Chúng ta đang tranh thủ ngoại lực, phát huy nội lực để phát triển nền kinh tế. Nước ta là một nước đang phát triển thì tín dụng là một nhân tố rất quan trọng để chúng ta có thể thực hiện quá trình này. Tín dụng giúp chúng ta xây dựng cơ sở vật chất, tạo thế và lực mới. Do đó nâng cao chất lượng tín dụng có ý nghĩa quyết định sự tồn tại của ngân hàng, và xu thế phát triển của nền kinh tế. Nâng cao chất lượng tín dụng là quá trình lâu dài và rất khó khăn, đòi hỏi phải có sự đổi mới toàn bộ trong hoạt động và quản lý của hệ thống tài chính, tiền tệ và các ngành kinh tế, luật pháp.
Trong tín dụng nói chung, thì tín dụng ngắn hạn lại rất quan trong nhất là trong bối cảnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay, cũng như NHCTII-HBT. Qua phân tích tín dụng ngắn hạn ở đây em nhận thấy cho vay ngắn hạn có vai trò quan trọng cho ngân hàng và đây cũng tạo nguồn thu chính cho ngân hàng. Do đó việc nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn là rất cần thiết đối với chi nhánh. Và với chút kiến thức ít ỏi em đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHCTII-HBT.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn GS- Cao Cự Bội, cán bộ NHCTII-HBT đã tận tình giúp em hoàn thành bài viết này.
88 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1228 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương II-HBT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợng tín dụng, hạn chế rủi ro. Tuy vậy, những thông tin đó chưa thể đủ trong quá trình xét duyệt món vay. Thông tin mà trung tâm tín dụng đưa ra các số liệu mang tính chất tĩnh, chưa có sự phân tích đánh giá mang tính chất động về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong khi đó, NHCTII-HBT lại chưa có bộ phận chuyên nghiên cứu vấn đề này. Các cán bộ trực tiếp đảm nhận nhiệm vụ liên quan đến thu thập xử lý thông tin thì chưa được huấn luyện nghiệp vụ đó để có thể tra cứu từ các nguồn khác, mới chỉ thực hiện việc truyền nhận thông tin trong hệ thống theo chương trình đã cài sẳn, chưa đủ khả năng nắm bắt, khai thác, sử dụng các thông tin có ích trên thị trường. Do thiếu thông tin cần thiết nên việc xét duyệt cho vay nhiều khi chưa chính xác như: không biết rỏ tình hình thực tế của doanh nghiệp, sản xuất kinh doanh thua lỗ nhưng vẫn cho vay, hoặc vay để trả nợ ngân hàng theo hình thức đảo nợ. Và do thiếu thông tin thương mại về tình hình giá cả, cung cầu biến động của thị trường nên không lường trước các rủi ro. Như vậy trong điều kiện không nắm bắt được đầy đủ, chính xác các thông tin về khách hàng cũng như không nắm bắt đầy đủ các thông tin có liên quan thì rủi ro xảy ra là điều kho tránh khỏi.
Quy trình nghiệp vụ tín dụng phụ thuộc quá nhiều vào đánh giá chủ quan của cán bộ tín dụng.
Thực tế hiện nay để thực hiện một món vay thì cán bộ tín dụng là người thực hiện tất cả các công đoạn từ A đến Z. Cán bộ tín dụng phải thu thập thông tin về khách hàng vay vốn, phân tích đánh giá khách hàng, kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp các tài liệu khách hàng cung cấp, phân tích tính khả thi, khả năng trả nợ của phương án, kiểm tra, phân tích về biện pháp bảo đảm tiền vay,về tính pháp lý, giá trị và khả năng xử lý tài sản bảo đảm này khi cần thiết. Sau khi thẩm định về khách hàng vay vốn và các vấn đề liên quan đến phương án dự án vay vốn, cán bộ tín dụng lập tờ trình thẩm định và đề nghị giải quyết cho vay và là người chịu trách nhiệm về kết quả phân tích trong tờ trình, có ý kiến đề xuất về việc cho vay hay không, sau đó chuyển toàn bộ hồ sơ kèm theo tờ trình cho lãnh đạo phòng nghiệp vụ tín dụng. Khi nhận được hồ sơ, cán bộ tín dụng thẩm định lại hồ sơ và đưa ra quyết định, nếu cho vay thì trình giám đốc và giám đốc là người cuối cùng xét duyệt cho vay. Trường hợp được vay, cán bộ tín dụng sẽ thông báo cho khách hàng để soạn thảo hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay, theo dõi phát tiền vay, theo dõi kiểm tra việc sử dụng vốn vay, xử lý nợ khi cần thiết. Với quy trình thẩm định như trên thì trách nhiệm của cán bộ tín dụng là quá lớn và họ sẽ không thực hiện cho vay mà không tránh được mọi khiếm khuyết. Bởi vì một dự án, một hợp đồng vay vốn liên quan đến rất nhiều lĩnh vực nên cán bộ tín dụng không phải lúc nào cũng am hiểu hết.
Chất lượng công tác thẩm định chưa cao, trình độ cán bộ còn nhiều thiếu sót, chưa đáp ứng được những nhu cầu hiện tại:
Tại ngân hàng cán bộ tín dụng chưa phân công một cách chuyên sâu, một cán bộ được phân công quản lý một số khách hàng. Đây là những khách hàng thuộc nhiều loại hình cũng như nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau. Do đó, sự phân chia như vậy chưa hợp lý vì không phát huy được hiệu quả của công tác thẩm định. Nếu mỗi cán bộ tín dụng quản lý một loại hình kinh doanh sẽ giúp họ có thời gian tìm hiểu về loại hình này cũng như có điều kiện thuận lợi để so sánh tình hình hoạt động của các đơn vị cùng nghành nghề sản xuất kinh doanh. Hơn nữa công tác thẩm định chưa theo một quy trình cụ thể. Ngân hàng chưa có một văn bản pháp lý cụ thể về các quy trình này dẫn đến việc cán bộ tín dụng phải thực hiện theo kinh nghiệm của mình. điều này đôi khi dẫn đến nhiều bước trong quá trình thẩm định bị bỏ qua làm ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tín dụng tại ngân hàng.
Trong quá trình phân tích các thông tin tài chính, công tác thẩm định mới chỉ dừng lại đơn thuần ở việc đánh giá, so sánh các chỉ tiêu, hệ số kỳ này với kỳ trước. Chứ chưa có được hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành, hay rất khó có được tình hình hoạt động của một đơn vị khác cùng loại hình để tiến hành so sánh. Nguyên của thực trạng này là chúng ta chưa có một cơ quan hay văn bản pháp luật nào quy định về vấn đề này. Trong nhiều trường hợp do hạn chế về thời gian nên nhiều chỉ tiêu cần thiết không được tính toán.
Mặc dù ngân hàng Công Thương đã đưa ra một số các định mức để cán bộ tín dụng tiến hành đánh giá trong quá trình phân tích các hệ số tài chính song các định mức này được thực hiện với mọi nghành nghề kinh doanh gây nên sự bất cập trong quá trình đánh giá.
Trong quá trình thẩm định cán bộ tín dụng phải cáng đáng luôn cả việc đánh giá giá trị tài sản thế chấp. Điều này sẽ làm tăng rủi ro cho ngân hàng trong trường hợp phát mại tài sản vì cán bộ tín dụng chưa có những hiểu biết chuyên môn để có thể đánh giá chính xác giá trị của tài sản dẫn đến ngân hàng có thể cho vay quá tỷ lệ an toàn. hơn nữa do bối cảnh môi trường cạnh tranh gay gắt, ngân hàng chỉ có thể tiến hành thẩm định trong một thời gian ngắn. Sau khi cán bộ tín dụng thẩm định còn phải qua sự thẩm định của trưởng phòng kinh doanh và giám đốc, vì vậy cán bộ thẩm định phải đưa ra kết luận trong một thời gian từ 2 đến 3 ngày, quá ít ỏi và đòi hỏi một trình độ chuyên môn cao. đây là một hạn chế bất cập của ngân hàng.
Việc chấp hành quy trình tín dụng chưa nghiêm, kiểm soát không thường xuyên.
Việc áp dụng các văn bản về cơ chế, chính sách chưa sát thực tế, chưa đúng với chỉ đạo của cơ quan ban hành văn bản. Khi thực thực hiện các văn bản còn khó khăn vướng mắc, chưa được xử lý kịp thời hiệu quả. Vẫn còn tình trạng cán bộ tín dụng xét duyệt vốn đã bỏ qua các nguyên tắc tín dụng, thực hiện không đúng quy trình nghiệp vụ cho vay. Có cán bộ tín dụng muốn cho vay được nhiều nên đã không kiểm tra kỹ lưỡng trước, trong và giám sát tốt khi cho vay nên để khách hàng sử dụng vốn sai mục đích. Khi phát hiện ra khách hàng có khó khăn trong việc hoàn trả nợ thì cán bộ tín dụng đã không có ngay các biện pháp phù hợp để kịp thời xử lý và trong nhiều trường hợp đã gia hạn sai chế độ. Bên cạnh đó việc kiểm tra kiểm soát lại không thường xuyên, nhiều khi chỉ mang tính hình thức nên không phát hiện kịp thời các sai phạm hoặc có phát hiện nhưng lại không có biện pháp xử lý hữu hiệu.
Chiến lược khách hàng còn hạn chế, chưa sử dụng tốt chiến lược Marketing trong ngân hàng.
Các cán bộ tín dụng còn chưa có tính chủ động, sáng tạo cùng khách hàng tìm kiếm phương án kinh doanh có hiệu quả mà còn thụ động trong quá trình phục vụ khách hàng. Khi các điều kiện vay chưa đáp ứng đủ, các cán bộ tín dụng chưa chủ động cùng khách hàng tìm kiếm cách tháo gỡ mà còn trông chờ kế hoạch khách hàng tự đề xuất. Phong cách thái độ ứng xử mỗi khi tiếp cận còn thiếu ân cần, tận tụy đồng thời không chủ động tìm kiếm khách hàng mới.
4.2.2. Hạn chế từ phía doanh nghiệp.
Hạn chế về vốn:
Nước ta là một nước đang phát triển, nên nhu cầu về vốn để phát triển nền kinh tế là rất lớn, các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh rất cần vốn để phát triển, tham gia vào các phương án sản xuất kinh doanh, cũng như các dự án đầu tư. Muốn phát triển thì các doanh nghiệp phải chủ động tìm kiếm các nguồn vốn đầu tư, đặc biệt các doanh nghiệp nhà nước không chỉ ngồi trông chờ vào nguồn ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, vốn tài trợ cho các dự án phần lớn là vốn vay ngân hàng. Nếu ngân hàng đặt lợi ích của toàn xã hội lên trên lợi ích của ngành sẽ phải đáp ứng vốn tín dụng quá khả năng nội tại của doanh nghiệp, vì thế sẽ làm mất bản chất vốn có của tín dụng là vốn bổ sung. Trong một chừng mực nhất định ngân hàng sẽ phải hạ thấp điều kiện vay vốn, khi đó vốn vay chiếm tỷ lệ cao đặt ngân hàng vào thế không an toàn, bởi vì các khoản vay có được hoàn trả hay không phụ thuộc vào khả năng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, khi doanh nghiệp gặp rủi ro sẽ tác động trực tiếp tới hoạt động của ngân hàng, nếu tình hình xấu hơn, doanh nghiệp bị phá sản, ngân hàng có nguy cơ mất vốn.
Năng lực quản lý còn hạn chế:
Trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều cơ hội kinh doanh cũng như có rất nhiều rủi ro luôn luôn rình rập, môi trường kinh doanh luôn đầy tính cạnh tranh. Điều này đỏi hỏi năng lực quản lý của các doanh nghiệp phải cao, nhưng đây cũng là một hạn chế của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung khi tham gia vào nền kinh tế thị trường, dẫn đến các doanh nghiệp hoạt động không hiêu quả thậm chí còn thua lỗ. Điều này làm ảnh hưởng đến quyết định cho vay của ngân hàng. Khả năng sử dụng vốn kém hiệu quả sẽ ảnh tới chất lượng khoản vay.
Số liệu tài chính của doanh nghiệp không trung thực:
Một thực tế đang tồn tại lâu nay là tình trạng các doanh nghiệp vay vốn luôn đối phó với các ngân hàng thông qua việc cung cấp số liêu không trung thực, mặc dù các số liệu này đã được các cơ quan có chức năng kiểm duyệt. Chế độ kế toán đã ban hành nhưng phần lớn các doanh nghiệp thực hiện không nghiêm túc. Điều này gây khó khăn cho ngân hàng trong việc nắm bắt tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như việc quản lý vốn vay của đơn vị để qua đó có thể đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn có tác dụng hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, nhằm thu hồi vốn cho ngân hàng.
4.2.3 . Các nhân tố khách quan khác.
Sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường ngân hàng:
Hiện nay nước ta có nhiều ngân hàng cùng hoạt động: NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần, ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh... Tại khu Hai Bà Trưng NHCTII-HBT có các đối thủ cạnh tranh như:
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội.
Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn HBT.
Ngân hàng cổ phần kỹ thương.
Chi nhánh cổ phần Sài gòn – Thương tín.
Ngân hàng cổ phần Sài gòn – Công thương.
Ngân hàng cổ phần á châu.
Phòng giao dịch ngân hàng Ngoại thương.
Quỹ tín dụng TW.
Phòng giao dịch ngân hàng Đầu tư và Phát triển.
Ngoài ra còn nhiều đối thủ khác nữa trong hệ thống và ngoài hệ thống.
Mặc dù tín dụng ngắn hạn của NHCTII –HBT lớn mạnh hơn các ngân hàng cùng hệ thống nhưng không vì thế mà ngân hàng lơ là trong hoạt động kinh doanh của mình. Đặc biệt hiện nay các ngân hàng nước ngoài có ưu thế lớn hơn hẳn ngân hàng ở trình độ quản lý cũng như quy mô về vốn, uy tín trên thị trường thế giới, và sức mạnh cạnh tranh rất cạo những điều này làm ảnh hưởng đến khả năng hoạt động của ngân hàng.
Môi trường pháp lý không thuận lợi:
Hệ thống văn bản ban hành liên quan đến hoạt động ngân hàng chưa đồng bộ và chưa phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Hệ thống pháp luật ở nước ta tuy đã có nhiều chuyển biến tích cực nhưng vẫn chưa thực sự khoa học, vừa thiếu lại không đồng bộ, thậm chí còn nhiều điểm chồng chéo, mâu thuẫn với nhau giữa các văn bản luật và dưới luật, việc ban hành về cấp độ thì chưa phù hợp, gây khó khăn trong việc tổ chức và thực hiện, cụ thể là :
- Thể lệ tín dụng ngắn hạn là văn bản cốt lõi do Thống đốc NHNN ban hành dưới dạng quyết định trong khi đó, thể lệ cho vay đối với hộ sản xuất chỉ là một bộ phận của tín dụng trung và dài hạn thì lại được ban hành dưới hình thức văn bản cao hơn là Nghị định của chính phủ và NHNN ban hành thông tư hướng dẫn.
- Nghị định 49/CP của chính phủ ban hành ngày 6/11/97 quy định các doanh nghiệp nhà nước khi vay vốn của NHTM quốc doanh không cần thiết phải thế chấp, không giới hạn tỷ lệ vốn điều lệ mà căn cứ vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh ngiệp. Trong khi hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và các dự án lại do cấp chủ quản phán duyệt. Đây chính là một quy định mâu thuẫn ghê gớm với tiến trình cải cách thủ tục hành chính hiện nay. Bởi chuyển sang nền kinh tế thị trường ta đang xoá bỏ cấp trung gian, cấp chủ quản vừa cồng kềnh vừa can thiệp quá sâu vào hoạt động tự chủ của các doanh nghiệp.
Việc thực hiện pháp luật của các chủ thể kinh doanh chưa nghiêm, cơ chế đảm bảo thực thi pháp luật kém hiệu lực:
- Thực trạng phổ biến hiện nay là các doanh nghiệp vi phạm pháp luật ở những mức độ khác nhau. Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế không được coi trọng, việc ký và thực hiện hợp đồng không nghiêm túc, có trường hợp ký hợp đồng giả để lấy tiền vay ngân hàng. Thực tế đòi hỏi cơ chế vận hành pháp luật phải đồng bộ, thống nhất từ lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thế nhưng trong thời gian qua cho dù nhà nước đã rất chú trọng ban hành các bộ luật nhưng việc thực hiện và giám sát lại chưa đi vào cuộc sống vì chưa có một bộ máy đủ năng lực về trình độ chuyên môn thậm chí còn có biểu hiện thoái hoá, biến chất về đạo đức trong thực thi pháp luật như ăn đút lót, hối lộ để giảm tội cho kẻ vi phạm.
- Các cơ quan hữu quan chưa có cái nhìn thấu đáo về ngân hàng và hoạt động kinh doanh tiền tệ nên chưa có sự phối hợp đồng bộ, tích cực với ngân hàng trong việc giải quyết những vấn đề liên quan. Cho đến nay, không ít người cho rằng việc cho vay và thu hồi nợ chỉ đơn thuần là việc của ngân hàng, trong khi trên thực tế có nhiều khoản vay ngân hàng đã thực hiện theo đúng mọi quy định của Nhà nước mà vẫn không thu hồi được nợ, bởi lúc đó nó đã vượt ra khỏi chức năng và khả năng của ngân hàng. Mặc dù đã có nhiều thông tư liên tịch giữa NHNN và các bộ nghành liên quan hướng dẫn việc thực hiên vấn đề có liên quan đến hoạt động của ngân hàng, nhưng thực tế đòi hỏi sự phối hợp hơn nữa giữa các cơ quan này.
Tóm lại, hoạt động của các ngân hàng thương mại nói chung và NHCTII-HBT nói riêng còn gặp nhiều khó khăn, tuy nhiên cùng với sự phát triển của nền kinh tế nước nhà, chắc chắn chất lượng tín dụng của ngân hàng đặc biệt là chất lượng tín dụng ngắn hạn của NHCTII-HBT sẽ được cũng cố và nâng cao, tạo được thế cạnh tranh trong toàn hệ thồng ngân hàng, thúc đẩy hoạt động kinh doanh của chi nhánh phát triển ổn định và vững mạnh.
Chương III: GiảI pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHCT II-HBT
1. Định hướng hoạt động tín dụng của NHCTII-HBT trong năm 2003.
Nằm trong bối cảnh đất nước đang trên đà đổi mới, Chính Phủ tập trung vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Do đó nhiệm vụ của nghành ngân hàng nói chung cũng như chi nhánh NHCTII-HBT nói riêng cần tiếp tục tăng cường huy động vốn, đáp ứng nhu cầu về vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Để thực hiện tốt nhiêm vụ kinh doanh, chi nhánh đề ra các mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu năm 2003 như sau:
* Mục tiêu: Tập trung chỉ đạo công tác kinh doanh, bám sát các định hướng, nhiêm vụ của NHCTVN, đưa hoạt động của chi nhánh đi đúng hướng đạt vượt mức mục tiêu đề ra:
Tăng trưởng dư nợ 10%.
Nguồn vốn tăng 15%.
Lợi nhuân tăng 5%.
* Những nhiệm vụ chủ yếu:
- Tập trung phấn đấu tăng trưởng nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn. Nghiên cứu mở rộng mạng lưới quỹ tiết kiệm, đa dạng hình thức huy động vốn, đổi mới hoàn thiện phong cách giao dịch và công nghệ ngân hàng để tăng sức cạnh tranh.
- Về tín dụng: Phấn đấu tăng trưởng dư nợ lành mạnh, an toàn và hiệu quả đối với mọi thành phần kinh tế. Đặc biệt phải quan tâm đến chất lượng tín dụng, nâng cao năng lực thẩm định cho vay. Tiếp tục chọn lọc khách hàng, kiên quyết rút dần dư nợ đối với những khoản vay không có dấu hiêu an toàn.
Phấn đấu thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay đối với các doanh nghiệp.
- Về công tác xử lý nợ tồn đọng: Tiếp tục triển khai tích cực các biện pháp để xử lý nợ tồn đọng của chi nhánh.
- Quan tâm đến chất lượng các loại hình dịch vụ Ngân hàng để nâng cao sức cạnh tranh, mặt khác nhằm tăng tỷ trọng thu dịch vụ phí ngân hàng trong tổng thu nhập.
2. GiảI pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHCTII-HBT.
2.1. Nâng cao chất lượng thẩm định dự án.
Một hạn chế rất lớn của các NHTM Việt Nam cũng như chi nhánh NHCTII-HBT là năng lực thẩm định dự án. Thẩm định là đánh giá hiệu quả một dự án, một khoản tín dụng trên lý thuyết, đó là công việc mang tính định lượng cũng như tính định tính. Đó là việc tính toán tổng quan về một dự án, từ đó xác định được số tiền thu được từ dự án, số tiền phải bỏ ra và rất nhiều chỉ tiêu liên quan đến xã hội, sinh thái... Rõ ràng chất lượng thẩm định được nâng lên thì sẽ nâng cao được chất lượng của tín dụng ngân hàng. Nâng cao năng lực thẩm định dự án còn giúp cho các ngân hàng có thể chủ động trong việc tham gia tư vấn, thẩm định và từ chối ngay từ đầu những dự án không khả thi, tiết kiệm chi phí cho nền kinh tế. Để nâng cao chất lượng thẩm định dự án thì chi nhánh NHCTII-HBT cần phải thực hiện các giải pháp sau:
2.1.1. Nâng cao chất lượng thu thập thông tin.
Để công tác thẩm định được tốt, đòi hỏi phải có đầy đủ các thông tin cần thiết cho quá trình thẩm định như những thông tin về người vay, về doanh nghiệp, về dự án xin vay. Ngoài ra còn có những thông tin khác liên quan như thông tin về thị trường, về môi trường kinh tế, chính trị xã hội, thông tin về lĩnh vực hoạt động của người vay... Các thông tin này có đầy đủ chính xác mới có thể đưa ra được quyết định đúng đắn. Nguồn thông tin chủ yếu là từ doanh nghiệp xin vay cung cấp mà nguồn này không phải lúc nào cũng trung thực, do vậy để thẩm định tốt, cán bộ tín dụng cần thu thập thông tin từ những nguồn khác đó là:
* Phỏng vấn trực tiếp người vay và điều tra trực tiếp cơ sở sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong khi phỏng vấn cần làm rỏ những thông tin như: mục đích của việc vay vốn, tình hình tài chính của người vay và khả năng trả nợ, lịch sử và xu hướng phát triển, đội ngủ cán bộ, trình độ quản lý, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Điều cần chú ý là khi phỏng vấn trực tiếp thì cán bộ tín dụng không những giỏi về chuyên môn mà còn phải am hiểu về nhiều lĩnh vực khác có liên quan, đặc biệt phải hiểu rõ tâm lý của người được phỏng vấn. Trong khi điều tra trực tiếp tại cơ sỏ sản xuất, cần nắm bắt được tình hình sản xuất kinh doanh chung của doanh nghiệp, năng lực cán bộ lãnh đạo, quan hệ với các đối tác ra sao, trách nhiệm của công nhân với công việc... Qua đó có thể đánh giá được triển vọng của doanh nghiệp trong tương lai.
* Thu thập thông tin từ bên ngoài: Ngoài nguồn thông tin chính thức do khách hàng cung cấp thông qua các báo cáo tài chính trong hồ sơ xin vay và những thông tin thu được qua phỏng vấn và khảo sát thực tế khách hàng, cán bộ tín dụng cần có những thông tin khác bổ sung thêm. Ngân hàng có thể thu thập thông tin từ các đối tác làm ăn của doanh nghiệp đó, từ các ngân hàng bạn mà khách hàng đã từng quan hệ, từ các trung tâm thông tin chuyên nghiệp hoặc cũng có thể từ các mối quan hệ cũ của cán bộ tín dụng.
Việc có được những thông tin bảo đảm chính xác cho công tác thẩm định. Ngày nay khi khoa học phát triển mạnh, kinh tế thị trường đã đòi hỏi thông tin nhanh nhạy và chính xác, chi nhánh cần xây dựng cho mình những nguồn cung cấp thông tin thường xuyên, chính xác và với chi phí thấp nhất.
* Lập quỹ thẩm định và trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho công tác này:
Việc thu thập thông tin phải bỏ ra những chi phí nhất định như: Chi phí gặp gỡ, phỏng vấn khách hàng, chi phí cho cán bộ tín dụng đi xuống tận cơ sở để trực tiếp điều tra, chi phí để mua thông tin từ các trung tâm cung cấp thông tin. Ngoài ra chi nhánh cần phải đưa các chỉ tiêu tài chính vào phần mềm máy tính. Đưa toàn bộ thông tin tổng hợp về khách hàng vào máy tính để khi cần cán bộ tín dụng có thể truy cập dễ dàng.
Tuy nhiên, vấn đề thu thập thông tin là một vấn đề hết sức khó khãn do phạm vi thu thập thông tin rộng, các kênh cung cấp thông tin không đầy đủ và khó tiếp cận trong khi cán bộ thẩm định bị giới hạn về thời gian. Do vậy người thẩm định phải thường xuyên chú ý vấn đề thu thập và lưu trữ thông tin một cách khoa học những nghành nghề do mình phụ trách. Chi nhánh thành lập, bộ phận chuyên trách công tác thu thập thông tin.
Trong công tác thu thập thông tin cần chú ý tới những thông tin cần thiết để phục vụ cho công tác thẩm định ở phương diện thị trường sản phẩm của dự án, bao gồm các thông tin sau:
Thông tin về số lượng doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cùng loại sản phẩm trong cùng một khu vực thị trường, kể cả các doanh nghiệp sắp được thành lập.
Thông tin về mức cầu đối với sản phẩm cung loại trong những năm qua, để thấy được tốc độ tăng trưởng trong thời gian qua, làm cơ sở cho việc dự báo trong tương lai.
Mức cung thực tế của các doanh nghiệp trên thị trường hiện tại, thị phần và mức độ cạnh tranh.
Thông tin về giá cả, dự báo thị trường trong nước và quốc tế.
Quy hoạch, kế hoach đầu tư, định hướng phát triển của các bộ nghành.
2.1.2. Nâng cao chất lượng công tác xử lý thông tin.
Thông tin đầy đủ, chính xác mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để việc thẩm định được chính xác. Nếu việc xử lý thông tin không được chính xác thì mọi thông tin thu được cũng chỉ là vô nghĩa. Do đó việc thu thập thông tin phải đi liền với xử lý thông tin.
Khi có được số liệu chính xác từ quá trình thu thập thông tin thì cần phải xem xét tính sát thực và mức độ tin cậy của thông tin, phải xem xét các số liệu này cả về tương đối lẫn tuyệt đối. Phân tích báo cáo tài chính theo chiều dọc lẫn chiều ngang. Theo chiều ngang cho thấy sự biến động theo thời gian, thấy được sự tăng trưởng của các doanh nghiệp. Còn theo chiều dọc cho thấy sự hợp lý trong cơ cấu các khoản mục để từ đó xem xét khả năng, năng lực của doanh nghiệp để thấy được điểm mạnh yếu của doanh nghiệp. Trong khi phân tích cần xem xét đến sự thay đổi của các tỷ lệ và đặt nó trong môi trường hoàn cảnh cụ thể, có sự so sánh với các chỉ tiêu của nghành để đánh giá một cách chính xác.
Khi phân tích không nên tính toán toàn bộ các chỉ tiêu vì điều này là không cần thiết bởi có rất nhiều chỉ tiêu đánh giá và những chỉ tiêu này có tính chất chung cho mọi doanh nghiệp. Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp mà ngân hàng chọn ra một số chỉ tiêu cơ bản, phản ánh được rỏ nét tình hình hoạt động của các doanh nghiệp. Khi thậm định dự án xin vay phải dự đoán được những rủi ro có thể xảy ra, xem xét tính khả thi của dự án không chỉ dưới góc độ tài chính, mà còn cả những ảnh hưởng tới môi trường, xã hội.
Bên cạnh việc phân tích các chỉ tiêu định lượng, việc phân tích các chỉ tiêu định tính cũng hết sức quan trọng. Đó là việc đánh giá tư cách của người vay, khả năng quản lý, đồng thời phân tích sự biến động của lĩnh vực kinh tế khách quan hoạt động. Ngày nay trong kinh doanh, năng lực, kinh nghiệm và tầm nhìn của người lãnh đạo có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp do đó cần chú trọng tới vấn đề này khi thẩm định cho vay.
2.2. Đa dạng hoá phương thức cho vay ngắn hạn đặc biệt mở rộng chiết khấu chứng từ có giá trên thị trường tiền tệ:
Nền kinh tế càng phát triển, lượng cho vay của các ngân hàng thương mại càng tăng nhanh và loại hình cho vay càng trở nên vô cùng đa dạng. Xu hướng cho vay chuyển dần từ cho vay ngắn hạn sang cho vay dài hạn. Khu vực ngắn hạn nhường chỗ cho thị trường tài chính – tiền tệ cung ứng. Với hình thức cho vay ngắn hạn hiện nay người ta gọi là “ tín dụng ứng trước” nghĩa là vốn vay đưa ra lưu thông không tương xứng với một lượng hàng hoá nào, việc luân chuyển vốn tách rời việc luân chuyển vật tư hàng hoá. Tuy nhiên phương pháp này đã gặp phải một số hạn chế sau: Rủi ro tập trung vào một khách hàng, hàng hoá luân chuyển chưa tương xứng với sự luân chuyển vốn tín dụng. Để khắc phục tình trạng này NHCTII-HBT nên mở rộng hình thức cung ứng vốn bằng hình thức chiết khấu thương phiếu. Hình thức này cho phép mở rộng việc mua bán chịu giữa các doanh nghiệp với nhau, sự tham gia của ngân hàng thúc đẩy lưu chuyển hàng hoá giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Không những thế nó còn được coi là một nghiệp vụ ít rủi ro, vì chiết khấu là một hợp đồng được phép truy đòi, vì vậy khi ngân hàng không thu được nợ của người phát hành chứng từ đó thì có thể đòi ở những người liên đới trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp cần thiết, các tổ chức tín dụng có thể tái chiết khấu tại NHNN khi chứng từ có giá đến hạn thanh toán.
Chiết khấu không làm đóng băng vốn của ngân hàng: do thời hạn ngắn lại có thể chiết khấu trong trường hợp cần thiết nên khoản vốn của ngân hàng nhanh chóng được giải phóng, nâng cao tính thanh khoản trong quản lý tài sản có của ngân hàng. Mặt khác trong ngắn hạn cũng giúp cho ngân hàng dự đoán được sự phát triển của nền kinh tế khi quyết định có chiết khấu hay không.
Tạm ứng vốn trong nghiệp vụ chiết khấu sẽ tạo ra tiền gửi- nguồn vốncủa ngân hàng: khi thực hiện chiết khấu, số tiền cấp cho khách hàng được chuyển sang tài khoản tiền gửi. Số tiền này có thể chưa được sử dụng toàn bộ, như vậy đã tạo ra nguồn vốn trong ngân hàng, đồng thời ngân hàng cũng được hưởng toàn bộ tiền lãi thu trên số tiền ứng cho khách hàng.
Hiện nay hoạt động này rất nhỏ bé tại NHCTII-HBT. Với những ưu điểm đã nói trên, rõ ràng chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín dụng có lợi cho NHCTII-HBT. Mở rộng và nâng cao hiệu quả làm việc của phương pháp này sẽ nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHCTII-HBT.
2.3. Xây dựng chính sách khách hàng hợp lý:
Hiện nay NHCTII-HBT đã triển khai tốt công tác tiếp cận khách hàng, có được một chính sách khách hàng hợp lý, tuy nhiên NHCTII-HBT cũng nên củng cố hơn nữa công tác này để có thể thu hút được đông đảo khách hàng đến với ngân hàng mình.
Đối với các khách hàng truyền thống: NHCTII-HBT cần thành lập và duy trì quan hệ tín dụng ổn định và lâu dài và đặc biệt là các ngành thương nghiệp, công nghiệp, giao thông... trong đó chú trọng hơn nữa đối với ngành công nghiệp chế biến vì đây là ngành chiếm dư nợ tín dụng ngắn hạn lớn nhất trong tất cả các ngành. Bên cạnh đó, NHCTII-HBT cần từng bước mở rộng cho vay đối với ngành công nghiệp, nhất là đối với doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu hoặc sản xuất công nghiệp được thị trường chấp nhận. Những công ty này có triển vọng lớn trong tương lai khi nền kinh tế phát triển mạnh. Với mối quan hệ tốt đẹp và được duy trì thường xuyên với các doanh nghiệp đó, trong tương lai NHCTII-HBT sẽ có những khách hàng lớn mạnh, nhiều tiềm năng, đồng thời đó cũng là điều kiện để NHCTII-HBT khẳng định uy tín và khả năng của mình không chỉ trong nước mà cả quốc tế.
Đối với khách hàng có khó khăn về tài chính, NHCTII-HBT cần đáp ứng dần những nhu cầu dịch vụ từ thấp đến cao, trên cơ sở vẫn đảm bảo an toàn tín dụng, không để xảy ra rủi ro. Như vậy NHCTII-HBT vừa giúp đỡ được doanh nghiệp vừa tạo ra khách hàng tiềm năng tốt và lâu dài. Chi phí để giữ một khách hàng không nhỏ nhưng chi phí để có một khách hàng mới lớn hơn nhiều. Do vậy việc xây dựng một chính sách khách hàng tốt, cũng cố và duy trì mối quan hệ bền vững với khách hàng cũ là một yếu tố hết sức quan trọng bên cạnh việc xây dựng chính sách khách hàng để mở rộng và thu hút thêm các đối tượng khách hàng mới.
Đối với khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và tư nhân:
NHCTII-HBT cần có những chính sách cụ thể để phát huy tiềm năng đối tượng khách hàng này. Trên thực tế, số lượng khách hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ lệ nhỏ trong số lượng khách hàng của chi nhánh. Mặc dù các doanh nghiệp này tiềm ẩn những rủi ro rất cao cả từ phía nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, nhưng không phải tất cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều làm ăn như vậy. Có rất nhiều doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có lãi và hoàn trả đầy đủ và đúng hạn các khoản vay ngân hàng. Trong thời kỳ nền kinh tế đang có nhiều chuyển đổi hiện nay, số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh được thành lập tăng lên đáng kể. Nếu cứ giữ nguyên tình trạng như hiên nay, chi nhánh sẽ bỏ qua một nguồn lực lớn, giảm khả năng cạnh tranh trong khu vực... Nhiệm vụ trước mắt đặt ra cho chi nhánh NHCTII-HBT là mở rộng hình thức cho vay ngắn hạn đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Đồng thời thực hiện các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn tại ngân hàng.
Hiện nay trên thế giới các ngân hàng tiến hành cho vay tiêu dùng, nhưng tại Việt Nam hầu như hình thức cho vay này chỉ tồn tại ở ngân hàng thương mại cổ phần, tại các NHTM quốc doanh hầu như doanh số cho vay tiêu dùng là rất nhỏ bé, có những ngân hàng còn không thực hiện việc cho vay này. Đây là một hạn chế lớn, vì đây là một nguồn tạo thu nhập đáng kể cho ngân hàng. Các khoản vay này thường rất nhỏ bé so với các khoản vay của doanh nghiệp, vì vậy khả năng quản lý tiền vay dễ dàng, hơn nữa với tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay, nhu câu mua sắm tiêu dùng của nhân dân tăng lên đáng kể, đáp ứng tốt lực lượng này, các ngân hàng có thể tăng thêm đáng kể thu nhập. NHCTII-HBT nằm tại khu vực khá đông dân cư do đó nhu cầu vay vốn tiêu dùng của dân cư là khá cao, nhưng hiện nay ngân hàng chưa triển khai tốt loại hình cho vay này. Hy vọng trong tương lai NHCTII-HBT sẽ triển khai tốt hơn nữa cho vay tiêu dùng, nhằm tăng tối đa lợi nhuận thu được, đa dạng hoá các loại hình cho vay.
2.4. Tăng cường quản lý món vay.
Đối với NHTM, hoàn tất việc cho vay mới chỉ là bước đầu của quy trình tín dụng. Một quy trình cho vay chỉ hoàn chỉnh khi khách hàng trả nợ và ngân hàng tất toán hồ sơ. Để nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng, hạn chế mức thấp nhất các rủi ro phát sinh và đề ra các biện pháp hữu hiệu xử lý món vay có vân đề.
Giám sát món vay: Sau khi giải ngân cho khách hàng, cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đánh giá tiến độ thực hiện của phương án vay vốn. Việc này hết sức cần thiết vì nó giúp cho cán bộ tín dụng phát hiện sớm những vấn đề phát sinh, kịp thời đề ra các biện pháp xử lý thích ứng với tình hình. Tuy nhiên hiện nay ở nước ta, các ngân hàng không được cung cấp đầy đủ và thường xuyên thông tin từ phía khách hàng , nhất là thông tin về kế toán tài chính.
Để khắc phục tình trạng này, cán bộ tín dụng luôn tận dụng triệt để những lần gặp gỡ chủ doanh nghiệp khi họ đến ngân hàng trả lãi, khi đến thăm trực tiếp và cũng có thể thu thập thông tin từ những người biết doanh nghiệp, trong đó đến thăm trực tiếp nơi sản xuất kinh doanh sau khi doanh nghiệp hoàn tất việc thực thi dự án vay vốn, điều này hết sức quan trọng nó giúp cho cán bộ tín dụng biết được:
Biết được tinh thần trách nhiệm của chủ doanh nghiệp đối với nợ vay ngân hàng qua việc họ có lãng tránh gặp gỡ, có nhiệt tình trao đổi với cán bộ tín dụng những vấn đề có liên quan đến món vay, có sao nhãng việc trả nợ hay không?
So sánh mức độ khác biệt giữa phương án xin vay với thực tế, chiều hướng tốt hay xấu? Doanh số và quy mô hoạt động, doanh thu, lợi nhuận tăng hay giảm; Sức cạnh tranh của hàng hoá như thế nào? Có phải hạ giá bán một cách không bình thường không?
Đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp như khả năng luân chuyển tiền mặt có đáp ứng được cho hoạt động sản xuất kinh doanh và trả nợ đến hạn không? Nợ phải thu nhiều hay ít, dễ thu hay khó thu, có quá phụ thuộc vào một con nợ không? Xem xét biến động tài sản dùng vào sản xuất kinh doanh ra sao. Có loại tài sản nào nhàn rỗi, giá trị có bị giảm xuống không?
Đánh giá lại giá trị thực tế của tài sản đảm bảo nợ vay, xem giá trị đó có đủ để thu hồi nợ hay không nếu xảy ra trường hợp khách hàng vay mất khả năng thanh toán. Từ đó có những điều chỉnh kịp thời trong việc cung ứng vốn vay cho tương ứng tài sản bảo đảm. Nếu giá trị tài sản bảo đảm giảm xuống, thoả thuận với khách hàng giảm mức dư nợ xuống đúng với quy định cho phép.
Đặc biệt đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh, chủ doanh nghiệp không tách bạch giữa ngân sách dùng cho sản xuất kinh doanh với ngân sách chi tiêu gia đình. Do đó cán bộ tín dụng phải khéo léo tìm hiểu xem chủ doanh nghiệp có biết cách điều hành sản xuất kinh doanh và quản lý chi tiêu hợp lý, nhằm hạn chế sự phụ thuộc.
Các thông tin trên đây phải được cán bộ thường xuyên cập nhật dưới dạng báo cáo và biên bản làm việc kèm trong hồ sơ vay vốn. Nắm tình hình một cách chắc chắn với một ý thức trách nhiệm cao là chìa khoá tốt nhất giúp cán bộ tín dụng quản lý chặt chẽ món vay cũng như phát hiện kịp thời và xử lý những món vay có vấn đề đạt hiệu quả mong muốn. Hạn chế được rủi ro đạo đức từ phía khách hàng vay vốn góp phần nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng.
Các biện pháp xử lý món vay có vấn đề: Món vay có vấn đề ở đây được hiểu bao gồm món vay đã quá hạn và món vay tuy chưa đến hạn nhưng khách hàng có nguy cơ không trả được nợ do mất khả năng thanh toán, do thua lỗ hoặc do doanh nghiệp có biểu hiện vi phạm pháp luật. Xử lý món vay có vấn đề chính là áp dụng các biện pháp khác nhau để thu hồi nợ. Việc xử lý này được dựa trên nguyên tắc cơ bản là tận dụng hết lượng tiền mặt sẳn có, buộc doanh nghiệp bán sản phẩm hay cung ứng dịch vụ ở mức giá hợp lý tạo ra nhu cầu có khả năng thanh toán bằng tiền mặt; cần tận dụng hết tài sản có của doanh nghiệp, tìm cách chuyển hoá nhanh tất cả các loại tài sản đó thành tiền mặt tạo nguồn trả nợ cho ngân hàng. Xem xét các yếu tố liên quan đến tiền mặt để đưa ra hướng xử lý thoả đáng.
Khi hoạt động sản xuất kinh doanh chính bị thất bại và chủ doanh nghiệp không còn nguồn thu nhập nào khác thì trước hết ngân hàng tiến ngay các biện pháp cần thiết:
Nếu doanh nghiệp vẫn duy trì hoạt động trong một thời gian có thể dự đoán thì doanh nghiệp phải trả nợ theo lịch trình dựa trên nguồn thu nhập do hoạt động này tạo ra, tạm thời chưa xử lý tài sản bảo đảm nhằm tránh quy trình thu nợ mất nhiều thời gian, tốn kém.
Trong trường hợp doanh nghiệp bị lỗ lớn không thể tiếp tục huy trì hoạt động và cam kết xử lý tài sản để trả nợ thì ngân hàng có thể cho phép doanh nghiệp sử dụng số tiền sau khi bán tài sản để trả nợ trong một thời gian chấp nhận được. Việc này nhằm hạn chế sự thiệt hại cho doanh nghiệp do phải bán ngay tài sản ở mức giá quá thấp và không thể trả nợ ngân hàng.
Các biện pháp mang tính thương lượng trên đây chỉ áp dụng đối với những doanh nghiệp thực sự có tiền nhưng thiếu biện pháp trả nợ. Ngược lại với bất kỳ lý do không chính đáng nào cho thấy doanh nghiệp không thực hiện đúng cam kết của mình, vi phạm nghiêm trọng hợp đồng tín dụng thì ngân hàng áp dụng biện pháp kiên quyết thu hồi nợ, kể cả đưa hồ sơ ra cơ quan pháp luật cơ quan có thẩm quyền xử lý.
2.5. Đào tạo đội ngủ cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ, năng nỗ, nhiệt tình trung thực:
Hoạt động kinh doanh ngân hàng là một lĩnh vực đặc biệt bởi hàng hoá là tiền tệ, có tính nhảy cảm cao. Vì vậy, rủi ro trong kinh doanh ngân hàng là rất lớn và hết sức đa dạng. Ngoài những rủi ro khách quan, do vô tình hay do sự yếu kém của ngân hàng và đối tác, còn có trường hợp do trình độ hạn chế và hành vi gian lận của cán bộ tín dụng. Khi cán bộ tín dụng cố ý làm sai thì hậu quả thật khó lường, bởi hàng ngày, hàng giờ những con người đều tiếp xúc với tiền. Do vậy ngăn ngừa các hành vi vi phạm cũng như xây dựng một đội ngũ cán bộ giỏi yêu nghề cần phải có những giải pháp đồng bộ:
* Cần tuyển chọn cán bộ một cách cẩn trọng, tránh tuyển những người có tư cách không tốt. Tuyển chọn phải trên cơ sở yêu cầu của từng loại công việc và có tiêu chuẫn rõ ràng. Những cán bộ ngân hàng, cán bộ quản lý điều hành hoặc trực tiếp tác nghiệp trong lĩnh vực tín dụng cần có tiêu chuẩn chung là:
Lập trường tư tưởng vững vàng với mục tiêu phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN.
Phải có kiến thức nghiệp vụ chuyên môn giỏi, nắm bắt nhanh nhạy đầy đủ các chính sách, chủ trương của đảng, pháp luật của Nhà nước, biết vận dụng sáng tạo trong từng vị trí công tác được giao.
Đối với cán bộ trực tiếp giao dịch với khách hàng, thẩm định dự án, đề xuất với ban lãnh đạo ra các quyết định xử lý thì ngoài yêu cầu chung còn đòi hỏi họ là những người thực sự khách quan, có hiểu biết nhất định về kinh tế thị trường, nắm bắt chắc pháp luật, am hiểu thực tế.
* Việc phân công cần cụ thể, khoa học, trong đó phải phân định trách nhiệm, quyền hạn rõ ràng cho từng người với từng vị trí. Các nhiệm vụ chức năng tách biệt, chẳng hạn trong hoạt động tín dụng, các nhân viên chuẩn bị hồ sơ tín dụng phải biệt lập với nhân viên thẩm định giá trị tài sản thế chấp và cả hai phải biệt lập với cán bộ kiểm soát và cho vay.
* Công tác đào tạo phải được quan tâm đúng mức. Đối với nhân viên mới được tuyển chọn cần phải được đào tạo chuyên sâu thêm về công việc sẽ giao. Bên cạnh đó, phải hướng dẫn cho nhân viên mới nắm rõ những mục tiêu, những quy định của ngân hàng. Đối với những nhân viên đang làm cũng phải thường xuyên nghiên cứu, học tập để cập nhật kiến thức về chuyên môn cũng như các kiến thức về xã hội khác, gắn lý luân với thực tiễn để có thể vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo có hiệu quả khi cho vay.
2.6. Lập quỹ dự phòng rủi ro:
Rủi ro trong lĩnh vực ngân hàng bao gồm nhiều lĩnh vực: rủi ro về tỷ giá, rủi ro về thanh toán, rủi ro trong hoạt động tín dụng... Trong đó rủi ro tín dụng là đáng kể nhất. Rủi ro tín dụng có thể xuất phát từ nhiều phía: Rủi ro từ phía khách hàng, rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh, rủi ro do những thay đổi tác động rất lớn đến các hoạt động của ngân hàng. Do vậy, để hạn chế bớt những rủi ro này, có một biện pháp là các ngân hàng phải thành lập quỹ dự phòng bù đắp rủi ro.
Quỹ dự phòng bù đắp rủi ro là cách mà ngân hàng bù đắp cho những khoản không thu hồi được trong qúa trình hoạt động của mình. Khoản tiền trích vào quỹ được coi như một khoản chi phí của ngân hàng, đến cuối năm số tiền còn lại của quỹ sẽ được hoàn lại để giảm số tiền dự phòng đã trích và được coi như là một khoản thu.
Tránh lập dự phòng vượt mức không hợp lý vì tạo ra dự trữ quá mức cần thiết. Nếu dự phòng thấp không phản ánh đúng kết quả kinh doanh và mọi phân phối lợi nhuận đồng nghĩa với việc rút bớt vốn ra khỏi ngân hàng. Đối với dự phòng chung có thể được tính vào chi phí hoặc coi như là một loại quỹ dự trữ. Tại Việt Nam do hệ thông ngân hàng chưa đủ mạnh, vốn không lớn, quy định về phân loại tín dụng chưa cụ thể và chưa lường được hết tình huống xảy ra rủi ro, nên việc trích dự phòng là hết sức cần thiết.
Trước đây, do các khoản trích quỹ dự phòng sẽ làm giảm thu nhập của ngân hàng nên hầu như không ngân hàng nào lập quỹ dự phòng cả. Khi luật NHNN và các tổ chức tín dụng ra đời, điều 82 của luật đã quy định rõ, tất cả các tổ chức tín dụng phải dự phong rủi ro trong hoạt động ngân hàng và bắt buộc phải thành lập quỹ. Tỷ lệ trích quỹ dự phòng áp dụng cho các loại tài sản có của hoạt động cấp tín dụng là 20%, 50%, 100% tuỳ thuộc vào tính chất của các loại tài sản có đó đã được NHNN phân thành 4 nhóm.
Do thời gian có hiệu lực chưa phải là dài, nên chưa phải tất cả các tổ chức tín dụng đều đã thực hiện nghiêm chỉnh và đầy đủ. Trong tương lai NHCTII-HBT cần thực hiện tốt hoạt động này như một biện pháp khắc phục và bù đắp rủi ro cho những khoản tín dụng khó thu hồi trong hoạt động của NHCTII-HBT.
2.7. Thiết lập bộ phận nghiên cứu thị trường.
Cũng như các doanh nghiệp khác, để phát triển hoạt động kinh doanh của mình, mở rộng thị phần, thu được nhiều lợi nhuận và nâng cao chất lượng tín dụng, ngân hàng phải hiểu rõ thị trường mình đang hoạt động, khác với các doanh nghiệp thông thường, ngân hàng kinh doanh trên lĩnh vực, đó là lĩnh vực tiền tệ đầy nhạy cảm và rủi ro. Nếu như với doanh nghiệp nghiên cứu thị trường chỉ quan tâm đến thị trường sản phẩm của mình. Còn đối với ngân hàng việc nghiên cứu cả thị trường sản phẩm của khách hàng.
Trong tình hình hiện nay, sự cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt động tín dụng ngân hàng càng gay gắt. NHCTII-HBT cần thiết phảI lập ra bộ phận chuyên trách để nghiên cứu thị trường đưa ra các giải pháp để chi nhánh có thể điều chỉnh hướng hoạt động của mình sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Bộ phận nghiên cứu thị trường có hai nhiệm vụ:
Nghiên cứu thị trường sản phẩm của ngân hàng: Bộ phận nghiên cứu thị trường sẽ xem xét những vấn đề như nhu cầu vốn vay trên thị trường của các doanh nghiệp, khả năng cung ứng vốn vay và thị phần hiện có về sản phẩm cùng loại của các đối thủ cạnh tranh. Hình thức cho vay ngắn hạn nào được các doanh nghiệp ưa chuộng. Chất lượng của những món vay của ngân hàng hiện nay ra sao, phương thức cho vay nào là an toàn, hiệu quả. Với những thông tin thu được về thị trường sản phẩm của mình, chi nhánh sẽ có những giải pháp phù hợp, kịp thời để thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Kịp thời loại bỏ những món vay không hợp lý, những lĩnh vực đầu tư nhiều rủi ro. Tất cả nhằm đưa ra thị trường những sản phẩm có chất lượng cao, đó là các khoản cho vay lành mạnh.
Nghiên cứu thị trường sản phẩm của khách hàng: NHCT Việt Nam cũng như chi nhánh Hai Bà Trưng phải luôn luôn quán triệt tư tưởng “ thành công của khách hàng là thành công của ngân hàng”. Khách hàng làm ăn có hiệu quả, hoạt động sản xuất kinh doanh tiến triển thì các khoản nợ của ngân hàng được thanh toán đầy đủ. Như vậy chất lượng tín dụng phụ thuộc rất lớn vào kết quả sản xuất kinh doanh của khách hàng. Hiện nay, phần lớn khách hàng của chi nhánh có khả năng tự chủ về tài chính cao. Khi đánh giá về tài chính của doanh nghiệp, ngân hàng khó có thể dự đoán chính xác về triển vọng của doanh nghiệp. Hơn nữa, do ít thông tin về thị trường sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp nên ngân hàng chưa thể dự đoán sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp cung ứng có được chấp nhận hay không. Nếu có thì ở mức giá cả, chất lượng hàng hoá như thế nào... một loại sản phẩm, chỉ có thể được thị trường chấp nhận ở mức số lượng và chất lượng nhất định. Vượt ra khỏi mức cho phép của thị trường thì nhất định doanh nghiệp sẽ thất bại. Vì vậy, bộ phận nghiên cứu thị trường của khách hàng cần tìm hiểu rõ về thị trường sản phẩm của khách hàng như: Số lượng doanh nghiệp cung ứng sản phẩm này, chất lượng sản phẩm trên thị trường, xu thế của nhu cầu sản phẩm đó, những thế mạnh mà sản phẩm khách hàng có, sức cạnh tranh... để từ đó dự đoán xem sản phẩm của khách hàng có thể xâm nhập thị trường không, mức độ rủi ro là bao nhiêu... Đây là nguồn cung cấp thông tin về thị trường giúp cho đánh giá rủi ro thị trường khách hàng của ngân hàng, so sánh, kiểm soát, đối chiếu thông tin do khách hàng cung cấp, trong đó đặc biệt là phương án sản xuất kinh doanh.
Tóm lại, trong tình hình nước ta hiện nay, có rất ít tổ chức nghiên cứu về thị trường để có thể cung cấp thông tin cho khách hàng. Do vậy việc thiết lập một bộ phận nghiên cứu thị trường tại chi nhánh NHCII-HBT là cần thiết để dự đoán và hạn chế những rủi ro có thể xảy ra đối với vốn vay của ngân hàng.
2.8. Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ.
Để nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và tín dụng ngắn hạn nói riêng, ngân hàng không chỉ quan tâm đến mở rộng hoạt động tín dụng mà còn phải quan tâm đúng mức tới công tác kiểm tra kiểm soát nhằm giảm nợ quá hạn và nợ khó đòi. Công tác kiểm tra, kiểm soát được đề cập không chỉ đơn thuần nhằm kiểm tra khách hàng, mà quan trọng hơn là phải kiểm tra, giám sát việc làm của cán bộ tín dụng và cán bộ lãnh đạo nhằm giúp cho họ tuân thủ đầy đủ theo đúng quy trình, quy chế nghiệp vụ, đảm bảo kinh doanh an toàn, hiệu quả và theo đúng pháp luật.
3. Một số kiến nghị.
3.1. Về phía Ngân Hàng Công Thương Việt Nam.
3.1.1. Ban hành những văn bản hướng dẫn cụ thể hơn nữa.
NHCT VN đã có nhiều văn bản hướng dẫn việc thực hiện quy trình tín dụng. Tuy nhiên một số quy định cụ thể về từng loại hình tín dụng ngắn hạn nhìn chung còn chưa đầy đủ. Để việc cho vay được thực hiện đúng quy trình mà NHNN đặt ra, phù hợp với tình hình, điều kiện cụ thể của NHCT. NHCTVN nên có những văn bản hướng dẫn cụ thể hơn nữa đối với các loại tín dụng ngắn hạn... Để giúp cán bộ tín dụng, nhất là những cán bộ tín dụng mới nắm bắt công việc được nhanh chóng, công việc cho vay được suôn sẽ và hiệu quả.
3.1.2. Có chính sách tuyển chọn, nâng cao trình độ đội ngủ cán bộ và có chính sách khen thưởng rõ ràng.
Một trong những thế mạnh của NHCT hơn các ngân hàng thương mại quốc doanh khác là có một đội ngủ cán bộ trẻ, năng động, nhiệt huyết và có trình độ chuyên môn cao. Để phát huy hơn nữa thế mạnh này, NHCT cần có chính sách đào tạo nâng cao trình độ cán bộ, đồng thời chú trọng đến việc gửi cán bộ đi đào tạo chuyên sâu, nghiên cứu tìm cách ứng dụng những nghiệp vụ mới mà các ngân hàng trên thế giới đã áp dụng. Trong điều kiện máy tín được ứng dụng rộng rãi trong hoạt động ngân hàng hiện nay, tiến tới là thực hiện tất cả các nghiệp vụ tín dụng qua mạng máy tính trong tương lai thì việc đào tạo và nâng cao trình độ cán bộ về máy tính là rất cần thiết, thậm chí còn mang tính chất quyết định đối với hoạt động của ngân hàng. Do vậy có chính sách tuyển chọn, đào tạo và nâng cao trình độ cán bộ hợp lý, ngân hàng sẽ đảm bảo được vị thế của mình trên thị trường, vươn lên thành một trong những ngân hàng dẫn đầu trong toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam.
3.1.3. Phát triển chiều sâu hợp tác quốc tế
Theo xu hướng toàn cầu hoá, NHCT Việt Nam cần đẩy mạnh hơn nữa những quan hệ hợp tác quốc tế để khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn từ bên ngoài, học tập công nghệ, tiến tới hội nhập từng việc, từng phần rồi tiến tới cả hệ thống.
3.1.4. Đổi mới mạnh mẽ quản trị điều hành:
Việc đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản trị điều hành phải theo hướng rõ người rõ việc, kỷ cương kỷ luật trách nhiệm đầy đủ theo nguyên tắc cả ngân hàng là một hệ thống thống nhất, theo chuẩn mực pháp luật quy định và phù hợp với thông lệ quốc tế
3.2. Kiến nghị đối với ngân hàng nhà nước.
3.2.1. Tiếp tục xây dựng và hoàn chỉnh các văn bản pháp quy.
Các văn bản này bao gồm: Nghị định củ Chính phủ, Quyết định và Thông tư củ Thống đốc NHNN để hướng dẫn thi hành về hai luật ngân hàng: Luật NHNN và Luật các tổ chức tín dụng. Việc xây dựng và hoàn chỉnh này phải được xây dựng với tinh thần khẩn trương, chất lượng vừa phải đảm bảo tuân thủ pháp luật, vừa đảm bảo yêu cầu đặt ra của đời sống xã hội, tháo gỡ các vướng mắc, giảm bớt các thủ tục phiền hà, không cần thiết nhưng phải bảo đảm an toàn hoạt động, nâng cao quyền tự chủ của các tổ chức tín dụng, của các doanh nghiệp và nhân dân trong hoạt động tín dụng ngắn hạn nói riêng và hoạt động khác của ngân hàng nói chung.
3.2.2. Hoàn thiện quy chế cầm cố, thế chấp tài sản và bảo lãnh vay vốn của ngân hàng:
Cầm cố, thế chấp tài sản hoặc bảo lãnh là những điều kiện đảm bảo cho các khoản và là một nguyên tắc của tín dụng khi khách hàng vay vốn ngân hàng. Quan hệ này được đề cập trong luật dân sự Việt Nam bên cạnh đó là thông tư hướng dẫn số 06/TT-CP của chính phủ và Nghị định 178/199/NĐ-CP ban hành ngày 23/12/1999 của chính phủ. Mặc dù được củ thể hoá trong thông tin và quyết định trên những quy chế còn quá chung. Bên cạnh đó là Luật đất đai chưa rõ ràng. Hơn nữa thủ tục thế chấp qua phòng công chứng cũng phức tạp và rắc rối.
Trong nghiệp vụ cầm cố tài sản: Một nguyên tắc đặt ra là khi khách hàng trả vốn thì thực hiện theo nguyên tắc là khi khách hàng nộp tiền đến đâu, lấy hàng đến đó theo tỷ lệ tương ứng. Như vậy sau mỗi lần nộp tiền, lấy hàng thì phải thay đổi hợp đồng ban đầu. Sự thay đổi này phải qua thủ tục công chứng và phức tạp nếu khách hàng trả vốn nhiều lần.
Một mặt khác, vấn đề phát mại tài sản thế chấp rất phức tạp liên quan đến nhiều cơ quan, qua nhiều thủ tục. Trường hợp xử lý tài sản thế chấp kéo dài ít nhất 6 tháng.
Vì vậy để ban hành quy chế cụ thể, cần có sự phối hợp nhiều cơ quan, ban ngành để giải quyết vấn đề này.
3.2.3. Kiểm tra chặt chẽ hoạt động của các NHTM:
Có biện pháp mạnh mẽ hơn để nâng cao chất lượng hoạt động của ngân hàng, đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo an toàn tiền gửi và tiền vay của các tổ chức tín dụng, bao gồm:
Về cơ chế chính sách: Ban hành hệ thống cơ chế, quy chế, tạo hành lang pháp lý đáp ứng được yêu cầu, một mặt vừa nâng cao quyền hạn và trách nhiệm tự chủ của các tổ chức tín dụng đối với dự án cho vay, hạn chế và đi đến xoá bỏ sự can thiệp trái phép đối với quyền quyết định các khoản vay của các tổ chức tín dụng, mặt khác các tổ chức tín dụng phải chấp hành nghiêm túc các quy định của pháp luật, xử phạt nghiêm minh các trường hợp vi phạm.
Tiếp tục có biện pháp kiên quyết giảm tỷ lệ nợ quá hạn, nợ tồn đọng xuống dưới hoặc bằng 5% theo chỉ đạo của Bộ chính trị. Phối hợp với cơ quan chức năng tăng cường thu hồi nợ quá hạn, xử lý tài sản thế chấp, cầm cố.
2.4. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng.
Có đề án ứng dụng công nghệ vào tất cả các khâu trong hoạt động của ngân hàng và triển khai mạnh trong toàn bộ hệ thống ngân hàng trong cả nước. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng sẽ giúp cho các ngân hàng trong nước theo kịp trình độ của các ngân hàng trên thế giới. Và từ đó khẳng định được uy tín của mình trên thế giới.
Kết luận
Chúng ta đang tranh thủ ngoại lực, phát huy nội lực để phát triển nền kinh tế. Nước ta là một nước đang phát triển thì tín dụng là một nhân tố rất quan trọng để chúng ta có thể thực hiện quá trình này. Tín dụng giúp chúng ta xây dựng cơ sở vật chất, tạo thế và lực mới... Do đó nâng cao chất lượng tín dụng có ý nghĩa quyết định sự tồn tại của ngân hàng, và xu thế phát triển của nền kinh tế. Nâng cao chất lượng tín dụng là quá trình lâu dài và rất khó khăn, đòi hỏi phải có sự đổi mới toàn bộ trong hoạt động và quản lý của hệ thống tài chính, tiền tệ và các ngành kinh tế, luật pháp...
Trong tín dụng nói chung, thì tín dụng ngắn hạn lại rất quan trong nhất là trong bối cảnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay, cũng như NHCTII-HBT. Qua phân tích tín dụng ngắn hạn ở đây em nhận thấy cho vay ngắn hạn có vai trò quan trọng cho ngân hàng và đây cũng tạo nguồn thu chính cho ngân hàng. Do đó việc nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn là rất cần thiết đối với chi nhánh. Và với chút kiến thức ít ỏi em đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHCTII-HBT.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn GS- Cao Cự Bội, cán bộ NHCTII-HBT đã tận tình giúp em hoàn thành bài viết này.
Tài liệu tham khảo
1. Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính – Fredric Minskin.
2. Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ - Đại học KTQD Hà Nội.
3. Ngân hàng thương mại – GS-TS Lê Văn Tư.
4. Tổng quan về tín dụng – Ngân hàng Hồng Kông.
5. Ngân hàng thương mại- Edwrd K. Gill.
6. Tài liệu tập huấn nghiệp vụ tín dụng của NHCT Việt Nam.
7. Quản trị tài chính doanh nghiệp- TS Vũ Duy Hào- Đàm Văn Huệ- Thạc sỹ
Nguyễn Minh Quang.
8. Các văn bản pháp quy của NHNN Việt Nam và NHCT Việt Nam.
9. Các báo cáo tài chính tổng hợp lưu tại NHCT-HBT.
10.Lãi suất tín dụng ngân hàng hướng điều chỉnh- Vũ Long.
11. Tạp chí ngân hàng năm 2000-2002.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37119.doc