Việc nghiên cứu nguồn vốn của các chỉ có ý nghĩa đối với NHTM mà còn có ý nghĩa kinh tế quan trọng đối với việc quản lý và sử dụng các nguồn vốn của doanh nghiệp cũng như sự vận động của mọi nguồn vốn tiền tệ trong nền kinh tế. Tới năm 2010, thị trường vốn của Việt Nam sẽ đóng vai trò quan trọng hơn khi làm trung gian các nguồn tài chính và phân bổ vốn tới các khu vực, các dự án đầu tư. Những vấn đề mà ngành lĩnh vực tài chính – ngân hàng Việt Nam đang phải đối đầu, trước hết là sớm mở cửa thị trường do đòi hỏi của quá trình hội nhập. Ngoài ra, khu vực ngân hàng trơng nước sẽ phải chịu cạnh tranh gay gắt trong vòng 5 năm tới. Thêm vào đó sự tăng trưởng kinh tế cao và bền vững đòi hỏi hệ thống ngân hàng phải có thêm vốn. Theo đánh giá chung, sẽ càng khó khăn hơn nếu Việt nam chỉ dựa vào khu vực ngân hàng để tài trợ cho phát triển kinh tế.
83 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1470 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp tăng cường huy động vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c năm tiếp theo công tác tín dụng tiếp tục được mở rộng và trên đà tăng trưởng cao với kết quả như sau : năm 2004 tổng dư nợ tín dụng đạt 3229 tỷ đồng tăng 63 % so với năm 2003 vượt 23 % kế hoạch tín dụng trung ương giao. Cuối 2005 dư nợ tín dụng đạt 3518 tỷ đồng tăng 8,95% so với năm 2004. Mức tăng trưởng này của toàn bộ hệ thống Vietcombank là 15,7%. Trong khi đó dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng trên địa bàn Hà Nội tăng 20,6% so với cuối năm 2004, thị phần cho vay của Vietcombank Hà Nội chiếm 3,34 % trên địa bàn.
- Về cơ cấu tín dụng : cho vay USD chiếm tỷ trọng cao hơn so với VND. Đây là xu hướng từ năm 2003 do NHNTHN có chính sách cho vay ngoại tệ hỗ trợ xuất nhập khẩu của thành phố Hà Nội cụ thể:
Dư nợ cho vay bằng ngoại tệ năm 2005 đạt 1807 tỷ đồng (quy ra VND) chiếm 51,38% tổng dư nợ.
Dư nợ cho vay bằng VNĐ năm 2005 đạt 1711 tỷ đồng chiếm 48,62% tổng dư nợ.
Để đẩy mạnh công tác tín dụng, Chi nhánh đã chủ động tìm kiếm khách hàng tiềm năng, các dự án, các phương án sản xuất kinh doanh khả thi, tạo điều kiện hỗ trợ kịp thời nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó việc duy trì và củng cố đội ngũ khách hàng truyền thống vẫn luôn được chi nhánh quan tâm. Phong cách giao dịch của cán bộ và chất lượng sản phẩm tín dụng của chi nhánh đã tạo niềm tin và uy tín đối với khách hàng, tạo điều kiện cùng khách hàng tăng trưởng hiệu quả.
- Tình hình giải quyết nợ quá hạn
Chất lượng tín dụng đã được phản ánh chính xác hơn sau khi áp dụng mô hình quản lý tín dụng mới, tạo điều kiện để Ban lãnh đạo Chi nhánh có chính sách quản lý tín dụng kịp thời, duy trì nợ quá hạn dưới 5%, để giữ vững xếp hàng hoạt động của ngân hàng theo thông tư số 49/2004-TT-BTC của bộ tài chính là AAA. Tỷ lệ nợ quá hạn năm 2005 là 2,74% tương đương với mức nợ quá hạn là 96,5 tỷ đồng. Dư nợ quá hạn này chủ yếu tập trung vào các công ty xây dựng cầu đường và giao thông do đơn vị chậm trả lãi và gốc, nên bị xếp vào nợ quá hạn. Hầu hết nợ xấu đã được xử lý ra ngoài bảng tổng kết tài sản để theo dõi ngoại bảng theo chủ trương của NHNTVN.
Công tác thanh toán xuất nhập khẩu (XNK)
- Công tác thanh toán XNK luôn được coi là thế mạnh của ngân hàng ngoại thương. Năm 2003 công tác thanh toán XNK của chi nhánh có chất lượng cao với tổng doanh số XNK cả năm ước đạt 260 triệu USD tăng 32 % so với năm 2002; năm 2004, 2005 hoạt động thanh toán XNK của Chi nhánh gặp nhiều khó khăn: Môi trường cạnh tranh gay gắt , các quy định rào cản về xuất khẩu ngày càng chặt chẽ, giá một số vật tư và dịch vụ đầu vào tăng làm hạn chế sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường quốc tế…
- Tuy nhiên với cơ chế chính sách thuận lợi của chính phủ và được sự quan tâm chỉ đạo của thành phố, tổng kim ngạch xuất khẩu của Hà Nội năm 2004 đạt gần 1500 triệu USD, tăng 11,5% so với năm 2003. Kim ngạch nhập khẩu đạt gần 5000 triệu USD tăng 38 % so với năm 2003. Năm 2005 tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 69,11 tỷ USD, tăng 18,2 % so với năm 2004. Kim ngạch thanh toán xuất nhập khẩu qua Chi nhánh đạt 482,77 triệu USD tăng 15,9% so với năm 2004.
Công tác kinh doanh ngoại tệ
- Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của chi nhánh vẫn được duy trì và có kết quả tốt, tạo điều kiện thanh toán XNK tăng mạnh, doanh số ngoại tệ tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Doanh số mua bán ngoại tệ năm 2004 đạt 748 triệu USD, tăng 55% so với năm 2003, năm 2005 đạt 861 triệu USD, tăng 15,6 % so với năm 2004. Lãi kinh doanh ngoại tệ năm 2005 đạt 11,56 tỷ đồng gấp 5 lần so với năm 2004.
- Với nhu cầu bán cho khách hàng để nhận nợ, trả nợ, thanh toán với nước ngoài rất lớn, trong khi đó lượng ngoại tệ mua vào của TW không thể đáp ứng đầy đủ và kịp thời cho các nhu cầu cấp thiết đó. Vì vậy chi nhánh đã phải cố gắng rất nhiều trong việc tự lo tìm nguồn mua ngoại tệ, kể cả từ nguồn giá cao, áp dụng chính sách ưu đãi tỷ giá mua chuyển khoản bằng tỷ giá bán ra cho ngân hàng để khuyến khích doanh nghiệp, cá nhân mua bán ngoại tệ với ngân hàng, đảm bảo cho tăng trưởng tín dụng và thanh toán XNK, đồng thời tăng thêm doanh thu cho ngân hàng.
Công tác kế toán
- Việc áp dụng công nghệ ngân hàng hiện đại, công tác thanh toán của ngân hàng đã đảm bảo tính chính xác, kịp thời cho các giao dịch chuyển vốn của khách hàng với thời gian ngắn nhất và chất lượng tốt nhất, tạo điều kiện tăng nhanh tốc độ chu chuyển của đồng vốn ngân hàng.
- Kết quả là cùng với sự nỗ lực phục vụ của các kế toán viên, số lượng khách hàng đến giao dịch ngày càng đông, số lượng khách hàng mở mới tài khoản trong năm 2004 tăng 13 % so với năm 2003, năm 2005 tăng 22,43 % so với 2004 đưa tổng số tài khoản giao dịch của doanh nghiệp tại Chi nhánh cuối năm 2005 lên 1310 tài khoản, không có sự phàn nàn của khách hàng về thái độ phục vụ và chất lượng phục vụ tại khâu thanh toán, kế toán ngân hàng. Đồng thời chi nhánh cũng tiếp tục thực hiện tốt công tác quản lý tài chính, nộp đầy đủ kịp thời các khoản thuế đỗi với Nhà Nước.
Công tác ngân quỹ
- Doanh số thu chi VNĐ và ngoại tệ của Chi nhánh luôn tăng trong mấy năm qua (năm 2005 tăng 28 % so với năm 2004). Với ý thức trách nhiệm cao trong công việc, công tác ngân quỹ của NHNTHN luôn đảm bảo an toàn, kiểm đếm, phân loại, đóng bó tiền theo đung quy định của NHNN. Riêng doanh số thu chi của phòng ngân quỹ đã góp phần đáng kể vào tổng doanh số thu chi của toàn chi nhánh (năm 2004 chiếm 78 %; năm 2005 chiếm 75 %).
- Với khối lượng đồng tiền Việt Nam, Sec du lịch, ngoại tệ năm 2004 tăng mạnh, mọi online đều thực hiện tại phòng ngân quỹ. Với tinh thần trách nhiệm và trung thực cao trong công việc, trong năm 2005 cán bộ làm công tác ngân quỹ của chi nhánh đã phát hiện và tịch thu được số lượng tiền giả như sau :
VND : 118.925.000
USD : 2950
EUR : 1000
GBP : 40
Đồng thời trả lại cho khách hàng tổng số tiền thừa là 496.410.000 VNĐ, và 3000 USD.
Công tác kinh doanh dịch vụ
Hoạt động dịch vụ của chi nhánh ngày càng tăng trưởng cả về chất và lượng cụ thể năm 2005 như sau :
- Chi trả kiều hối : đạt 40,5 triệu tăng 55,% so với năm 2004.
Số lượng tài khoản cá nhân mở tại chi nhánh là 64646 tài khoản tăng 24 % so với năm 2004, góp phần vào thúc đẩy thanh toán bằng cách phương thức như ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, chuyển tiền, trả lương tự động … Đã tạo thêm nhiều tiện ích thánh toán cho khách hàng, khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, góp phần mở rộng việc thanh toán không dùng tiền mặt
- Thanh toán thẻ (USD).
Số lượng thẻ ATM phát hành mới là 24.485 thẻ, nâng tổng số thẻ ATM do NHNTHN phát hành tính đến cuối năm 2005 là 58.417 thẻ, tăng 72 % so với năm 2004.
Số lượng phát hành thẻ tín dụng mới là 1.065 thẻ, nâng tổng số thể tính đến cuối năm 2005 là 3.250 , tăng 49 % so với năm 2004.
Kết quả kinh doanh của chi nhánh năm 2005
Tổng thu: 437.396.379.861 đồng, tăng 37 % so với năm 2004.
Tổng chi : 370.760.561.209 đồng, tăng 55 % so với năm 2004.
Lợi nhuận: 66.6353818.652 đồng, giảm 16 % so với năm 2004. Mặc dù vẫn có lợi nhuận song so với năm 2004 thì lại giảm, điều này là do từ đầu năm 2005, Chi nhánh đã trích lập dự phòng rủi ro 67,7 tỷ đồng theo quyết định của NHNTVN.
2.2.Thực trạng huy động vốn của Ngân hàng ngoại thương Hà Nội
2.2.1. Quy mô nguồn vốn huy động
Công tác huy động vốn của chi nhánh NHNTHN trong nhiều năm vẫn được duy trì tốt và liên tục tăng trưởng qua các năm. Phát huy truyền thống và các hình thức huy động vốn hiệu quả, thực hiện thành ccông việc đưa sản phẩm mới về huy động vốn theo chủ trương của NHNTHN, tổng nguồn vốn của Chi nhánh tiếp tục tăng, và theo đó tỷ trọng của nguồn vốn trung và dài hạn tiếp tục tăng cao.
Bảng 1: Cơ cấu vốn trung và dài hạn trong tổng vốn
Đơn vị : Tỷ đồng
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Vốn trung và dài hạn
2918
3654
4035
Tổng vốn huy động
5321
6154
8254
Nguồn: Phòng Quan hệ khách hàng
Biểu đồ 1:Tăng trưởng nguồn vốn trung và dài hạn.
Nhìn vào biểu đồ ta thấy tổng nguồn vốn trung và dài hạn tăng liên tục qua các năm.
- Năm 2003 tổng nguồn vốn trung và dài hạn tăng 1325 tỷ so với năm 2002, tương đương với 33,16% đồng thời chiếm 54,84% tổng nguồn vốn.
Năm 2004 tổng nguồn vốn trung và dài hạn tăng 732 tỷ so với năm 2003, tương đương với 25,09% đồng thời chiếm 59,31% tổng nguồn vốn.
Năm 2005 tổng nguồn vốn trung và dài hạn tăng 385 tỷ so với năm 2004, tương đương với 25,09% đồng thời chiếm 48,89% tổng nguồn vốn.
Nguồn vốn trung và dài hạn liên tục tăng qua các năm. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng đã chậm dần lại, điều này phản ánh một phần sự khan hiếm của nguồn vốn trung và dài hạn. Năm 2004 là năm đánh dấu sự thành công vượt trội của ngân hàng ngoại thương Hà Nội nói riêng và cả hệ thống NHNTVN nói chung. Năm 2005, năm cuối cùng của kế hoạch 5 năm (2001 - 2005), nền kinh tế nước ta nói chung và Hà Nội nói riêng gặp không ít khó khăn do ảnh hưởng từ sự biến động của giá dầu mỏ, vàng và các loại ngoại tệ mạnh với biên độ cao trong năm, dịch cúm gia cầm diễn ra hết sức phức tạp … Hà Nội hiện là địa phưong có chỉ số tăng giá cao nhất nước, CPI tháng 12/2005 của Hà Nội tăng 9,55% so với CPI của tháng 12/2004. Bên cạnh đó Hà Nội đã có thêm nhiều kênh huy động vốn như hoạt động của trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, trái phiếu xây dựng Thủ đô lần thứ nhất, một số công ty phát hành trái phiếu doanh nghiệp… khiến cho cạnh tranh huy động vốn ngày càng trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Để duy trì được tốc độ tăng trưởng nguồn vốn như vậy đòi hỏi sự cố gắng nỗ lực của toàn thể cán bộ nhân viên NHNTHN.
2.2.2. Về cơ cấu nguồn vốn.
Theo loại tiền
Trong 3 năm qua, tình hình diễn biến của lãi suất hết sức phức tạp và có xu hướng gia tăng lãi suất thể hiện bằng việc FED đã liên tục tăng lãi suất 13 lần từ 1,25% lên tới 4,25% trong khi chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam CPI tăng 8,4%. Trước tình hình đó, trong cơ cấu nguồn vốn, nguồn tiền gửi tiết kiệm luôn chiếm tỷ trọng lớn hơn nên nguồn vốn huy động bị ảnh hưởng bởi diễn biến lãi suất trên thị trường nhất là khi đã dự đoán chiều hướng lãi suất năm 2003 duy trì ở mức thấp nhưng đến năm 2005 thì lại liên tục tăng trong cả năm. Do vậy tỷ trọng vốn huy động bằng USD vẫn lớn hơn vốn huy động bằng VND.
Bảng 2: Tình hình huy động vốn trung và dài hạn của NHNTHN.
Đơn vị : tỷ đồng
Loại tiền
2003
2004
2005
Đồng Việt Nam
1125
1592
1845
Ngoại tệ (USD)
1793
2062
2190
Nguồn: Phòng quan hệ khách hàng
Biểu đồ 2 : Cơ cấu nguồn vốn trung và dài hạn theo loại tiền
Năm 2003:
- Tổng nguồn vốn huy động trung và dài hạn bằng VND tăng 213 tỷ so với năm 2002, tương đương với 26,56%.
- Tổng nguồn vốn huy động trung và dài hạn bằng USD tăng 155 tỷ so với năm 2003, tương đương với 14,18%.
Năm 2004:
- Tổng nguồn vốn huy động trung và dài hạn bằng VND tăng 467 tỷ so với năm 2003, tương đương với 41,5%.
- Tổng nguồn vốn huy động trung và dài hạn bằng USD tăng 269 tỷ so với năm 2003, tương đương với 15,01%.
Năm 2005:
- Tổng nguồn vốn huy động trung và dài hạn bằng VND tăng 253 tỷ so với năm 2004, tương đương với 15,89%.
- Tổng nguồn vốn huy động trung và dài hạn bằng USD tăng 128 tỷ so với năm 2004, tương đương với 6,21%.
Qua phân tích số liệu cho thấy nguồn vốn huy động bằng VND tăng trưởng đều và khá cao song không có sự đột biến và có xu hướng giảm. Nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ cũng tăng trưởng đều và cao, tuy nhiên năm 2003 do lãi suất giữ ở mức thấp nên mức huy động vốn ngoại tệ cũng ở mức trung bình so với những năm trước đó. Khi lãi suất có dấu hiệu tăng vào năm 2004 thì các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ tăng đột biến. Sang năm 2005 lãi suất vẫn tăng nhưng không ổn định mà biến động phức tạp, lại do sự khó khăn chung của nền kinh tế nên mức tiền gửi có tăng song không nhiều. Nói chung sự chênh lệch về cơ cấu nguồn tiền là không nhiều giữa 2 loại tiền, cụ thể tỷ trọng của từng loại trong tổng nguồn vốn huy động như sau:
- Năm 2003 nguồn vốn huy động trung và dài hạn bằng USD chiếm 65,21% tổng nguồn vốn huy động trung và dài hạn.
- Năm 2004 nguồn vốn huy động trung và dài hạn bằng USD là 56,38%, tăng 8,38% so với năm 2003
- Năm 2005 nguồn vốn huy động trung và dài hạn bằng 54,27%, giảm 7,89% so với năm 2004
Nói chung tỷ trọng nguồn vốn huy động trung và dài hạn bằng USD luuôn cao hơn VND nhưng không nhiều và tỷ trọng này trung bình qua các năm khoảng 56%.
Theo hình thức huy động
Nguồn trung và dài hạn của NHNTHN bao gồm 3 nguồn chủ yếu là vốn và các quỹ, tiền gửi tiết kiệm của dân cư trên 12 tháng, phát hành các giấy nợ trung và dài hạn. Các khoản đầu tư khác gần như bằng 0 nên khi phân tích thực trạng huy động vốn, chúng ta chỉ xem xét đến 3 hình thức huy động này.
Bảng 3 : Tình hình huy động vốn trung và dài hạn của NHNTHN theo hình thức huy động.
Đơn vị: Tỷ đồng.
Khoản mục
31/12/2003
31/12/2004
31/12/2005
số dư
tỷ trọng
số dư
tỷ trọng
số dư
tỷ trọng
Vốn và các quỹ
332
11,38%
398
10,90%
410
10,16%
Tiết kiệm trên 12 tháng
2050
70,25%
2707
74,16%
3024
74,94%
Trái phiếu trung và dài hạn
501
18,37%
545
14,94%
601
14,89%
Nguồn: Phòng quan hệ khách hàng
Biểu đồ 3 : Tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn của NHNTHN theo hình thức huy động
Vốn và các quỹ:
Do lượng tiền gửi tăng qua các năm nên tỷ lệ trích lập các quỹ tăng trong khi vốn điều lệ ổn định qua các năm nên khoản mục vốn và các quỹ cũng tăng đều, tuy nhiên lượng tăng là không đáng kể.
- Năm 2004: Vốn và các quỹ tăng 66 tỷ so với năm 2004, tương đương với 19,88%.
- Năm 2005: Vốn và các quỹ tăng 12 tỷ so với năm 2004, tương đương với 3,01%
Tiền gửi tiết kiệm trên 12 tháng:
- Năm 2004: Lượng tiền gửi tiết kiệm trên 12 tháng tăng 657 tỷ so với năm 2003, tương đương với 32,05%
- Năm 2005: Lượng tiền gửi tiết kiệm trên 12 tháng tăng 317 tỷ so với năm 2004, tương đương với 11,17%.
Phát hành trái phiếu trung và dài hạn:
- Năm 2004: Tổng nguồn vốn huy động từ bán trái phiếu trung và dài hạn tăng 44 tỷ so với năm 2003, tương đương với 8,78%.
- Năm 2005: Tổng nguồn vốn huy động từ bán trái phiếu trung và dài hạn tăng 56 tỷ so với năm 2004, tương đương với 10,28%.
Kết quả tính toán cho thấy các hình thức huy động vốn đều đạt được những kết quả khả quan mặc dù còn tăng trưởng chậm. Do biến động lãi suất trên thị trường hết sức phức tạp, để phù hợp với lãi suất thị trường, đồng thời có thể thu hút khách hàng, căn cứ vào Quyết định 190/QĐ-NHNTVN ngày 03/10/2005 về việc điều chỉnh lãi suất VND, và Quyết định số 248/QĐ-NHNN ngày 13/13/2005 về việc điều chỉnh trần lãi suất tiền gửi có kì hạn bằng USD của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNTVN như sau:
Bảng 4: Lãi suất huy động theo loại tiền
Đơn vị : %/ tháng
Kì hạn Loại tiền
12 tháng
18 tháng
24 tháng
36 tháng
60 tháng
USD
4,50
4,52
4,55
4,60
4,70
VND
0,70
0,71
0,75
0,76
0,78
Nguồn: Phòng quan hệ khách hàng
Việc điều chỉnh tăng lãi suất của Chi nhánh một phần nào cũng đáp ứng được yêu cầu của khách hàng nên lượng tiền gửi qua các năm vẫn tăng, đặc biệt là lượng tiền gửi bằng USD như đã nói ở trên. Về phát hành trái phiếu trung và dài hạn trong những năm qua Chi nhánh đã triển khai tích cực các đợt bán trái phiếu trung và dài hạn, tiết kiệm Seagame dự thưởng, tiết kiệm kì hạn 5 năm do NHNTVN đưa ra và đã đạt được kết quả tốt nhằm tăng tỷ lệ vốn trung và dài hạn trên tổng nguồn vốn huy động, tăng khả năng thanh khoản, đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn phục vụ cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong những năm qua, NHNTHN là một trong những chi nhánh có lượng phát hành đăng ký lớn nhất. Năm 2003 đã hoàn thành vượt mức kế hoạch bán trái phiếu đã đăng kí với Hội sở chính, dẫn đầu toàn hệ thống.
2.3. Đánh giá thực trạng huy động vốn trung và dài hạn của NHNTHN
Trước tình hình kinh tế trong nước và thế giới biến động phức tạp, để giữ vững được nhịp điệu kinh doanh, tăng trưởng đều đặn, toàn thể cán bộ nhân viên của Chi nhánh đã nỗ lực không ngừng và đạt được những kết quả tương đối tốt.
2.3.1. Kết quả.
Quy mô
- Quy mô nguồn vốn trung và dài hạn huy động được không ngừng gia tăng qua các năm và có xu hướng giảm dần. Giai đoạn năm 2003, 2004 tốc độ tăng trưởng quy mô nguồn vốn trung và dài hạn giảm song tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn huy động được lại chiếm tỷ trọng cao hơn.
- Giai đoạn 2004 - 2005 tốc độ tăng trưởng quy mô nguồn vốn trung và dài hạn vẫn giảm, tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn huy động được cũng giảm.
Nói chung quy mô nguồn vốn trung và dài hạn vẫn tăng mặc dù nền kinh tế còn rất nhiều khó khăn. Trong những năm tới ngân hàng cần phải cố gắng hơn nữa để giữ vững xu hướng gia tăng nguồn vốn trung và dài hạn, dáp ứng nhu cầu vốn trung và dại hạn của nền kinh tế.
Cơ cấu
- Cơ cấu nguồn vốn dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ, chủ yếu là USD, tiền gửi bằng VND có tăng song với tốc độ chậm hơn. Khách hàng thường gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng bằng ngoại tệ để phòng xa, đặc biệt là tiết kiệm trung và dài hạn. Do gần đây FED điều chỉnh tăng lãi suất , do đó các ngân hàng trong nước trong đó có NHNTHN cũng phải điều chỉnh lại cho phù hợp nên lãi suất trần tiền gửi tăng khiến cho khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng bằng ngoại tệ tăng lên đáng kể. Điều này tạo điều kiện mở rộng cho vay, tài trợ, thanh toán bằng ngoại tệ. Ngân hàng cũng đưa ra hiều hình thức tiết kiệm có kèm theo các tiện ích cho khách hàng nhằm thu hút tiền gửi bằng VND, đảm bảo cân đối tiền gửi bằng VND và USD.
- Cơ cấu vốn theo hình thức huy động cho thấy huy động từ dân cư vẫn là ưu thế nổi trội của ngân hàng phản ánh chính sách khách hàng đúg đắn đi đôi với hoạt động quảng bá các sản phẩm mang tính tiện ích cao hơn so với các ngân hàng khác. Tuy nhiên về dài hạn Chi nhánh sẽ có các chính sách để nâng cao tỷ lệ huy động vốn từ các tổ chức nhằm làm giảm lãi suất huy động bình quân đầu vào, nâng cao lợi nhuận. Trong cơ cấu vốn trung và dài hạn theo hình thức, huy động vốn từ dân cư chiếm 90%, theo loại tiền thìovốn ngoại tệ (USD) luôn chiếm tỷ lệ cao hơn so với VND. Trên địa bàn Hà Nội, các NHTM cạnh tranh gay gắt bằng việc đưa ra các mức lãi suất và hình thức huy động hấp dẫn. Tỷ lệ huy động vốn của NHNTHN so với cả hệ thống năm 2005 đạt 15,8% , mức tăng trưởng huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 19,2% so với năm 2004. Tính đến hết năm 2005 thì nguồn vốn huy động của Vietcombank Hà Nội chỉ chiếm 3,65 trên địa bàn.
- Về phát hành trái phiếu trung và dài hạn: NHNTHN đã tích cực triển khai bán trái phiếu do NHNTVN phát hành nhằm tăng cường nguồn vốn trung và dài hạn trên tổng nguồn vốn, tăng khả năng thanh toán, đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn phục vụ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Trái phiếu do ngân hàng ngoại thương Hà Nội bán có 2 loại là trái phiếu VND và trái phiếu USD, thời hạn thường từ 1 năm đến 5 năm. Theo tính chất chuyển nhượng có trái phiếu ghi danh với mệnh giá 1 triệu, 10 triệu, 20 triệu; trái phiếu vô danh với mệnh giá 1 triệu; trái phiếu ghi sổ với mệnh giá là bội số của 1 triệu. Các phương thức trả lãi rất phong phú và thu hút khách hàng. NHNTHN luôn là đơn vị dẫn đầu trong việc hoàn thành bán trái phiếu và vượt mức trái phiếu đã đăng kí với Hội sở chính.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân.
Bên cạnh những kết quả đạt được, NHNTHN cũng có một số hạn chế nhất định.
Hạn chế
- Tuy quy mô nguồn vốn có tăng trưởng nhưng ở mức trung bình, không cao, hơn nữa lại có xu hướng giảm dần.
Mấy năm gần đây, nhu cầu vốn của các doanh nghiệp tăng do đẩy mạnh việc áp dụng các thành tựu khoa học tiên tiến, đảm bảo khả năng cạnh tranh khi Việt Nam ngày càng tham gia nhiều hơn vào các tổ chức kinh tế quốc tế như gia nhập AFTA, WTO … trong khi đó tăng trưởng về nguồn vốn của Chi nhánh tăng chậm nhưng nhu cầu về tín dụng lại tăng nhanh dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho nền kinh tế.
- Cơ cấu nguồn vốn theo hướng tăng tỷ trọng của nguồn tiền gửi bằng ngoại tệ nhưng tỷ lệ này thất thường, không ổn định.
Nhu cầu trao đổi ngoại tệ của nền kinh tế thông qua hệ thống ngân hàng hiện nay là rất lớn như nhu cầu thanh toán xuất nhập khẩu hay nhu cầu du học của, di lao động nước ngoài của dân cư … Điều này đòi hỏi một khối lượng khá lớn ngoại tệ sẵn có của ngân hàng để đáp ứng. Trong ba năm liên tiếp gần đây do lãi suất ngoại tệ tăng cao, lượng ngoại tệ gửi vào Chi nhánh có tăng trưởng song tốc độ chậm dần. Để đáp ứng tốc dộ gia tăng đòi hỏi vốn ngoại tệ của nền kinh tế, Chi nhánh phải có một chiến lược mới hiệu quả hơn để đáp ứng nhu cầu lượng vốn ngoại tệ cho nền kinh tế.
- Vốn trung và dài hạn huy động qua phát hành trái phiếu hoàn thành và tăng song chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng nguồn vốn huy động trung và dài hạn. Trong điều kiện thị trường chứng khoán phát triển, số lượng người đầu tư sang thị trường này khá nhiều, làm giảm tiết kiệm, đặc biệt là nguồn tiền gửi tiết kiệm trung và dài hạn. Nếu ngân hàng biết tận dụng lợi thế của TTCK thì phải coi trọng hình thức huy động vốn trung và dài hạn bằng phát hành trái phiếu và cổ phiếu, coi đây là hình thức huy động chính trong tương lai thay vì dựa dẫm vào nguồn tiền gửi tiết kiệm trung và dài hạn trong dân cư.
Chi phí huy động
Với tình hình lãi suất liên tục tăng như hiện nay, để đảm bảo vừa thu hút được nguồn vốn, vừa cân đối lãi suất cho vay và lãi suất huy động, NHNTHN phải duy trì mức lãi suất nguồn trung và dài hạn khá cao.Hơn nữa toàn bộ lượng vốn huy động không sử dụng hết mà phải thực hiện điều chuyển vốn nội bộ do đó lãi suất huy động thực tế của ngân hàng cao hơn so với các ngân hàng khác, làm ảnh hưởng tới hiệu quả nguồn vốn của ngân hàng.
Nguyên nhân
Khách quan
Môi trường kinh tế
- Địa bàn hoạt động
Do đặc điểm địa bàn Hà Nội là trung tâm kinh tế chính trị của cả nước, hầu hết các công ty, doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty lớn, các ngành mũi nhọn đều tập trung tại đây nên nhu cầu tín dụng là rất lớn. Đây cũng là địa bàn tập trung đông dân cư, đầy đủ các tầng lớp, thu nhập trung bình của dân cư cũng cao hơn các nơi khác nên công tác huy động vốn đặc biệt là vốn trung và dài hạn của Chi nhánh vẫn đạt kết quả khả quan song do diễn biến kinh tế thế giới phức tạp, sự khó khăn chung của nền kinh tế trong nước rồi dịch bệnh, thiên tai khiến cho thu nhập của người dân có đôi phần giảm sút, làm giảm tốc độ tăng trưởng nguồn vốn nói chung và nguồn vốn trung và dài hạn nói riêng.
- Cạnh tranh
Trên địa bàn Hà Nội, số lượng các tổ chức tín dụng tập trung rất đông, các ngân hàng khác mở rộng mạng lưới chi nhánh nhanh, hiện đã có khoảng 100 chi nhánh cấp một của các ngân hàng thương mại được thành lập và hoạt động tại Hà Nội. Mức cạnh tranh cao, một số ngân hàng dùng các biện pháp cạnh tranh khốc liệt để phát triển khách hàng. Về dài hạn Chi nhánh sẽ có các chính sách để nâng cao tỷ lệ vốn trung và dài hạn, đặc biệt là hình thức phát hành trái phiếu.
- Diễn biến lãi suất
Mặt bằng lãi suất chung vẫn đang ở mức cao trên thị trường, gây khó khăn trong việc huy động vốn tiết kiệm vốn từ dân cư, đặc biệt là đối với nguồn vốn trung và dài hạn luôn đòi hỏi lãi suất cao hơn nguồn ngắn hạn. lãi suất đầu vào cao cũng kéo theo lãi suất đầu ra tăng tương ứng. Mức chênh lệch lãi suất đầu ra và đầu vào của NHNTHN tuy đã tăng nhưng thấp hơn so với toàn hệ thống NHNTVN.
Trong cuộc họp báo tổ chức hồi cuối năm 2004, Thống đốc NHNN Việt Nam ông Lê Đức Thuý nói rằng lãi suất đang vận hành theo nguyên tắc tôn trọng thị trường, lãi suất này là do thị trường quyết định … Năm 2004, lạm phát tăng tương đối so với mục tiêu đã đề ra, nhưng từ quý 1/2004 mức độ tăng giá đã thấp hơn nhiều so với lãi suất ngân hàng, do đó xu hướng gửi tiền vào các ngân hàng đã tăng trở lại. Thực tế vào thời điểm giữa năm 2004 khi chỉ số giá tiêu dùng tăng cao, một số NHTM, nhất là các NHTM cổ phần đã rục rịch tăng lãi suất huy động để thu hút tiền gửi trong dân chúng. Nhưng trước áp lực phát triển của các doanh nghiệp, sợ sự cạnh tranh giữa các NHTM sẽ kéo theo việc tăng lãi suất huy động vốn làm giảm đầu tư, Hiệp hội ngân hàng VNBA đã thoả thuận thống nhất chung không tăng lãi suất huy động. Song giờ đây khi FED liên tục tăng lãi suất cơ bản, các NHTM đã buộc phải điều chỉnh tăng lãi suất huy động theo sự thay đổi này trong đó có NHNTHN.
- Sự phát triển của thị trường tài chính
Sự ra đời và phát triển của trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội khiến cho việc di chuyển vốn đầu tư sang các thị trường mới làm giảm sút lượng tiền gửi vào ngân hàng. Ngoài ra còn các kênh huy động mới như trái phiếu xây dựng Thủ đô, một số công ty phát hành trái phiếu doanh nghiệp khiến cho cạnh tranh thu hút vốn ngày càng trở nên khốc liệt.
Tuy nhiên TTCK của chúng ta còn quá nhỏ bé, hệ thống các công ty chứng khoán làm nghiệp vụ môi giới, tư vấn còn chưa phát triển, hệ thống thông tin thị trường chưa thật sự là chỗ dựa tin cậy cho người đầu tư khiến cho việc đầu tư vào thị trường này còn thua lỗ nhiều. Hơn nữa đa số người dân còn chưa có hiểu biết sâu sắc và chưa coi đây là thị trường đầu tư chính thức, dài hạn.
- Biến động giá vàng
Sự biến động thất thường của giá vàng thế giới và trong nước những năm qua khiến cho nhiều người tỏ ra lo ngại. Mặc dù giá vàng trong nước tăng nhanh nhưng chủ yếu là do giá vàng thế giới tăng, nên xu hướng chung là người dân ít đầu tư vào việc mua vàng để tăng đồng vốn của mình. Tuy nhiên biến động giá vàng trong những tháng đầu năm 2006 khiến cho nhiều người hoang mang lo sợ đồng tiền mất giá nên đã có tình trạng rút tiền gửi ngân hàng về để mua vàng. Điều này gây khó khăn cho công tác huy động vốn trung và dài hạn.
Nhân tố thuộc về nhà nước
Chi nhánh NHNTHN đang tập trung dành vốn điều chuyển và gửi có kỳ hạn VCB TƯ, tăng năng lực về vốn cho hệ thống và sử dụng đến mức tối đa có hiệu quả nguồn vốn của Chi nhánh. Tuy nhiên, do mức lãi suất điều chuyển chưa hợp lý và không tính đến lãi suất huy động đầu vào nên Chi nhánh đang gặp khó khăn rất lớn đến doanh lợi, làm ảnh hưởng đến ưu thế huy động vốn. Với mục tiêu mở rộng thị phần và phục vụ khách hàng tốt nhất, Chi nhánh vẫn phải duy trì mức lãi suất hấp dẫn đang áp dụng trong thời gian qua.
Nhân tố xã hội
Hà Nội là địa bàn có mật độ dân cư đông, trình độ dân trí cao, họ hiểu biết và nhanh chóng tiếp cận nắm bắt những thành tựu mới đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư tài chính. Khác với nhiều nơi khác ở nông thôn vẫn còn tồn tại tâm lý giữ tiền trong nhà thay vì gửi tiền vào ngân hàng hay đầu tư vào các thị trường khác, người dân Hà Nội có tiền nhàn rỗi thường chọn cách gửi tiền vào ngân hàng hay đem đi đầu tư trục tiếp. Như vậy chi cần người dân có tiền tiết kiệm đồng thời ngân hàng đáp ứng được nhu cầu của khách hàng thì tất yếu họ sẽ sử dụng các dịch vụ của ngân hàng, đặc biệt là gửi tiền tiết kiệm, mua cổ phiếu hay trái phiấu của ngân hàng. Ngân hàng cũng sẽ dễ dàng thành công khi triển khai các dịch vụ mới tới khách hàng nếu kinh doanh trên địa bàn này.
Môi trường tự nhỉên
Tình hình thiên tai lũ lụt ít ảnh hưởng tới dân cư trên địa bàn Hà Nội, tuy nhiên gần đây dịch bệnh liên tục xảy ra trên diện rộng như dịch cúm gia cầm, dịch SARS… khiến cho thu nhập dân cư giảm, tình hình huy động vốn trung và dài hạn của ngân hàng càng trowr nên khó khăn hơn.
Nguyên nhân chủ quan
- Các hình thức huy động của ngân hàng chưa thực sự phong phú hấp dẫn được khách hàng như chưa đa dạng hoá thời hạn gửi, đa dạng hoá các mức tiền gửi tương ứng với các mức lãi suất khác nhau, các hình thức khuyến khích vật chất chư có gì nôi trội khác biệt so với các ngân hàng khác nên chưa tạo được bước đột phá.
- Mạng lưới chi nhánh, đặc biệt là chi nhánh cấp II còn hạn chế, chưa tạo được nhiều tiện ích cho ngân hàng. Hiện nay các ngân hàng đua nhau mở rộng mạng lưới chi nhánh vì vậy NHNTHN cũng phải quan tâm đến vấn đề này.
- Nghiệp vụ marketing của Chi nhánh chưa được quan tâm đúng mức
Ngân hàng chưa tổ chức được các buổi gặp gỡ tìm hiểu nhu cầu và lắng nghe ý kiến phản ánh từ khách hàng. Việc quảng cáo cũng chưa gây được sự chú ý, chỉ dừng lại ở việc đăng báo hoặc để tờ rơi tại nơi giao dịch.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI NHNTHN
3.1. Định hướng phát triển của NHNTHN.
- Cơ cấu lại tổ chức và hệ thống quản lý theo mô hình hướng tới khách hàng và theo chuẩn mực của ngân hàng hiện đại, lành mạnh hóa hệ thống tài chính, tiến tới đạt các chỉ tiêu theo thông lệ quốc tế về ngân hàng.
- Đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của ngân hàng bao gồm cả hoạt động ngân hàng bán lẻ và ngân hàng bán buôn, mở rộng quan hệ khách hàng với mọi thành phần kinh tế, chú trọng hướng tới các khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Mở rộng mạng lưới chi nhánh và các kênh huy động trên địa bàn Hà Nội, phát triển nhanh các phẩm và dịch vụ của NHNT trên cơ sở nền tảng công nghệ hiện đại.
- Phát huy vai trò chủ đạo trên thị trường tiền tệ, kinh doanh ngoại tệ và hoạt động xuất nhập khẩu.
- Tăng cường đào tạo, đào tạo lại và tuyển dụng mới các cán bộ, tạo lập nguồn nhân lực chất lượng cao của ngân hàng, đáp ứng nhu cầu tăng và nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
- Trước mắt Chi nhánh sẽ tiếp tục phát huy các thế mạnh về công nghệ, uy tín, thương hiệu của một ngân hàng đối ngoại trên địa bàn, đồng thời kết hợp với đa dạng các hình thức, các công cụ huy động vốn như: kì phiếu, trái phiếu … phát triển các ngân hàng hiện đại, tích hợp nhiều tiện ích, mở rộng màng lưới giao dịch, áp dụng chính sách lãi suất, quyền chọn để cung cấp các sản phẩm huy động vốn ngày càng đa dạng và hiện đại hơn đến khách hàng, nâng cao tỷ trọng tiền gửi doanh nghiệp trên tổng vốn huy động từ khách hàng.
- Tiếp tục nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ và văn minh giao tiếp, từng bước áp dụng mô hình quản lý tổ chức giao dịch trong khối ngân hàng bán lẻ theo chuẩn mực của một ngân hàng hiện đại.
3.2. Giải pháp
Để đáp ứng nhu cầu vốn vay, mở rộng triển khai các dịch vụ mới, áp dụng công nghệ ngân hàng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng, thắng cạnh tranh nhất là đến năm 2010 khi mở cửa sâu rộng thị trường tài chính - ngân hàng, các NHTM đều phải tìm cách tăng cường huy động vốn. Theo yêu cầu của hội nhập, Việt Nam sẽ phải nới lỏng quyền tiếp cận thị trường và hạn chế về hoạt động cho các ngân hàng nước ngoài. Cạnh tranh ở đây không phải là cạnh tranh lẫn nhau giữa gần 40 ngân hàng Việt Nam và 30 chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng như ngân hàng liên doanh, mà là cạnh tranh khi mở cửa, khi các ngân hàng nước ngoài được bỏ dần các ràng buộc trong khi họ mạnh cả về vốn lẫn khoa học kĩ thuật công nghệ, hoạt động huy động vốn đã khó khăn càng trở nên khó khăn hơn. Trước tình hình đó, các NHTM phải có các biện pháp cụ thể, hiệu quả nhằm tăng cường huy động vốn trung và dài hạn.
1. Nâng cao uy tín của ngân hàng
Đây là điều mà đòi hỏi phải có thời gian, không thể làm trong một thời gian ngắn. Uy tín của ngân hàng là sự tổng hợp của nhiều yếu tố trong suốt thời gian dài hoạt động kể từ khi thành lập đến nay. Nâng cao uy tín đối với khách hàng đồng nghĩa với việc làm cho khách hàng tin tưởng và sử dụng các dịch vụ của ngân hàng, chắc chắn là khách hàng chỉ gửi tiền vào ngân hàng nào mà họ cảm thấy thực sự tin tưởng. Mở rộng mạng lưới chi nhánh,việc làm này vừa góp phần tăng cường quảng bá cho hình ảnh của Ngân hàng, vừa tạo ra tiện ích cho khách hàng, giúp họ giảm được chi phí và thời gian đi lại, đồng thời cũng có tác dụng khuyếch trương quy mô, tăng niềm tin và uy tín của Ngân hàng trong lòng khách hàng.
2. Xây dựng chính sách Marketing ngân hàng, chiến lược khách hàng hợp lý.
Đây là vấn đề mấu chốt để giữ gìn mối quan hệ lâu dài với khách hàng đồng thời tạo điều kiện mở rộng thị phần thông qua các hoạt động như:
- Tăng cường các hình thức quảng cáo. Trước đây ngân hàng chỉ quảng cáo thông qua phát tờ rơi tại nơi giao dịch, qua báo chí, giờ đây cần tăng cường dịch vụ quản cáo qua truyền hình, đặc biệt là tham gia tài trợ cho các chương trình văn hóa, thể thao để tăng cường hình ảnh đẹp cho ngân hàng, được nhiều người biết đến.
- Trực tiếp cử nhân viên đến giới thiệu sản phẩm với từng khách hàng. Đây là điều kiện thích hợp để đi sâu đi sát tìm hiểu đúng các nhu cầu của khách hàng đồng thời giới thiệu các sản phẩm mới, một hình thức quảng cáo nhanh, thiết thực và có hiệu quả đồng thời tạo sự gần gũi với khách hàng.
- Đáp ứng tốt hơn cho các công tác nghiên cứu và phân đoạn thị trường. Đây là giải pháp tạo nhằm đảm bảo sự thành công cho mỗi đợt ngân hàng đưa ra một sản phẩm mới, nhất là các sản phẩm nhằm huy động vốn trung và dài hạn. Phân đoạn thị trường giúp cho các ngân hàng đưa ra dược các sản phẩm đáp ứng đúng nhu cầu khách hàng tại từng thời điểm, phù hợp với lứa tuổi, thu nhập và mục tiêu tài chính của các đối tượng trong nền kinh tế.
- Xây dựng, triển khai một cách có hiệu quả chính sách khách hàng, cung cấp các dịch vụ ngân hàng trọn gói. Theo đánh giá chung, để đa dạng hóa dịch vụ, các ngân hàng cần đầu tư mạnh hơn nữa cho công nghệ ngân hàng, bởi đây là nền tảng của các dịch vụ hiện đại, nhu cầu về dịch vụ ngân hàng của doanh nghiệp và người dân vẫn chưa được khai thác, ngân hàng mới chỉ là nơi giữ tiền, chuyển hộ tiền là chính. Mặc dù thời gian vừa qua, nhiều ngân hàng đã bỏ nhiều công sức theo hướng này và cũng thu được một số kết quả như dịch vụ ngân hàng tại nhà, InternetBanhking, MobileBanking … hay dịch giao dịch một cửa nhưng rút nhiều cửa … tạo thuận lợi, giảm chi phí giao dịch cho khách hàng.
- Vào các dịp lễ tết cử cán bộ đi thăm hỏi tặng quà … cho các khách hàg lơn, khách hàng truyền thống nhân các dịp đặc biệt của họ.
- Tổ chức các buổi tiếp xúc, gặp gỡ, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng, lắng nghe ý kiến đóng góp của khách hàng. Đây cũng là cơ hội để ngân hàng giới thiệu các dịch vụ mới của mình.
Việc gặp gỡ trao đổi giữa khách hàng với cán bộ lãnh đạo ngân hàng khiến cho họ cảm thấy tin tưởng và gần gũi hơn. Đồng thời các cán bộ lãnh đạo ngân hàng đi sâu đi sát tìm hiểu các khách hàng của mình cũng như kiểm tra xem các nhân viên của mình đã thực hiện đúng nghĩa vụ được giao là phục vụ tốt nhất cho khách hàng hay chưa. Để lấy được ý kiến đóng góp của khách hàng thì một biện pháp khác là lập nên các hòm thư góp ýđặt tại quầy giao dịch. Mỗi khi khách hàng tới sử dụng các dịch vụ của ngân hàng nếu cảm thấy hài lòng hoặc không hài lòng về việc gì sẽ viết kiến nghi và gửi qua đó. Đây là một biện pháp đơn giản, thiết thực mà ít tốn kém.
3. Xây dựng chính sách lãi suất linh hoạt hợp lý
Lãi suất có ảnh hưởng trực tiếp đến huy động vốn đáng kể nhất là chi phí huy động của NHTM. Cơ chế lãi suất của chúng ta hiện nay vẫn còn chưa linh hoạt còn nhiều bất hợp lý, chưa bám sát được tình hình thực tế và nhu cầu của người gửi tiền. Các ngân hàng tuỳ thuộc vào điều kiện mà điều chỉnh theo mức lãi suất chỉ đạo. Theo nhận định, lãi suất huy động vốn của các ngân hàng trong năm qua không phải do quy luật cung cầu trên thị trường quyết định, mà do sự thoả thuận của các ngân hàng quyết định. Chính sự thoả thuận dẫn đến việc gìm giữ lãi suất huy động đã đưa ngân hàng vào thế độc quyền mà người gửi tiết kiệm không được hưởng mức ưu đãi tối đa do tính cạnh tranh trên thị trường mang lại. Theo ông Lê Đức Thuý, lãi suất cơ bản của NHNN hiện nay (0.62%/tháng) không phải là lãi suất chỉ đạo, nên không cần thiết phải thay đổi, nhưng trên thực tế đã từ lâu các ngân hàng vẫn dựa theo lãi suất này để xác định lãi suất của mình. Gần đây FED đã liên tục tăng lãi suất, các ngân hàng trong nước đã điều chỉnh tăng lãi suất của mình cho phù hợp. Thay vì điều chỉnh tăng lãi suất ngân hàng có thể đưa ra các hình thức tiết kiệm như “ tiết kiệm VND được đảm bảo như USD ” và tiết kiệm VND bù đắp trượt giá USD ”. Đây cũng là một trong những biện pháp mà NHTM cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh VPBank dã áp dụng trong thời gian vừa qua. Để có được lãi suất linh hoạt hợp lý, bản thân các ngân hàng phải làm tốt công tác dự báo lãi suất, nắm bắt được chính xác nhu cầu của khách hàng.
4. Nâng cao chất lượng các hình thức huy động hiện có
Đa dạng hoá lãi suất tương ứng với các thời hạn gửi
Với từng mức kỳ hạn khác nhau có các mức lãi suất khác nhau sẽ giúp cho ngân hàng xác định chính xác và sát thực tế hơn kỳ hạn của nguồn, chi phí cho nguồn đó. Quan trọng hơn nó giúp cho các khách hàng tăng cơ hội lựa chọn các kỳ hạn gửi phù hợp với nhu cầu chi tiêu và có được mức lãi suất nguồn tiết kiệm hiệu quả hơn. Do các kỳ hạn cao hơn có lãi suất cao hơn nên khuyến khích khách hàng gửi tiền với kỳ hạn dài, rất có lợi cho việc huy động nguồn trung và dài hạn.
Đa dạng hóa lãi suất tương ứng với lượng tiền gửi.
Đi đôi với việc đa dạng hoá các kỳ hạn gửi, ngân hàng phải tiến hành đa dạng hoá các mức lãi suât tương ứng với lượng tiền gửi. Điều này sẽ tạo động lực khách hàng gửi tiền với hết khả năng tài chính và thực sự tin tưởng vào khả năng thanh toán của ngân hàng. Biện pháp này phần nào giúp ngân hàng tăng cường đuợc nguồn vốn trung và dài hạn bởi lãi suất tiền gửi trung và dài hạn bao giờ cũng lớn hơn lãi suất tiền gửi ngắn hạn.
Tăng cường các biện pháp khuyến khích vật chất
Các hình thức dễ tiến hành như tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm có quà, tiết kiệm được miễn hoặc giảm chi phí khi sử dụng thêm các dịch vụ náo đó của ngân hàng, hoặc gửi tiết kiệm taih nhà. Hình thức này hiện nay triển khai là rất tốt bởi có những người có lượng tiền gửi khá lớn phải mang đến tận ngân hàng để gửi nhiều khi gây tâm lý lo ngại sự không an toan trong quá trình vận chuyên. Để thực hiện dịch vụ này đòi hỏi ngân hàng phải có đội ngũ cán bộ nhiệt tình, năng động.
Chủ động kết hợp với các hãng sản xuất kinh doanh để tạo nguồn vất chất khuyến mãi phong phú đồng thời tăng cường quảng cáo.
Có biện pháp xác định kỳ hạn thực tế của nguồn
Ngân hàng có thể cử cán bộ liên hệ với từng người cụ thể, có tiền sắp đến hạn rút xem họ có ý định rút ra hay tiếp tục gửi với kì hạn mới. Nếu họ có ý định gửi tiếp thì có thể có hình thức khuyến khích thưởng thêm cho khách hàng. Từ việc xác định chính xác thời hạn của các khoản nợ sắp hết hạn, ngân hàng có thể xây dựng kế hoạch nguồn vốn có hiệu quả, giảm áp lực trả nợ, nguồn vốn trung và dài hạn được tăng cường.
5. Phát triển các hình thức huy động mới
Phát hành trái phiếu tham dự
Loại trái phiếu này về hình thức thì giống như cổ phiếu do người mua trái phiếu được tham gia chia lãi hành năm nếu ngân hàng kam an có lãi ngoài phần trái tức. Ngược lại nếu ngân hàng làm ăn không co lợi nhuận thì trái chủ vẫn được nhận lãi từ đồng vốn bỏ ra ho ngân hàng vay, tuy nhiên với lãi suất nhỏ hơn trái phiếu thông thường. Hình thức đầu tư trái phiếu này đem lại sự công bằng cho cả ngân hàng và khách hàng. Khi ngân hàng làm ăn không có lãi, chi phí cho nguồn vốn huy động theo kiểu này sẽ thấp hơn so với các nguồn từ trái phiếu trung và dài hạn khác. Thời hạn của loạt trái phiếu này thường từ 5 đến 10 năm nghĩa là ngân hàng có thể huy động được nguồn vốn với thời hạn dài hơn các loại trái phiếu thông thường khác mà vẫn thu hút dược người mua. Đây cũng là một loại cókhả năng chuyển đổi từ vốn nợ thành vốn cổ phần cao. Ưu điểm của loại này là vừa giúp ngân hàng huy động đuợc vốn trung và dài hạn vừa không bị pha loãng quyền lực, tránh đuợc nguy cơ thâu tóm, sáp nhập.
Đưa thêm vào sản phẩm tiết kiệm mới
Các sản phẩm tiết kiệm mới như : tiết kiệm VND được đảm bảo bằng vàng, bằng USD và tiết kiệm bù đắp trượt giá bằng USD, tiết kiệm gắn với quyền lựa chọn tiền tệ
Do tâm lý e ngại sự trượt giá của đồng tiền tiền mỗi khi tỷ giá giữa đồng nội tệ và ngoại tệ thay đổi hay giá vàng biến động làm cho người dân không muốn gửi bằng một loại tiền. Với các hình thức tiết kiệm này, người dân sẽ được bù đắp một phần rủi ro nếu như giá vàng hay USD khiến cho đồng VND bị mất giá ở một mức độ nào đó. Điều này cũng khắc phục được tâm lý hoang mang rút tiền trước hạn khi giá vàng hay USD lên quá cao. Hiện tượng này trong những ngày đầu tháng 4 vừa qua là một minh chứng.
Về hình thức tiết kiệm kèm theo hợp đồng quyền chọn tiền tệ có thể thấy ưu điểm của nghiệp vụ này là ở chỗ người mua hợp đồng quyền chọn sau khi thoả thuận với ngân hàng và trả một mức phí nhất định, họ biết chắc là sẽ có quyền mua hay bán một loại ngoại tệ ở mức tỷ giá đã thoả thuận (giống như Forwarrd, swap) nhưng lại không có nghĩa vụ phải thực hiện việc mua hay bán đã cam kết nếu tỷ giá thực tế ngày đáo hạn diễn biến có lợi cho họ hơn là tỷ giá thoả thuận trong hợp đồng. Vậy gắn việc gửi tiền tiết kiệm trung và dài hạn với việc tham gia hợp đồng quyền chọn như thế nào để thu hút được khách hàng ? Trước hết phải thấy rằng việc gửi tiền tiết kiệm với thời hạn trên 1 năm thường gây cho khách hàng tâm lý lo sợ về khả năng thanh toán của ngân hàng cũng như các biến động tỷ giá và lãi suất không có lợi cho đồng tiền mà họ gửi. Tâm lý này khiến cho khách hàng chỉ gửi ngắn hạn. Để khắc phục tâm lý này ngân hàng có thể cung cấp cho khách hàng một hợp đồng quyền chọn để hoán đổi ngoại tệ theo giá thoả thuận giữa 2 bên. Chẳng hạn nếu một khách hàng có một khoản tiền gửi tiết kiệm trung và dài hạn bằng VND, hiện tại, diễn biến tỷ giá hoặc lãi suất, họ cảm thấy gửi bằng USD có lợi hơn. Nhưng khoản tiền gửi tiết kiệm của họ chưa đến hạn rút. Khách hàng dự đoán cho đến lúc họ rút tiền thì việc có tiền gưi tiết kiệm bằng USD còn có lợi hơn nữa. Thay vì rút tiền để mua USD theo giá thị trường họ sẽ mua một hợp đồng chuyển đổi ngoại tệ với giá theo họ là có lợi trong tương lai (thấp hơn giá thị truờng). Đến thời điểm đáo hạn hợp đồng, nếu diễn biến tỷ giá và lãi suất ngoại tệ thuận lợi, khách hàng yêu cầu thực hiện hợp đồng, ngân hàng sẽ tự động chuyển đổi tài khoản tiền gửi VND của khách hàng sang USD với giá tương ứng trong hợp đồng để đầu tư hưởng lãi suất ngoại tệ USD có lợi hơn. Tiện ích của hình thức này đối với khách hàng : rút tiền trước hạn sẽ phải chịu lãi suất phạt đồng thời nếu rút tiền ra sau đó mua USD theo giá tại thị trường nhưng sau đó tỷ giá hoặc lãi suất ngoại tệ biến động theo chiều hướng không thuận lợi, mất giá so với VND, khách hàng sẽ bị thua lỗ, nếu phải chuyển đổi lại tù ngoại tệ sang VND thì rất tốn kém và mất thời gian đi lại… Đối với ngân hàng : Giảm áp lực trả nợ bất thường (khách hàng rút tiền truớc hạn), thu hút khách hàng gửi tiết kiệm trung và dài hạn.
6. Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ của ngân hàng
Các cán bộ Ngân hàng phải có kiến thức sẵn sàng giải đáp các thắc mắc của khách hàng, phần nào khách hàng cũng cảm thấy yên tâm khi đến với Ngân hàng vì họ hiểu. Thái độ của nhân viên, đặc biệt là nhân viên giao dịch cần nhã nhặn, gần gũi, nhiệt tình. Ngân hàng cần phải tổ chức các lớp đào tạo và đào tạo lại, cử cán bộ đi học ở nước ngoài.
7. Cập nhật, sửa đổi bổ sung, hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp luật về các hoạt động của Ngân hàng, điều chỉnh lại các tỷ lệ quy định về trích lập các quỹ nhằm vừa đảm bảo tính thanh khoản đồng thời tăng tính hiệu quả cho đồng vốn huy động của ngân hàng. Để tránh tình trạng của Ngân hàng nước ngoài làm chủ hệ thống ngân hàng trong nước. NHNN dự kiến đưa vào 3 điểm được coi là “ hàng rào kĩ thuật “ trong đàm phán mở cửa ngân hàng, trong đó các ngân hàng phải có vốn từ 20 tỷ trở lên mới được mở chi nhánh
8. Một số giải pháp khác
Ngoài những giải pháp trên Ngân hàng còn có thể tăng cường nguồn vốn trung và dài hạn bằng cách đề nghị tăng vốn điều lệ, tăng tỷ lệ lợi nhuận giữ lại, tích cực tham gia vào các dự án với vai trò là người giải ngân hộ, cử cán bộ đi xem xét tình hình thị trường định kỳ… tuy nhiên đó chỉ là giải pháp lâu dài hoặc trong những trường hợp đặc biệt. Với những biện pháp đã nêu trên, nếu các ngân hàng có thể thực hiện tốt thì chắc chắn sẽ tăng cuờng được nguồn vốn trung và dài hạn.
3.2. Kiến nghị
Đối với Chính phủ
- Hoàn thiện chính sách cơ chế quản lý, tạo điều kiện môi trường kinh tế phát triển ổn định có tăng trưởng, đẩy lùi lạm phát, phát triển tính ổn định sức mua của đồng tiền. Bất kì một động thái nào của nhà nước cũng ảnh hưởng tới các hoạt động của ngân hàng.
- Tạo môi trường pháp lý thông thoáng cho hoạt động của ngân hàng nhằm phát huy tối đa nội lực trong hoạt động kinh doanh.
Có những chương trình tuyên truyền giáo dục toàn quốc để người dân hiểu sâu rộng và tăng cường sử dụng các dịch vụ ngân hàng.
- Hoàn thiện thị trường vốn, tăng tính thanh khoản cho các sản phẩm tài chính.
Sự phát triển TTCK ở đất nước ta là tất yếu. vấn đề này chỉ còn là thời gian, vì vậy khi TTCK phát triển các NHTM có thể tiến hành huy động vốn qua TTCK. Những người có tiền nhàn rỗi trong tương lai sẽ đầu tư nhiều hơn vào các tài sản tài chính thay vì gửi tiền vào ngân hàng hoàn toàn khồg phải là đièu bất lợi đối với công tác huy động vốn trung và dài hạn của. Ngân hàng cũng như các doanh nghiệp khác tiến hàng huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu ngân hàng. Sự phát triển của TTCK đồng nghĩa với việc tính thanh khoản của các hàng hoá trên thị trường trong đó có cổ phiếu và trái phiếu của ngân hàng khiến cho việc huy động vốn qua kênh này càng trở nên dễ dàng hơn. Trong tương lai các ngân hàng cần tập trung khai thác kênh huy động này. Để giúp các NHTM dễ dàng hơn trong huy động vốn trung và dài hạn qua kênh này, Chính phủ cần phải có biện pháp để hoàn thiện thị trường vốn và một số quy định về phát hành nhằm khuyến khích các NHTM huy động vốn trung và dài hạn bằng hình thức này.
Với ngân hàng Nhà nước
- Hoàn thiện các văn bản luật: Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng
- Cải cách và hoàn thiện các văn bản tín dụng đáp ứng cho nhu cầu vốn ngắn hạn của các NHTM như: hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất thỏa thuận, duy trì công bố lãi suất cơ bản như hiện nay thì phải tính toán cho phù hợp với thực tế cho vay của các tổ chức tín dụng. NHNN phải phát huy vai trò là người mua bán cuối cùng can thiệp vào thị trường tiền tệ; đẩy mạnh nghiệp vụ thị trường mở, chuyển việc các công cụ trực tiếp sang gián tiếp tránh tác động vào lãi suất gây bất lợi cho đầu tư.
Đối với NHNT Việt Nam
- Tăng cường tính tự chủ cho NHNTHN:
Do hoạt động theo mô hình hạch toán phụ thuộc, nhiều khi NHNTHN mất đi tính tự chủ trong việc huy động vốn. Đòi hỏi vốn của Chi nhánh có thể cao hơn nhiều so với lượng vốn mà NHNTVN phân bổ cho Chi nhánh trên cơ sơ vôn điều lệ, dẫn đến hạn chế khả năng huy động vốn, gây ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của toàn Chi nhánh.
Có chế độ khen thưởng rõ ràng:
D©y lµ biÖn ph¸p nh»m t¨ng cêng tÝnh hiÖu qu¶ trong c«ng viÖc cho c¸c nh©n viªn, lµ ®éng lùc ®Ó hä cè g¾ng vµ cèng hiÕn hÕt m×nh cho ng©n hµng.
- Mỗi khi đưa các chính sách mới phải tìm hiểu rõ ràng cho phù hợp với đặc điểm riêng của chi nhánh
Mỗi một chi nhánh của NHNTVN trong đó có NHNTHN hoạt động trên địa bàn khác nhau, có những đặc điểm kinh doanh khác nhau, do đó khi NHNTTƯ đưa ra các chính sách mới cần xem xét, tìm hiểu rõ ràng để áp dụng phù hợp với đặc điểm riêng có của từng chi nhánh.
Điều chỉnh lại tỷ lệ điều chuyển vốn nội bộ mà NHNTTƯ đang áp dụng cho Chi nhánh :
Theo báo cáo hiện nay mức lãi suất điều chuyển vốn nội bộ của NHNTTƯ áp dụng cho Chi nhánh quá cao (59,6%) nghĩa là chưa tính đến lãi suất huy động đầu vào của Chi nhánh nên NHNTHN gặp phải khó khăn ảnh hưởng tới lợi nhuận và ưu thế huy động vốn của Chi nhánh.
KẾT LUẬN
Việc nghiên cứu nguồn vốn của các chỉ có ý nghĩa đối với NHTM mà còn có ý nghĩa kinh tế quan trọng đối với việc quản lý và sử dụng các nguồn vốn của doanh nghiệp cũng như sự vận động của mọi nguồn vốn tiền tệ trong nền kinh tế. Tới năm 2010, thị trường vốn của Việt Nam sẽ đóng vai trò quan trọng hơn khi làm trung gian các nguồn tài chính và phân bổ vốn tới các khu vực, các dự án đầu tư. Những vấn đề mà ngành lĩnh vực tài chính – ngân hàng Việt Nam đang phải đối đầu, trước hết là sớm mở cửa thị trường do đòi hỏi của quá trình hội nhập. Ngoài ra, khu vực ngân hàng trơng nước sẽ phải chịu cạnh tranh gay gắt trong vòng 5 năm tới. Thêm vào đó sự tăng trưởng kinh tế cao và bền vững đòi hỏi hệ thống ngân hàng phải có thêm vốn. Theo đánh giá chung, sẽ càng khó khăn hơn nếu Việt nam chỉ dựa vào khu vực ngân hàng để tài trợ cho phát triển kinh tế.
Điều này nghĩa là nguồn vốn của gân hàng không thể đáp ứng được hết các nhu cầu vốn trong nền kinh tế. Cùng với khu vực phi ngân hàng khác, thị trường vốn là một sự lựa chọn quan trọng đối với khu vực ngân hàng để huy động tiết kiệm và chuyển tiết kiệm sang cho các ngành không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế mà để có thể tồn tại, cạnh tranh được với các ngân hàng nước ngoài trong quá trình hội nhập vì chắc chắn các ngân hàng trong nước sẽ phải chia sẻ thị trường, và thị phần sẽ giảm so với hiện nay. Các ngân hàng nước ngoài họ mạnh cả về vốn lẫn khoa học kỹ thuật công nghệ. Tuy nhiên chúng ta không phải là không có những ưu thế nếu như không muốn nói là nhiều hơn rất nhiều. Điểm mấu chốt ở đây là phải giải quyết được vấn đề nguồn vốn cho các ngân hàng, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn là một đề tài mang tính thiết thực.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Ngân hàng thương mại – TS. Phạm Thị Thu Hà – Nhà XB Thống kê
Tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính – Frederic S. Mishkin – Nhà XB Khoa học Kỹ thuật
Quản lý và kinh doanh tiền tệ - PTS. Nguyễn Thị Mùi – Học viện tài chính Hà Nội – Nhà XB Tài chính.
Báo Đầu tư chứng khoán
Giáo trình thị trường chứng khoán – PGS, TS. Nguyễn Văn Nam, PGS – TS. Vương Trọng Nghĩa – Nhà XB Tài chính.
6. Tạp chí ngân hàng
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Ngân hàng thương mại NHTM
Ngân hàng ngoại thương Việt Nam NHNTVN
Ngân hàng ngoại thương Hà Nội NHNTHN
Ngân hàng Nhà nước NHNN
Ngân hàng trung ương NHTƯ
Thị trường chứng khoán TTCK
MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Nội dung luận văn
Chương 1 : Huy động vốn trung và dài hạn của NHTM 3
Các hoạt động cơ bản của NHTM 3
Khái niệm, đặc điểm của NHTM
Các hoạt động cơ bản của NHTM 8
Vai trò của vốn trung và dài hạn đối NHTM 14
Huy động vốn trung và dài hạn của NHTM 19
Khái niệm 19
Các hình thức huy động vốn trung và dài hạn của NHTM 22
Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn trung và dài hạn của NHTM 31
Các nhân tố chủ quan 32
Các nhân tố khách quan 35
Chương 2 : Thực trạng huy động vốn trung và dài hạn của NHNTHN 40
2.1. Khái quát về NHNTHN 40
2.2. Thực trạng huy động vốn trung và dài hạn của NHNTHN 55
2.3. Đánh giá kết quả huy động vốn trung và dài hạn của NHNTHN 61
2.3.1. Kết quả 61
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 63
Chương 3 : Giải pháp tăng cường huy động vốn trung và dài hạn tại NHNTHN 69
3.1. Định hướng phát triển của NHNTHN 69
3.2. Một số giải pháp 70
3.3. Kiến nghị 77
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32476.doc