Một trong những yếu kém chủ yếu hiện nay của hệ thống NHTM VN là “chất lượng hoạt động tài sản có của các NHTM trong nước rất thấp, NQH cao” (Đỗ Tất Ngọc-tạp chí Ngân hàng số đặc biệt 2001, tập 2 trang 41). Mặt khác, để thực hiện được định hướng công tác năm 2004 của SGDI - NHCT VN các biện pháp đã được thông qua trong đó có biện pháp “. tăng cường cập nhật thông tin, nắm bắt kịp thời tình hình biến động trên thị trường tài chính tiền tệ cũng như tình hình sản xuất kinh doanh của từng khách hàng (thông qua các hình thức phân tích, đánh giá, phân loại nợ vay) để chủ động áp dụng các chính sách cho vay đúng hướng, hạn chế yếu tố rủi ro tiềm ẩn, đảm bảo vốn vay an toàn và phát huy được hiệu quả kinh tế.” (Báo cáo tổng kết công tác kinh doanh 2003 và triển khai nhiệm vụ kinh doanh năm 2004 của SGDI - NHCT VN).
Như vậy, vấn đề cấp bách nhất hiện nay trong quản trị điều hành hoạt động kinh doanh của các NHTM nói chung và SGDI nói riêng là làm sao để đảm bảo an toàn tín dụng, cải thiện tình hình tài chính và nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM
Trên cơ sở nghiên cứu cơ bản về RRTD và qua quá trình tìm hiểu hoạt động tín dụng và thực trạng tình hình RRTD của SGDI-NHCT VN, thông qua phân tích tình hình trên, luận văn đã đề xuất một số giải pháp sát thực và khả thi nhằm hạn chế RRTD tại SGDI-NHCT VN. Theo đó Sở có thể chủ động hạn chế rủi ro tín dụng. Song vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng, thiết nghĩ đó không phải là chỉ giới hạn trong Sở mà nó cần có sự quan tâm của chính phủ, các cấp các ngành và của toàn xã hội. Vì vậy chuyên đề cũng xin đề xuất một số kiến nghị đối với chính phủ cũng như NHNN và các doanh nghiệp. Đó là những ý kiến đóng góp nhỏ nhằm hạn chế RRTD tại SGDI-NHCT VN nói riêng và hệ thống NHTM nói chung.
Do thời gian nhiên cứu và trình độ chuyên môn còn hạn chế, mặt khác vấn đề RRTD rất phức tạp và rộng lớn vì thế nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô, các cán bộ nhân viên ngân hàng và các bạn để bài viết có ý nghĩa thiết thực hơn.
Một lần nữa, em xin chân thành cám ơn thầy giáo hướng dẫn Trương Đăng Khoa, các thầy cô trong khoa Quản trị Kinh doanh Ngân hàng cùng tập thể ban lãnh đạo, cán bộ tín dụng SGDI - NHCT VN đã tận tình hướng dẫn giúp em hoàn thành chuyên đề này.
82 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1097 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở Giao Dịch I- Ngân hàng Công Thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cán bộ tín dụng tuy đã được nâng nên về nghiệp vụ song chưa đáp ứng được yêu cầu, kết quả thẩm định dựa trên những thông tin do khách hàng cung cấp và phân tích, nên mang tính hình thức chưa thực sự đóng vai trò quan trọng quyết định cho vay. Do đó, đã quyết định cho vay một số dự án không có tính khả thi gây ra NQH cho ngân hàng.
Do hoạt động kiểm tra, kiểm soát của ngân hàng không được tốt.
Lượng khách hàng quan hệ với Sở chủ yếu tập trung vào một số khách hàng lớn, nên việc phân tán rủi ro gặp nhiều khó khăn, chất lượng tín dụng chưa được tốt. NQH, NKĐ vẫn còn cao so với quy định mặc dù không có phát sinh thêm và đã có nhiều biện pháp tích cực để thu hồi.
Ngân hàng còn quá tin tưởng vào tài sản thế chấp. Tư tưởng này gây ra sự chủ quan trong việc tính toán hiệu quả của khoản vay, lơi là giám sát việc sử dụng tiền vay của khách hàng, dẫn đến hiện tượng khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, hoặc lừa đảo... dẫn đến NQH cho ngân hàng.
Có nhiều khoản cho vay theo chỉ định của chính phủ nhiều khi cũng gây ra nhiều rủi ro cho ngân hàng.
Do sự cạnh tranh của các NHTM hiện nay là rất gay gắt. Sự tồn tại và phát triển của một NHTM phụ thuộc vào việc ngân hàng đó có nhiều khách hàng hay không. Cho nên nhiều ngân hàng đã sử dụng mọi biện pháp nhằm thu hút lôi kéo khách hàng về phía mình như hạ lãi suất cho vay... hay các biện pháp không lành mạnh khác. Chính vì vậy, đôi khi Sở buộc phải thực hiện các yêu cầu của khách hàng nhằm giữ được khách. Điều này đôi khi mang đến cho Sở không ít rủi ro.
2.3.2.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng vay vốn.
Sự yêú kém của khách hàng là một nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng của Sở. Phần lớn các nhà kinh doanh đều trưởng thành trong thời kỳ bao cấp, nhiều người thiếu hẳn sự năng động cần thiết và những kiến thức cơ bản về KTTT. Thậm chí có những người còn chưa qua một khoá đào tạo về kinh doanh nào. Dẫn đến làm ăn không hiệu quả gây NQH cho ngân hàng.
Do khách hàng sử dụng vốn không đúng mục đích, một số khách hàng sử dụng vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn. Tại Sở có công ty Thương mại đầu tư phát triển Hà Nội, do sử dụng vốn sai mục đích dẫn đến NQH, đến nay công ty này còn nợ 5,2 tỷ đồng.
Có trường hợp NQH phát sinh do lừa đảo của khách hàng hay giám đốc bị bắt, bỏ trốn vì các vụ kiện khác nhau. Loại này tại Sở năm 2001 chiếm 35%; năm 2002 chiếm 37%; năm 2003 chiếm 38% và thường là rất khó đòi, phải chờ đợi sự xét xử của toà án.
Nhận thức của khách hàng trong việc trả nợ cho ngân hàng là không cao, việc chấp hành pháp luật chưa đầy đủ nên ngân hàng rất khó khăn trong việc thu hồi nợ khi mà người vay cố tình chây ì, dây dưa không chịu trả nợ cho ngân hàng.
Hiện nay, DNNN vay vốn ngân hàng vẫn không phải thế chấp, vốn tín dụng tập trung lớn mà nhiều DNNN hoạt động không hiệu quả, làm ăn thua lỗ, hàng tồn kho, không tiêu thụ được nên dẫn đến NQH phát sinh là điều khó tránh khỏi.
Một số nguyên nhân khác là do hàng hoá của doanh nghiệp sản xuất chậm tiêu thụ dẫn đến tình trạng tồn đọng vốn không trả được nợ cho ngân hàng, hầu hết những hàng hoá đó rất khó tiêu thụ trên thị trường.
2.3.2.3. Các nguyên nhân khác.
Nhìn chung có thể kể đến là do sự thay đổi của môi trường kinh doanh, pháp luật. Trong quá trình đổi mới kinh tế, phá vỡ những rào cản để hội nhập với các nền kinh tế trong khu vực và thế giới, tham gia vào các tổ chức ASIAN, AFTA, Việt Nam đã có những điều chỉnh về quản lý kinh tế và xây dựng môi trường pháp lý phù hợp. Sự thay đổi này tạo ra những thuận lợi nhất định cho hoạt động của các thành phần kinh tế và cũng gây ra những khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Các văn bản pháp luật sửa đổi liên tục, có nhiều sơ hở, chồng chéo, mâu thuẫn. Các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước thay đổi quá nhiều và quá nhanh khiến cho các doanh nghiệp không thích ứng kịp gây ra thua lỗ trầm trọng.
Những năm 1993 - 1994, cơn sốt về đất đai đã thu hút hàng loạt các đơn vị đầu tư vào bất động sản. Đây là hoạt động đầu tư cần lượng vốn rất lớn các đơn vị không đủ vốn thì ồ ạt đi vay vốn ngân hàng để mua bất động sản. Khi thị trường bất động sản “nguội” đi thì các đơn vị không thu hồi đủ vốn, nhiều đơn vị thua lỗ lâm vào tình trạng phá sản, không có khả năng trả nợ ngân hàng. Các đơn vị này đã phải gán số bất động sản này cho ngân hàng và ngân hàng đã phải chịu gánh nặng về số tài sản xiết nợ đến nay vẫn chưa xử lý hết.
Hệ thống pháp lý ban hành chưa đáp ứng được yêu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đã lợi dụng sơ hở để cố tình làm sai, gây thất thoát cho ngân hàng nhiều tỷ đồng.
Cơ chế đảm bảo thực thi pháp luật còn kém hiệu lực. Việc triển khai cưỡng chế thi hành luật còn kém, thủ tục thi hành còn rườm rà phức tạp dẫn đến việc thi hành chậm trễ, gây tốn kém cho ngân hàng.
Khủng hoảng tài chính trong khu vực thời gian qua, thiên tai khốc liệt trên diện tích rộng miền trung gây thiệt hại nghiêm trọng về người và của cũng là một nhân tố gây nên NQH.
Trên đây là một số nguyên nhân chủ yếu thường gây ra RRTD cho Sở. Việc nhận ra và tiến hành khắc phục các hạn chế kể trên một cách nhanh chóng sẽ giúp Sở vừa hạn chế được rủi ro vừa đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu tăng trưởng an toàn và hiệu quả.
2.3.3. Đánh giá về thực trạng RRTD tại SGDI-NHCT VN.
2.3.3.1. Những kết quả đạt được.
Thực hiện phương châm: “phát triển-an toàn-hiệu quả” cùng với sự tăng trưởng dư nợ cho vay, Sở đã luôn chú trọng tới công tác phòng ngừa, hạn chế và khắc phục rủi ro. Do vậy, trong những năm qua, Sở đã đạt được một số thành tích nổi bật trong giải quyết NQH. Đồng thời Sở đã đưa ra những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, tăng quy mô kinh doanh, hạn chế tối đa NQH mới phát sinh, tăng cường đôn đốc thu hồi NQH, NKĐ cũ và đưa ra những biện pháp tích cực hạn chế, phòng ngừa rủi ro.
Tăng quy mô sản xuất đi đôi với việc nâng cao chất lượng tín dụng, không để phát sinh NQH, NKĐ đối với các khoản vay mới.
Đối với NQH khó đòi đã phát sinh từ những năm trước, Sở có những biện pháp:
+ Với doanh nghiệp gặp khó khăn tạm thời, cần phải có sự hỗ trợ của các ngành có liên quan, ngân hàng sẽ sử dụng các biện pháp như giãn nợ, giảm lãi suất quá hạn...giúp đơn vị tiếp tục đầu tư vốn để duy trì sản xuất kinh doanh, đi vào ổn định, có điều kiện tiếp tục trả nợ ngân hàng.
+ Đối với các đơn vị thực sự khó khăn, không có khả năng trả nợ nhưng vẫn phải duy trì hoạt động vì mục đích xã hội, sự nghiệp thì Sở chủ động kết hợp với các ngành các cấp có liên quan để tiến hành khoanh nợ
+ Đối với các trường hợp có tài sản thế chấp, kinh doanh gặp khó khăn, chây ỳ không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì khởi kiện trước pháp luật, niêm phong tài sản thế chấp chờ xử lý.
+ Đối với các khoản NQH khó đòi của các DNNN, Sở luôn bám sát đơn vị, thúc đẩy tiêu thụ hàng tồn kho, thanh toán công nợ để thu hồi vốn.
Đồng thời Sở đã cố gắng trong việc thẩm định hồ sơ vay vốn của khách hàng, áp dụng phương thức cho vay vốn đối với tài khoản vay, thực hiện đúng nguyên tắc và các điều kiện vay vốn. Sau khi cho vay thì kiểm tra, kiểm soát khách hàng một cách chặt chẽ và kịp thời phát hiện những dấu hiệu có thể rủi ro cho việc thu hồi vốn sau này. Sở cũng tiến hành tư vấn cho khách hàng những phương hướng kinh doanh đúng đắn để thu được lợi nhuận.
2.3.3.2. Những hạn chế trong công tác quản lý RRTD.
Bên cạnh những kết quả đạt được, Sở vẫn còn không ít những khó khăn tồn tại cần khắc phục.
Một là: cơ chế xử lý RRTD chưa đáp ứng được đòi hỏi thực tiễn lên một số cán bộ ngân hàng ngại xử lý hoặc né tránh đối với những món vay mà nếu xử lý tài sản thế chấp khi thu hồi không đủ nợ gốc tiền vay chứ chưa nói đến lãi. Do đó, NQH tồn đọng chưa giải quyết được nhiều.
Hai là công tác kiểm tra, kiểm soát của ngân hàng còn chưa kịp thời, không phát hiện để ngăn chặn các hành vi kinh doanh sai pháp luật của một số doanh nghiệp.
Ba là trình độ của cán bộ tín dụng còn nhiều bất cập, không theo kịp diễn biến tình hình kinh tế nên việc thẩm định giá tài sản thế chấp không sát với thực tế, chỉ để hợp lệ với thủ tục vay vốn, chạy theo chỉ tiêu dư nợ cho vay đơn thuần mà không chú ý tới hiệu quả của đồng tiền vay.
Bốn là hệ thống luật và các cơ chế chính sách chưa đáp ứng được những yêu cầu thực tế của đời sống. Biểu hiện còn chưa đồng bộ, có điểm chồng chéo nhau. Giá cả tài sản thế chấp xuống quá thấp so với thời điểm định giá nên rất khó bán được hoặc bán được nhưng không thu hồi đủ gốc tiền vay.
Thêm vào đó, diễn biến nền kinh tế phức tạp, hạ tầng chưa vững chắc gây khó khăn cho sự quản lý của nhà nước. Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý đặc biệt là đầu tư ồ ạt, sử dụng vốn sai mục đích... đã biến lượng vốn ngân hàng thành trung dài hạn và tài sản cố định làm cho NQH “đóng băng” kéo dài.
Để xử lý NQH một cách có hiệu quả hơn, Sở cần khắc phục những hạn chế trên đây thông qua việc thực hiện những giải pháp một cách đầy đủ, kịp thời, chính xác.
Chương 3
Giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế RRTD tại SGDI-NHCT VN.
3.1. Định hướng hoạt động của SGDI-NHCT VN trong thời gian tới.
Năm 2003 tuy có những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và trong nước song với phương châm “phát triển - an toàn - hiệu quả”, được sự quan tâm chỉ đạo của NHNN VN, NHNN HN, NHCT VN và sự ủng hộ giúp đỡ của các cơ quan trong và ngoài ngành từ TW đến địa phương trên toàn địa bàn, Đảng ủy và ban giám đốc SGDI luôn thống nhất hướng chỉ đạo các mặt nghiệp vụ với mục tiêu và giải pháp kinh doanh cụ thể, chủ động, sáng tạo do đó đã huy động mọi nguồn lực và phát huy cao nhất yếu tố nội lực để thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh năm 2003. Nhờ vậy, hoạt động kinh doanh của Sở trong năm 2003 đã đạt được kết quả nổi bật, phát triển đồng đều và toàn diện trên tất cả các mặt công tác, góp phần đáng kể vào kết quả kinh doanh của hệ thống NHCT VN, cũng như sự phát triển trên địa bàn thủ đô.
Bước vào năm 2004, trên cơ sở kết quả kinh doanh năm 2003; căn cứ mục tiêu, nhiệm vụ và các biện pháp kinh doanh của NHCT Việt Nam. SGDI đề ra nhiệm vụ kinh doanh năm 2004, cụ thể như sau:
Các chỉ tiêu hoạt động kinh doanh.
Nguồn vốn huy động tăng từ 5%-10% so với năm 2003.
Dư nợ cho vay tăng 15%-20% so với năm 2003
Lợi nhuận hạch toán nội bộ tăng 5% so với kế hoạch
NQH dưới 3% tổng dư nợ.
Xử lý nợ tồn đọng cũ 5 tỷ đồng.
Các biện pháp cụ thể
Để đạt được các mục tiêu đã đề ra,Sở GD I đề ra các nhiệm vụ chủ yếu sau:
Tiếp tục đẩy mạnh công tác huy động vốn, trong năm dự kiến mở thêm từ 1 đến 2 quỹ tiết kiệm hoặc phòng giao dịch ở địa bàn có môi trường kinh doanh, dân cư đông nhằm chiếm lĩnh thị trường huy động vốn. Chú trọng khai thác nguồn vốn dài hạn để cho vay trung, dài hạn.
Chủ động nắm bắt tình hình phát triển kinh tế trên địa bàn, diễn biến cung cầu vốn trên thị trường để có phương án huy động vốn thích hợp. áp dụng chính sách khách hàng linh hoạt trong khuôn khổ cho phép của NHCT Việt Nam, nhất là chính sách ưu đãi đối với những khách hàng có số dư tiền gửi , tiền vay lớn. Chú trọng phong cách giao dịch văn minh của cán bộ NHCT để tạo ấn tượng tốt đẹp đối với khách hàng.
Tiếp tục củng cố và phát triển quan hệ với khách hàng truyền thống, cho vay không phân biệt thành phần kinh tế. Chú trọng cho vay tiêu dùng, cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng cá nhân. Không đầu tư tập trung vào một số doanh nghiệp lớn. Từng bước cơ cấu lại khách hàng vay vốn bằng cách tăng cường tiếp thị thu hút khách hàng mới có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả để đầu tư vốn. Phân tích và đánh giá toàn diện khách hàng, phân loại khách hàng dựa trên kết quả và uy tín trong kinh doanh để có giải pháp đầu tư tín dụng hợp lý, hiệu quả. Hạn chế và giảm dần tín dụng đối với những trường hợp khách hàng có dấu hiệu kinh doanh không an toàn.
Tiếp tục bám sát chương trình cơ cấu lại nợ theo chủ trương của NHNN và hướng dẫn của NHCT VN, tranh thủ sự ủng hộ và phối hợp chăt chẽ với chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng trong việc xử lý tài sản để thu hồi nợ tồn đọng, bằng mọi biện pháp tích cực để thu hồi NQH, NKĐ, phấn đấu hạ tỷ lệ NQH thời điểm 31/12/2004 xuống dưới 3% tổng dư nợ.
Tiếp tục hoàn thiện chương trình INCAS. Có phương án triển khai nối mạng giao dịch với khách hàng lớn, nhằm cập nhập thông tin giao dịch với khách hàng. Tăng cường khảo sát, lắp đặt thêm máy ATM tại nhưng địa điểm thích hợp đi đôi với việc tuyên truyền, quảng cáo rộng rãi việc sử dụng thẻ ATM và các dịch vụ Ngân hàng điện tử, để các dịch vụ Ngân hàng mới trở nên quen thuộc đối với mọi đối tượng khách hàng.
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, kiểm tra chuyên sâu các nghiệp vụ kế toán; tín dụng; thanh toán quốc tế; nguồn vốn. Bằng nhiều hình thức kiểm tra, phúc tra nhằm nâng cao ý thức chấp hành cơ chế, chính sách, chế độ của cán bộ, hạn chế thấp nhất sai sót, đảm bảo kinh doanh an toàn - hiệu quả.
Tăng cường đào tạo và đào tạo lại trình độ nghiệp vụ cho cán bộ, trong đó chú trọng nghiệp vụ giao dịch theo chương trình HĐH Ngân hàng, nghiệp vụ kiểm tra, kiểm soát; nghiệp vụ tín dụng, vi tính, ngoại ngữ, các dịch vụ Ngân hàng mới…, nhằm nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ trực tiếp giao dịch với khách hàng, đáp ứng yêu cầu phát triển công nghệ ngày càng cao.
Chăm lo đời sống cán bộ, nhân viên, phối hợp chặt chẽ và phát huy tốt vai trò của các tổ chức đoàn thể. Thường xuyên phát động các phong trào thi đua gắn với nhiệm vụ kinh doanh, nhằm động viên toàn thể cán bộ, nhân viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Tạo mọi điều kiện để các phong trào văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao, tự vệ … hoạt động tốt, nhằm khơi dậy khí thế và động lực thúc đẩy hoàn thành tốt nhiệm vụ kinh doanh. Đoàn kết nội bộ, tăng cường và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức đoàn thể, động viên toàn thể cán bộ nhân viên hoàn thành tốt nhiệm vụ kinh doanh năm 2004.
Trước những yêu cầu và đòi hỏi của xu thế toàn cầu hoá, chặng đường mới có nhiều cơ hội để phát triển và cũng đầy thách thức khó khăn. Nhưng với truyền thống không ngừng đổi mới và phát triển, SGDI-NHCT VN quyết tâm phấn đấu hoàn thành mọi chỉ tiêu kế hoạch đề ra, với phương châm hoạt động “phát triển-an toàn-hiệu quả”.
3.2. Giải pháp nhằm hạn chế RRTD tại SGDI-NHCT VN.
RRTD không chỉ là vấn đề nan giải ở các ngân hàng Việt Nam mà còn đối với tất cả các ngân hàng trong khu vực và trên toàn thế giới. Đối với Việt Nam, các NHTM VN đang ở trong tình trạng NQH nặng nề và có xu hướng gia tăng trong những năm tới. Mặc dù các NHTM đã áp dụng những biện pháp phòng tránh NQH mới phát sinh và các biện pháp thu hồi NQH cũ, tuy nhiên kết quả đạt được là rất khiêm tốn. Vì vậy, việc tiếp tục hoàn thiện các giải pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế và xử lý RRTD là rất cần thiết. Sau một thời gian nghiên cứu vấn đề này tại SGDI-NHCT VN. Em xin được đưa ra một số giải pháp nhằm hạn chế RRTD.
3.2.1. Cần chuyên môn hoá cán bộ tín dụng trong hoạt động kinh doanh.
Điều đáng nói trước tiên là công tác đào tạo cán bộ, tổ chức bộ máy kinh doanh cho phù hợp với khả năng, trình độ của cán bộ.
Khi các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, các khách hàng có đầu tư lớn, đòi hỏi cán bộ tín dụng trước tiên cần phải phân tích đánh giá khách hàng về mặt khả năng tài chính của doanh nghiệp, uy tín của doanh nghiệp về luân chuyển vốn, từ đó cần thẩm định dự án, tài sản thế chấp, cầm cố đảm bảo tính sát thực của thông tin để tính toán đề phòng rủi ro.
Để làm được việc đó, đòi hỏi cần phải chuyên môn hoá cán bộ tín dụng. Bởi một cán bộ tín dụng dù tài giỏi đến đâu cũng không thể có hiểu biết sâu sắc về mọi lĩnh vực kinh doanh của nền kinh tế. Sự gia tăng các khoản nợ quá hạn của Sở trong những năm qua, tất nhiên là có nhiều nguyên nhân, nhưng phải khẳng định rằng nguyên nhân cơ bản là khả năng dự đoán thị trường và trình độ xử lý thông tin tín dụng của cán bộ tín dụng còn yếu. Do đó chuyên môn hoá đối với từng cán bộ tín dụng là cần thiết.
Khi chuyên môn hoá, Sở cần chia khách hàng theo từng nhóm có đặc điểm riêng. Trên cơ sở đó, căn cứ vào năng lực sở trường của từng cán bộ tín dụng (hay nhóm cán bộ tín dụng) cụ thể để phân công mỗi người thực hiện cho vay một loại khách hàng nhất định.
Đối với các khách hàng truyền thống, những khách hàng có uy tín và tình hình tài chính ổn định có thể phân theo ngành nghề kinh doanh. Đối với những khách hàng vay vốn lần đầu hoặc không thường xuyên vay vốn tại Sở, có độ tin cậy chưa cao, cần coi trọng các điều kiện vật chất đảm bảo.
Để tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng có thể hiểu biết khách hàng một cách sâu sắc, việc thay đổi cán bộ tín dụng phụ trách cho vay vốn khách hàng trong quá trình sắp xếp, phân công nhân viên cũng cần đặc biệt hạn chế.
Tóm lại việc chuyên môn hoá đối với từng cán bộ tín dụng vẫn đảm bảo được khả năng đa dạng hoá đầu tư của Sở để tránh rủi ro khắc phục được mâu thuẫn giữa chuyên môn hoá và đa dạng hoá, làm tăng chất lượng tín dụng đồng thời giảm chi phí trong công tác điều tra tìm hiểu khách hàng, thậm chí phân tích tín dụng, giám sát khách hàng trong quá trình sử dụng tiền vay.
3.2.2. Đa dạng hoá hoạt động đầu tư, tín dụng
Đây là biện pháp mang tính chất chủ động cao nhằm phân tán RRTD. Thực chất của đa dạng hoá đầu tư là đầu tư vào nhiều loại tài sản có mức độ lợi tức khác nhau, tức là phân tán mức độ rủi ro trên tài sản có thể gặp phải. Qua đó ngân hàng không tập trung quá nhiều vốn vào một dự án nào đó. Việc giảm mức độ rủi ro có thể gặp phải cho từng dự án cũng chính là việc giảm thiểu rủi ro cho hoạt động tín dụng.
Đa dạng hoá hoạt động tín dụng đầu tư cũng chính là thực hiện nguyên tắc “không nên bỏ tất cả trứng vào một giỏ”. Thời gian qua, cơ cầu vốn vay của Sở còn không đều, phần lớn tập trung vào một số khách hàng truyền thống sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực công thương nghiệp như tổng công ty Bưu chính viễn thông, công ty Dược phẩm TW 1, công ty thực phẩm Hà Nội. Do hoạt động tín dụng của Sở tập trung trong lĩnh vực truyền thống và chủ yếu là các DNQD nên cho tới nay Sở chưa có được khách hàng truyền thống là các DN NQD.
Mặc dù năm 2003, với chính sách khách hàng hợp lý, Sở đã thu hút được nhiều khách mới là các doanh nghiệp lớn hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả và các khách hàng tư nhân, mở rộng đối tượng khách hàng. Thực hiện cho vay sinh viên, cho vay tiêu dùng đối với cán bộ CNV. Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp còn thấp. Vậy nên trong những năm tới, Sở cần chú trọng hơn để nâng cao chất lượng cũng như khối lượng tín dụng. Trong thời gian tới phù hợp với định hướng phát triển kinh tế thủ đô, Sở có thể mở rộng cho vay các dự án lớn có vốn đầu tư nước ngoài với trình độ kỹ thuật hiện đại như liên doanh sản xuất lắp ráp xe máy, đầu tư cho vay xây dựng bệnh viện, trường học tư nhân, đây là khu vực có nhu cầu lớn trong tương lai. Đa dạng hoá đối tượng khách hàng nhưng vẫn duy trì cho vay có trọng điểm đối với các DNNN, các tổng công ty sẽ giúp cho Sở hạn chế rủi ro trong cho vay đối với khu vực quốc doanh cũng như khai thác được tiềm năng vốn có của khu vực kinh tế khác.
Bên cạnh các phương thức cho vay như: cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, Sở cần phát triển các phương thức khác như cho vay trả góp, cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng, chiết khấu các giấy tờ có giá. Ngoài ra, Sở cần phát triển hình thức dịch vụ trọn gói từ mở tài khoản, cho vay, mua bán ngoại tệ, thanh toán... việc cung cấp loại hình dịch vụ này sẽ giúp đem lại sự thuận tiện cho khách hàng, tăng cường mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng và giúp cho ngân hàng có một lượng thông tin đầy đủ hơn về khách hàng.
3.2.3. Trích lập dự phòng đối với các khoản nợ có vấn đề và sử dụng chỉ tiêu nợ có vấn đề để phân loại các khoản cho vay.
Nợ có vấn đề là chỉ tiêu phản ánh RRTD ở dạng tiềm năng. Dự phòng là việc trích ra từ thu nhập theo một tỷ lệ quy định để trang trải một phần hoặc toàn bộ các khoản mất mát vốn, trên cơ sở đánh giá mức độ rủi ro đối với từng khoản đã cho vay và toàn bộ danh mục cho vay. Như vậy, việc trích lập dự phòng là cần thiết. Tuy nhiên điều cần quan tâm là việc đánh giá các khoản tín dụng như thế nào để có thể đánh giá đựợc mức độ rủi ro lại là điều quan trọng. Hiện nay, Sở đang thực hiện phân loại tín dụng theo thời gian và trích lập dự phòng theo thời gian (khoản cho vay trong hạn hay quá hạn). Việc phân loại này làm cho RRTD không được nhìn nhận một cách chính xác theo đúng mức độ rủi ro của nó, làm giảm vai trò to lớn của việc trích lập dự phòng. Dựa trên cách phân loại này, khoản cho vay được chia thành nhiều cấp, theo thứ tự từ chất lượng tốt nhất đến nợ không có khả năng thu hồi. Khoản cho vay có hiệu quả được trích dự phòng ở tỷ lệ chung; khoản cho vay được liệt vào danh sách theo dõi bao gồm khoản cho vay có dấu hiệu rủi ro (thể hiện qua tiêu thức như khả năng trả nợ, giá trị tài sản thế chấp không hợp lý, trì hoãn trả nợ); khoản vay bị nghi ngờ (khi các tiêu thức trên được xác thực và có dấu hiệu xấu đi); cuối cùng là khoản cho vay khó thu hồi được và có khả năng phải xoá nợ. Trong đó trọng tâm là việc sử dụng chỉ tiêu nợ có vấn đề để thống kê các khoản vay nào còn trong hạn nhưng đã tiềm ẩn rủi ro.
Để phân loại tín dụng đúng ở mức độ rủi ro của nó, Sở cần dựa vào các chỉ tiêu: lịch sử quan hệ tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng; luồng tiền và dư nợ của khách hàng tại ngân hàng; chất lượng quản lý của đội ngũ lãnh đạo; xu hướng của mặt hàng kinh doanh...Việc phân loại này giúp nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng trong việc theo dõi chặt chẽ đánh giá rủi ro của từng khoản tín dụng tại từng thời điểm, từ đó ngân hàng có thể đánh giá mức độ rủi ro hợp lý của mỗi danh mục đầu tư, giám sát nguồn vốn phân bổ hiệu quả hơn. Việc trích lập dự phòng của Sở một mặt tuân thủ theo quy định của NHNN, song không nên quá máy móc. Hiện nay, Sở chỉ trích lập dự phòng đối với các khoản nợ quá hạn còn các khoản vay trong hạn theo quy định tỷ lệ trích lập DPRR là 0%.
Song có những khoản vay đã xuất hiện dấu hiệu rủi ro, Sở cần trích lập dự phòng đối với cả những khoản này, căn cứ vào mức độ rủi ro để đưa ra một tỷ lệ hợp lý. Hay nói cách khác cần cụ thể hoá tỷ lệ trích lập dự phòng đối với từng khoản vay theo mức độ rủi ro.
3.2.4. Chủ động phân tán rủi ro thông qua cho vay đồng tài trợ và bán rủi ro.
Trong hoạt động tín dụng, việc phân tán rủi ro được thực hiện thông qua nhiều biện pháp, trong đó có cho vay đồng tài trợ và bán rủi ro.
Thời gian qua Sở đã thực hiện thành công một số hoạt động đồng tài trợ như dự án đuôi hơi Phú Mỹ... Đó là những khoản tín dụng lớn, khó xác định được mức độ rủi ro mà một mình ngân hàng không đủ khả năng cho vay. Việc các ngân hàng tham gia đồng tài trợ hay hợp vốn tạo ra một thế mạnh như mỗi ngân hàng có một hệ thống khách hàng quen thuộc, có lĩnh vực am hiểu tường tận, hay nói cách khác, có thế mạnh riêng. Việc đồng tài trợ sẽ tập trung và phân bổ cho nhau thế mạnh của, hạn chế mặt yếu, tạo sự kiểm soát đồng bộ về khách hàng, bổ sung vốn, bổ sung nghiệp vụ và học hỏi lẫn nhau. Do đó ngân hàng cần kêu gọi các ngân hàng và các nhà đầu tư khác cùng tham gia đánh giá khách hàng, thẩm định dự án và tài trợ. Biện pháp này tuy phải chia sẻ lợi nhuận đầu tư cho các nhà đầu tư khác nhưng bù lại nó đảm bảo chắc chắn hơn kết quả sẽ thu được từ việc đầu tư. Mặt khác, với cùng một số vốn bằng biện pháp đồng tài trợ, ngân hàng có thể tham gia được nhiều hơn các dự án có quy mô lớn. Không chỉ phân tán rủi ro mà biện pháp này còn giúp ngân hàng mở rộng kinh doanh, phát triển uy tín trên thị trường, tiếp thu nhiều kinh nghiệm
Bán rủi ro: đó là chuyển rủi ro cho các chủ thể có khả năng chịu rủi ro cao hơn. Trong trường hợp khoản vay có rủi ro cao , ngân hàng khó có thể chịu nổi nếu rủi ro xẩy ra . Ngân hàng sẽ “bán” khoản cho vay cho ngân hàng lớn hơn hoặc một trung gian tài chính khác để hưởng hoa hồng phí. Như ta đã biết, các biện pháp đa dạng hoá danh mục đầu tư nhằm phân tán rủi ro không có tác dụng đối với các rủi ro mang tính vĩ mô (rủi ro hệ thống) nên việc sử dụng kết hợp với biện pháp bán rủi ro cho các chủ thể khác nhau có thể là một giải pháp mang tính thiết thực cao. Mặc dù thu nhập từ cho vay có thể giảm sút nhưng bù lại ngân hàng lại đảm bảo khả năng an toàn, phòng tránh được những rủi ro lớn mà ngân hàng không chịu nổi. Đây có thể là một hướng để Sở áp dụng.
3.2.5. Hoàn thiện quy trình tín dụng.
Trước hết Sở cần xây dựng chính sách tín dụng nhằm hạn chế rủi ro, đảm bảo an toàn trong kinh doanh tín dụng. Trong đó nội dung quy mô và giới hạn tín dụng cần đặc biệt chú ý, tránh việc chạy theo mục đích lợi nhuận dẫn tới nguy cơ chất lượng tín dụng bị suy giảm. Trong các quy định về tài sản thế chấp trong việc cho vay vốn, Sở không nên coi tài sản thế chấp là chỗ dựa hoàn toàn đảm bảo an toàn tín dụng. Vấn đề là ai và hiệu quả sử dụng vốn như thế nào. Nếu được Sở nên nhận tài sản thế chấp là các giấy tờ có giá, dễ chuyển thành tiền, ít bị rủi ro hơn.
Trong công tác kiểm tra, giám sát khoản vay ngân hàng cần chủ động hơn. Điều đó giúp ngân hàng sớm phát hiện các dấu hiệu rủi ro. Không chỉ kiểm tra qua các báo cáo định kỳ do khách hàng cung cấp, cán bộ tín dụng phải chủ động xuống tận cơ sở để kiểm tra. Việc kiểm tra không chỉ dừng lại ở mức tối thiểu 1 lần/ 1 năm như hiện nay mà cần xác định phù hợp với ngành nghề kinh doanh của khách hàng và nên quy định thực hiện ít nhất 1 lần/1 quý. Việc kiểm tra này không chỉ được thực hiện bởi cán bộ tín dụng phụ trách khoản cho vay mà cần quy định thêm việc thực hiện kiểm tra chéo giữa các cán bộ tín dụng và đối với những khoản vay lớn có thể có sự kiểm tra đánh giá của một bộ phận chuyên trách.
Sở cần quy định việc cán bộ tín dụng xuống cơ sở của khách hàng để thu nợ khi đến hạn. Quy định này thể hiện sự quan tâm, theo dõi sát sao của ngân hàng, một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng không phải tốn nhiều thời gian, mặt khác đảm bảo các khoản nợ được trả đúng hạn, buộc khách hàng nâng cao ý thức trách nhiệm đối với khoản vay.
Trong việc thực hiện quy trình tín dụng cần có sự phân công trách nhiệm rõ ràng về phía ban lãnh đạo, về các cán bộ nhân viên cũng như sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận. Trong đó cùng với việc giao trách nhiệm cho cán bộ tín dụng cần quan tâm hơn đến quyền lợi của họ. Cần có sự động viên khuyến khích cả về tinh thần và vật chất kịp thời đối với những cán bộ tín dụng làm việc có hiệu quả.
3.2.6. Xử lý NQH bằng đồng tài trợ.
Trong những năm qua Sở đã thực hiện các biện pháp kiên quyết để thu hồi NQH, NKĐ, từng bước giảm tỷ lệ NQH trong tổng dư nợ . Tuy nhiên có một số khoản NQH mà khả năng của Sở không đủ sức về vốn, về con người và kinh nghiệm để giải quyết hoặc giải quyết không hiệu quả. Nên chăng, Sở cần phối hợp với các ngân hàng khác theo dạng đồng tài trợ để xử lý NQH. Như thế sẽ tập trung và phân bổ cho nhau thế mạnh, hạn chế mặt yếu, tạo sự kiểm soát đồng bộ về khách hàng, bổ sung vốn, bổ sung nghiệp vụ.
Dưới đây là một số đề suất cụ thể để xử lý NQH bằng đồng tài trợ.
Xử lý NQH mới phát sinh, ta phải phân loại NQH này theo các nguyên nhân khác nhau
+ Nếu là do ngân sách nợ: nên mời tham gia đồng tài trợ với các ngân hàng khác cho ứng vốn trước ngân sách dưới dạnh mua nợ và ngân hang cam kết khi có tiền sẽ trả cho ngân hàng mua nợ.
+Nếu là do xác định thời hạn không đúng
Dùng vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. nên mời các ngân hàng khác tham gia hợp đồng vốn, hoặc bán nợ trong một thời gian sau đó mua lại.
Nếu quay vòng vốn nhiều lần do kiểm soát khách hàng không tốt, không am hiểu lĩnh vực kinh doanh của khách hàng, Sở nên tham gia đồng tài trợ, hoặc bán nợ cho ngân hàng am hiểu lĩnh vực này. Ví dụ: khách hàng vay để nhập khẩu, trong khi xuất khẩu lại ở ngân hàng khác, có thể tham gia đồng tài trợ giữa 2 ngân hàng để kết hợp 2 nguồn hoặc mua nợ.
+ Nếu do hàng chậm luân chuyển: Sở nên kết hợp với ngân hàng khác cho khách hàng mua hàng và có mạng lưới đại lý tốt vay vốn để mua hàng và bán hàng chậm luân chuyển, hoặc các ngân hàng có khách hàng quen, có lĩnh vực tiêu thụ các mặt hàng này. Ví dụ: Sở có khách hàng có mạng lưới bán mì ăn liền xuất khẩu tốt, trong khi ngân hàng khác có khách hàng sản xuất mì nhưng không bán được và khách hàng vay vốn đã vượt quá hạn mức sẽ phải tham gia đồng tài trợ để mua mì và xuất đi.
Xử lý NQH đã chuyển sang NKĐ.
Do coi trọng tài sản thế chấp hơn phương án vay vốn hoặc không kiểm soát được phương án kinh doanh hoặc giữ lô hàng mà ngân hàng không am hiểu, ngân hàng nên bán nợ hoặc đồng tài trợ với ngân hàng khác có khách hàng quen thuộc am hiểu lĩnh vực này.
Để ngăn ngừa NQH
Sở có thể tham gia đồng tài trợ để cùng xây dựng một hạn mức và cùng kiểm soát để khách hàng không tăng quy mô kinh doanh quá sức của mình, chia sẻ rủi ro.
Có thể tham gia đồng tài trợ khi đang gia hạn nợ do kế hoạch kinh doanh không đúng như dự kiến, trong trường hợp này nên mời các ngân hàng có khách hàng là người mua hàng cùng đồng tài trợ, hoặc mua lại nợ. Trên cơ sở ngân hàng khác kiểm soát được luồng tiền của khách hàng và chuyển trả nợ cho người bán.
Nếu vì nhu cầu vốn của doanh nghiệp quá lớn nhưng đã không cho vay đủ số vốn cần thiết dẫn đến không phù hợp với nhu cầu kinh doanh có khả năng dẫn đến NQH, mời ngân hàng khác tham gia bơm thêm vốn để tiếp sức cho khách hàng.
Đồng tài trợ nợ tốt: đây là dạng hợp vốn với thời gian < thời gian cho vay với lãi suất < lãi suất cho vay.
Ngoài các giải pháp trên, Sở còn kết hợp thực hiện các giải pháp khác như thực hiện nghiêm túc các quy chế tín dụng, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, linh hoạt trong khâu xử lý nợ, đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ cán bộ ngân hàng... nhằm hạn chế RRTD đến mức thấp nhất.
3.3. Một số kiến nghị nhằm hạn chế RRTD tại SGDI - NHCT VN.
Trong nhiều năm qua, Sở đã có nhiều cố gắng nhằm quản lý RRTD, giảm tỷ lệ NQH, giảm số nợ tồn đọng. Mặc dù vậy, trong quá trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn cũng như còn có những hạn chế nhất định. Để tạo điều kiện giúp đỡ ngân hàng thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ của mình, NHNN,NHCT VN cũng như chính phủ và các ban ngành các cấp cũng cần có một số biện pháp tháo gỡ những vấn đề ách tắc do quản lý vĩ mô chưa phù hợp.
3.3.1. Kiến nghị về phía NHCTVN
3.3.1.1. NHCTVN cần phải thành lập phòng thẩm định riêng tại Sở giao dịch I
Ngày 20/10/2003, Chủ tịch Hội đồng Quản trị NHCTVN đã ban hành quyết định số 135/QĐ-HĐQT-NHCT1 về mô hình tổ chức mới của Sở giao dịch I theo dự án hiện đại hoá WB. Từ đó đã nâng số phòng của Sở giao dịch I từ 09 phòng lên 11 phòng chức năng. Tuy nhiên khi xem xét trên nhiều khía cạnh khác nhau thì vẫn thấy rằng Sở giao dịch I cần phải có một phòng thẩm định riêng. Công tác thẩm định là một khâu quan trọng và rất cần thiết trong quy trình tín dụng. Tuy rằng trình độ cán bộ tín dụng đã được nâng lên nhiều nhưng vì công tác thẩm định là rất phức tạp và khó khăn nên người cán bộ tín dụng không thể xem xét hết được khả năng tài chính và dự án kinh tế của khách hàng. Vì vậy có một phòng thẩm định riêng sẽ giúp cho Sở giao dịch I thẩm định được kỹ càng tình hình tài chính của các doanh nghiệp xin vay từ đó sẽ phát hiện ra những nghi ngờ về số liệu báo cáo của doanh nghiệp. Dẫn đến sẽ hạn chế được tình trạng cho vay đối với những khách hàng có tình hình tài chính bất ổn. Ngoài ra việc có một phòng thẩm định sẽ giúp cho cán bộ tín dụng thẩm định được các dự án có hiệu quả kinh tế hay không, tránh hiện tượng đầu tư vào những dự án không có hiệu quả, hoặc hiệu quả kinh tế thấp. Từ đó góp phần làm hạn chế RRTD tại Sở giao dịch I.
3.3.1.2. NHCTVN cần tổ chức thường xuyên các lớp tập huấn về nghiệp vụ cho cán bộ
Trong những năm gần đây, trình độ cán bộ tuy đã được nâng lên nhiều về nghiệp vụ song chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của Sở giao dịch I, nhất là về vi tính và ngoại ngữ nên khi áp dụng công nghệ Ngân hàng hiện đại còn gặp nhiều khó khăn. Số cán bộ đang phải học chuyển đổi từ cao đẳng lên Đại học cũng rất đông nên ảnh hưởng nhiều đến công việc. Vì vậy NHCTVN cần phải thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ nhằm nâng cao trình độ về nghiệp vụ để giúp cho cán bộ có thể dễ dàng tiếp cận với Công nghệ Ngân hàng hiện đại. Từ đó cán bộ nhân viên Sở giao dịch I có thể hoàn thành tốt công việc của mình trong quá trình HĐH của Sở giao dịch I. Nhất là cán bộ tín dụng có thể làm tốt công tác thu thập thông tin về khách hàng từ đó sẽ hạn chế được việc cho vay đối với những khách hàng không đảm bảo về tài chính từ đó sẽ hạn chế được RRTD.
3.3.2. Kiến nghị đối với NHNN
3.3.2.1. NHNN cần hoàn thiện các văn bản về quy chế trích lập quỹ dự phòng rủi ro.
Hiện nay, việc trích lập quỹ DPRR trong hoạt động tín dụng được thực hiện theo quyết định số 48/1999/QĐ-NHNN5 ngày 8-2-1999 của thống đốc NHNN. Đây là một quyết định rất phù hợp với xu thế và tình hình hiện nay của các ngân hàng. Tuy nhiên, do bước đầu xây dựng và thực hiện thì quyết định này có những điểm chưa thực sự phù hợp.
Thứ nhất, về thời điểm trích lập DPRR. Theo quy định này thì các tổ chức tín dụng phải phân loại tài sản “có” và trích lập dự phòng để bù đắp rủi ro mỗi năm 1 lần trong vòng 25 ngày làm việc đầu tiên của mỗi năm. Việc làm này sẽ làm cho hầu hết các tổ chức tín dụng bị lỗ ngay từ đầu năm và có thể kéo dài suốt cả năm dẫn đến tình trạng là kết quả kinh doanh của tổ chức tín dụng không được phản ánh một cách chính xác trên sổ sách kế toán suốt cả năm. Nên chăng cho phép các tổ chức tín dụng được trích lập DPRR vào thời điểm cuối mỗi quý. Việc làm này vừa có ý nghĩa về mặt tài chính, vừa đảm bảo cho số DPRR được trích ra luôn gắn liền với mục đích rủi ro có thể xảy ra.
Thứ hai. Tỷ lệ trích lập DPRR. Việc quy định trích DP 0% đối với các tài sản có thuộc nhóm 1 có nghĩa là tài sản này không hề có rủi ro, 100% đối với tài sản thuộc nhóm 4 chứng tỏ sự thừa nhận rằng các khoản nợ thuộc nhóm 4 được đánh giá là hoàn toàn không có khả năng thu hồi. Nhưng thực tế cho thấy, những khoản nợ chưa đến hạn vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro, thậm chí có thể xác định là không thể thu hồi được trong trường hợp con nợ bị phá sản, giải thể hoặc chết, mất tích. Do đó tỷ lệ trích lập 0% là không hợp lý. Thông thường các tổ chức tín dụng chỉ cho vay bằng hoặc thấp hơn 70% giá trị tài sản đảm bảo. Như vậy ngay cả khi giá trị tài sản đảm bảo bị mất giá tới 50-70% thì khoản nợ vẫn được thu hồi được 40-70%. Do đó tỷ lệ trích lập 100% với tài sản có thuộc nhóm 4 là chưa phù hợp. Để giải quyết vấn đề này, chính phủ nên quy định việc trích lập DPRR cần phải phù hợp với mức độ tổn thất có thể xảy ra.
Thứ ba, đó là việc trích DPRR đối với các khoản NQH cũ được tích luỹ từ nhiều năm trước được dồn vào 1 năm tài chính dẫn đến tình trạng nhiều tổ chức tín dụng bị lỗ lớn và không phản ánh đúng kết quả kinh doanh trong năm tài chính của các tổ chức tín dụng. Vì vậy NHNN nên cho các khoản NQH cũ được tồn lại từ nhiều năm trước dải ra một số năm kế tiếp theo nhằm tránh gây ra những đột biến lớn về việc suy giảm lợi nhuận.
Và cuối cùng là việc sử dụng quỹ DPRR để xử lý NQH không có khả năng thu hồi. Các khoản NQH không có khả năng thu hồi đang là một gánh nặng lớn đối với hoạt động của các NHTM QD. Việc xử lý các khoản nợ này có thể được thực hiện bằng việc sử dụng quỹ bù đắp rủi ro được trích lập hàng năm. Nhưng việc sử dụng quỹ DPRR để thực hiện xoá nợ đối với các khoản nợ không có khả năng thu hồi đối với các NHTM QD là rất khó khăn. Mặc dù các khoản nợ này đã được xác định là không có khả năng thu hồi và không bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng, nhưng để xoá nợ thì ngân hàng phải thực hiện rất nhiều thủ tục rườm rà, mất thời gian. Vì vậy, NHNN cần xem xét lại vấn đề thủ tục xét duyệt xoá nợ không có khả năng thu hồi, giúp các NHTM QD nhanh chóng thực hiện cơ cấu lại tình hình tài chính, làm sạch bảng tổng kết tài sản.
3.3.2.2. NHNN cần có biện pháp nhằm nâng cao chất lượng thông tin tín dụng của trung tâm thông tin tín dụng.
Hiện nay, nguồn thông tin chính thức của ngân hàng và các tổ chức tín dụng là ở trung tâm thông tin tín dụng (CIC). Tuy nhiên, do mới được thành lập và đi vào hoạt động, còn đang trong giai đoạn củng cố và hoàn thiện lên CIC vẫn còn phải đương đầu với nhiều khó khăn trong việc thu thập và xử lý thông tin. Việc thu thập xử lý thông tin biến động của CIC thực hiện chưa có hiệu quả, số liệu cập nhật không kịp thời, độ tin cậy thấp đã khiến cho các NHTM và các tổ chức tín dụng khác ít sử dụng tài liệu do CIC cung cấp
Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do thông tin của CIC phần lớn là do các doanh nghiệp, các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác cung cấp, thông tin này thường bị sai lệch do các doanh nghiệp chưa thực hiện đúng và đầy đủ pháp lệnh kế toán thống kê. Việc cung cấp thông tin không kịp thời đã làm cho các thông tin bị lạc hậu so với thời điểm cung cấp. Các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác chưa tuân thủ đúng các quy định về cung cấp thông tin, và xác nhận dư nợ của khách hàng, thiếu tinh thần trách nhiệm hợp tác với nhau để cho vay.
Chính vì vậy mà thông tin của CIC không đủ khả năng giúp các NHTM và các tổ chức tín dụng khác đánh giá đúng thực trạng tài chính và dư nợ của các doanh nghiệp để đảm bảo sự đúng đắn của quyết định cho vay, khiến cho mức rủi ro trong công tác tín dụng của NHTM VN cao hơn mức an toàn cho phép. NHNN cần có các chính sách và biện pháp tích cực hơn nhằm sớm nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng phục vụ hoạt động tín dụng của các NHTM và các tổ chức tín dụng khác.
3.3.2.3. Một số kiến nghị khác.
NHNN cần tiếp tục nghiên cứ kinh nghiệm thực tế của các nước trong việc quản lý RRTD, cần cho phép các ngân hàng đầu tư thêm vào tài sản xiết nợ để khai thác có hiệu quả hơn như đầu tư hoàn chỉnh thêm vào các tài sản đã được gán nợ còn đang xây dựng dở dang hoặc bị hư hỏng xuống cấp. Mặt khác NHNN cần phải có các văn bản hướng dẫn chỉ đạo việc cạnh tranh giữa các NHTM nhằm đảm bảo cạnh tranh lành mạnh tránh vì mục đích tranh giành khách hàng quá mức dẫn tới hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng dẫn tới rủi ro.
3.3.3. Về phía nhà nước.
Nền kinh tế nước ta mới chuyển từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, tuy đã có những thành tựu nhất định song vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục củng cố và hoàn thiện. Với sự hiện diện của nhiều thành phần kinh tế song song tồn tại, cùng hoạt động bình đẳng và cạnh tranh mạnh mẽ đã tạo lên một thị trường hết sức sôi động, đồng thời cũng tiềm ẩn trong đó không ít rủi ro. Trong môi trường đó, việc xây dựng một hành lang pháp lý an toàn thuận lợi và việc đưa ra các chính sách quản lý vĩ mô phù hợp của nhà nước có tính chất quyết định đến thành công hay thất bại của mỗi NHTM trong việc quản lý RRTD và việc phát triển hoạt động ngân hàng. Để tạo điều kiện cho các NHTM nói chung và SGDI-NHCT VN nói riêng thực hiện tốt công tác quản lý RRTD đề nghị nhà nước xem xét một số vấn đề sau:
3.3.3.1. Nhà nước cần có biện pháp quản lý chặt chẽ hơn đối với các doanh nghiệp
Chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần trong công cuộc đổi mới của Đảng và nhà nước ta là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, việc phát triển mạnh các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, nhất là kinh tế tư nhân ở giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi, với thể chế, chính sách chưa hoàn chỉnh, đồng bộ đã nẩy sinh những mặt trái của nó, như kinh doanh không đúng ngành nghề như đăng ký, các báo cáo tài chính của doanh nghiệp không phản ánh đúng chế độ kế toán thống kê (một phần là do pháp lệnh kế toán thống kê ở nước ta chưa đầy đủ và hiệu lực, một phần là do điều kiện hạch toán thống kê ở nước ta chưa phát triển và chưa thực hiện hoạt động kiểm toán bắt buộc định kỳ, chưa có những biện pháp kinh tế và hành chính xử lý các vi phạm thích đáng). Vì thế trước tiên nhà nước cần chấn chỉnh việc cấp phép hoạt động và kinh doanh đối với các doanh nghiệp mới, đảm bảo các điều kiện về vốn, cơ sở vật chất phục vụ kinh doanh, cán bộ điều hành có đủ năng lực phẩm chất và có phương án kinh doanh khả thi. Thứ hai, nhà nước cần có những biện pháp kinh tế và hành chính tăng cường hiệu lực bắt buộc các doanh nghiệp phải chấp hành đúng pháp lệnh kế toán thống kê, thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc hàng năm đối với tất cả các doanh nghiệp.
Hiện tại khách hàng chính của các NHTM là các doanh nghiệp quốc doanh nên việc chấn chỉnh lại hoạt động của các doanh nghiệp này phải tiến hành song song với việc cải tổ hệ thống ngân hàng. Nhà nước chỉ lên nắm giữ những doanh nghiệp chủ đạo trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp còn lại, nếu có thể duy trì hoạt động hiệu quả thì mới được phép tồn tại. Sau khi sắp xếp lại các DNQD, chính phủ cũng cần có biện pháp tăng cường năng lực tài chính để nâng số vón tự có của các doanh nghiệp này lên, khắc phục tình trạng vốn vay ngân hàng chiếm phần lớn trong tổng vốn kinh doanh và dùng vốn vay ngắn hạn để mua sắm tài sản cố định. Qua đó sẽ nâng cao được trách nhiệm của doanh nghiệp trong vạch ra kế hoạch và thực thi chiến lược sản xuất kinh doanh, đảm bảo an toàn về vốn, trong đó có vốn vay ngân hàng. Điều này sẽ giúp cho các tổ chức tín dụng nói riêng và xã hội nói chung tránh phải bơm vốn vào những doanh nghiệp không hiệu quả.
3.3.3.2. Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế pháp lý về giải quyết tranh chấp hợp đồng, giải quyết phá sản, thi hành án.
Tranh chấp HĐTD chủ yếu là do người vay đơn phương vi phạm hợp đồng, không tuân thủ đúng nghĩa vụ trả nợ tiền vay, buộc các ngân hàng phải đề nghị cơ quan pháp luật xử lý tài sản thế chấp hoặc kê biên xử lý các tài sản khác của người vay để thu nợ. Tuy nhiên, nhiều khi chi phí phát sinh cho việc kê biên tài sản phát mại tài sản còn lớn hơn số nợ thu hồi. Tiến độ giải quyết vụ việc rất chậm, riêng thời gian hoà giải phải làm tới 3 lần, thời gian xét xử tối thiểu cũng phải mất 3 tháng, thời gian thi hành án nhanh thì cũng mất 1 - 3 tháng, chậm 6 tháng, có khi 1 - 2 năm. Chính vì vậy, việc xử lý NQH của ngân hàng bị kéo dài thậm chí là bế tắc. Do đó, việc đầu tiên cần làm là nhà nước thiết lập một cơ chế pháp lý khắc phục được những bất cập hiện hành trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng, giải quyết phá sản, thi hành án. cơ chế pháp lý này phải phù hợp với đặc trưng, yêu cầu của hoạt động tín dụng. Về hình thức, cơ chế pháp lý phải có văn bản có hiệu lực cao, tầm luật do Quốc hội ban hành, chỉ có như vậy mới giải quyết được các tồn tại hiện nay. Kèm theo đó phải là sự thực hiện nghiêm chỉnh, triệt để của các cơ quan nhà nước, của toàn xã hội.
3.3.3.3. Nhà nước cần hoàn chỉnh các văn bản pháp luật hướng dẫn việc nhận và sử lý tài sản đảm bảo giúp đỡ các ngân hàng giải quyết NQH, giải toả các khoản nợ đóng băng.
Do hệ thống các văn bản pháp luật hướng dẫn việc nhận và xử lý tài sản đảm bảo của nước ta chưa toàn diện và đồng bộ và lại thường xuyên thay đổi vì vậy đã gây không ít khó khăn cho Sở nói riêng và các NHTM nói chung trong việc sử lý tài sản đảm bảo. Có thể đưa ra một vài vấn đề như sau:
+ Xác định giá trị tài sản đảm bảo: đây là nội dung rất quan trọng, làm cơ sở để tổ chức tín dụng quyết định mức cho vay so với giá trị tài sản và được quy định rõ trong khoản 1 điều 8 của nghị định 178. Theo nghị định, việc xác định giá trị đảm bảo là chưa phù hợp với thực tế vì việc lập thành văn bản riêng hoặc ghi vào HĐTD là tuỳ thuộc vào đặc điểm của các loại tài sản đảm bảo và do các bên thoả thuận. Nên chăng, việc xác định giá trị tài sản đảm bảo tiền vay tại thời điểm kí kết hợp đồng đảm bảo chỉ làm cơ sở xác định mức cho vay của tổ chức tín dụng, không áp dụng khi xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ.
+ Xác định giá trị quyền sử dụng đất. Đối chiếu với quy định của luật sửa đổi và bổ sung một số điều của luật đất đai năm 2001 và nghị định 791/2001/NĐ-CP thì không có sự thay đổi. Vướng mắc ở đây là giá trị thế chấp quyền sử dụng đất được nhà nước giao, đất ở, đất được chuyển nhượng hợp pháp là giá đất của UBND tỉnh, thành phố quy định hay là theo giá trị thị trường. Nên chăng để cho tổ chức tín dụng và khách hàng vay thoả thuận theo giá thực tế chuyển nhượng ở địa phương đó tại thời điểm thế chấp. Tổ chức tín xem xét quyết định mức cho vay và tự chịu trách nhiệm về rủi ro vốn vay.
3.3.4. Kiến nghị với các doanh nghiệp.
Trong hoạt động ngân hàng các doanh nghiệp giữ vai trò hết sức quan trọng, là đối tác chủ yếu trong hoạt động ngân hàng. ở nước ta, lợi nhuận của các NHTM được khai thác chủ yếu là từ hoạt động tín dụng mà doanh nghiệp là khách hàng chính. Vậy có thể nói các doanh nghiệp vay vốn mang cho ngân hàng sự tồn tại và phát triển. Tuy nhiên các doanh nghiệp mang không ít rủi ro cho ngân hàng, đôi khi quá trình sản xuất tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp bị ách tắc dẫn tới vốn không thu hồi được gây ra tình trạng NQH và điều này ảnh hưởng rất nhiều tới ngân hàng. Do vậy, để cùng tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường cả ngân hàng và doanh nghiệp cùng phải có trách nhiệm giữ gìn mối quan hệ giữa hai bên để cùng nhau hạn chế rủi ro tín dụng.
Chính vì thế, muốn phòng ngừa và hạn chế RRTD thì về phía doanh nghiệp cũng cần có giải pháp để cùng ngân hàng khắc phục như:
+ Doanh nghiệp cần phải cung cấp thông tin liên quan đến tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính… của mình một cách trung thực, đầy đủ.
+ Doanh nghiệp phải có trách nhiệm với khoản vay của mình, phải quản lý và sử dụng chúng đúng mục đích và có hiệu quả.
+ Doanh nghiệp phải có ý thức hoàn trả vốn vay cho ngân hàng, giữ chữ tín với ngân hàng
+ Định kỳ gửi các báo cáo tài chính tới ngân hàng, báo cáo tài chính phải trung thực, đầy đủ, chính xác.
+ Đáp ứng yêu cầu của cán bộ tín dụng khi họ đến kiểm tra tình hình kinh doanh của mình.
Tóm lại bản thân Sở Giao Dịch có thể chủ động hạn chế một phần rủi ro thông qua các biện pháp: chuyên môn hoá cán bộ tín dụng, nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động tín dụng, đa dạng hoá các hoạt động đầu tư, tín dụng... tuy nhiên việc hạn chế rủi ro tín dụng không chỉ là trách nhiệm của một mình Sở mà còn cần sự phối hợp của các cấp các ngành, sự chỉ đạo điều hành của chính phủ và NHNN. Chính vì vậy chính phủ và NHNN cần có những biện pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các ngân hàng trong việc hạn chế RRTD bao gồm: hoàn thiện môi trường pháp lý, môi trường kinh tế, chấn chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp, nâng cao chất lượng của công tác thông tin tín dụng...và hy vọng rằng với sự chỉ đạo điều hành của chính phủ, NHNN, sự phối kết hợp của các bộ các ngành và sự nỗ lực của tập thể cán bộ công nhân viên chức tại ngân hàng, tình trạng RRTD sẽ được hạn chế ở mức độ an toàn, tạo điều kiện phát triển KT - XH.
Kết luận
Một trong những yếu kém chủ yếu hiện nay của hệ thống NHTM VN là “chất lượng hoạt động tài sản có của các NHTM trong nước rất thấp, NQH cao” (Đỗ Tất Ngọc-tạp chí Ngân hàng số đặc biệt 2001, tập 2 trang 41). Mặt khác, để thực hiện được định hướng công tác năm 2004 của SGDI - NHCT VN các biện pháp đã được thông qua trong đó có biện pháp “... tăng cường cập nhật thông tin, nắm bắt kịp thời tình hình biến động trên thị trường tài chính tiền tệ cũng như tình hình sản xuất kinh doanh của từng khách hàng (thông qua các hình thức phân tích, đánh giá, phân loại nợ vay) để chủ động áp dụng các chính sách cho vay đúng hướng, hạn chế yếu tố rủi ro tiềm ẩn, đảm bảo vốn vay an toàn và phát huy được hiệu quả kinh tế...” (Báo cáo tổng kết công tác kinh doanh 2003 và triển khai nhiệm vụ kinh doanh năm 2004 của SGDI - NHCT VN).
Như vậy, vấn đề cấp bách nhất hiện nay trong quản trị điều hành hoạt động kinh doanh của các NHTM nói chung và SGDI nói riêng là làm sao để đảm bảo an toàn tín dụng, cải thiện tình hình tài chính và nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM
Trên cơ sở nghiên cứu cơ bản về RRTD và qua quá trình tìm hiểu hoạt động tín dụng và thực trạng tình hình RRTD của SGDI-NHCT VN, thông qua phân tích tình hình trên, luận văn đã đề xuất một số giải pháp sát thực và khả thi nhằm hạn chế RRTD tại SGDI-NHCT VN. Theo đó Sở có thể chủ động hạn chế rủi ro tín dụng. Song vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng, thiết nghĩ đó không phải là chỉ giới hạn trong Sở mà nó cần có sự quan tâm của chính phủ, các cấp các ngành và của toàn xã hội. Vì vậy chuyên đề cũng xin đề xuất một số kiến nghị đối với chính phủ cũng như NHNN và các doanh nghiệp. Đó là những ý kiến đóng góp nhỏ nhằm hạn chế RRTD tại SGDI-NHCT VN nói riêng và hệ thống NHTM nói chung.
Do thời gian nhiên cứu và trình độ chuyên môn còn hạn chế, mặt khác vấn đề RRTD rất phức tạp và rộng lớn vì thế nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô, các cán bộ nhân viên ngân hàng và các bạn để bài viết có ý nghĩa thiết thực hơn.
Một lần nữa, em xin chân thành cám ơn thầy giáo hướng dẫn Trương Đăng Khoa, các thầy cô trong khoa Quản trị Kinh doanh Ngân hàng cùng tập thể ban lãnh đạo, cán bộ tín dụng SGDI - NHCT VN đã tận tình hướng dẫn giúp em hoàn thành chuyên đề này.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Tín dụng Ngân hàng, Học viện ngân hàng (2000), Nxb Thống kê, Hà Nội.
Giáo trình Lý thuyết tiền tệ và Ngân hàng, Học viện ngân hàng (2000), Nxb Thống kê, Hà Nội.
Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, Frederic S Mishkin, Nxb Khoa học kỹ thuật.
Cẩm nang quản lý tín dụng ngân hàng, viện nghiên cứu khoa học ngân hàng (1998), Nxb Thống kê, Hà Nội.
Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, PTS.Nguyễn Văn Tiến (1999), Nxb Thống kê, Hà Nội.
Ngân hàng thương mại-quản trị và nghiệp vụ, TS.Phan Thị Thu Hà, TS. Nguyễn Thị Thu Thảo, Nxb Thống kê, Hà nội.
Luật NHNN VN và luật các tổ chức tín dụng (được quốc hội thông qua ngày 12/12/1997).
Quyết định số 48/QĐ-NHNN5 ngày 8/2/1999 của Thống đốc NHNN về trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Báo cáo kết quả kinh doanh 2001,2002,2003 của SGDI-NHCT VN/
Tạp chí ngân hàng các năm ,2000,2001,2002,2003.
Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ
Tạp chí nghiên cứu kinh tế
Tạp chí phát triển kinh tế.
Các ký hiệu viết tắt trong chuyên đề
RRTD: Rủi ro tín dụng
TD: Tín dụng
TDNH: Tín dụng ngân hàng
NHTM: Ngân hàng thương mại
KT-XH: Kinh tế-xã hội
KTQD: Kinh tế quốc doanh.
KT NQD: Kinh tế ngoài quốc doanh.
KQKD: Kết quả kinh doanh
KTTT: Kinh tế thị trường
NQH, NKĐ: Nợ quá hạn, nợ khó đòi.
NCVĐ: Nợ có vấn đề
HĐTD: Hợp đồng tín dụng
CNH-HĐH: Công nghiệp hoá-hiện đại hoá
DPRR: Dự phòng rủi ro.
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
DNQD: Doanh nghiệp quốc doanh
GTVT: Giao thông vận tải
NHNNVN: Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0031.doc