Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đồng tài trợ trong hoạt động cho vay tại ngân hàng Công thương Việt Nam

Hoạt động cho vay theo dự án luôn tiềm ẩn những rủi ro, hoạt động ĐTT còn tiềm ẩn rủi ro có mức thiệt hại lớn hơn nữa. Tuy nhiên nếu Ngân hàng biết khai thác hết thế mạnh của loại hình tín dụng này thì lại có thể hạn chế rủi ro rất nhiều. Trên thực tế, nhu cầu phát triển hoạt động ĐTT tại NHCTVN hiện nay xuất phát từ chính yêu cầu tìm một giải pháp hiệu quả nhằm hạn chế rủi ro trong tình hình kinh doanh nhiều biến động bất thường của ngành ngân hàng hiện nay. Muốn để hoạt động ĐTT thực hiện tốt vai trò, ý nghĩa của nó cần sớm thúc đẩy các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động ĐTT. Biện pháp quan trọng nhất là nâng cao chất lượng thẩm định dự án ĐTT đặc biệt là chất lượng thẩm định tài chính dự án ĐTT.

doc116 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1360 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đồng tài trợ trong hoạt động cho vay tại ngân hàng Công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác cơ quan quản lý, vậy mà những văn bản ấy lại cũng không chính xác nữa thì khó có thể đòi hỏi sự chính xác cao của những tờ trình thẩm định. Đặc biệt là với một loạt những doanh nghiệp ngoài quốc doanh được thành lập ồ ạt mà chưa có cơ chế kiểm soát chặt chẽ, tạo khe hở cho những gian lận, thiếu lành mạnh, đây là những thách thức lớn với hệ thống ngân hàng nói chung và với NHCTVN nói riêng. Thứ hai, sự hợp tác trong ngành ngân hàng còn yếu. Đối với các dự án ĐTT thì sự hợp tác của các Ngân hàng tham gia tài trợ dự án đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng thẩm định. Một trong những ưu điểm nổi bật nhất của loại hình ĐTT là các ngân hàng tham gia có thêm đối tác để đối chiếu phân tích dự án, chính vì vậy họ có thể bổ sung cho nhau, khắc phục nhược điểm của chuyên môn hoá cao và chuyển đổi sang đa dạng hoá cũng như hợp tác hoá. Thế nhưng thực tế các dự án ĐTT tại NHCTVN cho thấy do còn nhiều hạn chế về tinh thần làm việc cũng như sự khác biệt trình độ chuyên môn mà sự hợp tác của các ngân hàng tham gia còn nhiều hạn chế. Qua một số dự án ĐTT do NHCTVN dàn xếp cho thấy các ngân hàng thường muốn trực tiếp thẩm định dự án, không tin tưởng vào kết quả thẩm định của ngân hàng đầu mối cũng như không muốn thành lập hội đồng thẩm định chung. Quá trình thẩm định riêng lẻ của các ngân hàng gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp đề nghị nhận tài trợ cũng như làm cho thời gian xét duyệt khoản tài trợ kéo dài. Như vậy thực tế công tác thẩm định dự án ĐTT không những chưa khai thác được ưu điểm tốt nhất của hoạt động ĐTT mà còn khiến cho ưu điểm này trở thành nhược điểm cản trở quá trình nâng cao chất lượng thẩm định nói chung cũng như thẩm định tài chính nói riêng các dự án ĐTT. Cũng vì hạn chế hợp tác nói trên mà cho đến nay các đối tác tham gia tài trợ các dự án ĐTT của NHCTVN chỉ giới hạn chủ yếu trong một số ngân hàng quốc doanh, lớn và vốn có quan hệ hợp tác truyền thống như ngân hàng Ngoại thương VN, ngân hàng Đầu tư và Phát triển VN, ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn VN, ngân hàng cổ phần Quân đội và một số chi nhánh của bản thân NHCTVN và các ngân hàng trên. Điều này cũng có phần ảnh hưởng đến khả năng chọn lựa đối tác tham gia dự án ĐTT có hiểu biết tốt nhất về một lĩnh vực cụ thể hay một khu vực cụ thể, từ đó cũng có phần hạn chế chất lượng thẩm định dự án. Thứ ba, năng lực và tư cách đạo đức của chủ đầu tư chưa cao. Nhìn chung hiện nay trình độ lập và thẩm định dự án của các chủ đầu tư chưa cao, nhiều dự án được lập sơ sài, thiếu căn cứ khoa học, chưa đảm bảo đầy đủ các nội dung theo quy định của Nhà nước nên cán bộ thẩm định khó xác định chính xác, đầy đủ các nội dung phân tích. Bên cạnh đó, năng lực tài chính và quản lý tài chính của nhiều chủ đầu tư còn rất yếu kém, nguồn vốn chủ sở hữu rất hạn chế, hoạt động chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng. Việc chấp hành pháp lệnh thống kê, kế toán còn chưa nghiêm túc nên các báo cáo tài chính còn thiếu trung thực, không phản ảnh đúng tình hình tài chính của doanh nghiệp gây khó khăn cho việc thẩm định của ngân hàng. ˜ & ™ Như vậy, trong thời gian qua công tác thẩm định tài chính dự án ĐTT của NHCTVN đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên bên cạnh đó, công tác này vẫn bộc lộ nhiều hạn chế, vướng mắc cần sớm được khắc phục, tháo gỡ với những biện pháp hữu hiệu để đạt được mục tiêu phát triển NHCTVNVN trở thành ngân hàng hàng đầu Việt Nam và trở thành một ngân hàng quốc tế trong khu vực. Chương ba Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án ĐTT tại NHCTVN 3.1 Định hướng hoạt động ĐTT của NHCTVN 3.1.1 Định hướng chung về hoạt động cho vay của NHCTVN đến 2010 Thực hiện định hướng phát triển của NHCTVN đến năm 2010 đã đề ra trong hội nghị tổng kết 15 năm xây dựng và trưởng thành là: “Xây dựng NHCTVN thành một ngân hàng thương mại chủ lực và hiện đại của Nhà nước, hoạt động kinh doanh có hiệu quả, tài chính lành mạnh, có kỹ thuật công nghệ cao, kinh doanh đa năng, chiếm thị phần lớn ở Việt Nam”. NHCTVN quyết tâm đổi mới cơ cấu và nâng cao chất lượng tài sản Có. Theo đó công tác cho vay và đầu tư phải thường xuyên nghiên cứu, áp dụng các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả và an toàn vốn. Trong giai đoạn này NHCTVN đã có tỷ trọng cho vay trung và dài hạn vượt xa so với kế hoạch của Hội đồng quản trị (cho vay trung và dài hạn chiếm 40% tổng dư nợ nhưng tính đến 30/6/2003 cho vay trung và dài hạn đã vượt 43%) vì thế NHCTVN chủ trương không cho phép tăng trưởng qua nóng về tín dụng, 6 tháng cuối năm sẽ hạn chế cho vay trung và dài hạn. NHCTVN sẽ tập trung sàng lọc khách hàng, tăng cường cho vay có tài sản đảm bảo, kiềm chế nợ quá hạn phát sinh. Thời gian tới, xu hướng chuyển sang đầu tư dự án đầu tư mở rộng sản xuất thay vì kinh doanh thương mại tiếp tục phổ biến tạo điều kiện thuận lợi để các ngân hàng thương mại cho vay trung dài hạn và NHCTVN sẽ không thể đứng ngoài xu hướng đó. NHCTVN có chính sách khuyến khích đầu tư vào các dự án, phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả như sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu… Ngoài khối các doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt vốn là khách hàng truyền thống của NHCTVN như TCT Dầu Khí, TCT Bưu Chính Viễn Thông, TCT Điện Lực… thời gian tới NHCTVN tiếp tục phát triển nhóm khách hàng có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) để đa dạng hoá đối tượng khách hàng nhằm mục tiêu an toàn, hạn chế rủi ro. Hoạt động tín dụng tại NHCTVN thời gian tới được định hướng phát triển phù hợp với khả năng cân đối các nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn phục vụ cho các dự án lớn có thời hạn tương đối dài. Vấn đề này được đặt ra ngày càng cấp thiết do thực trạng nguồn vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và NHCTVN nói riêng (chủ yếu huy động vốn ngắn hạn đề đầu tư trung dài hạn) đặc biệt sau khi có qui định mới của NHNN về khống chế tỷ lệ sử dụng vốn huy động ngắn hạn đề đầu tư trung dài hạn. 3.1.2 Định hướng hoạt động ĐTT tại NHCTVN thời gian tới Theo xu hướng chung của hoạt động cho vay chuyển sang đầu tư dự án mở rộng sản xuất thay vì kinh doanh thương mại, NHCTVN định hướng mở rộng và phát triển hoạt động ĐTT theo chiều rộng lẫn chiều sâu. Theo chiều rộng sẽ tiến hành mở rộng lĩnh vực ĐTT trong các ngành nghề sản xuất, đặc biệt là trong sản xuất hàng xuất khẩu, thay vì chỉ quá tập trung vào các ngành truyền thống của Ngân hàng hiện là điện, bưu chính, vật liệu xây dựng… Đối tượng ĐTT cũng được đa dạng hoá mở rộng sang các thành phần kinh tế khác ngoài các doanh nghiệp lớn của Nhà nước vốn là những khách hàng truyền thống. Về chiều sâu, NHCTVN định hướng tăng cường hoạt động ĐTT về phương thức tài trợ cho dự án không chỉ là cho vay hợp vốn mà còn phát triển các hoạt động đồng bảo lãnh. Tuy nhiên, trong thời điểm hiện nay nhằm tăng cường chất lượng cho vay và hạn chế cho vay trung dài hạn, NHCTVN có chủ trương chỉ thực hiện tài trợ cho các dự án đảm bảo được tỷ lệ vốn tự có tham gia tối thiểu 50%. Các điều kiện về tài sản đảm bảo và chất lượng thẩm định dự án ĐTT cũng được nâng cao trong đó đặc biệt chú trọng về phương diện thẩm định tài chính dự án. Điều này đặt ra không ít khó khăn thử thách cho đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định nói chung và thẩm định dự án ĐTT nói riêng. Vì thế vấn đề cấp thiết hiện nay là cần phải xây dựng một hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án nói chung và chất lượng thẩm định tài chính dự án nói riêng, nhất là đối với các dự án ĐTT. 3.2 Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án ĐTT . Thẩm định tài chính nằm trong một quy trình thống nhất của tập hợp nhiều hoạt động thẩm định khác nhau nhưng có liên quan chặt chẽ với nhau. Chất lượng thẩm định tài chính chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi chất lượng của các khâu thẩm định khác. Vì thế chất lượng thẩm định tài chính sẽ không thể cao nếu không có các biện pháp nâng cao chất lượng cho các khâu thẩm định khác. Do đó việc tổ chức nâng cao chất lượng thẩm định tài chính phải chú ý tới tính tổng thể, toàn diện của các nội dung thẩm định. Qua kinh nghiệm của một số bạn bè đang công tác tại NHCTVN và các ngân hàng thương mại trong nước cùng với việc nghiên cứu và tìm hiểu công tác này tại một số nước có hệ thống ngân hàng phát triển, tôi xin đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án trong đó đặc biệt chú trọng tới các đặc thù riêng của dự án ĐTT. 3.2.1 Nội dung, phương pháp thẩm định tài chính dự án đầu tư cần đầy đủ, khoa học và chính xác hơn. Mục đích một bản thẩm định dự án của ngân hàng là đưa ra được đánh giá về hiệu quả dự án, mà kết quả của khâu thẩm định tài chính lại thể hiện rõ nhất hiệu quả như thế nào của dự án. Vì vậy, đứng ở góc độ nhà tài trợ ngân hàng luôn phải chú trọng quan tâm hơn cả tới việc nâng cao chất lượng của khâu thẩm định tài chính. Với thực trạng hiện nay của công tác thẩm định tài chính các dự án ĐTT tại NHCTVN, các giải pháp nâng cao chất lượng nội dung thẩm định tài chính được tập trung vào một số khía cạnh sau: 3.2.1.1 Quan tâm thẩm định tính đầy đủ của vốn đầu tư. Ngân hàng cần xác định thái độ thẩm định độc lập tránh phụ thuộc vào các kết quả thẩm định của các chủ thể khác bởi mỗi chủ thể theo đuổi những mục đích khác nhau. Đối với ngân hàng ở góc độ là nhà đồng tài trợ cho dự án, Ngân hàng phải xác định chính xác tổng mức đầu tư của dự án và mức tài trợ tối đa của mình để tránh bị động, chạy theo dự án. Thái độ của cán bộ thẩm định cần tỉnh táo sớm phát hiện những sai sót trong việc tính toán các hạng mục đầu tư do lỗi vô tình hay cố ý của chủ đầu tư. Trước hết, Ngân hàng phải kiểm tra sự đầy đủ từng bộ phận trong tổng vốn đầu tư, bao gồm: Vốn đầu tư cho tài sản cố định. Trong tổng vốn đầu tư, đây là bộ phận chiếm tỉ trọng lớn nhất. Ngân hàng cần căn cứ vào bản thiết kế công trình để xem xét sự đầy đủ của các hạng mục, các thiết bị về cả số lượng và đơn giá (có thể tham khảo cả giá thị trường và đơn giá theo quy định của Nhà nước). Với những công trình, máy móc tận dụng lại mà chủ đầu tư vẫn đưa vào tính như vốn đầu tư, Ngân hàng cần xem xét về giá trị còn lại trên sổ sách, giá trị sau khi đánh giá lại xem có hợp lý không. Vốn lưu động: vì mục đích giảm tổng vốn đầu tư để dễ dàng hơn khi đi vay, chủ đầu tư thường hay cố tình bỏ qua phần vốn này. Do đó, Ngân hàng không nên quá căn cứ vào những gì chủ đầu tư giải trình mà phải căn cứ vào bản thiết kế và tuỳ lĩnh vực đầu tư để có cách tính hợp lý. Vốn dự phòng. Vốn tài trợ cho những chi phí khác. Trả lãi vay trong thời gian thi công: cũng là một bộ phận chi phí rất hay bị bỏ qua trong quá trình dự toán vốn đầu tư. Với những dự án được tài trợ nhiều từ nguồn vốn vay, thời gian thi công lại dài thì bộ phận chi phí này không phải nhỏ và ta cũng phải đưa vào tính toán. Nếu Ngân hàng thận trọng hơn khi xem xét sự cân đối giữa từng bộ phận vốn để tính toán chính xác hơn tổng vốn đầu tư thì Ngân hàng có thể tránh được nhiều trường hợp khi thực hiện dự án bị thiếu vốn, lúc đó Ngân hàng lại phải cho vay thêm để cứu vãn dự án khỏi bị đình trệ. 3.2.1.2 Khi đánh giá về nguồn tài trợ, cần đặc biệt xem xét điều kiện cụ thể của từng nguồn vốn vay. Ngân hàng cần chú ý hơn tới điều kiện của từng nguồn vốn tài trợ cho dự án. Với nguồn vốn chủ sở hữu Ngân hàng cần tự mình kiểm tra kỹ khả năng tài chính để đầu tư cho dự án hiện tại và trong tương lai của chủ đầu tư tránh thụ động chỉ dựa vào các báo cáo tài chính của chủ đầu tư. Đối với các nguồn vốn vay khác, Ngân hàng cần xác định tính chắc chắn của các nguồn vốn này cũng như các điều kiện về lãi suất, tỷ giá, tiến độ giải ngân, thời hạn trả… từ đó đưa ra đánh giá dự án có thể chịu những bất lợi gì từ các nguồn này. 3.2.1.3 Nâng cao độ chính xác khi dự đoán các yếu tố doanh thu, chi phí và dòng tiền của dự án. Đây là khâu khó nhất vì có rất nhiều yếu tố phải dự đoán như chi phí, doanh thu, lợi nhuận, dòng tiền của dự án. Những yếu tố này không phải chỉ được dự đoán trong thời gian gần mà là cho suốt cả đời dự án. Thế nhưng đây lại chính là những căn cứ để tính toán tính hiệu quả của dự án nên đòi hỏi phải có độ chính xác cao. Ngân hàng cần phải đứng trên quan điểm xem xét dự án trong cả đời dự án, khi đó việc kết luận về hiệu quả dự án mới có ý nghĩa. Tất nhiên nếu thời hạn cho vay ngắn hơn đời dự án thì Ngân hàng sẽ chú trọng hơn tới dự án trong thời hạn cho vay, nhưng việc nhìn nhận tổng thể về toàn bộ dự án vẫn là điều cần thiết. Để xác định chính xác doanh thu, ba yếu tố quan trọng phải dự đoán là công suất thực hiện, mức tiêu thụ và giá bán sản phẩm. Muốn dự đoán được công suất thực hiện thì khâu thẩm định kỹ thuật phải chính xác. Ngân hàng cần xem xét mức độ phù hợp của công nghệ và trang thiết bị về mức độ hiện đại, số lượng, chủng loại, danh mục, tính đồng bộ của dây chuyền sản xuất... từ đó đánh giá công suất thực hiện của dự án. Công việc này đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có hiểu biết về kỹ thuật, công nghệ, vì vậy với những dự án phức tạp Ngân hàng có thể thuê chuyên gia tư vấn có kinh nghiệm trong lĩnh vực để đưa ra nhận xét chính xác. Muốn dự đoán được mức tiêu thụ và giá bán sản phẩm thì khâu thẩm định thị trường lại phải chính xác. Ngân hàng có thể nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, nghiên cứu điểm mạnh yếu, cơ hội và những rủi ro của doanh nghiệp, của sản phẩm, đánh giá chất lượng sản phẩm, tiến hành định vị sản phẩm trên thị trường, đồng thời áp dụng các mô hình thống kê, kinh tế lượng để xác định mức tiêu thụ và giá bán. Trong phần này, Ngân hàng cũng nên tham khảo những dự báo về tình hình kinh tế, tình hình thị trường. Giá bán sản phẩm cần được dự tính trong mối quan hệ cung cầu cả đời dự án, phải xét đến các yếu tố trượt giá và lạm phát chứ không thể tính cố định trong cả đời dự án. Ngoài ra cũng cần tính đến doanh thu từ các sản phẩm phụ, khoản thu hồi từ vốn lưu động và giá trị thanh lý tài sản cố định để xác định chính xác dòng tiền vào của dự án. Việc xác định thuế cũng cần tính chi tiết hơn. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp được áp dụng từ ngày 1/1/1999 thay cho thuế lợi tức có một điểm thường hay bị các ngân hàng bỏ qua đó là theo quy định thì khoản lợi nhuận trước thuế âm của năm trước được khấu trừ vào lợi nhuận trước thuế của năm sau khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Ngân hàng cần tránh sai phạm này. 3.2.1.4 Cần lựa chọn được những phương pháp và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án phù hợp với đặc điểm từng dự án và tạo tính tương đồng trong các ngân hàng tham gia ĐTT dự án. Nếu tất cả các số liệu trên được xác định một cách chính xác nhưng không có phương pháp đánh giá khoa học, hợp lý thì cũng không đảm bảo công việc thẩm định tài chính có thể đưa ra kết luận chính xác về tính hiệu quả của dự án. Hiện nay, để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án ĐTT thì cần phải giải quyết một trong những vướng mắc lớn nhất đó là tìm được tiếng nói chung giữa các ngân hàng tham gia tài trợ cho dự án. Mỗi ngân hàng theo đuổi mục tiêu riêng nhưng tựu chung lại vẫn là làm sao để đồng vốn cho vay an toàn và hiệu quả cao do đó cần có quan điểm thống nhất trong thẩm định dự án. Thống nhất không có nghĩa là áp đặt một cách thức cụ thể theo chủ quan của ngân hàng đầu mối mà thống nhất trên nguyên tắc tự nguyện, dung hoà giữa lợi ích của ngân hàng mình với lợi ích của các thành viên khác. Cụ thể: Các ngân hàng cần có những thoả thuận rõ ràng hợp lý về việc lựa chọn tỷ lệ chiết khấu phù hợp theo từng dự án trước khi tính toán các chỉ tiêu hiệu quả tài chính tránh tình trạng mỗi ngân hàng tuỳ theo ý chí chủ quan của mình lựa chọn một kiểu tỷ lệ chiết khấu gây nên tình trạng lộn xộn bất đồng quan điểm. Ngoài thoả thuận để lựa chọn một tỷ lệ chiết khấu phù hợp chung, các ngân hàng tham gia còn phải xác định các phương pháp thẩm định và hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính phù hợp áp dụng chung cho quá trình thẩm định tài chính dự án ĐTT. Hiện nay, các phương pháp thẩm định tài chính dự án ĐTT hầu như mới chỉ dừng lại ở các phương pháp giản đơn như tính khấu hao cơ bản theo phương pháp đường thẳng, xây dựng lịch trả nợ đều qua các năm, phân tích rủi ro theo phương pháp độ nhạy hay phân tích kịch bản theo một vài phương án điển hình… Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cũng chỉ dừng lại ở các chỉ tiêu cơ bản như NPV, IRR, điểm hoà vốn, thời gian trả nợ… Với sự phát triển của khoa học công nghệ, nhất là sự tăng tốc mạnh mẽ trong công nghệ ngân hàng thì các phương pháp và chỉ tiêu đơn giản như vậy không còn phù hợp nữa mà cần phải áp dụng rộng rãi hơn nữa các phương pháp tiên tiến hơn như tính khấu hao theo phương pháp sản lượng hoặc khấu hao theo thời gian, cân đối trả nợ theo tỷ lệ hợp lý hoặc theo cân đối các nguồn từ dự án, phân tích rủi ro dự án theo phương pháp mo phỏng… Việc tính các chỉ tiêu NPV, IRR, thời gian trả nợ… là chưa đủ, bên cạnh đó còn cần tính đến các chỉ tiêu khác như tỷ lệ hoàn vốn nội bộ có điều chỉnh (MIRR), tỷ lệ lợi ích – chi phí (B/C), chỉ số doanh lợi (PI)… Tái thẩm định dự án thủy điện pleikrông Với định hướng ở trên, dự án thuỷ điện Pleikrông sẽ được tái thẩm định như sau: Thứ nhất: về kế hoạch đầu tư vốn Về cơ bản kế hoạch về các khoản mục đầu tư trong báo cáo thẩm định chung đã khá đầy đủ. Dự án thuỷ điện có nhu cầu vốn vốn lưu động rất nhỏ nên khoản vốn này có thể coi bằng 0. Tuy nhiên như đã phân tích ở trên, Dự án nằm trong vùng khá nhạy cảm về khả năng nguồn nước cho nên chủ đầu tư cần thiết phải chủ động đầu tư thúc đẩy các hoạt động bảo đảm lâu dài nguồn nước cho Dự án. Hoạt động đầu tư cụ thể nhằm vào việc trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn thông qua hỗ trợ các chương trình phát triển rừng của địa phương. Dù sao đây cũng chỉ là các chi phí hỗ trợ nên chỉ cần một tỷ lệ rất nhỏ, tạm tính là 2% tổng vốn đầu tư Dự án (56444 triệu VND). Chi phí này có thể được tính nhập vào chi phí khác. Như vậy so với tổng mức đầu tư đã được thẩm định trước đây thì tổng mức đầu tư qua tái thẩm định tăng lên là 56444 triệu VNĐ, đạt mức là 2822189 triệu VND (tăng 2%). Thứ hai: Về nguồn tài trợ Chủ đầu tư cần giải trình phương án tài trợ cho toàn bộ số vốn tăng lên. Ngoài ra, chủ đầu tư cần tiếp tục giải trình các điều kiện cụ thể của nguồn vốn vay nước ngoài, cụ thể về các vấn đề như tiến độ giải ngân của nguồn vốn này và rủi ro lãi suất sẽ phân chia thế nào. Đối với nguồn vốn chủ sở hữu thì cần yêu cầu chủ đầu tư làm biên bản cam kết huy động đủ và đúng kế hoạch vốn đầu tư cho dự án. Thứ ba: về các bảng dự trù doanh thu – chi phí và dòng tiền của dự án. Dựa trên báo cáo thẩm định tài chính Dự án, việc tính các dòng tiền của Dự án cần có những điều chỉnh sau: Việc tái thẩm định Dự án sẽ dùng phương pháp khấu hao theo sản lượng, trong đó thời gian khấu hao sẽ được tính như trong báo cáo thẩm định. Thuế thu nhập doanh nghiệp: theo cả hai phương án cơ sở Dự án có một số năm đầu lợi nhuận âm. áp dụng luật thuế thu nhập doanh nghiệp (1/1/1999) thì những khoản lợi nhuận âm này sẽ được khấu trừ vào lợi nhuận trước thuế của các năm sau khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Giá trị thu hồi và thanh lý: dựa trên thực tế của các dự án thuỷ điện khác, giá trị thanh lý của máy móc thiết bị cuối đời Dự án được ước tính vào khoảng 0.1% giá trị máy móc tức là khoản thanh lý sẽ là 545,4 triệu VND. Giá bán sản phẩm: Theo nhận xét của tổ thẩm định thì giá bán mà chủ đầu tư đưa ra 4 UScents/kwh là hợp lý (khoảng 624VND/kwh). Thế nhưng qua theo dõi thực tế thị trường điện năng từ 1/7/2004 trở lại đây cho thấy hiện nay giá bán điện của 32 nhà máy cho tổng công ty Điện lực giao động trong khoảng từ 200VND/kwh-1000VND/kwh và liên tục có xu hướng giảm do các nhà máy buộc phải quan tâm hơn tới giá bán cạnh tranh để được chạy hết công suất. Các nhà máy điện không thuộc Tổng công ty hiện chưa tham gia vào thị trường do giá bán còn cao (bằng hoặc lớn hơn 4 UScents/kwh) thời gian tới sẽ buộc phải tìm các giải pháp giảm giá.Theo kế hoạch của ngành điện từ nay đến năm 2020 sẽ đưa vào hoạt động hơn 20 nhà máy điện với tổng công suất 15100 MW cùng với việc hoàn thành đường dây truyền tải điện từ nam ra bắc sẽ có triển vọng cung cấp vượt mức cầu. Tất cả các nguyên nhân trên đây sẽ dẫn đến giá bán điện giảm mạnh, xuống dưới 4 US cents/kwh. Qua nghiên cứu thị trường điện năng trong hơn 2 tháng qua với hơn 30 phiên giao dịch, giá bán điện được nhận định như sau: giá bán cao nhất là 1067VND/kwh, giá thấp nhất là 184VNĐ/kwh, giá bán thường xảy ra nhất là 577 VND/kwh. Giả thiết phân phối xác suất của giá bán theo dạng tam giác. Khi đó, giá bán kỳ vọng được tính bằng (184+577+1067)/3= 609.3VND/kwh. Xét đến xu hướng giảm của giá bán và để thuận lợi cho quá trình tính toán, mức giá 600 VND/kwh (3,846 US cents/kwh) sẽ được tính là giá trung bình cho cả đời dự án. Về công suất của Dự án, giả định loại bỏ ảnh hưởng của các yếu tố nguồn nước và các yếu tố bất thường khác, chỉ xét đến yếu tố thị trường cạnh tranh thì với suất đầu tư khá cao như đã nêu ở phần giới thiệu Dự án, Dự án không thể liên tục đạt công suất tối đa 99% trong suốt cả đời dự án. Do đó, công suất huy động của Dự án được xác định như sau: dự án được hoàn thành vào năm 2007, từ đó cho đến 2015 là thời điểm nhiều công trình sản xuất điện trọng điểm hoàn thành thì lượng điện năng sản xuất trong cả nước chưa thể đáp ứng vượt mức lượng cầu, do đó công suất huy động có thể đạt ở mức tối đa theo như trong bản thẩm định của ngân hàng. Nhưng từ sau năm 2015 cho đến cuối đời Dự án (2032) dự đoán công suất huy động chỉ đạt khoảng 90% công suất thiết kế. Từ các giả định đã được tính toán lại như trên, các bảng dự trù doanh thu - chi phí lợi nhuận, dòng tiền của Dự án, cân đối trả nợ, phân tích rủi ro được tính lại như sau: A Bảng thông số dự án I Tổng mức vốn đầu tư 2,822,189 IV Thông số khai thác dự án 1 Vốn cố định : 2,822,189 100% 1 - Công suất thiết kế : 417.2 Tr KWH/năm a - Xây lắp : 1,080,583 38.3% 2 - Mức huy động CSTK năm đầu : 90% CSTK b - Thiết bị : 545,373 19.3% 3 - mức HĐCS từ năm 2 - 9 : 99% CSTK c - Chi phí khác : 789,647 28% 4 - mức HĐCS từ năm 10- 25 : 90% CSTK d - Dự phòng : 235,916 8.4% 5 - Giá bán : 600 VND/kwh e - Lãi vay trong TGTC : 170,670 6% 6 - Chi phí O&M : 1% TVĐT f - VAT : 0 0% 7 - Thuế tài nguyên : 2% Doanh thu 2 Vốn lưu động ban đầu : 0 0% 8 - Tỷ giá hối đoái (năm 2003) : 15600 VND/USD 9 - LN để lại trả nợ 70% /LNTT 10 - Trích KHCB trả nợ 100%/KHCB II Cấu trúc vốn 2,822,189 100% 11 - Lãi suất chiết khấu : 8.64% /năm 1 - Vốn tự có : 886,167 31.4% 12 - Lãi suất trung bình : 8.74% /năm 2 - Vốn vay nước ngoài : 545,373 19.3% 3 - Vốn vay thương mại trong nước : 1,390,649 49.3% V Chế độ thuế 1 - Thuế thu nhập doanh nghiệp : 20% 2 - Ưu đãi, khuyến khích ĐT: Miễn, giảm thuế : + Miễn thuế trong 3 năm đầu : 0% III Chi phí sử dụng vốn, hình thức trả nợ + Giảm 50% thuế trong 5 năm tiếp theo : 10% 1 - Lãi vay vốn vay t/mại : 0.88% /tháng + Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư : 0% 2 - Lãi vay vốn lưu động : 0.00% /tháng + Thuế tài nguyên, đất đai.. 0% 3 - Chi phí vốn vay nớc ngoài 4.25% /năm VI Khấu hao cơ bản 4 - Chi phí sử dụng VTC : 8.40% /năm 1 - Xây lắp : 25 Năm 5 - Thời gian trả nợ gốc : 8 năm 2 - Thiết bị : 25 " 6 - Hình thức trả nợ : cân đối từ dự án 3 - Chi phí khác : 10 " 4 - Dự phòng : 10 " 5 - Lãi vay trong TGTC : 5 " Từ những kết quả trên, hiệu quả tài chính của Dự án được nhận định như sau: Hiệu quả tài chính của Dự án ở cả 2 phương án đều giảm mạnh so với báo cáo ban đầu (phương án I hiệu quả giảm chỉ còn một nửa) . Tuy vậy phương án cơ sở I vẫn có hiệu quả dương (NPV = 236545 triệu đồng) và IRR vẫn đảm bảo lớn hơn lãi suất chiết khấu của Dự án. Sự thay đổi ở phương án hai làm cho hiệu quả âm tăng lên, IRR cũng không đảm bảo yêu cầu đầu tư. Tuy nhiên đây là phương án khó có thể xảy ra vì hiện tại các nhà máy điện ở phía dưới bậc thang sông Sêsan đều đã đi vào hoạt động hoặc đang ở giai đoạn hoàn tất thi công. Các nhà máy này lại thuộc Tổng công ty điện lực - chủ đầu tư nên khả năng đấu nối và thu được lợi nhuận từ phần hiệu ích gia tăng là hoàn toàn có thể được. Thời gian trả nợ của Dự án theo tính toán cân đối với nguồn thu từ Dự án thì kéo dài hơn gần 1 năm nhưng vẫn nằm trong thời gian ân hạn, do đó chỉ cần chủ đầu tư có một cam kết huy động từ nguồn vốn khác để trả nợ theo đúng kế hoạch thì vẫn có thể chấp nhận được. Qua phân tích rủi ro cho thấy, hiệu quả Dự án rất nhạy cảm với thay đổi công suất. Vì thế trong quá trình điều hành Dự án cần quan tâm đặc biệt tới yếu tố này, chú ý thực hiện các biện pháp ngăn chặn các bất lợi xấu có thể ảnh hưởng dến công suất hoạt động, trong đó có một giải pháp như đã đề cập ở các phần trước. Với yếu tố giá bán, Dự án tuy không đặc biệt nhạy cảm như yếu tố công suất nhưng cũng có ảnh hưởng không nhỏ. Thời gian tới giá bán điện trên thị trường chắc chắn sẽ giảm, tuy không mạnh mẽ nhưng đó là xu hướng tất yếu. Với suất đầu tư khá cao, Dự án không dễ giảm được giá bán, vì vậy ngay từ khi bây giờ cần tính toán và thiết kế sao cho có thể giảm thiểu tối đa cho phép các chi phí biến đổi khác, chú ý các biện pháp nâng cao năng suất và tiết kiệm tránh lãng phí nguồn lực trong quá trình vận hành Dự án. Như vậy có thể thấy hiệu quả tài chính của Dự án tuy không cao nhưng vẫn có thể chấp nhận được. Ngoài ra Dự án còn mang ý nghĩa kinh tế xã hội rất lớn, có ảnh hưởng tốt đến đời sống nhân dân trong vùng và đáp ứng tốt mục tiêu chiến lược phát triển năng lượng điện phục vụ cho CNH-HĐH đất nước hiện nay. Vì thế, Dự án nên được chấp thuận ĐTT, tuy nhiên để đảm bảo tính an toàn cao của nguồn vốn cần yêu cầu chủ đầu tư giải trình kỹ hơn các biện pháp tài sản đảm bảo cũng như các nguồn vốn khác đảm bảo trả nợ cho các ngân hàng trong trường hợp Dự án bất lợi. Chất lượng thẩm định tài chính dự án ĐTT không chỉ phụ thuộc vào nội dung và phương pháp thẩm định. Như đã phân tích ở trên chất lượng thẩm định tài chính dự án ĐTT tại NHCTVN chưa cao còn do nhiều nguyên nhân khác. Vì thế muốn nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án ĐTT tại NHCTVN cần tiến hành các giải pháp đồng bộ tập trung vào tất cả các nhân tố ảnh hưởng. 3.2.2 Nâng cao nhận thức về vai trò của công tác thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của ngân hàng Hành động xuất phát từ nhận thức, do đó công tác nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án nói chung và dự án ĐTT nói riêng sẽ chưa thể được thực hiện nghiêm túc chừng nào chưa nâng cao được nhận thức của ban lãnh đạo và cán bộ tín dụng Ngân hàng về ý nghĩa, tác dụng của công tác này. Lãnh đạo Ngân hàng cần đánh giá đúng ý nghĩa của công tác thẩm định tài chính, đặt kết quả thẩm định ở vị trí xứng đáng với tầm quan trọng của nó trong việc ra quyết định cho vay dự án. Điều này sẽ có ảnh hưởng tích cực rất lớn đến nhận thức của các cán bộ tín dụng cấp dưới. Cán bộ tín dụng cần phải được làm cho nhận thức rõ chỉ có hiệu quả của bản thân dự án mới là sự đảm bảo tốt nhất cho khả năng thu nợ, tài sản thế chấp chỉ có thể coi là yếu tố đề phòng hỗ trợ thêm chứ không thể là yếu tố quyết định, vì như thực tế hiện nay bản thân Ngân hàng dù đang quản lý nhiều tài sản thế chấp nhưng không thể tiến hành phát mại được, do đó vẫn không thu hồi được vốn. Các mối quan hệ với khách hàng lớn, truyền thống tuy quan trọng nhưng nếu các dự án không có hoặc ít có hiệu quả thì cán bộ tín dụng càng cần coi trọng kết quả thẩm định bởi nếu cho vay và dự án gặp rủi ro thì Ngân hàng có thể vừa mất tiền vừa mất mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng. Tóm lại cán bộ tín dụng phải nhận thức được công tác thẩm định có trọng trách là xác minh tính khả thi và hiệu quả của dự án làm cơ sở cho lãnh đạo Ngân hàng ra quyết định cuối cùng chứ không phải chỉ là hình thức để hoàn tất thủ tục hồ sơ cho vay dự án. Nhận thức đúng tầm quan trọng của công tác thẩm định tài chính cán bộ thẩm định sẽ có thái độ làm việc tích cực hơn, ý thức trách nhiệm hơn đối với các kết quả thẩm định tài chính, từ đó sẽ không khó để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính Dự án nói chung và dự án ĐTT nói riêng. Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng và thẩm định nhằm đáp ứng được yêu cầu thường xuyên đổi mới công nghệ thẩm định. Cũng như đối với bất kỳ một hoạt động kinh tế nào, nhân tố con người có ảnh hưởng quyết định tới chất lượng thẩm định tài chính dự án ĐTT vì cán bộ thẩm định là những người trực tiếp thực hiện công việc thu thập thông tin, phân tích, đánh giá và đề xuất phương án thực hiện các khoản vay. Kết quả thẩm định sẽ có độ tin cậy cao nếu được thực hiện một cách khách quan, khoa học và công tâm. Điều đó phụ thuộc chủ yếu vào năng lực và đạo đức của cán bộ thẩm định. Bên cạnh đó, nhằm đảm bảo chất lượng tín dụng an toàn, đủ nhân lực để đón bắt các cơ hội kinh doanh mới, việc tăng cường lực lượng cán bộ tín dụng cả về chất lượng và số lượng cần được coi là giải pháp chiến lược của NHCTVN trong thời gian tới. Cán bộ thẩm định phải nắm vững quy trình nghiệp vụ đồng tài trợ, quy trình và phương pháp thẩm định cũng như các đặc điểm của thẩm định dự án ĐTT. Đồng thời họ phải có kinh nghiệm, hiểu biết sâu rộng về các nghiệp vụ ngân hàng và các lĩnh vực kinh tế xã hội có liên quan. Để đáp ứng được những yêu cầu đó, Ngân hàng cần tập trung vào những công việc sau: - Về tuyển dụng cán bộ: Ngân hàng cần có những chính sách hợp lý để thu hút những sinh viên giỏi thuộc các chuyên ngành kinh tế, tài chính, ngân hàng, thương mại, cũng như những người có trình độ, năng lực, kinh nghiệm về tín dụng và thẩm định dự án để vào làm việc hoặc cộng tác với Ngân hàng. Việc thuyên chuyển những cán bộ đã có kinh nghiệm ở các bộ phận khác cũng cần được cân nhắc để bổ sung lực lượng cho đội ngũ cán bộ tín dụng. Hiện nay, tình trạng nhân lực tại NHCTVN còn tồn tại một vấn đề nữa đó là thiếu các cán bộ thẩm định có trình độ chuyên sâu về các khía cạnh kỹ thuật và pháp lý cho nên Ngân hàng thường không thể thẩm định độc lập về phương diện kỹ thuật cũng như chủ động thực hiện các công việc liên quan vấn đề pháp lý của dự án mà thường phải dựa trực tiếp vào kết quả thẩm định của các cơ quan khác. Do đó thời gian tới cần gấp rút bổ sung thêm nhân lực có trình độ về kỹ thuật và tư pháp cho công tác thẩm định. - Về vấn đề bố trí cán bộ: Ngân hàng cần căn cứ vào tính chất phức tạp của từng dự án và trình độ, năng lực, đạo đức của từng cán bộ để phân công công việc cho phù hợp; đặt kế hoạch bồi dưỡng hay chuyển sang làm công việc khác đối với những cán bộ không đáp ứng được yêu cầu công việc. Với khối lượng công việc ngày càng lớn như hiện nay, cần tăng cường lực lượng cán bộ để bố trí cho phù hợp, tuyệt đối tránh tình trạng quá tải đối với cán bộ tín dụng vì khi đó tiềm ẩn rủi ro rất lớn cho hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung. - Về cơ chế đãi ngộ: do đặc thù nghiệp vụ tín dụng phức tạp và có độ rủi ro khá lớn nên Ngân hàng cần nghiên cứu khung lương, thưởng hợp lý để kích thích cán bộ tín dụng hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Công tác thẩm định có nhu cầu cập nhật thông tin rất lớn nên không giống các bộ phận khác thường chỉ làm việc tại văn phòng, cán bộ tín dụng thường phải đi lại nhiều để gặp gỡ khách hàng, đi tìm hiểu thông tin… Vì vậy, ngân hàng nên xem xét cung cấp những phương tiện làm việc cần thiết tạo thuận lợi cho công việc của cán bộ thẩm định như phương tiện đi lại, điện thoại di động, máy tính xách tay… Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần quy định các chế tài xử lý nghiêm khắc những cán bộ vì lợi ích cá nhân, vì thiếu tinh thần trách nhiệm gây thất thoát vốn của ngân hàng. - Về bồi dưỡng, đào tạo cán bộ: Ngân hàng cần nghiên cứu, xây dựng chương trình cụ thể về đào tạo, bồi dưỡng cho các cán bộ tín dụng, thẩm định. Ngoài các đợt tập huấn nghiệp vụ tín dụng được tổ chức hàng năm như hiện nay, cần thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề về kinh nghiệm thẩm định và cho vay dự án ĐTT (chú trọng kỹ năng dàn xếp, hợp tác với các ngân hàng tham gia và kĩ năng phân tích tài chính, thẩm định dự án…). Để cán bộ có thêm cơ hội tiếp cận với các phương pháp và kỹ năng thẩm định hiện đại cũng như kinh nghiệm của các nước đi trước, có thể mời chuyên gia nước ngoài đến giảng dạy, nói chuyện, trao đổi kinh nghiệm hoặc liên hệ, cử các cán bộ thẩm định đi thực tập tại các ngân hàng nước ngoài. Mặt khác, cần khuyến khích cán bộ tín dụng khó tự trau dồi kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau và nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công việc thông qua việc tổ chức sắp xếp, bồi dưỡng các cán bộ có năng lực, có tinh thần trách nhiệm cao và ý thức vươn lên trong công việc vào những vị trí quan trọng chủ chốt để khuyến khích phong trào “tự nâng cao chất lượng” trong các cán bộ của Ngân hàng. Cơ chế tổ chức điều hành cần hoàn thiện theo hướng thống nhất, khoa học đảm bảo thuận lợi cho khách hàng nhưng cũng đảm bảo an toàn tín dụng. Hướng tới mục tiêu phát triển tín dụng bền vững và hiệu quả, nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án ĐTT, công tác tổ chức và điều hành trong hoạt động thẩm định cho vay của NHCTVN cần được tiến hành nghiêm túc với các giải pháp cụ thể như sau: Rà soát, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ làm nghiệp vụ ĐTT, phân công công việc bố trí cán bộ theo trình độ, năng lực phù hợp với tính chất dự án chứ không nên tuỳ thuộc vào thời điểm dự án được tiếp cận với Ngân hàng như hiện nay. Cần thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa quá trình chuyên môn hoá, trước mắt cần phân công cán bộ chuyên môn hoá theo những lĩnh vực ngành nghề cụ thể, đối tượng khách hàng cụ thể. Quy chế thẩm định cần làm rõ hơn quyền lợi, trách nhiệm của cán bộ thẩm định đối với kết quả thẩm định và hiệu quả cho vay. Bên cạnh đó cũng cần phân định rõ hơn quyền lợi, trách nhiệm giữa bộ phận thẩm định và bộ phận quyết định cho vay. Tăng cường sự phối hợp giữa các chi nhánh, các phòng ban tại Hội sở chính nhằm đảm bảo cung cấp đầy đủ và kịp thời những thông tin cần thiết phục vụ cho công tác thẩm định. Tăng cường kiểm tra kiểm soát nội bộ. Bên cạnh việc triển khai quy chế cho vay, quy chế ĐTT của NHCTVN, hướng dẫn thẩm định dự án , Ngân hàng cần tiến hành kiểm tra xem mức độ thực hiện của các cán bộ thẩm định đến đâu và kịp thời có những chấn chỉnh ngay nếu việc thực hiện chưa được chi tiết, chặt chẽ và chuẩn xác. Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng nguồn thông tin phục vụ thẩm định Thông tin là yếu tố đầu vào vô cùng quan trọng của công tác thẩm định nói chung và thẩm định tài chính nói riêng. Có thể nói khó khăn lớn nhất đối với việc nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án ĐTT hiện nay là thiếu các nguồn thông tin đáng tin cậy. Do vậy, việc xây dựng và phát triển hệ thống thông tin đảm bảo cung cấp chính xác, kịp thời, đầy đủ các thông tin cần thiết phục vụ công tác thẩm định tài chính là yêu cầu bức thiết của Ngân hàng. Nguồn thông tin nội bộ: Trên cơ sở hệ thống trang thiết bị hiện đại, NHCTVN cần phát huy thế mạnh về công nghệ thông tin xây dựng một hệ thống lưu trữ và cung cấp thông tin nội bộ hiện đại, khoa học trong toàn hệ thống NHCTVN. Tất cả các bộ phận thuộc toàn hệ thống có nghĩa vụ và trách nhiệm phải cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, thường xuyên cho hệ thống thông tin nội bộ này. Đặc biệt, cần thống nhất quy định về các loại thông tin phải cung cấp mang tính bắt buộc và những loại thông tin tham khảo để tập hợp theo khách hàng, theo ngành nghề, lĩnh vực hoặc theo tính chất thông tin (thông tin về tài chính của khách hàng, về thị trường, về tình hình kinh tế xã hội, thông tin theo dõi hiệu quả thực tế các dự án đã thẩm định…). Ngoài chức năng thu thập và khai thác thông tin từ mạng CIC của NHNN, bộ phận thông tin tín dụng tại NHCTVN và tại các chi nhánh cần tăng cường thêm các chức năng thu thập, lưu trữ và cung cấp thông tin chuyên ngành, phân tích xác suất và các phân phối xác suất đặc trưng trong từng ngành nghề, từng lĩnh vực đầu tư trong nền kinh tế làm cơ sở cung cấp thông tin cho bộ phận tín dụng và thẩm định. Nguồn thông tin từ bên ngoài Ngoài nguồn thông tin nội bộ rất quan trọng và có thể chủ động, ngân hàng cần đa dạng hoá các nguồn thông tin từ bên ngoài vì đây là nguồn thông tin chủ yếu rất phong phú và có tiềm năng khai thác rất lớn. Hiện nay, mạng thông tin tín dụng CIC của NHNN có thể cung cấp những thông tin tương đối đầy đủ về tình hình quan hệ tín dụng của từng khách hàng với các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên độ chính xác của thông tin do CIC NHNN cung cấp phụ thuộc vào độ chính xác của các báo cáo do các ngân hàng thương mại cung cấp. Ngoài ra, NHCTVN cần chủ động khai thác thêm thông tin từ các bộ phận khác thuộc NHNN như vụ chiến lược ngân hàng, vụ tín dụng, vụ chính sách tiền tệ, vụ các ngân hàng, vụ quản lý ngoại hối… Với chức năng là ngân hàng quản lý, điều hành các ngân hàng thương mại, thông tin từ NHNN sẽ là nguồn thông tin bổ sung rất quan trọng cho công tác thẩm định dự án. Bên cạnh nguồn thông tin trong nội bộ ngành ngân hàng, thông tin từ báo chí, từ mạng thông tin toàn cầu (internet), từ các cơ quan quản lý (Bộ, ngành chủ quản), cơ quan thống kê, các công ty kiểm toán, từ khách hàng là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tương tự… cũng cần được tích cực khai thác. Muốn vậy, NHCTVN cần thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan này vì mục tiêu phục vụ lâu dài cho các hoạt động của ngân hàng. Thông tin từ các doanh nghiệp bạn hàng của doanh nghiệp đầu tư và thông tin từ chính người lao động trong doanh nghiệp đầu tư cũng rất quan trọng. Nguồn thông tin này cần được khai thác tốt giúp cán bộ thẩm định có được cái nhìn toàn cục và sâu sắc về doanh nghiệp đầu tư. 3.2.6 Nâng cấp trang thiết bị công nghệ phục vụ công tác thẩm định Hệ thống trang thiết bị thông tin cần được tiếp tục hoàn thiện trong toàn hệ thống để tránh tình trạng chênh lệch giữa các chi nhánh lớn với các chi nhánh nhỏ. Thực hiện nối mạng nội bộ và nối mạng internet để tạo điều kiện cung cấp thông tin toàn diện, cập nhật thường xuyên, nhiều chiều cho toàn hệ thống NHCT. Những chương trình phần mềm phục vụ đắc lực cho nghiệp vụ thẩm định đặc biệt là việc phân tích tài chính và phân tích rủi ro cần được nghiên cứu xây dựng hoặc đặt mua và cần được cung cấp, cập nhật thường xuyên cho toàn hệ thống. Đi đôi với việc trang bị những phương tiện kỹ thuật, công nghệ hiện đại, công tác đào tạo cần được triển khai thường xuyên và rộng rãi hơn nhằm tạo điều kiện cho cán bộ nâng cao trình độ, tăng khả năng thích ứng với các trang thiết bị và công nghệ mới. 3.3 Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án ĐTT Thẩm định dự án ĐTT nói chung và thẩm định tài chính dự án ĐTT nói riêng là hoạt động phức tạp, có phạm vi xem xét rộng liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau. Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính của các ngân hàng, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp dựa trên cơ sở một kế hoạch tổng thể thống nhất. Có như vậy, những giải pháp đề ra mới có tính khả thi, đáp ứng được yêu cầu của hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại. Qua nghiên cứu thực tiễn tại NHCTVN, tôi xin đề xuất một số kiến nghị với các cấp quản lý nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án ĐTT tại NHCTVN. 3.3.1. Kiến nghị với Chính Phủ, các Bộ ngành liên quan NHCTVN là một ngân hàng của Nhà nước do đó có nhiệm vụ thực hiện kế hoạch đầu tư được Nhà nước giao. Tuy nhiên hoạt động ĐTT của NHCTVN hiện nay đang bị chi phối quá nhiều bởi các cơ quan chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Đầu tư, NHNN với các chỉ tiêu, chiến lược, chính sách đang ảnh hưởng xấu đến tính độc lập trong công tác thẩm định tại Ngân hàng. Một khi hoạt động ĐTT còn chịu ảnh hưởng chi phối trực tiếp của các kế hoạch, chiến lược trên thì không thể nói đến nâng cao chất lượng thẩm định dự án. Do đó Chính phủ cũng cần đẩy mạnh việc cải cách hệ thống tài chính – ngân hàng theo hướng trao quyền độc lập và tự chủ hơn nữa tạo điều kiện cho hoạt động ĐTT của Ngân hàng độc lập hơn. Bên cạnh đó, Chính phủ cần chỉ đạo các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện chế độ thống kê, kế toán, kiểm toán và báo cáo thông tin đồng thời xây dựng và ban hành những quy định ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp, những chế tài áp dụng đối với những doanh nghiệp không thực hiện đúng những chế độ đó. Như vậy, những thông tin do khách hàng cung cấp cho các ngân hàng sẽ trung thực hơn và có độ tin cậy cao hơn, tạo điều thuận lợi cho ngân hàng thẩm định. Ngoài ra, Chính phủ cần đồng bộ hoá hệ thống văn bản quy định có liên quan tới hoạt động tín dụng của ngân hàng như luật đất đai, các quy định về việc phát mại tài sản... sao cho chúng không mâu thuẫn, trái ngược nhau, gây khó khăn cho hoạt động tín dụng nói chung cũng như hoạt động ĐTT nói riêng. Mặt khác, Chính phủ và các Bộ ngành cần nghiên cứu thành lập hoặc khuyến khích thành lập các tổ chức, doanh nghiệp tư vấn đầu tư chuyên thu thập, đánh giá thông tin về doanh nghiệp và thị trường trong nước và quốc tế, xếp hạng doanh nghiệp, cũng như khuyến khích phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động của các công ty dịch vụ đánh giá lại tài sản thế chấp, công ty kiểm toán...… đồng thời ban hành các văn bản pháp luật quy định về việc mua bán thông tin, dịch vụ tư vấn và trách nhiệm của các bên liên quan. Ngoài ra, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ ngành, các chính quyền địa phương có liên quan trong việc thẩm định, phê duyệt dự án nhằm nâng cao chất lượng và độ tin cậy của các báo cáo nghiên cứu khả thi cũng như các quyết định phê duyệt đầu tư của các cấp làm cơ sở pháp lý quan trọng và thực sự có giá trị cho các ngân hàng. Các cơ quan, ban ngành, chính quyền địa phương cần phối hợp, trao đổi thông tin thường xuyên về các lĩnh vực đầu tư và các doanh nghiệp thuộc ngành mình, địa phương mình quản lý để có định hướng, quy hoạch cho phù hợp tránh tình trạng có lĩnh vực thì đầu tư tràn lan, có lĩnh vực thì đầu tư quá ít không đáp ứng được nhu cầu thực tế. Đối với các ngân hàng thương mại, các cơ quan, ban ngành, chính quyền địa cần coi việc phối hợp cung cấp thông tin một cách khách quan, trung thực cho các ngân hàng là một nhiệm vụ của mình vì quyền lợi chung của ngành và của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước và các NHTM khác Với vị trí là ngân hàng quản lý các ngân hàng thương mại, NHNN có vai trò quan trọng là ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh các hoạt động của các ngân hàng thương mại. Như đã phân tích ở mục 1 phần 2 chương 2, riêng đối với hoạt động ĐTT vai trò này của NHNN còn mờ nhạt, thể hiện rõ trong quy định báo cáo hoạt động ĐTT của ngân hàng thương mại đối với NHNN. Quyết định của NHNN ban hành gần đây nhất và có hiệu lực cao nhất đối với hoạt động ĐTT là Quyết định 286 vẫn còn những thiếu sót, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại tránh né sự quản lý của NHNN gây nhiều lộn xộn trong công tác quản lý. Vì thế NHNN cần nhanh chóng khắc phục điều chỉnh lại những thiếu sót trong quyết định 286, quy định chặt chẽ hơn về công tác báo cáo của các ngân hàng thương mại. Mặt khác, NHNN còn có vai trò đặc biệt trong việc cung cấp thông tin qua mạng của Trung tâm phòng ngừa rủi ro tín dụng CIC. Tuy nhiên, vai trò này chưa thực sự được đề cao do số lượng và chất lượng thông tin cung cấp chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của các ngân hàng thương mại. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu, mở rộng phạm vi nội dung và nâng cao chất lượng thông tin của CIC, tăng cường sự điều phối và tổ chức cung cấp thông tin của CIC qua các biện pháp cụ thể như sau: Điều chỉnh những quy định về nội dung cung cấp thông tin bắt buộc của các ngân hàng thương mại, đồng thời làm rõ những yêu cầu về tính trung thực, tính đầy đủ, tính cập nhật của thông tin được cung cấp, trách nhiệm của các ngân hàng và chế tài áp dụng trong trường hợp thông tin cung cấp không đảm bảo các yêu cầu đề ra. Có như vậy, những thông tin do các ngân hàng cung cấp mới đảm bảo độ tin cậy và chất lượng thông tin khai thác được trong toàn hệ thống ngân hàng mới có giá trị phục vụ đắc lực cho công tác thẩm định. CIC cần tích cực trao đổi thêm thông tin với các tổ chức thông tin quốc tế và các đầu mối thông tin trong nước như Tổng Cục thống kê, Bộ thương mại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Tổng Cục Hải Quan, Văn phòng Chính phủ… để tạo nguồn cung cấp thông tin không chỉ về tín dụng mà cả các thông tin về thị trường, quy hoạch phát triển, định hướng và chính sách trong từng thời kỳ... Đối với các ngân hàng thương mại, do đặc thù của hoạt động ĐTT cần nhận thức rõ ý nghĩa, tác dụng của tinh thần hợp tác. Hoạt động ĐTT chỉ thức sự phát huy hết ý nghĩa và ưu điểm của nó nếu tận dụng được các thế mạnh của mỗi ngân hàng đồng thời đòi hỏi các ngân hàng phải biết đặt lợi ích của mình trong lợi ích của tập thể. Do đó, các ngân hàng thương mại khi tham gia thẩm định dự án ĐTT cần thực sự tin tưởng lẫn nhau, tích cực phối hợp trao đổi thông tin và kinh nghiệm trong các lĩnh vực, ngành nghề, cũng như tích cực hợp tác trong quá trình thực hiện tài trợ cho dự án và thu hồi khoản cho vay. 3.3.3. Kiến nghị với NHCTVN Hiện nay, do yêu cầu của nhiệm vụ đổi mới cơ cấu và nâng cao chất lượng tài sản Có, một phần cũng do tỷ lệ tín dụng trung và dài hạn đã bị vượt quá xa so với chỉ tiêu theo kế hoạch mà Ngân hàng đã có quy định khá khắt khe và không hợp lý đối với các điều kiện xin cấp vốn ĐTT (vốn của chủ phải đáp ứng tối thiểu 50% tổng mức đầu tư trong khi thông thường tỷ lệ này chỉ khoảng 20% - 30%). Điều này một mặt sẽ hạn chế hoạt động ĐTT trong thời gian tới của NHCTVN không tạo môi trường và cơ hội thuận lợi cho công tác thẩm định tài chính dự án ĐTT phát triển đồng thời lại tạo áp lực cho các cán bộ thẩm định phải chấp nhận những dự án ĐTT có hiệu quả kém hơn nhưng lại đáp ứng được yêu cầu trên. Như vậy, xét một cách toàn diện thì chính sách trên là không hợp lý, chỉ là giải pháp mang tính chất tình thế nhưng lại có ảnh hưởng không tốt về lâu dài, cần sớm được thay thế bởi các biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động ĐTT trong đó có các biện pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án ĐTT nói trên. kết luận Hoạt động cho vay theo dự án luôn tiềm ẩn những rủi ro, hoạt động ĐTT còn tiềm ẩn rủi ro có mức thiệt hại lớn hơn nữa. Tuy nhiên nếu Ngân hàng biết khai thác hết thế mạnh của loại hình tín dụng này thì lại có thể hạn chế rủi ro rất nhiều. Trên thực tế, nhu cầu phát triển hoạt động ĐTT tại NHCTVN hiện nay xuất phát từ chính yêu cầu tìm một giải pháp hiệu quả nhằm hạn chế rủi ro trong tình hình kinh doanh nhiều biến động bất thường của ngành ngân hàng hiện nay. Muốn để hoạt động ĐTT thực hiện tốt vai trò, ý nghĩa của nó cần sớm thúc đẩy các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động ĐTT. Biện pháp quan trọng nhất là nâng cao chất lượng thẩm định dự án ĐTT đặc biệt là chất lượng thẩm định tài chính dự án ĐTT. Sau một quá trình nghiên cứu, vận dụng tổng hợp các phương pháp và các vấn đề lý thuyết vào thực tiễn nhằm đáp ứng các mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra đối với đề tài, luận văn đã đạt được một số kết quả sau: Hệ thống hoá được những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động ĐTT của các ngân hàng thương mại đồng thời nêu lên được sự cần thiết, nội dung, phương pháp, các chỉ tiêu thẩm định tài chính dự án ĐTT cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính dự án ĐTT. Khái quát được thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án ĐTT trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Công thương Việt Nam cũng như tham khảo công tác thẩm định tài chính dự án ĐTT tại các ngân hàng thương mại trong nước và nước ngoài nhằm rút kinh nghiệm cho việc xây dựng định hướng hoạt động thẩm định tài chính dự án ĐTT trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Đưa ra những giải pháp có tính thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng Công thương Việt Nam và đề xuất một số kiến nghị với Ngân hàng và các cấp có liên quan nhằm tạo môi trường thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án nói chung và dự án ĐTT nói riêng. Qua luận văn này, tác giả hy vọng những giải pháp được đưa ra sẽ thực sự có ích cho hoạt động cho vay của không chỉ NHCTVN mà còn cho các ngân hàng thương mại khác. Tài liệu tham khảo Pedro Belli và các tác giả, Ngân hàng thế giới, Vũ Cương dịch, Phân tích kinh tế các hoạt động đầu tư – công cụ phân tích và ứng dụng thực tế, NXB Văn hoá - Thông tin, 2002 Peter S. Rose, Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Tài chính, 2001 Josette Peyrard, Đỗ Văn Thuận dịch, Phân tích tài chính doanh nghiệp, NXB Thống kê, 1997 Nguyễn Tấn Bình, Phân tích hoạt động doanh nghiệp, NB Chính Trị Quốc gia Tp HCM, 2003 ThS. Đinh Thế Hiển, Lập – thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư, Trung tâm ứng dụng kinh tế, Viện Kinh tế Tp. HCM, NXB Thống Kê, 2002 TS. Nguyễn Thị Bạch Nguyệt, Giáo trình lập và quản lý dự án đầu tư, NXB Thống Kê, 2000 TS. Đặng Minh Trang, Tính toán dự án đầu tư (kinh tế, kỹ thuật), NXB Thống kê, 2002 Phạm Văn Vận, Chương trình và dự án phát triển kinh tế xã hội, NXB Thống Kê, 1999 PTS. Vũ Công Ty, Phương pháp lựa chọn phương án đầu tư có hiệu quả trong doanh nghiệp, NXB Tài chính, 1996 Quốc hội nước CHXHCNVN, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Quốc hội nước CHXHCNVN, Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX Ngân hàng Nhà nước, Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với các khách hàng, QĐ 1627/2001/QĐ-NHNN Ngân hàng Nhà nước, Quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng, QĐ 286/2002/QĐ-NHNN Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Chương trình và dự án phát triển kinh tế xã hội, Tài liệu tham khảo, 2002 Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Quy trình thẩm định dự án đầu tư, Tài liệu tham khảo, 1999 Ngân hàng Công thương Việt Nam, Hướng dẫn thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn, Tài liệu tham khảo, 2002 Ngân hàng Công Thương Việt Nam, Quy định về đồng tài trợ của NHCTVN, QĐ 068/QĐ-HĐBT-NHCT,2002 Ngân hàng Công Thương Việt Nam, Các báo cáo thường niên, 2001, 2002, 2003 ANZ Bank, Constructing Cash Flow Forcast, Facilitator’s guide, 1995 ANZ Bank and State Bank of Viet Nam, Credit Risk and Analysis Program, 1996 State Bank of Viet nam and Japan Development Bank, Credit Analysis and Risk Management, 2001 Caoutte J.B-Altman E.I-Narayanan P., Managing Credit Risk, John Wiley Inc., 1998 cj

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32867.doc
Tài liệu liên quan