trong quy trình cho vay có 4 bước: phân tích trước khi cấp tín dụng, kí kết hợp đồng, giải ngân, kiểm soát sau khi cấp tín dụng. Có thể dễ nhận thấy rằng bước phân tích trước khi cấp tín dụng và kiểm soát sau khi cấp tín dụng là hai bước quan trọng trong việc ngăn chặn, phát hiện rủi ro.
Trong phân tích trước khi cấp tín dụng, để có được quyết định đúng, điều cán bộ tín dụng cần nhất là thông tin. Thông tin liên quan phải đầy đủ và chính xác.Thông thường, cán bộ tín dụng thường dựa trên các báo cáo tài chính mà khách hàng nộp. Tuy nhiên, không phải lúc nào khách hàng cũng trung thực hoàn toàn về tình hình tài chính của mình. Cán bộ phải có những cách thức phù hợp kiểm tra tính chính xác của nó. Hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng của ngân hàng Nhà nước và của ngân hàng nông nghiệp Việt Nam mặc dù chưa cung cấp được nhiều nhưng cơ bản vẫn có thể cho cán bộ tín dụng biết mối quan hệ của khách hàng đó với ngân hàng khác, lịch sử tín dụng, tình hình tài chính. Ngoài ra, cán bộ tín dụng nên hỏi trực tiếp khách hàng và xuống tận cơ sở để xác minh. Khi có đầy đủ thông tin cần thiết, việc phân tích phải được tiến hành cẩn thận, kỹ lưỡng, tránh nhầm lẫn dẫn đến những kết luận tín dụng không đúng. Đối với những dự án lớn, để đảm bảo tính chính xác, cán bộ tín dụng nên kết hợp với phòng thẩm định cùng phân tích, đánh giá về khách hàng đó.
Mặc dù việc phân tích tín dụng diễn ra đầy đủ, quyết định cho vay là hợp lý, nhưng rủi ro tín dụng vẫn có thể xảy ra. Đó là do sau khi giải ngân, khách hàng sử dụng vốn vay không đúng như cam kết trong hợp đồng, hay hoạt động kinh doanh của khách hàng diễn biến xấu bởi một yếu tố nào đó. Trong trường hợp như vậy, khả năng trả nợ của khách hàng sẽ bị suy giảm. Do đó, để có thể hạn chế ở mức thấp nhất rủi ro, cán bộ tín dụng cần phát hiện sớm những dấu hiệu của những khoản nợ có vấn đề nhằm có biện pháp phòng ngừa như ngừng giải ngân, yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản đảm bảo, giảm tiền vay, trích lập dự phòng…Như vậy ,định kỳ hàng tháng, quý hoặc đột xuất cán bộ tín dụng phải kiểm tra giám sát khoản vay theo như quy định của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Ngoài việc thực hiện tốt các bước trong quy trình, cán bộ tín dụng cũng tránh thực hiện không đúng trình tự, như giải ngân trước khi hoàn tất chứng từ vì rất có thể còn những sai sót trong chứng từ mà chưa được phát hiện, sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng sau này. Như vậy, thực hiện đúng và đủ quy trình tín dụng thì rủi ro tín dụng đã được hạn chế rất nhiều.
3.2.3. Xây dựng hệ thống phân loại và xếp hạng khách hàng tự động
Tại ngân hàng nông nghiệp Hà Nội khách hàng là doanh nghiệp hay cá nhân đều được phân thành 10 loại theo mức độ rủi ro giảm dần. Việc phân loại này dựa trên điểm số tín dụng của mỗi khách hàng tổng hợp từ nhiều yếu tố như tình hình tài chính, tư cách pháp nhân, quan hệ với ngân hàng, tài sản thế chấp…Dựa vào điểm số này, ngân hàng có thể ra các quyết định khi cấp tín dụng cho khách hàng. Tuy nhiên, hiện nay cán bộ tín dụng vẫn phải chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng bằng tay. Cách làm đó có rất nhiều nhược điểm như mất thời gian, dễ sai sót, nhầm lẫn do khối lượng chỉ tiêu lớn, dễ bị chi phối bởi ý kiến chủ quan. Do vậy, để giảm thiểu những yếu tố có thể dẫn đến sai lệch trong điểm số tín dụng và hạng của khách hàng; ngân hàng cần xây dựng một phần mềm chấm điểm và phân loại. Như vậy, ngân hàng có thể giảm thời gian ra quyết định mà vẫn có được kết quả chính xác. Tuy nhiên, hệ thống chấm điểm tự động đó phải điều chỉnh để phù hợp được những thay đổi của nền kinh tế như giá cả, mức sống, yếu tố cạnh tranh… Khi có sự thay đổi đó, cần phải xếp hạng và đánh giá lại mức độ rủi ro của khách hàng để có mức phân bổ dự phòng, điều chỉnh giới hạn cấp. Ngoài ra, định kỳ nên phân loại khách hàng để loại dần những khách hàng làm ăn không hiệu quả, thu hút những khách hàng tài chính lành mạnh để đầu tư. Như vậy, với hệ thống phân loại và xếp hạng khách hàng tự động, ngân hàng có thể mở rộng tín dụng mà vẫn đảm bảo hạn chế rủi ro xảy ra.
3.2.4. Coi trọng nhưng không quá ỷ lại vào tài sản đảm bảo
Tài sản đảm bảo là một trong những yếu tố ngân hàng xem xét đến khi phân tích cho vay. Bởi tài sản đảm bảo là nguồn trả nợ thứ cấp cho khoản vay nếu dự án kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro, dòng tiền của khách hàng không đúng như dự kiến. Tuy nhiên, khoản vay sẽ phải được thanh toán bằng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh, chứ không phải từ tài sản nên tài sản đảm bảo chỉ là điều kiện cần, không phải là điều kiện đủ để cho vay. Vì thực tế cho thấy một số lượng lớn các khoản vay chỉ dựa vào tài sản đảm bảo lại trở thành nợ quá hạn. Như vậy, cán bộ tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp Hà Nội khi tiếp cận với các khoản vay có tài sản đảm bảo thì nên chú ý một số vấn đề.
Đầu tiên là các điều kiện cần thiết về tài sản. Hiện nay có rất nhiều tài sản của các doanh nghiệp nhà nước được dùng làm tài sản đảm bảo trong khi giấy chứng nhận sở hữu không rõ ràng, tính thanh khoản thấp, không đủ tính pháp lý…Ngoài ra có rất nhiều tài sản đảm bảo chịu nhiều biến động kinh tế giá cả, chu kỳ kinh tế, hệ thống pháp lý. Do vậy, cán bộ tín dụng cần đánh giá chính xác và có khả năng dự báo những thay đổi về giá trị của tài sản đó; tránh tình trạng cán bộ tín dụng tin vào các thông tin do khách hàng cung cấp mà đánh giá quá cao, đến khi phát mại thì ngân hàng chịu thiệt hại nhiều, không thu hồi được vốn như dự đoán.
Hơn nữa, khi khoản vay có tài sản đảm bảo của khách hàng gặp vấn đề thì cán bộ tín dụng nên giúp đỡ khách hàng khôi phục sản xuất kinh doanh, chứ không nên ỷ lại, chờ đến lúc phát mại tài sản. Bởi nếu khách hàng đủ điều kiện được gia hạn nợ hoặc thấu chi, rất có thể việc kinh doanh của khách hàng được tiếp tục và đủ khả năng trả nợ. Như vậy, ngân hàng sẽ ít thiệt hại hơn vì phát mại tài sản thường gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề thủ tục, chi phí, thời gian, giá trị…
Ngoài ra, khi cho vay nếu khách hàng không có tài sản đảm bảo thì ngân hàng cũng không nên từ chối ngay yêu cầu vay vốn của khách hàng. Vì thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay tuy không có tài sản đảm bảo nhưng làm ăn có hiệu quả, uy tín tốt thì vẫn có thể là một trong những đối tượng được sử dụng vốn vay ngân hàng.
3.2.5. Định kỳ phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo quy định mới
Trong hoạt động tín dụng, rủi ro là điều khó tránh khỏi. Do vậy, nhằm bù đắp thiệt hại khi có rủi ro xảy ra, các ngân hàng phải tiến hành trích lập quỹ dự phòng từ nguồn lợi nhuận sau thuế. Trước năm 2005, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội phân loại nợ và tiến hành trích lập dự phòng rủi ro theo quy định 488/2000/QĐ - NHNN. Tuy nhiên phân loại nợ theo quy định này chỉ dựa vào thời gian quá hạn thanh toán của từng khoản vay là chưa phản ánh được hết rủi ro tiềm ẩn. Do vậy, năm 2005, ngân hàng Nhà nước ban hành quy định 493/2005/QĐ - NHNN về việc phân loại nợ và trích lập dự phòng. Theo quy định này, nợ được phân thành năm nhóm theo mức độ rủi ro không chỉ dựa trên thời gian quá hạn và mỗi loại ứng với một tỷ lệ trích lập riêng nên nhìn chung đã đánh giá được rủi ro ngân hàng có thể gặp phải và số tiền phải dự phòng.
Do vậy, định kỳ hàng quý, trong thời gian 15 ngày làm việc đầu tiên, ngân hàng phải tiến hành phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro. Để tránh tình trạng làm không đúng dẫn đến chênh lệch như cuối năm 2005, ngân hàng nên thực hiện theo đúng quy định nhưng không quá cứng nhắc, nên linh hoạt trong việc đánh giá rủi ro tiềm ẩn của từng khoản vay. Ngoài ra, ngân hàng chỉ được sử dụng quỹ dự phòng để bù đắp tổn thất do các khoản vay nhóm 5 gây nên sau khi đã thương thảo với khách hàng và phát mại tài sản đảm bảo mà không đủ.
3.2.6. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát tín dụng độc lập
Để nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng, đảm bảo tuân thủ các chiến lược tín dụng, chính sách phê duyệt tín dụng và cơ cấu dư nợ tín dụng theo quy định của ngân hàng, công tác kiểm tra và giám sát tín dụng độc lập phải được tiến hành thường xuyên. Như vậy, định kỳ bộ phận kiểm tra phải yêu cầu cán bộ tín dụng cung cấp các báo cáo mới nhất về khách hàng và khoản vay, đồng thời kiểm tra toàn bộ hồ sơ tín dụng và các điều kiện liên quan. Qua đó, bộ phận kiểm tra có thể đánh giá, giám sát về việc tuân thủ quy trình tín dụng, chính sách tín dụng, danh mục cho vay, tình trạng nợ xấu…của ngân hàng để lập báo cáo trình cấp trên. Lãnh đạo cấp trên phải có trách nhiệm xem xét để kịp thời đưa ra những biện pháp giải quyết nếu có sai sót trong quá trình hoạt động của ngân hàng như trích lập không đúng, cho vay vượt hạn mức, tài sản đảm bảo không hợp pháp… Ngoài ra, các lãnh đạo cần thường xuyên giám sát, quản lý, theo dõi cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định để tránh các sai phạm về đạo đức có thể xảy ra. Nếu cán bộ tín dụng có những biểu hiện bất thường như giầu lên nhanh chóng, hay lui tới những sòng bạc, tiêu xài hoang phí thì đây có thể là dấu hiệu của việc cán bộ tín dụng thông đồng với khách hàng để vay ké, cố tình chiếm đoạt vốn của ngân hàng, tránh tình trạng như một cán bộ tín dụng tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp tp.HCM xâm tiêu tiền thu nợ và thu lãi tại một số chi nhánh. Việc giám sát này cần dựa vào các đồng nghiệp, lãnh đạo phòng, mối quan hệ bạn bè. Chỉ có như vậy mới có thể phần nào hạn chế rủi ro tín dụng và thiệt hại của nó đối với ngân hàng.
3.2.7. Đa dạng hoá danh mục cho vay
Khi một ngân hàng phát triển chiến lược và kế hoạch kinh doanh của mình, để giảm thiểu rủi ro tín dụng, họ phải xem xét đến các yếu tố và mức độ rủi ro của thị trường mục tiêu và phân đoạn khách hàng, sự kết hợp giữa các sản phẩm tín dụng, khả năng cấp và trọng tâm danh mục. Tuy nhiên, theo các chuyên gia ngân hàng, việc cần làm nhất vẫn là đa dạng hoá các danh mục cho vay. Thực vậy, việc đa dạng hoá danh mục cho vay của ngân hàng sẽ làm giảm tối đa rủi ro vì các khoản vay thường có mức độ rủi ro khác nhau theo năng lực, quy mô khách hàng, ngành nghề, tính chất sở hữu. Như đối với ngân hàng nông nghiệp Hà Nội, thì ngành lương thực và vật tư nông nghiệp là hai nhóm khách hàng chủ yếu. Tuy nhiên, ngân hàng cũng không nên cho vay tập trung chỉ với hai nhóm này vì hoạt động nông nghiệp thường phụ thuộc nhiều vào thời tiết, thị trường nên rất không ổn định. Nếu xảy ra rủi ro, tổn thất của ngân hàng sẽ rất lớn. Do vậy, ngân hàng đa dạng hoá danh mục cho vay như: cho vay các ngành, nghề khác nhau; các thành phần kinh tế; các hình thức vay(từng lần, hạn mức, trả góp…).
Mặt khác, ngân hàng nên tăng cường cho vay đồng tài trợ vì hình thức này cũng giúp phân tán rủi ro. Thông thường các khoản cho vay đồng tài trợ thường là các khoản lớn, khó thẩm định mà khả năng về vốn của ngân hàng cũng không tài trợ toàn bộ được. Trong trường hợp đó, ngân hàng sẽ kết hợp với các ngân hàng khác đánh giá và cho vay. Như vậy, rủi ro sẽ được chia sẻ mà vẫn đảm bảo lợi nhuận thu được. Thực tế cho thấy trong năm 2005, ngân hàng nông nghiệp Hà Nội cho vay đồng tài trợ 4 dự án với dư nợ 392 tỷ thì 3 dự án đã trả nợ gốc đều và có hiệu quả. Do đó, cho vay đồng tài trợ cũng là một trong những biện pháp giảm thiểu rủi ro.
3.2.8. Thiết lập bộ phận nghiên cứu, phân tích, dự báo diễn biến nền kinh tế
Ngân hàng cần thiết lập một bộ phận chuyên nghiên cứu, phân tích diễn biến và dự báo kinh tế vĩ mô kể cả ngắn hạn và trung dài hạn với các chuyên gia giàu kinh nghiệm. Mặc dù ở nước ta có nhiều cơ quan, tổ chức cũng nghiên cứu về diễn biến kinh tế và công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng nhưng ngân hàng cần có một bộ phận nghiên cứu riêng, độc lập, dựa trên tất cả các kênh thông tin, các nguồn phân tích và dự báo khác để làm định hướng cho hoạt động tín dụng, chiến lược quản lý rủi ro tín dụng và chiến lược mở rộng tín dụng của mình. Từ đó đề ra định hướng cho hoạt động tín dụng vừa sinh lời vừa an toàn. Tuy nhiên, cần điều chỉnh chiến lược với những thay đổi của nền kinh tế để tránh tình trạng đầu tư theo xu hướng, trào lưu như thép, xi măng, bất động sản…
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
Thứ nhất, ngân hàng nông nghiệp Việt Nam cần xem xét cho vay không có bảo đảm các trường hợp khách hàng xếp loại B do một số tiêu chí không hợp lý trong văn bản 1261 của ngân hàng đối với khách hàng vay trả sòng phẳng nhiều năm, làm ăn có hiệu quả. Đồng thời ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam nên hoàn thiện một số điểm chưa hợp lý trong văn bản 1261 nhằm tạo điều kiện cho chi nhánh Hà Nội mở rộng tín dụng đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng.
Thứ hai, ngân hàng nông nghiệp Việt Nam cần sớm có quyết định tách phòng tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp Hà Nội thành 2 phòng: phòng cho vay các doanh nghiệp lớn và phòng cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ để có thể chuyên môn hoá cán bộ tín dụng, tạo điều kiện cho cán bộ làm việc phù hợp với trình độ của mình, chuyên sâu trong một lĩnh vực nào đó, hạn chế rủi ro xảy ra.
Thứ ba, nâng cao vai trò của trung tâm phòng ngừa và xử lý rủi ro tín dụng của ngân hàng nông nghiệp Việt Nam. Trung tâm này là đầu mối cung cấp, khai thác thông tin tín dụng của trung tâm CIC của ngân hàng Nhà nước và hỗ trợ cho các chi nhánh giải quyết các khó khăn vướng mắc về nghiệp vụ. Thông tin tín dụng có đầy đủ , chính xác và có hệ thống về khách hàng thì sẽ giúp cán bộ hạn chế bớt rủi ro. Như vậy, ngân hàng nông nghiệp Việt Nam cần đầu tư một số trang thiết bị công nghệ cao để có thể lưu trữ, quản lý, phân tích thông tin, đầu mối thông tin nhanh nhạy và chính xác nữa. Song song với nó, cần có một đội ngũ cán bộ được đào tạo về trình độ phù hợp.
Thứ tư, tăng cường hiệu quả hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Mặc dù trong năm vừa qua, phòng tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp Hà Nội đã thành lập một tổ thu nợ riêng nhưng trong quá trình thu hồi nợ xấu, nợ tồn đọng thì cần có sự hỗ trợ thêm của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng nông nghiệp Việt Nam. Công ty này có chức năng tiếp nhận, quản lý những khoản nợ tồn đọng và tài sản đảm bảo nợ vay do ngân hàng nông nghiệp Việt Nam giao để khai thác, xử lý và thu hồi vốn nhanh nhất. Tuy nhiên, còn tồn tại nhiều khoản nợ xấu có giá trị lớn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp Hà Nội nhưng vẫn chưa có một biện pháp giải quyết cụ thể nào từ phía công ty.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm soát của các lãnh đạo cấp trên đối với chi nhánh. Định kỳ một năm một lần hoặc đột xuất, các lãnh đạo cấp trên phải trực tiếp xuống chi nhánh kiểm tra mọi tình hình hoạt động, tránh tình trạng chỉ xem xét qua các báo cáo định kỳ hay kiểm tra chỉ mang tính hình thức, thủ tục.
3.2.2. Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước
Thứ nhất, nâng cao hiệu quả của hệ thống thông tin tín dụng ngân hàng Nhà nước (CIC). Hệ thống này được thiết lập nhằm hình thành cơ sở dữ liệu tập trung về khách hàng để phục vụ cho quá trình cấp tín dụng, phân tích và quản lý tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng thông qua việc tạo ra một cơ chế thu thập, tổng hợp, xử lý, lưu trữ và chia sẻ thông tin tín dụng trong nội bộ hệ thống các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, trong những năm qua, hoạt động của hệ thống thông tin này chưa mang lại hiệu quả trong việc phát hiện và ngăn ngừa rủi ro tín dụng. Đó là do chất lượng thông tin còn thấp. Phần lớn những thông tin về khách hàng mà cán bộ rủi ro tín dụng nhận được đều rất sơ sài, chỉ về quan hệ của khách hàng đó với ngân hàng khác, thông tin pháp lý, lịch sử tín dụng, môi trường cạnh tranh. Trong khi đó, những thông tin về năng lực tài chính, tình trạng kinh doanh của khách hàng, tài sản đảm bảo… thì thường không đầy đủ hoặc đã cũ nên không còn phù hợp. Hơn nữa, để có được thông tin thì cũng cán bộ tín dụng cũng mất khá nhiều thời gian, thường là 1 ngày. Do vậy, yêu cầu đặt ra là ngân hàng Nhà nước phải nâng cấp hệ thống thông tin tín dụng để góp phần ngăn ngừa rủi ro tín dụng tại ngân hàng.
Trước tiên, về số lượng và chất lượng của thông tin. Để đảm bảo tính đầy đủ, kịp thời, hợp lý và nhất quán, thông tin tín dụng phải được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, có căn cứ xác đáng và phải được sắp xếp, phân loại trước khi cung cấp cho cán bộ tín dụng các ngân hàng. Như vậy, ngân hàng Nhà nước ngoài việc yêu cầu cán bộ tín dụng có nghĩa vụ thu thập, báo cáo các thông tin về khách hàng, còn phải xây dựng những kênh thông tin với các bộ, ngành khác liên quan. Đồng thời, cần thiết lập bộ phận kiểm tra, xác minh lại tính chính xác trước khi sử dụng thông tin.
Hơn nữa, ngân hàng nhà nước cần trang bị các công nghệ tiên tiến, hiện đại, đào tạo cán bộ có kỹ năng phù hợp nhằm đảm bảo cho quá trình thu thập, tổng hợp, phân loại – xử lý – phân tích, dự báo – lưu trữ - khai thác được thông suốt, tạo điều kiện hỗ trợ ngân hàng trong việc ngăn ngừa, phát hiện và xử lý rủi ro tín dụng.
Thứ hai, ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các văn bản luật, các quy định về hoạt động tín dụng tạo điều kiện cho các ngân hàng tăng trưởng tín dụng nhưng lại giảm thiểu được rủi ro:
Quyết định 457/2005/QĐ - NHNN về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng. Quyết định này ra đời phản ánh quyết tâm của ngân hàng Nhà nước trong việc nâng cao khả năng bảo đảm an toàn cho hệ thống an toàn. Tuy nhiên, trong quy định này có một số điều cân được sửa đổi để không làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng tại ngân hàng:
+ Trong quy định về giới hạn cấp tín dụng đối với khách hàng, mức cho vay và bảo lãnh đối với khách hàng không được vượt quá 25% vốn tự có. Như vậy, nếu ngân hàng đã cấp khoản vay cho một khách hàng đạt mức tối đa 15% vốn tự có thì ngân hàng đó chỉ có thể cấp bảo lãnh cho cùng khách hàng tối đa 10% vốn tự có. Trong khi đó, theo quy định chung về bảo lãnh ngân hàng thì tổng số dư bảo lãnh cho một khách hàng tối đa là 15% vốn tự có. Điều này thể hiện sự không thống nhất giữa các quy định nên sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thực hiện.
+ Theo quyết định này, các ngân hàng thương mại được sử dụng tối đa 40% vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Điều này sẽ rất nguy hiểm nếu ngân hàng tập trung cho vay trung và dài hạn để thu được lãi suất cao với nguồn rẻ, trong khi lại không thẩm định, đánh giá kỹ khách hàng. Nếu rủi ro xảy ra, rất có thể ngân hàng sẽ giảm hoặc mất khả năng thanh toán. Do vậy, ngân hàng Nhà nước cần sửa đổi tỷ lệ này để đảm bảo an toàn cho hoạt động của các ngân hàng thương mại.
Quyết định 493/2005/QĐ - NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng. Quy định này còn một số điều chưa rõ như sau: các khoản cho vay bằng nguồn tài trợ, uỷ thác của bên thứ ba mà bên thứ ba cam kết chịu toàn bộ “trách nhiệm xử lý rủi ro” thì tổ chức tín dụng chỉ cần phân loại nợ mà không phải trích lập. Như vậy, khái niệm “trách nhiệm xử lý rủi ro” trong quan hệ uỷ thác ở đây có bao hàm ý nghĩa là xử lý tài sản đảm bảo hoặc thực hiện các biện pháp khác để thu hồi nợ hay không. Vì khi cho vay theo quan hệ uỷ thác , việc ký kết hợp đồng thường xảy ra giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. Nếu rủi ro xảy ra, bên uỷ thác lại phải chịu trách nhiệm xử lý rủi ro như thu nợ hay xử lý tài sản đảm bảo là điều không hợp lý. Do vậy, ngân hàng Nhà nước nên quy định rõ ràng hơn trong vấn đề này.
Ngoài ra, ngân hàng Nhà nước cần kịp thời sửa đổi, bổ sung Nghị định 178/1999/NĐ - CP và Nghị định 85/2003/NĐ - CP về bảo đảm tiền vay để phù hợp với Luật đất đai 2003 và bộ Luật dân sự năm 2005.
Thứ ba, ngân hàng Nhà nước cần phối hợp với Chính phủ xây dựng và hoàn thiện các chế định về hoạt động bảo hiểm tiền gửi và bảo hiểm tín dụng tại Việt Nam. Với việc bảo hiểm tín dụng, các ngân hàng thương mại sẽ bớt đi phần nào rủi ro mất vốn nhất là với các khoản vay lớn, bởi vốn chủ sở hữu chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số cho vay của ngân hàng. Ngoài ra, với việc tham gia bảo hiểm tín dụng, các ngân hàng sẽ phải tự nâng cao cũng như tăng cường quy trình giám sát rủi ro nhằm đạt tiêu chuẩn được tham gia bảo hiểm và trong trường hợp xảy ra rủi ro thì sẽ được bù đắp tổn thất. Trong khi đó, hoạt động bảo hiểm tiền gửi lại là một thiết chế quan trọng được hình thành nhằm tham gia một cách có hiệu quả vào quá trình tăng cường bảo đảm tín dụng trên cơ sở chia sẻ thiệt hại khi xảy ra rủi ro tín dụng với phạm vi rộng lớn và dây chuyền. Tuy nhiên, ở Việt Nam các tổ chức này được thành lập chưa lâu và mô hình cũng chưa hoàn thiện.
Thứ tư, tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát và đánh giá an toàn đối với các ngân hàng thương mại. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chưa phát huy hết vai trò giám sát, nhân dạng và đưa ra được đánh giá độc lập về chiến lược, chính sách, quy trình cấp tín dụng và quản trị các danh mục của các ngân hàng thương mại, từ đó đảm bảo cho sự khoẻ mạnh của cả hệ thống. Thanh tra ngân hàng Nhà nước hiện mới chỉ xem xét được các ngân hàng thương mại có làm đúng các quy chế, quy định của ngân hàng Nhà nước hay không, đánh giá hoạt động tín dụng chỉ dựa trên tỷ lệ nợ quá hạn hoặc nợ xấu chứ không phải trên mức độ rủi ro được dự báo của các giao dịch mà ngân hàng đang tham gia và cũng chỉ có kiến nghị hay can thiệp khi đã xảy ra các trường hợp về rủi ro tín dụng. Như vậy, để tăng cường hiệu quả của công tác thanh tra, ngân hàng Nhà nước cần chú ý một số điều:
Định kỳ và đột xuất xuống ngân hàng kiểm tra, trực tiếp đánh giá, xem xét thực trạng hoạt động kinh doanh của ngân hàng để sớm phát hiện ra các sai sót, khuyết điểm. Đồng thời, kết hợp với công tác giám sát qua các báo cáo, biên bản, thông tin thu được nhằm có một cái nhìn tổng thể về ngân hàng.
Đào tạo các thanh tra của ngân hàng Nhà nước nắm vững chuyên môn, tạo điều kiện cho họ làm quen, tiếp thu những nguyên tắc, cách thức giám sát, kiểm tra mang tính quốc tế.
Trang bị các thiết bị mới, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kiểm tra, giám sát để quá trình này diễn ra nhanh chóng, chính xác, không làm ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng thương mại.
3.3.3. Kiến nghị với Nhà nước
Thứ nhất, Nhà nước cần xây dựng một hệ thống chính sách đồng bộ, nhất quán và lâu dài, tạo ra một môi trường kinh tế thuận lợi. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể khác nhau trong xã hội chịu rất nhiều tác động bởi các chính sách kinh tế của Chính phủ. Để những hoạt động này phát triển ổn định, Nhà nước cần xây dựng những định hướng lâu dài, đồng bộ, phù hợp với đặc điểm nền kinh tế nước ta mà không quá xa rời với tình hình thế giới. Khi cần có những thay đổi, Nhà nước nên có những bước đệm hoặc những biện pháp bảo đảm cho các hoạt động kinh tế không bị gián đoạn; tránh tình trạng các chính sách thay đổi quá thường xuyên.
Thứ hai, Nhà nước cần hoàn thiện hành lang pháp lý. Mặc dù các luật, văn bản dưới luật của nước ta đã được sửa đổi rất nhiều lần cho phù hợp với quy luật của nền kinh tế thị trường, song vẫn còn nhiều vướng mắc như sự chồng chéo, trùng lắp giữa quy định của các luật. Ngoài ra, việc ban hành nghị định hướng dẫn thi hành luật còn chậm, công tác thực hiện của bộ máy thi hành luật còn quan liêu tuỳ tiện (thời gian giải quyết một vụ kiện khách hàng là cá nhân vi phạm hợp đồng tín dụng, không trả nợ ngân hàng thường kéo dài ít nhất một năm, chưa kể thời gian thi hành án). Hành lang pháp lý nói chung chưa ủng hộ công tác phục hồi nợ của ngân hàng và gián tiếp làm tăng mức tổn thất tín dụng.
Thứ ba, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức năng trong việc xử lý nợ xấu. Cơ quan chính quyền các cấp, ngành liên quan nên phối hợp với ngân hàng trong việc xử lý nợ quá hạn để tỷ lệ nợ xấu/ tổng dư nợ ngày càng cải thiện. Trước hết, tổng cục địa chính và bộ xây dựng cần đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở, triển khai nghị định 181/2004/NĐ- CP của chính phủ hướng dẫn Luật đất đai 2003 nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc đăng ký giao dịch đảm bảo đối với quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của hộ gia đình và cá nhân. Ngoài ra, bộ Tư pháp cần hướng dẫn các cơ quan thi hành án nhanh chóng giải quyết các bản án để ngân hàng có thể thu hồi được nợ trong thời gian ngắn.
Thứ tư, cần sớm có các văn bản hướng dẫn cụ thể việc thi hành Luật doanh nghiệp 2005 vì luật doanh nghiệp 2005 sẽ thống nhất các quy định cho các mô hình doanh nghiệp khác nhau, thuộc các thành phần kinh tế khác nhau và tiến trình áp dụng với mỗi mô hình sẽ diễn ra vào từng thời điểm riêng. Hơn nữa, để đảm bảo tính thống nhất với các luật khác, Nhà nước phải có các văn bản, quy định cơ chế quản lý tài chính cũng như kế toán kiểm toán nhằm minh bạch tư cách pháp nhân cũng như tính chịu trách nhiệm của từng mô hình doanh nghiệp, qua đó tạo điều kiện cho ngân hàng dễ dàng giám sát cũng như kiểm tra nhằm hạn chế rủi ro tín dụng.
Kết Luận
Rủi ro luôn tiềm ẩn trong mọi hoạt động của cuộc sống hàng ngày của con người; nó là những tình huống bất trắc xảy ra mà người ta không lường hết được dẫn đến tổn thất. Và trong hoạt động tín dụng thì nguy cơ không thu được nợ, xác suất khách hàng không trả nợ gốc và lãi vay khi đến hạn là luôn tồn tại. Để có thể phòng ngừa và giảm thiểu nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng thì, mỗi cán bộ tín dụng cần phải quán triệt và thực hiện đúng những chủ trương, chính sách tín dụng của mỗi ngân hàng; thực hiện đúng và đầy đủ quy trình nghiệp vụ tín dụng; thường xuyên nâng cao trình độ nghiệp vụ, đạo đức.
Trên cơ sở những nghiên cứu cơ bản về rủi ro tín dụng và qua quá trình tìm hiểu hoạt động tín dụng cũng như thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, cũng những phân tích về diễn biến hoạt động tín dụng trong những năm gần đây, luận văn đã đưa ra một số giải pháp cũng như kiến nghị nhằm hạn chế phần nào rủi ro tín dụng.
Để có thể giải thích sự vật hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội thì cần phải hiểu được nguyên nhân của nó để từ đó có những giải pháp, biện pháp giải quyết thích hợp. Tuy nhiên, mặc dù đã hết sức cố gắng để hoàn thành được đề tài, nhưng vì trình độ hiểu biết còn nhiều hạn chế nên không thể tránh khỏi những sai sót và khiếm khuyết. Do đó, em rất mong được sự quan tâm và góp ý của quí thầy cô.
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình ngân hàng thương mại – TS Phan Thị Thu Hà và TS Nguyễn Thị Thu Thảo.
Quản trị ngân hàng thương mại – GS.TS Lê Văn Tư
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng thương mại – TS Nguyễn Văn Tiến
Cẩm nang quản lý tín dụng ngân hàng – GS Cao Cự Bội
Tạp chí ngân hàng các năm 2004 – 2005
Thời báo ngân hàng các năm 2004 – 2005
Kỷ yếu hội thảo khoa học các vấn đề trong hoạt động ngân hàng 2002
Một số văn bản pháp luật trong ngân hàng thương mại
Các báo cáo, tổng kết, sổ tay tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội.
môc lôc
Phụ lục
Bảng 1: Tình hình huy động vốn năm 2005
Bảng 2: Hoạt động tín dụng tại Ngân hàng No Hà Nội năm 2003-2005
Bảng 3: Thực trạng chất lượng tín dụng năm 2003-2005
Bảng 4: Phân loại nợ quá hạn năm 2003-2004
Bảng 5: Phân loại nợ quá hạn 2005
Bảng 6: Phân loại nợ quá hạn 2003-2004 và nợ xấu 2005 theo thời hạn
Bảng 7: Phân loại nợ quá hạn 2003-2004 và nợ xấu 2005 theo thành phần kinh tế.
Bảng 8: Cơ cấu dư nợ 2006 phân theo loại tiền
Bảng 9: Cơ cấu dư nợ 2006 phân theo thời hạn vay
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36450.doc