Cần khẩn trương xây dựng và hình thành các cơ sở hạ tầng cần thiết để phát triển TTCK. Chúng ta cần:
- Khẩn trương xây dựng một hệ thống ngân hàng và các thị trường tiền tệ, tín dụng, thị trường ngoại hối, thị trường ngoại tệ tương đối hoàn chỉnh, hoạt động có hiệu quả để thanh toán nhanh chóng việc mua bán, trao đổi CK.
- Từng bước trang bị một hệ thống giao dịch và thanh toán tiên tiến, hiện đại, đủ tiêu chuẩn quốc tế để làm tốt việc đăng ký, cập nhật hoá tên tuổi và sự thay đổi sở hữu chủ chứng khoán.
- Xây dựng và đưa vào vận hành một hệ thống, một chế độ kế toán và kiểm toán hoàn chỉnh theo các chuẩn mực quốc tế, để tạo điều kiện cho không những dân chúng trong nước mà cho cả người nước ngoài.
- Pháp chế hoá các luật chơi trên TTCK bằng một hệ thống luật lệ rõ ràng, bằng các quy chế quản lý và giám sát hợp lý để tạo cơ sở pháp lý xử lý các tranh chấp xảy ra giữa những người đầu tư và tạo điều kiện xây dựng một sân chơi thật sự bình đẳng, trật tự, đáng tin cậy cho mọi chủ thể tham gia trên TTCK.
- Đẩy nhanh tiến độ thực hiện chương trình cổ phần hoá bằng việc xây dựng các chính sách, chế độ thật sự hấp dẫn đối với các doanh nghiệp và người lao động trong các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá. Nên hình thành loại hình công ty dịch vụ cổ phần. Dưới hình thức một công ty tài chính, các công ty này thực hiện nhiệm vụ tư vấn tài chính, giúp cho các doanh nghiệp làm các báo cáo tài chính, kế toán, kiểm toán, xây dựng kế hoạch cổ phần hoá, giới thiệu các dự án cổ phần hoá của doanh nghiệp với khách hàng và được thu phí dịch vụ cho các hoạt động này.
- Tiếp tục kiểm soát lạm phát một cách chặt chẽ, có hiệu quả, giữ tỷ giá nội tệ ổn định và từng bước loại trừ những giao dịch ngầm trong lĩnh vực tài chính để kích thích vào sự hình thành và phát triển TTCK.
84 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1605 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện các điều kiện cần thiết để phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ước ngoài.
- Và các điều khoản khác.
+ Luật về SGDCK. Trong đó gồm :
- Các chức năng của sở.
- Những quy định về hoạt động của sở.
- Tiêu chuẩn của các hội viên.
- Các điều kiện gia nhập công ty.
- Các điều kiện đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư.
- Và các khoản khác như: Xử lý vi phạm các quy phạm pháp luật, giải thể sở.
+ Luật / Nghị định về lưu trữ CK.
+ Luật / Nghị định về Uỷ ban CK quốc gia.
+ Các quy chế về nghiệp vụ: Bảo lãnh, niêm yết, lưu giữ, thanh toán, tư vấn, môi giới.
Những văn bản tác động và giám sát trực tiếp đến TTCK:
+ Luật dân sự.
+ Luật thương mại .
+ Luật công ty.
+ Luật thuế.
+ Luật doanh nghiệp tư nhân.
+ Luật doanh nghiệp nhà nước.
+ Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
+ Luật / Pháp lệnh Ngân hàng.
Nền tảng pháp lý cho sự phát triển TTCK Việt Nam là những quy định pháp luật đã có và cần thiết phải có. Cơ sở pháp lý này thể hiện sự điều chỉnh bởi pháp luật các quan hệ xã hội nảy sinh trong lĩnh vực kinh doanh CK ở các giai đoạn phát triển nhất định. Sự điều chỉnh của pháp luật sẽ đảm bảo cho quá trình hình thành và phát triển TTCK luôn luôn đi đúng hướng, đạt được mục tiêu đề ra của nền kinh tế quốc dân. Bảo đảm những mối liên hệ qua lại hợp lý của nó với các bộ phận khác của nền kinh tế và đặc biệt đảm bảo cho chính TTCK hình thành và phát triển theo những quy tắc và trật tự nhất định. Những nguyên tắc và trật tự thể hiện những tất yếu kinh tế, bảo đảm cho sự phát triển lành mạnh và hiệu quả.
4. Điều kiện về kỹ thuật và tổ chức:
+ Xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho phát triển TTCK.
Cần phải xây dựng hệ thống giao dịch, hệ thống xử lý dữ liệu, hệ thống thông tin và hệ thống thanh toán bù trừ, lưu giữ CK với mô hình và mức độ tự động hoá ban đầu thích hợp. Từ đó các hoạt động trên thị trường diễn ra trôi chảy, công bằng và có hiệu quả. Khẩn trương xây dựng và hoàn thiện các cơ sở hạ tầng là rất cần thiết cho sự phát triển TTCK Việt Nam.
Trong khi tìm kiếm và xác định một mô hình TTCK phù hợp với điều kiện của Việt nam, hiện nay thị trường ở dạng sơ khai(thị trường sơ cấp) đã tồn tại và thị trường thứ cấp đang hình thành và phát triển.
TTCK hoạt động có hiệu quả sẽ cho phép gia tăng vốn thông qua việc bán cổ phần ra công chúng ở những doanh nghiệp mới khai trương. Điều này cho phép các công ty cổ phần có thể tồn tại dựa vào nguồn vốn nội bộ và vốn tự có mà không phải phụ thuộc vào ngân hàng. Đây cũng là điều kiện cần thiết để phát triển một hệ thống ngân hàng. Bởi vì lịch sử hình thành và phát triển hệ thống ngân hàng ở Anh và Mỹ cho thấy TTCK thường phát triển nhờ vào sự phát hành tích cực cổ phiếu của ngân hàng trong quá trình hình thành các ngân hàng thương mại cổ phần.
+ Các tổ chức hoạt động. Bên cạnh đó việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho TTCK, vấn đề phát triển các tổ chức hoạt động trên TTCK có ý nghĩa rất quan trọng. Các tổ chức cần xây dựng và phát triển là:
- Các công ty bảo lãnh phát hành CK.
- Các công ty môi giới CK.
- Các công ty môi giới CK cho chính mình.
- Các công ty tư vấn CK.
- Các quỹ đầu tư.
Ngoài ra cần thiết phải phát triển các nhà đầu tư có tổ chức, đây là các chủ thể chiếm tỷ trọng lớn trong việc phát triển cầu của thị trường. Nhằm hỗ trợ cho TTCK hoạt động ổn định và trôi chảy.
IV. Quá trình chuẩn bị cho phát triển TTCK Việt nam:
Đầu những năm 1990, việc nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận và phân tích các điều kiện cho sự ra đời TTCK Việt nam đã được thực hiện. Trên cơ sở đó một số bản đề án về việc hình thành TTCK Việt nam đã được xây dựng và trình Chính phủ xem xét. Năm 1994 ban chỉ đạo soạn thảo pháp lệnh về TTCK bao gồm đại diện của các Bộ tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ tư pháp... đã được thành lập để thống nhất đầu mối, triển khai xây dựng đề án về TTCK và soạn thảo một số văn bản pháp quy có liên quan.
Ngày 20-6-1995, Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký quyết định số 361/TTg về việc thành lập “ ban chuẩn bị tổ chức TTCK” và hơn một năm sau vào ngày 28-11- 1996, Chính phủ ban hành tiếp nghị định số 75/CP về việc thành lập UBCKNN với vai trò là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về CK và TTCK.
Nhiệm vụ của UBCKNN là:
- Xây dựng hệ thống pháp luật về CK và TTCK.
- Tổ chức, xây dựng và phát triển TTCK Việt Nam.
- Cấp, đình chỉ hoặc thu hồi giấy phép hoạt động của các định chế tài chính hoạt động trên TTCK: Các công ty CK, công ty tư vấn đầu tư CK, công ty quản lý quỹ, đầu tư tập thể..
- Tổ chức, giáo dục, đào tạo và tuyên truyền kiến thức và pháp luật về CK và TTCK cho mọi đối tượng hoạt động hoặc tham gia hoạt động trên TTCK ở Việt Nam.
UBCKNN có văn phòng đặt tại Hà Nội và có một cơ quan đại diện đặt tại TP Hồ Chí Minh.
Qua các sơ đồ 3, 4, 5 liên quan đến TTCK Việt Nam chúng ta thấy được TTCK Việt Nam sẽ phát triển tốt trong tương lai do cơ cấu tổ chức chặt chẽ, đầy đủ và có nhiều tổ chức tham gia.
Sơ đồ 3: Tổ chức bộ máy UBCKNN Việt Nam
Chủ tịch
Phó chủ tịch
Các uỷ viên kiểm nhiệm:
- 1 Thứ trưởng Bộ kế hoạch
- 1 Thứ trưởng Bộ tài chính
- 1 Phó thống đốc Ngân hàng
Nhà nước
- 1 Thứ trưởng Bộ tư pháp
Cơ quan đại diện TPHCM
Văn phòng
Vụ phát triển TTCK
Vụ quản lý phát hành CK
Vụ quan hệ quốc tế
Vụ quản lý kinh doanh CK
Vụ tổ chức cán bộ và đào tạo
Thanh tra
Sở GDCK TP HCM
Công ty CK 1
Dân chúng
Chánh văn phòng
Phòng
nghiên cứu và chính sách
Ban
thanh tra và pháp chế
Phòng
đào tạo và thông tin
Phòng
tổ chức và thị trường
UBCKNN
Cơ quan tư vấn
Sở GDCK
TP Hồ Chí Minh
Công ty CK 2
Công ty CK 3
Công ty kiểm toán
Người tiết kiệm
Nhà đầu tư
Doanh nghiệp
Quỹ đầu tư
Quỹ bảo hiểm
Chính quyền địa phương
Quỹ tương hỗ
Kho bạc nhà nước
Sơ đồ 5:TTCK Việt Nam và các tổ chức liên hệ
Trung tâm thông tin
- Thông tin
- Thanh toán
- Quản lý CK
Sơ đồ 4: Tổ chức bộ máy văn phòng UBCKNN
Sau gần 2 năm thành lập UBCKNN, ngày 11 - 7 - 1998, Thủ tướng Phan Văn Khải ký nghị định số 48/ 1998/ NĐ - CP về CK và TTCK. Cùng ngày Thủ tướng đã ký Quyết định số 127/ 1998/ QĐ - TTg thành lập hai trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) ở Hà nội và TP Hồ Chí Minh.
1. Về khuôn khổ pháp lý:
Nghị định 48/ 1998/ NĐ - CP là khung pháp lý cơ bản đầu tiên về TTCK Việt Nam, thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng và phát triển TTCK. Nghị định này đã nêu lên các nguyên tắc cơ bản về quản lý và phát hành CK ra công chúng, thị trường giao dịch tập trung, phạm vi kinh doanh của các công ty CK, quỹ đầu tư, sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài, những hành vi bị hạn chế, cấm trên TTCK Việt Nam.
Chính phủ và UBCKNN đã ban hành hàng loạt các văn bản hướng dẫn, nhằm tạo khuôn khổ pháp lý đầy đủ cho TTCK như:
Ngày 3 - 10 - 1998, Chủ tịch UBCKNN Lê Văn Châu ký:
- Thông tư số 1/1998/ TT - UBCK hướng dẫn Nghị định số 48/ 1998/ NĐ- CP về việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng.
- Quyết định số 04/ 1998/ QĐ - UBCK 3 về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của công ty CK.
- Quyết định số 05/ 1998/ QĐ - UBCK 3 về tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư CK và công ty quản lý quỹ.
Ngày 1- 8 - 1998, Chủ tịch UBCKNN ký quyết định số 128/ 1998/ QĐ - UBCK về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của TTGDCK.
Ngày 10 - 6 - 1999, Thủ tướng Phan Văn Khải ký quyết định số 139/ 1999/ QĐ - TTg về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào TTCK Việt Nam.
Ngày 21 - 10 - 1999, Phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký quyết định số 172/ 1999/ QĐ - TTg về việc tổ chức tín dụng thành lập công ty CK và tham gia niêm yết CK.
Phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định ban hành “Quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ”. Ban hành kèm theo Nghị định số 01/2000/NĐ-CP vào ngày 13-1-2000. Quy chế quy định việc phát hành trái phiếu Chính phủ và các vấn đề có liên quan đến trái phiếu Chính phủ trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
ở nước ta hoạt động phát hành trái phiếu của các công ty được quy định tại Luật Công ty năm 1990 và Luật Doanh nghiệp có hiệu lực từ 01/1/2000 để thay thế cho Luật Công ty. Pháp luật điều chỉnh việc phát hành trái phiếu gồm nhiều nội dung, từ quy định về hình thức trái phiếu, điều kiện của chủ thể phát hành, về thông cáo phát hành, về bảo lãnh phát hành, về đại diện chủ sở hữu trái phiếu, đến việc giải quyết tranh chấp…
Ngày 1-2-2000, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 11/2000/TT-BTC hướng dẫn chế độ quản lý tài chính đối với Công ty CK cổ phần và Công ty trách nhiệm hữu hạn.
Ngày 27-3-2000, Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định số 39/2000/QĐ-TTg, quy định tạm thời ưu đãi về thuế đối với hoạt động kinh doanh CK.
Ngày 17-4-2000, Phó Chủ tịch UBCKNN Trần Xuân Hà đã ký Thông tư số 01/2000/TT-UBCK1, hướng dẫn tạm thời chế độ thu phí đối với khách hàng của các tổ chức kinh doanh, dịch vụ CK.
Những nghị định, quyết định trên đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cho sự hình thành và phát triển TTCK Việt Nam.
2. Về hàng hoá cho TTCK:
Trong quá trình cải cách kinh tế, chúng ta đã từng bước sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước và thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp, song kết quả đạt được còn rất nhỏ bé và gặp nhiều khó khăn đặt ra cần tiếp tục tháo gỡ.
Kinh nghiệm cho thấy, các nước khác thực hiện giải pháp này cũng không dễ dàng gì và không mấy thành công. Mặc dù công ty cổ phần là hình thức doanh nghiệp phù hợp nhất trong nền kinh tế hiện đại song vẫn có những nhược điểm như quy trình thành lập phức tạp, hoạt động kinh doanh hay giải thể không dễ dàng như các công ty khác... Hệ thống ngân hàng thương mại giữ vai trò then chốt trong sự hình thành và phát triển TTCK với tư cách là người thực hiện chức năng đại lý phát hành và các dịch vụ liên quan trên thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp: Tư vấn về lãi suất, lựa chọn CK, lưu giữ và quản lý CK, thanh toán CK.
Thực tế cho thấy, hệ thống Ngân hàng thương mại ở nước ta hiện nay chưa đủ điều kiện và cơ sở để thực hiện vai trò của mình.
Chuẩn bị hàng hoá và cơ sở để tạo hàng hoá ổn định là một trong những công tác then chốt trong việc tổ chức TTCK. UBCKNN đã phối hợp với các ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Trung ương, Bộ tài chính, hệ thống Ngân hàng và các bộ, ngành, địa phương để làm việc trực tiếp với các đơn vị và doanh nghiệp liên quan trong cả nước nhằm thúc đẩy và nắm bắt cụ thể tình hình cổ phần hoá, khối lượng hiện có, cũng như khả năng thực tế và nguyện vọng của các doanh nghiệp phát hành và niêm yết cổ phiếu trái phiếu.
Hiện nay chúng ta đã có các loại:
* Trái phiếu Chính phủ do Kho bạc Nhà nước phát hành có 3 loại:
1. Tín phiếu Kho bạc Nhà nước: là loại phiếu ngắn hạn (dưới 1 năm) phát hành lần đầu tiên vào năm 1991, lãi suất được quy định cho loại kỳ hạn 6 tháng là 1,7%/ tháng.
2. Trái phiếu Kho bạc Nhà nước: là loại phiếu trung hạn và dài hạn. Kho bạc Nhà nước phát hành loại trái phiếu có kỳ hạn 1-3 năm lãi suất công bố cho từng năm, năm đầu tiên là 21%.
Từ ngày 19-5-1999, Chính phủ đã phát hành rộng rãi công trái xây dựng đất nước trên toàn quốc. Số tiền thu được sẽ đầu tư cho những dự án cơ sở hạ tầng tại nông thôn, nhất là tại những xã nghèo. Công trái phát hành đợt này có thời hạn 5 năm và 11 loại, mệnh giá từ 20.000 đồng đến 50 triệu đồng. Nhà nước đảm bảo giá trị của những công trái này với lãi suất hàng năm là 10%.
Từ ngày 1/3/2000, Hệ thống Kho bạc Nhà nước phát hành trái phiếu năm 2000 trên phạm vi 61 tỉnh toàn quốc, đối tượng mua là công dân Việt Nam, người nước ngoài làm việc, sinh sống tại Việt Nam. Trái phiếu phát hành có 10 loại, mệnh giá từ 100.000 đồng đến 100 triệu đồng, kỳ hạn 2 năm, lãi suất 7% năm. Tiền lãi và tiền gốc được thanh toán một lần khi đến hạn. Nếu thanh toán trước 12 tháng thì không được hưởng lãi, và được hưởng lãi 6,5% của năm thứ nhất nếu trái phiếu có đủ thời gian từ 12-24 tháng. Dự kiến hoàn thành đợt này là 14.000 tỷ đồng.
3. Trái phiếu công trình của Chính phủ: là loại trái phiếu phát hành để huy động vốn xây dựng các công trình có đề án được thẩm định để cho phép phát hành trái phiếu. Thời hạn và lãi suất được quy định tương tự như trái phiếu Kho bạc Nhà nước. Ví dụ trái phiếu công trình đường dây 500KV, phát hành từ 7/1992 - 12/1994 với doanh số là 334 tỷ đồng kỳ hạn 1-3 năm. Trái phiếu công trình Yaly, phát hành trong năm 1996 doanh số 184,7 tỷ đồng kỳ hạn 1 năm.
* Trái phiếu Ngân hàng: là trái phiếu do Ngân hàng Thương mại Quốc doanh phát hành để huy động vốn. Loại trái phiếu này phát hành lần đầu vào năm 1992 với thời hạn 1-3 năm lãi suất quy định là 21% /năm.
* Trái phiếu doanh nghiệp Nhà nước: là loại trái phiếu do các doanh nghiệp Nhà nước phát hành để huy động vốn. Ví dụ trái phiếu doanh nghiệp của Tổng công ty xi măng Việt Nam: Nhà máy xi măng Hoàng Thạch và Nhà máy xi măng Anh Sơn phát hành trái phiếu với thời hạn từ 1-3 năm, lãi suất quy định hàng năm là 21%.
*Trái phiếu và cổ phiếu công ty: là do các Công ty cổ phần phát hành để huy động vốn, hoặc do các doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá phát hành.
Nhưng một số CK này có ghi tên nên chưa thể chuyển nhượng được. Điều đặc biệt cần lưu ý là chuyển các CK ký danh thành CK vô danh, cho phép mua đi, bán lại các CK này, khuyến khích việc phát hành các loại CK vô danh (cổ phiếu, trái phiếu dài hạn…) có thể mua đi bán lại được.
3. Về đào tạo nhân lực và quy định về đạo đức nghề nghiệp trong công ty CK:
3.1. Về đào tạo nhân lực:
TTCK đòi hỏi có những bộ máy tổ chức chuyên trách từ UBCKNN đến các SGD và các công ty môi giới CK. Các tổ chức này cần có một đội ngũ đông đảo nhân viên tinh thông nghiệp vụ, có bản lĩnh và có phẩm chất. ở Việt Nam số lượng và chất lượng của đội ngũ này chưa cao. Do đó phải bằng con đường và cách thức đào tạo trong nước và ngoài nước thông qua hợp tác quốc tế về đào tạo mới đáp ứng được đòi hỏi cao cho sự hình thành và phát triển TTCK.
Mấy năm vừa qua, được sự tài trợ của một số tổ chức quốc tế, một số cán bộ của ngành Ngân hàng tài chính và một số cơ quan của Chính phủ đã cử được một số cán bộ đi khảo sát nghiên cứu thị trường ở nhiều nước. Nhưng do chưa chủ động chuẩn bị chu đáo về kiến thức ban đầu nên kết quả đạt được trong đào tạo còn hạn chế, chỉ có một số ít người nắm bắt được những nội dung và pháp luật cũng như các nghiệp vụ cơ bản của TTCK.
Về đào tạo cán bộ, Bộ tài chính, Ngân hàng Nhà nước, các trường đại học, viện nghiên cứu đã tổ chức một số khoá đào tạo cơ bản về CK và TTCK. Tuy nhiên chưa có cơ quan thống nhất quản lý hoạt động này nên việc đào tạo chưa mang tính hệ thống. Tính đến tháng 5/1997 nhiều khoá đào tạo ngắn hạn đã được tổ chức. Trong số này, đáng lưu ý là 4 khoá đào tạo cơ bản do Ban thị trường vốn tổ chức ở thành phố Hồ Chí Minh, các khoá đào tạo cơ bản và nâng cao do UBCKNN mở. Ngoài ra Bộ tài chính còn phối hợp với SGDCK Hàn Quốc để tổ chức 2 khoá học ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Gần đây, Trung tâm nghiên cứu vào Đào tạo chứng khoán đã tích cực mở một số lớp đào tạo chứng khoán. Bên cạnh đó còn có các lớp đào tạo khác của nhiều công ty CK nước ngoài... Phần lớn những cán bộ tham gia các khoá học này là của các ngành Ngân hàng, Tài chính, các công ty luật, công ty kiểm toán, các văn phòng CK nước ngoài, các công ty xuất khẩu, giáo viên, nhà nghiên cứu ở các viện kinh tế, trường đại học và cả các đối đượng là sinh viên kinh tế.
Ngày 5/ 12/ 1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 1038/ 1997/ QĐ - TTg về việc thành lập trung tâm nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng nghiệp vụ về CK và TTCK.
Năm 1998, trong điều kiện còn thiếu nghiêm trọng cán bộ làm công tác đào tạo, UBCKNN cũng mở được 11 lớp đào tạo cơ bản và 3 lớp đào tạo nâng cao về CK cho hơn 1200 cán bộ của các ngành, địa phương. Ngoài ra UBCKNN còn gửi một số cán bộ đi ra nước ngoài để học hỏi, nâng cao kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn.
Năm 1999, để đáp ứng yêu cầu của giới hâm mộ muốn quan tâm tìm hiểu, học tập về lĩnh vực CK và cũng nhằm đào tạo đội ngũ các bộ tham gia hoạt động quản lý và kinh doanh CK. Trung tâm nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng nghiệp vụ CK thông qua các chương trình đào tạo của mình, có nhiệm vụ trang bị kiến thức và những kỹ năng cho tất cả những ai mong muốn nắm bắt được một số lĩnh vực kinh tế mới mẻ này, hơn thế nữa, sẽ trực tiếp tham gia hoạt động trên TTCK.Trung tâm có bốn chương trình đào tạo chính là:
- Chương trình đào tạo cơ bản được coi là chương trình phổ biến kiến thức cho mọi đối tượng.
- Chương trình đào tạo “phân tích và đầu tư CK” giới thiệu những công cụ cơ bản dùng để phân tích làm cơ sở cho quyết định đầu tư trên TTCK.
- Chương trình luật CK tập trung giới thiệu khung pháp lý của TTCK Việt nam, tuy nhiên có giới thiệu qua một số luật CK của một số nước trên thế giới và các luật liên quan khác của nước ta để thấy được sự liên hệ.
- Chương trình đào tạo nghiệp vụ đi sâu vào nghiệp vụ chuyên môn của công ty CK, người tự kinh doanh CK bằng vốn của công ty CK, người bảo lãnh phát hành, người tư vấn đầu tư CK.
Ngoài ra, trung tâm cũng đang soạn thảo một chương trình thực hành giao dịch phù hợp với hệ thống thiết bị và hệ thống giao dịch sẽ được lắp đặt tại TTGDCK tại thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Quy định về đạo đức nghề nghiệp trong công ty CK:
Làm việc trong bất kỳ một ngành nghề, lĩnh vực nào, yêu cầu đầu tiên đối với mỗi người đó là phải có cái đức nghề nghiệp. Trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, đạo đức nghề nghiệp là vấn đề hết sức quan trọng, nơi mà con người thường xuyên tiếp xúc với tiền bạc và phần con trong mỗi con người nhiều khi bị gục ngã trước ma lực của đồng tiền. Trong những năm gần đây, chúng ta phải đưa ra xét xử nhiều cán bộ trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, điển hình như vụ án Minh Phụng - EPCO. Nhìn lại quá khứ của những con người này, họ cũng có một lý lịch khá trong sạch đấy chứ, và không ít bị cáo đã từng là đảng viên.
Khi thị trường mới đi vào hoạt động cần phải được quản lý chặt chẽ ngay từ ban đầu, và trong đó các cá nhân tham gia thị trường phải hiểu một cách rõ ràng rằng mình được phép làm gì và không được phép làm gì, đó chính là những quy định về đạo đức nghề nghiệp. Tại nhiều TTCK ở các nước khác nhau trên thế giới, bài thi về đạo đức nghề nghiệp là môn thi bắt buộc đối với mọi cá nhân làm việc trong lĩnh vực này. Ngoài ra các công ty CK tùy theo đặc thù của mình, đều có riêng những quy định về đạo đức nghề nghiệp trong nội quy hành vi(Code of conducf) của cán bộ trong công ty. Những quy định về đạo đức nghề nghiệp trong công ty CK gồm những nội dung chủ yếu sau:
* Những trách nhiệm chung của cán bộ:
- Không được tham dự hoặc cấu kết để cấu thành một hành vi phạm pháp, hoặc quy chế, quy định nào làm tổn hại đến lợi ích của công ty.
- Trách nhiệm đối với công việc, nghề nghiệp: bản thân đối với công việc không được có hành động tham nhũng, nhận hối lộ hoặc không trung thực.
* Trách nhiệm của cán bộ đối với doanh nghiệp:
- Không làm thêm nghề khác có tính cạnh tranh hoặc có xung đột lợi ích với doanh nghiệp. Quy định này buộc mỗi cá nhân làm việc trong TTCK (đặc biệt là đối với các bộ phận kinh doanh trực tiếp như môi giới CK, bảo lãnh phát hành CK…) không được tham gia vào thành lập, điều hành hoặc mua cổ phiếu có quyền biểu quyết của một công ty CK khác, hoặc một công ty hoạt động trong lĩnh vực có xung đột lợi ích với việc kinh doanh CK.
- Thông báo những xung đột về lợi ích: khi phát hiện những hiện tượng có xung đột về lợi ích với doanh nghiệp của mình thì cán bộ phải có trách nhiệm báo cáo kịp thời cho lãnh đạo phụ trách. Quy định này nhằm ngăn ngừa những hành vi cố ý đưa ra những nhận định, phân tích về CK của công ty và có thể sẽ làm ảnh hưởng đến uy tín của công ty. Trong trường hợp này nếu cán bộ trên không thông báo thông tin về quan hệ đó thì anh ta bị coi là có hành vi vi phạm quy định về đạo đức nghề nghiệp.
- Thông báo những lợi ích phụ: trách nhiệm này quy định, những lợi ích phụ phát sinh liên quan đến công việc được giao của mỗi cán bộ phải được thông báo kịp thời cho công ty biết. Ngoài ra điều này còn đề cập đến việc nhận quà của khách hàng, của cán bộ cấp dưới và chỉ cho phép nhận những món quà được coi là không tác động đến công việc, nhiệm vụ của cán bộ và cũng chỉ được phép nhận quà này không làm xung đột tới lợi ích của bên có liên quan.
- Trách nhiệm giám sát, theo dõi người làm việc dưới quyền: quy định này yêu cầu cán bộ phụ trách bộ phận nhân viên đưới quyền phải có trách nhiệm giám sát các hành vi liên quan đến công việc, và giúp đỡ người dưới quyền trong học tập nâng cao trình độ chuyên môn và kinh nghiệm công tác để phát triển công ty.
* Trách nhiệm đối với khách hàng bao gồm những vấn đề:
- Sử dụng những đánh giá ở mức độ hợp lý và tách bạch giữa ý kiến với thực tế đang phát sinh: điều này quy định phải sử dụng đánh gia dựa trên những thông tin được công bố công khai. Trong trường hợp công ty có những ý kiến, nhận định khác biệt với những thực tế đang nảy sinh thì trách nhiệm của cán bộ là phải làm cho khách hàng nhận thức được đâu là ý kiến của công ty và đâu là thực tế đang phát sinh.
- Giữ lại các giấy tờ cần thiết liên quan đến công việc: đây cũng là một yêu cầu quan trọng đề phòng trong những trường hợp khách hàng có những khiếu kiện và các giấy tờ này sẽ là bằng chứng để giải quyết những khiếu kiện phát sinh.
- Hiểu khách hàng một cách cặn kẽ: điều này quy định cán bộ phải tìm hiểu khách hàng một cách cặn kẽ và tư vấn cho khách hàng một cách phù hợp đáp ứng các điều kiện của khách hàng và mang lại lợi ích tốt nhất có thể được cho khách hàng.
- Phục vụ công bằng đối với mọi khách hàng: điều này quy định mọi khách hàng đều được hưởng sự công bằng từ công ty.
- Biết giữ bí mật của khách hàng: điều này quy định cán bộ không được phép tiết lộ thông tin về khách hàng khi không có sự đồng ý của khách hàng.
- Thông báo những xung đột về lợi ích cho khách hàng: cán bộ phải thông báo những xung đột về lợi ích cho khách hàng được biết, ví dụ như được hưởng tỷ lệ từ phí hoa hồng, môi giới CK… điều này sẽ giúp cho khách hàng tăng sự cảnh tỉnh với những hành vi sai trái nhằm thu lợi bất chính cho bản thân cán bộ.
- Mọi công việc đều thực hiện theo lợi ích của khách hàng: ví dụ không được mua bán trước khách hàng, xúi giục khách hàng mua bán liên tục, không được bỏ mặc khách hàng trong những tình huống xấu… Các công ty CK đều có những quy định rất cụ thể về đầu tư vào CK của cán bộ trong công ty, và quy định việc mua bán CK của bất kỳ một cán bộ nào trong công ty đều phải được lãnh đạo cấp trên phê duyệt trước, hoặc quy định đối với những cán bộ làm công tác bảo lãnh phát hành CK không được phép mua bán CK của công ty phát hành mà mình tham gia nghiên cứu trong khoảng thời gian nhất định kể từ thời điểm giao nhiệm vụ.
* Đối với công chúng đầu tư:
- Cấm sử dụng thông tin nội gián: trong trường hợp do thi hành công vụ mà có được những thông tin nội gián hoặc những thông tin chưa được công bố công khai thì phải báo cáo với công ty để công ty tìm biện pháp xử lý để đảm bảo lợi ích cho công chúng đầu tư.
- Cấm sử dụng thông tin từ công việc: một số trường hợp do tính chất công việc mà có thể có được những thông tin, thì người nắm thông tin trong mọi trường hợp không được phép tiết lộ và sử dụng những thông tin này nhằm mục đích kiếm lời cho bản thân hoặc cho những người mà mình có liên quan lợi ích.
Qui định về đạo đức nghề nhgiệp mang tính định tính cao và đòi hỏi các cá nhân phải có ý thức tự giác thực hiện. Đối với các công ty CK, các cơ quan quản lý Nhà nước còn yêu cầu ngoài việc quy định chặt chẽ vè đạo đức nghề nghiệp phải tăng cường hệ thống giám sát nội bộ và áp dụng hệ thống “bức tương hồi âm - Chinese Wall” để đảm bảo lợi ích của công chúng đầu tư và thị trường hoạt động lành mạnh.
4. Về cơ sở hạ tầng kỹ thuật:
Về địa điểm cho TTGDCK tại Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh. Thủ tướng Chính phủ đã quyết định sử dụng khu nhà 45-47 bến Chương Dương làm trụ sở TTGDCK tại thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay các cơ quan liên quan đang tiến hành bàn giao nhanh, cải tạo để lắp đặt máy móc thiết bị phục vụ cho hoạt động của trung tâm.
Ngày 27/1/1999 tại Hà Nội Chủ tịch UBCKNN Lê Văn Châu và ông G. Harter, phó đại sứ Mỹ, đại diện cơ quan thương mại phát triển Mỹ đã ký “thoả thuận tài trợ ” trị giá 193.183 USD cho UBCKNN để lập dự án khả thi cho xây dựng hệ thống máy tính của Trung tâm GDCK.
Đầu năm 2000 tập đoàn Chin fon (Đài Loan) đã trợ giúp sàn GDCK Tp. Hồ Chí Minh một bảng điện tử trị giá 280.000 USD. Trước đó một tổ chức kinh tế của Thái Lan đã tặng một máy chủ trị giá 12.000 USD và một số linh kiện, phần mềm cho sàn giao dịch. Công tác chuẩn bị cho sàn giao dịch này đang ở vào giai đoạn nước rút, hiện nay đã có trên 80 cán bộ đủ tiêu chuẩn nghiệp vụ sẵn sàng vào cuộc khi TTCK mở cửa.
Chương 3
Giải pháp nhằm hoàn thiện
những điều kiện cần thiết để phát triển
thị trường chứng khoán việt nam
Xây dựng TTCK ở Việt nam phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản sau:
+ Nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc xây dựng, quản lý và khuyến khích, tạo điều kiện cho thị trường phát triển theo đúng đường lối và định hướng của Đảng và Chính phủ.
+ Có một cơ quan quản lý Nhà nước thống nhất nhằm tạo điều kiện cho thị trường hoạt động thống nhất, thông suốt, hiệu quả và an toàn.
+ Xây dựng một TTCK có tổ chức, hoạt động công bằng, hiệu quả, an toàn, bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của đất nước, từng bước hội nhập với TTCK trong khu vực và trên thế giới.
+ Xây dựng và phát triển TTCK từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, phù hợp với tình hình và điều kiện cụ thể của đất nước.
Để phát triển TTCK Việt Nam, chúng ta phải có các giải pháp đúng đắn và hợp lý, giải quyết được các khuyết điểm của thị trường. Đồng thời phát huy các lợi thế của điều kiện phát triển của TTCK nước ta. Chúng ta xem xét các giải pháp về:
- Cơ chế quản lý và yếu tố pháp lý.
- Hàng hoá cho TTCK.
- Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực cho TTCK.
- Khoa học kỹ thuật.
I. Giải pháp về cơ chế quản lý và yếu tố pháp lý:
1. Cơ chế quản lý:
Việt Nam sẽ có một hội đồng CK quốc gia (State Securities Commission)
Là cơ quan ban hành toàn bộ các văn bản pháp quy cho các TTCK địa phương dựa vào đó để thực hiện. Hội đồng CK quốc gia (HĐCKQG) không chỉ giám sát các hoạt động của TTCK, quy định những yêu cầu về công báo công khai, ngăn chặn những thủ đoạn gian lận về CK và giao dịch CK, HĐCKQG còn ấn định trực tiếp những yêu cầu đối với mọi đối tượng tham gia vào TTCK phải tuân thủ.
Cơ cấu của HĐCKQG:
Chủ nhiệm UBCKNN làm chủ tịch Hội đồng.
Có thứ trưởng Bộ tài chính, phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước là phó chủ tịch Hội đồng.
Có phó chủ nhiệm uỷ ban kế hoạch Nhà nước, thứ trưởng Bộ tư pháp là uỷ viên Hội đồng.
Có một số chuyên gia về tài chính, Ngân hàng, Thương mại, Tài phán, Pháp luật giúp việc Hội đồng.
Các thành viên của Hội đồng CK do Thủ tướng Chính phủ chỉ định, Hội đồng làm việc trên nguyên tắc biểu quyết theo đa số.
Hội đồng CKQG sẽ tư vấn cho UBCK các vấn đề về CK và TTCK, đồng thời để thực hiện sự phối hợp liên ngành lĩnh vực Tài chính - Tiền tệ - Ngân hàng.
Quyết định 75/CP của Thủ tướng Chính phủ đã cho phép thành lập UBCKNN. Đây là cơ quan độc lập, chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về CK và TTCK. Đưa ra các quy chế về giám sát và các nghiệp vụ của TTCK, nhằm đảm bảo cho hoạt động của TTCK tuân thủ theo luật pháp.
Cơ cấu của UBCKNN:
Đứng đầu UBCKNN là chủ nhiệm uỷ ban.
Giúp việc Chủ nhiệm uỷ ban có một số Phó chủ nhiệm uỷ ban.
Chủ nhiệm và các Phó chủ nhiệm Uỷ ban do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm và làm việc theo chế độ chuyên trách.
UBCKNN có văn phòng và một số tổ chức giúp việc cho Chủ nhiệm uỷ ban.
Để thúc đẩy sự phát triển của TTCK, cần phải tổ chức tốt các SGDCK. SGDCK sẽ thúc đẩy việc thu hút và tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư, đảm bảo sự an toàn và tính công bằng trong việc mua bán CK. Đồng thời nó cung cấp cho người mua và người mua bán CK về chỉ số CK, về diễn biến cung cầu CK, về các chính sách tín dụng, lãi suất của Nhà nước, các thông tin về các công ty cổ phần tham gia vào TTCK để họ lựa chọn quyết định mua, bán, giá cả và thời gian mua bán.
Hội đồng quản trị và cơ quan điều hành mọi hoạt động của SGDCK, do thành viên của sở bầu ra trong đó một số thành viên của Hội đồng quản trị có thể do Chính phủ chỉ định. Hội đồng quản trị:
- Vạch ra chính sách và phương hướng hoạt động cũng như các chế độ phân phối thu nhập và trích các quỹ của SGDCK.
- Xem xét kết nạp hoặc khai trừ các thành viên của sở (các công ty môi giới).
- Xem xét loại CK của công ty nào được đưa ra mua bán và định giá tại sở.
- Xem xét và giải quyết các công việc khác về mặt quản trị một SGDCK.
Chúng ta thấy các cơ quan quản lý về TTCK cần phải thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật về CK và TTCK - Đây là điều kiện đảm bảo tạo cơ sở khung pháp lý cho việc phát hành và kinh doanh CK.
-Tổ chức xây dựng và phát triển đồng bộ TTCK ở Việt nam.
- Quản lý, giám sát, kiểm tra các hoạt động của TTCK.
Ngoài ra, còn có thể tập hợp được lực lượng nghiên cứu, soạn thảo các văn bản pháp lý, đào tạo cán bộ và là đầu mối cho quan hệ quốc tế về CK và TTCK ở Việt Nam.
2. Về yếu tố pháp lý:
Khi đã có TTCK thì sẽ kéo theo hàng loạt những diễn biến phức tạp phát sinh. Việc mua bán các CK trên TTCK luôn diễn ra hại mặt: Mặt tích cực và tiêu cực. Đối với mặt tích cực thì chúng ta đã thấy mà không phải bàn đến. Còn riêng mặt trái của nó thì quả là phức tạp, đáng lo ngại và sẽ là mối đe doạ cho nền kinh tế đất nước nếu chúng ta không ngăn chặn kịp thời. TTCK hoạt động thì ngay lập tức các nhân tố đầu cơ, mua bán nội gián, mua bán CK bên ngoài TTCK, phao tin đồn nhảm về tình hình hoạt động của một đơn vị kinh tế… sẽ tạo ra tâm lý bất ổn định đối với các nhà đầu tư, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước, việc xây dựng và phát triển TTCK phải đồng hành với việc nghiên cứu cho ra đời các văn bản pháp quy dưới luật và tiến đến cho ra đời các luật điều chỉnh các hoạt động của TTCK; tạo ra hành lang pháp lý cần thiết cho hoạt động và phát triển TTCK Việt nam.
Chúng ta cần gấp giúp xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật đầy đủ và phù hợp với điều kiện nước ta. Pháp luật về TTCK cần phải điều chỉnh ba nhóm quan hệ.
2.1. Pháp luật bảo đảm sự quản lý Nhà nước:
Thực tiễn hoạt động của nền kinh tế thế giới trong những thập kỷ gần đây đã chứng minh, ở bất kỳ một nền kinh tế thị trường nào cũng cần đến sự điều tiết của Nhà nước. Tuy nhiên, mức độ và phạm vi khác nhau nếu nền kinh tế nước ta dù mang tính chất như thế nào thì cũng không thể là nền kinh tế tự phát, vô tổ chức. Nhà nước quản lý nền kinh tế trước hết mang nội dung tính tự giác và tính tổ chức của sự phát triển nền kinh tế sự quản lý của Nhà nước đối với sự phát triển TTCK cũng xuất phát từ cơ sở đó. Nó đảm bảo cho thị trường CK phát triển vì những mục tiêu của sự phát trển kinh tế xã hội mà Đảng và Nhà nước đã xác định. Hơn nữa TTCK một mặt có những ưu điểm thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đem lại những thành quả và lợi ích thực sự to lớn; mặt khác cũng chứa đựng không ít những hạn chế, khuyết tật và tiêu cực làm phương hại đến nền kinh tế với những hậu quả tai hại khó lường hết. Sự quản lý của Nhà nước ở đây chính là nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi để mọi chủ thể tham gia vào các quan hệ của TTCK khai thác tốt những đặc tính ưu việt, những thế mạnh của thị trường và hạn chế đến mức thấp nhất những tiêu cực của nó. Sự quản lý của Nhà nước đối với việc thành lập và phát triển TTCK được thực hiện dưới nhiều hình thức và bằng nhiều công cụ khác nhau. Có thể tham gia việc ban hành luật và thực hiện các chính sách Nhà nước về tài chính, tiền tệ…, lãi suất, đầu tư và thuế khoá... hoặc thông qua việc kiểm tra, giám sát các pháp nhân và thể nhân tham gia thị trường CK một cách thường xuyên, nhằm ngăn chặn và xử lý những sai phạm theo luật định.
2.2. Pháp luật xác lập quy chế pháp lý của các chủ thể tham gia TTCK:
Quá trình phát triển đi lên của TTCK gắn liền với quá trình quốc tế hoá thị trường làm cho số lượng các chủ thể tham gia các quan hệ xã hội trong lĩnh vực TTCK ngày càng lớn. Các chủ thể tham gia ở đây bao gồm các doanh nghiệp tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, các tổ chức xã hội và các cá nhân đầu tư trong và ngoài nước. Giữa các chủ thể hình thành nên những mối quan hệ nhất định như thương gia CK, môi giới CK và những người điều hành thị trường. Để những hoạt động đa dạng và năng động này diễn ra theo một trật tự nhất định, một mặt pháp luật cần phải quy định vị trí, vai trò chức năng của mỗi loại chủ thể tiến hành những hoạt động đó, mặt khác phải quy định rõ những quyền và nghĩa vụ cũng như trách nhiệm của các chủ thể tham gia trong hoạt động TTCK. Nói cách khác, cần xác định bằng luật pháp cụ thể, địa vị pháp lý của mỗi loại chủ thể tham gia các quan hệ TTCK. Trong địa vị pháp lý của mỗi loại chủ thể phản ánh năng lực pháp lý, năng lực điều hành của mỗi chủ thể và mối quan hệ biện chứng giữa các chủ thể cùng tham gia hoạt động trên thị trường .
Tính ổn định và an toàn, tính tổ chức và trật tự, tính định hướng và hiệu quả của các quan hệ ở TTCK thể hiện trực tiếp ở những quyền và nghĩa vụ tương ứng của các chủ thể liên quan với nhau và trách nhiệm của chúng chẳng những đối với nhau mà còn trước Nhà nước và toàn xã hội. Đối với các chủ thể tham gia TTCK, pháp luật chỉ xác định vị trí, vai trò, chức năng, quyền và nghĩa vụ mà pháp luật còn quy định trình tự, thủ tục tổ chức thành lập các pháp nhân tham gia thị trường, như các điều kiện để được phép tham gia vào TTCK, điều kiện đăng ký, xin giấy phép.
Trong thực tế không phải bao giờ sự điều chỉnh của pháp luật đối với các chủ thể cũng dễ dàng, đúng đắn và hợp lý. Bởi vì khi tham gia vào TTCK không phải mỗi chủ thể chỉ có một chức năng và chỉ có một mối quan hệ mà còn có nhiều chức năng, quan hệ nhiều chiều với các chủ thể khác. Do vậy pháp luật cần quy định một cách cụ thể, rõ ràng, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm tương ứng với mỗi chức năng phù hợp với tính chất và nội dung của từng loại hình hoạt động.
2.3. Pháp luật điều chỉnh các hoạt động diễn ra trên thị trường :
Hoạt động của TTCK thông qua các chức năng của mình nhằm thu hút các nguồn vốn đầu tư để từ đó phân phối lại một cách có hiệu quả cho những người sử dụng. Các mặt hoạt động này được diễn ra trên các loại thị trường khác nhau. Thị trrường sơ cấp là nơi các CK được phát hành ra lần đầu tiên, nó có tác dụng làm gia tăng tổng vốn đầu tư cho toàn xã hội, làm tiền đề cho sự phát triển thị trường sơ cấp, nơi diễn ra các mặt hoạt động mua đi bán lại và trao đổi các loại hình CK.
Do vậy pháp luật ở đây điều chỉnh dựa trên hai nhóm hành vi khác nhau: đó là quy chế pháp luật về phá hành CK và quy chế pháp luật về mua bán, chuyển nhượng CK. Đối với quy chế phát hành CK, đây là nơi tạo hàng hoá CK cho thị trường, là khởi điểm cho mọi hoạt động sau này nên pháp luật phải quy định rõ ý nghĩa kinh tế, bản chất và vấn đề pháp lý của mỗi loại cổ phiếu, trái phiếu các hình thức phát hành và thủ tục. Sự lành mạnh của TTCK cũng như các vấn đề khuyết tật đều nằm tiềm ẩn ở giai đoạn này. Đối với nhóm hành vi trên thị trường thứ cấp, pháp luật cần xác định thể thức và các trình tự thủ tục mua bán, chuyển nhượng CK, và những vấn đề trách nhiệm pháp lý đối với những hành vi đi ngược lại những quy định trong quy chế về các mặt hoạt động như: giả mạo CK, lừa đảo, đầu cơ, thao túng thị trường, chèn ép các chủ thể và đẩy họ vào thế bất lợi. Trên thị trường thứ cấp này, hoạt động của TTCK diễn ra rất sôi động, nó liên quan đến nhiều mặt hoạt động của đời sống kinh tế xã hội và ở những phạm vi rộng rãi khác nhau, thậm chí vượt ra ngoài khuôn khổ nhiều quốc gia, cho nên vấn đề trung thực trong kinh doanh là nền tảng cho sự bền vững của thị trường. Do vậy, yếu tố con người và yếu tố thông tin ở đây cần có sự điều chỉnh hợp lý về pháp lý, bảo đảm hài hoà về các mặt quyền và nghĩa vụ giữa các nhà môi giới CK và thương gia CK. Bảo đảm sự bền vững và ổn định thị trường, đồng thời cũng tránh được những khắt khe, chăt chẽ của thị trường “đóng”.
Từ kinh nghiệm của các nước đi trước, đặc biệt là kinh nghiệm của một số nước đang phát triển châu á (có hoàn cảnh gần như nước ta) sẽ vận dụng thích hợp vào phát triển TTCK ở Việt Nam. Mặt tích cực với các nước đi sau là học tập sự vận dụng kinh nghiệm của nước đi trước. Trong bối cảnh đất nước ta hiện nay, vấn đề xác lập các quy định pháp lý cho hoạt động của SGD là một việc làm cần thiết. Bởi lẽ một TTCK có tổ chức, với sự giám sát chặt chẽ của nhà nước sẽ làm giảm những mặt hạn chế, khuyết tật vốn có của thị trường. Do đó hệ thống luật của chúng ta cần ghi rõ và chi tiết, càng cụ thể bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu thậm chí quy định những văn bản chi tiết về các CK của các doanh nghiệp lưu hành trên thị trường từng thời kỳ, quy định về chuẩn mực các năng lực pháp lý và năng lực hành vi cho từng thương gia và người môi giới CK. Chúng ta cần từng bước xây dựng những luật lệ cần thiết, tạo điều kiện cho sự phát triển TTCK.
II. Giải pháp về hàng hoá cho TTCK:
Phải tạo ra ngày càng nhiều hàng hoá cho TTCK, với nhiều chủng loại khác nhau đảm bảo đủ tiêu chuẩn về chất lượng để lưu thông và buôn bán trên thị trường. Một “chợ” muốn hình thành, hoạt động và phát triển đòi hỏi phải có thật nhiều hàng hoá và hàng hoá phải thật phong phú, đảm bảo chất lượng, uy tín. Ngược lại muốn hàng hoá đa dạng, phong phú cũng đòi hỏi phải có một “chợ” thật hoàn chỉnh và phát triển. Để làm được điều này, đầu tiên phải đẩy nhanh công tác sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, tiến tới cổ phần hoá một phần hoặc toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước nếu xét thấy không cần thiết phải giữ 100% sở hữu Nhà nước. Nhà nước cần phải có chính sách, chế độ thật kiên quyết trong đó cần chú ý đến cả hình thức phổ thông như tuyên truyền, giải thích, kết hợp xử lý kiên quyết nếu xét thấy cần thiết. Từng bước nâng cao tài sản của các doanh nghiệp Nhà nước đã và đang được cổ phần hoá, các công ty cổ phần và kể cả các doanh nghiệp Nhà nước nằm trong diện phải cổ phần hoá nhằm ngày càng nâng cao hiệu quả sản xuất – kinh doanh để qua đó các doanh nghiệp, công ty này có những loại CK đạt tiêu chuẩn có đủ độ mạnh và uy tín mua bán trên TTCK.
Cần mở rộng đối tượng đầu tư vào trái phiếu, cổ phiếu. Để cổ phần hoá nhiều doanh nghiệp ở nước ta trong thời gian tới cần thực hiện các biện pháp:
- Thứ nhất, cần có hệ thống thông tin chính xác, tin cậy về tình hình hoạt động sản xuất - kinh doanh và kết quả tài chính của doanh nghiệp cổ phần hoá đã qua kiểm toán độc lập bằng hình thức thông tin qua báo chí, đài, qua các tổ chức đoàn thể.
- Thứ hai, tạo sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp Nhà nước và các công ty cổ phần và các điều kiện ưu đãi.
- Thứ ba, sớm triển khai và cụ thể hoá cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc cổ phần hoá như: Xác định danh mục loại hình doanh nghiệp, cần phải cổ phần hoá ở mức độ nào. Vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hoá trên cơ sở phần giá trị còn lại của doanh nghiệp phải sát thực đúng thực tế. Vai trò làm chủ của những người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá.
III. Giải pháp về nguồn nhân lực:
Nhân tố con người trong mỗi công việc chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng và quyết định phần lớn sự thành công hay thất bại. Thực tế công tác đào tạo cán bộ cho TTCK trong những năm qua tuy có khả năng nhưng vẫn chưa thể đáp ứng đủ so với nhu cầu. Chúng ta nên xem việc đào tạo cán bộ nhất là những người trực tiếp điều hành, quản lý, kinh doanh chứng khoán là chiến lược, nó không những cần thiết cho hiện tại mà còn cho tương lai một vài năm tới hoặc lâu hơn nữa.
Để làm tốt khâu đào tạo nhân lực cho TTCK cần:
* Trung tâm nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng nghiệp vụ về chứng khoán và TTCK tổ chức các lớp đào tạo cơ bản, nâng cao sau đó chuyển sang đào tạo chuyên sâu từng loại cán bộ và những người có nhu cầu nghiên cứu về chứng khoán, trên cơ sở đó tiến hành tổ chức đào tạo thực hành cho các loại đối tượng đã qua đào tạo cơ bản, nâng cao chuyên sâu.
* UBCKNN cần tích cực tranh thủ các dự án đào tạo quốc tế để cử đi đào tạo các khoá ngắn hạn và dài hạn, ở cả trong và ngoài nước, đối với các cán bộ cho thị trường giao dịch chứng khoán và công ty chứng khoán. Nên tổ chức một khoá học lý thuyết và thực hành tại những nước đã và đang phát triển ngành chứng khoán mà Việt nam dễ tiếp cận như Trung quốc, Thái lan, Đài loan... với các nội dung đào tạo như: kinh nghiệm giám sát của UBCKNN, vận hành và điều hành ở SGDCK, quản lý và kinh doanh tại các công ty môi giới, quỹ đầu tư, trung tâm đăng ký, thanh toán bù trừ, lưu ký... thực hành kỹ năng thao tác tại sàn giao dịch và ở công ty môi giới. Cần đặc biệt lưu ý nguồn tuyển chọn từ các cán bộ trẻ, từ sinh viên các trường đại học kinh tế để các khả năng tiếp thu nhanh những tri thức hiện đại về công nghệ và những nghiệp vụ chuyên môn phức tạp của TTCK.
* Bộ giáo dục và đào tạo cần khẩn trương cho triển khai xây dựng giáo trình môn học về TTCK để đưa vào giảng dạy như một môn học chính thức, cho các khoa kinh tế ở các trường đại học và cao đẳng. Đặc biệt ở các trường Đại học kinh tế nên hình thành bộ môn thị trường chứng khoán. Nếu chưa đủ điều kiện là một bộ môn độc lập như bộ môn kinh tế đầu tư thì có thể bộ môn TTCK nằm trong khoa ngân hàng(*) Theo gợi ý của TS. Hoàng Hải trong sưu tập tư liệu nghiên cứu của
Trung tâm nghiên cứu kinh tế quốc tế (CIES)
.
* Mở rộng hơn nữa các khoá phổ biến kiến thức về chứng khoán, TTCK và các môn học liên ngành có liên quan đến chứng khoán và TTCK tại các tỉnh. Đặc biệt chú trọng nâng cao nhận thức về TTCK cho các doanh nghiệp và dân số.
IV. Giải pháp về cơ sở hạ tầng kỹ thuật:
Cần khẩn trương xây dựng và hình thành các cơ sở hạ tầng cần thiết để phát triển TTCK. Chúng ta cần:
- Khẩn trương xây dựng một hệ thống ngân hàng và các thị trường tiền tệ, tín dụng, thị trường ngoại hối, thị trường ngoại tệ tương đối hoàn chỉnh, hoạt động có hiệu quả để thanh toán nhanh chóng việc mua bán, trao đổi CK.
- Từng bước trang bị một hệ thống giao dịch và thanh toán tiên tiến, hiện đại, đủ tiêu chuẩn quốc tế để làm tốt việc đăng ký, cập nhật hoá tên tuổi và sự thay đổi sở hữu chủ chứng khoán.
- Xây dựng và đưa vào vận hành một hệ thống, một chế độ kế toán và kiểm toán hoàn chỉnh theo các chuẩn mực quốc tế, để tạo điều kiện cho không những dân chúng trong nước mà cho cả người nước ngoài.
- Pháp chế hoá các luật chơi trên TTCK bằng một hệ thống luật lệ rõ ràng, bằng các quy chế quản lý và giám sát hợp lý để tạo cơ sở pháp lý xử lý các tranh chấp xảy ra giữa những người đầu tư và tạo điều kiện xây dựng một sân chơi thật sự bình đẳng, trật tự, đáng tin cậy cho mọi chủ thể tham gia trên TTCK.
- Đẩy nhanh tiến độ thực hiện chương trình cổ phần hoá bằng việc xây dựng các chính sách, chế độ thật sự hấp dẫn đối với các doanh nghiệp và người lao động trong các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá. Nên hình thành loại hình công ty dịch vụ cổ phần. Dưới hình thức một công ty tài chính, các công ty này thực hiện nhiệm vụ tư vấn tài chính, giúp cho các doanh nghiệp làm các báo cáo tài chính, kế toán, kiểm toán, xây dựng kế hoạch cổ phần hoá, giới thiệu các dự án cổ phần hoá của doanh nghiệp với khách hàng và được thu phí dịch vụ cho các hoạt động này.
- Tiếp tục kiểm soát lạm phát một cách chặt chẽ, có hiệu quả, giữ tỷ giá nội tệ ổn định và từng bước loại trừ những giao dịch ngầm trong lĩnh vực tài chính để kích thích vào sự hình thành và phát triển TTCK.
- Đầu tư xây dựng hệ thống thanh toán bù trừ tự động trên phạm vi cả nước bằng cách tăng cường thêm mạng vi tính cao cấp kết hợp khai thác mạng thông tin viễn thông ở bưu điện để liên kết thị trường vốn trong nước thành một thị trường thông suốt và tiến tới nối mạng với hệ thống thanh toán quốc tế.
- Củng cố hoàn thiện trung tâm thông tin ứng dụng của ngân hàng Nhà nước, để trung tâm này thực sự đóng vai trò cung cấp thông tin về tình hình tài chính doanh nghiệp làm chỗ dựa cho hoạt động kinh doanh trên TTCK của ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính trung gian và TTCK.
- Thành lập hệ thống ngân hàng thông tin để cung cấp dữ liệu cần thiết cho hoạt động kinh doanh trên TTCK của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
***********
kết luận
Sự phát triển cao của nền kinh tế thị trường Việt nam sẽ tất yếu dẫn tới việc phải phát triển TTCK ở Việt nam. Vì TTCK là một hình thức phát triển cao của kinh tế thị trường. TTCK là một định chế tài chính không thể thiếu được trong đời sống kinh tế của những nước theo cơ chế thị trường.
Luận văn này với những nội dung cơ bản về TTCK và các điều kiện cần thiết để phát triển TTCK Việt nam. Luận văn đã đề cập đến vài nét về TTCK, kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về xây dựng và phát triển TTCK, điều kiện các bước chuẩn bị và giải pháp nâng cao việc áp dụng các điều kiện cần thiết để phát triển TTCK Việt nam.
Việc phát triển TTCK lên một mức cao, được thế giới công nhận còn là vấn đề nan giải đối với Việt Nam. Chúng ta cần hạn chế tới mức thấp nhất các khó khăn và thách thức gặp phải, cần phải tạo điều kiện từ Trung ương tới các địa phương để các cấp, các ngành nắm bắt được nhu cầu và những chỉ dẫn cần thiết khi tham gia vào TTCK. Trong đó, việc ban hành các chính sách và chương trình cụ thể của Nhà nước về phát triển kinh tế trong mỗi giai đoạn là hết sức quan trọng, vì các bước đi đến thiết lập và phát triển TTCK gắn liền với việc giải quyết các vấn đề liên quan tới xây dựng cơ chế quản lý mới. Do đó để đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn của nền kinh tế, nhà nước phải có chủ trương và chương trình cụ thể về tổ chức và xây dựng TTCK, thị trường vốn ngày một phát triển hơn.
Cần đảm bảo tốt sự kết hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp nhất là các ngành Tài chính, Ngân hàng, Kế hoạch, Tư pháp và sự ủng hộ của các cơ quan, đoàn thể; sự hưởng ứng tham gia đông đảo của các doanh nghiệp và dân chúng.
Tài liệu tham khảo
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII.
Các văn bản pháp lý về thị trường chứng khoán.
Tài liệu “Thị trường chứng khoán và những vấn đề cơ bản trong việc tổ chức vận hành Thị trường chứng khoán tại Việt Nam ” của UBCKNN.
Thị trường chứng khoán – Nguyễn ngọc Hùng – trường Đại học Kinh tế TP. HCM – Nhà xuất bản thống kê - 1997.
Thị trường chứng khoán – PGS.TS. Lê Văn Tư, Lê Tùng Vân – NXB Thống kê 1997.
Thị trường chứng khoán ở Việt Nam - Nguyễn Văn Luân, Trần Quốc Tuấn - NXB Thống kê - 1995.
Hỏi và đáp về thị trường chứng khoán - Đặng Quang Gia – Nhà xuất bản Thống kê - 1996.
Thị trường và sở giao dịch chứng khoán - Lê Xuân Nghĩa, Tôn Tích Thạch, Bùi Lương Phát - NXB Thống kê - 1995.
Thị trường chứng khoán - Phương thức hoạt động và kinh doanh - NXB Thống kê - 1995.
Việt nam với thị trường chứng khoán – Bùi Nguyên Hoàn – NXB Chính trị quốc gia 1995.
Thị trường chứng khoán và công ty cổ phần - Bùi Nguyên Hoàn - NXB Chính trị quốc gia - 1998.
Hướng tới thị trường chứng khoán đầu tiên ở Việt Nam, Trung tâm phát triển ngoại thương và đầu tư - Trần Du Lịch, Lương Hữu Định, Huỳnh Bửu Sơn, Trần Tô Tử.
Thị trường chứng khoán đâu có gì khó hiểu – Lê Minh Đức – NXB Thành phố HCM – 1994.
Giáo trình thị trường chứng khoán – PGS.PTS. Nguyễn Văn Nam; Khoa ngân hàng – Tài chính, trường Đại học KTQD – năm 1988.
Thị trường chứng khoán và bước đầu hình thành Thị trường chứng khoán tại Việt Nam - Võ Thành Hiệu, Bùi Kim Yến - NXB trẻ - 1998.
Tạp chí chứng khoán, Đầu tư chứng khoán.
Một số tạp chí : Cộng sản, Phát triển kinh tế, Nghiên cứu kinh tế, Ngân hàng, Tài chính, Nghiên cứu lý luận, Thời báo kinh tế Việt Nam, Tài chính doanh nghiệp, Thời báo kinh tế Sài Gòn....
Một số tư liệu lưu tại thư viện Trung tâm hợp tác nghiên cứu Việt nam, Trung tâm hợp tác nghiên cứu châu Âu, Trung tâm hợp tác nghiên cứu châu Mỹ và Trung tâm hợp tác nghiên cứu châu á.
Mục lục
Phần mở đầu
1
Chương I: Tổng quan về thị trường chứng khoán
I. Thị trường tài chính
3
1. Khái niệm Thị trường tài chính
3
2. Cấu trúc Thị trường tài chính
4
II. Thị trường chứng khoán
6
1. Thị trường chứng khoán
6
2. Cơ cấu, mục tiêu, nguyên tắc hoạt động của Thị trường chứng khoán
8
3. Các đối tượng tham gia trên Thị trường chứng khoán
9
III. Vai trò chức năng của Thị trường chứng khoán
11
1. Vai trò của Thị trường chứng khoán
11
2. Chức năng của Thị trường chứng khoán
13
IV. Kinh nghiệm xây dựng và phát triển Thị trường
ở một số nước trên thế giới
14
1. Thị trường chứng khoán ở một số nước châu Âu
14
1.1. Thị trường chứng khoán Luân Đôn (Anh)
14
1.2. Thị trường chứng khoán Pari (Pháp)
16
1.3. Thị trường chứng khoán Franfurt (Đức)
17
1.4. Thị trường chứng khoán Italia
18
1.5. Thị trường chứng khoán Ba lan
20
2. Thị trường chứng khoán ở một số nước châu Mỹ
22
2.1. Thị trường chứng khoán Hoa Kỳ
22
2.2. Thị trường chứng khoán Canada
24
3. Thị trường chứng khoán ở một số nước châu á
27
3.1. Thị trường chứng khoán Trung Quốc
27
3.2. Thị trường chứng khoán Hàn Quốc
29
3.3. Thị trường chứng khoán Tokyo (Nhật Bản)
31
3.4. Thị trường chứng khoán Malayxia
33
3.5. Thị trường chứng khoán Indonesia
34
3.6. Thị trường chứng khoán Thái Lan
35
Chương II: Thực trạng phát triển
Thị trường chứng khoán ở Việt Nam
I. Sự cần thiết phát triển Thị trường chứng khoán
ở Việt Nam
37
II. Những thuận lợi, khó khăn trong việc phát triển
Thị trường chứng khoán ở Việt Nam
41
1. Những thuận lợi
41
2. Những khó khăn
44
III. Những điều kiện cần thiết để phát triển
Thị trường chứng khoán ở Việt Nam
46
1. Điều kiện về kinh tế tài chính
47
2. Điều kiện về hàng hoá cho Thị trường chứng khoán
49
3. Điều kiện về pháp lý
50
4. Điều kiện về kỹ thuật và tổ chức
52
IV. Quá trình chuẩn bị cho phát triển
Thị trường chứng khoán ở Việt Nam
54
1. Về khuôn khổ pháp lý
57
2. Về hàng hoá cho Thị trường chứng khoán
58
3. Về đào tạo nhân lực và quy định về đạo đức nghề nghiệp trong công ty chứng khoán
61
3.1. Về đào tạo nhân lực
61
3.2. Về quy định đạo đức nghề nghiệp trong công ty chứng khoán
63
4. Về cơ sở hạ tầng kỹ thuật
66
Chương III: Giải pháp nhằm hoàn thiện
những điều kiện cần thiết để phát triển
Thị trường chứng khoán Việt Nam
I. Giải pháp về cơ chế quản lý và yếu tố pháp lý
68
1. Cơ chế quản lý
68
2. Về yếu tố pháp lý
70
II. Giải pháp về hàng hoá cho Thị trường chứng khoán
74
III. Giải pháp về nguồn nhân lực
75
IV. Giải pháp về cơ sở hạ tầng kỹ thuật
76
Kết luận
78
Tài liệu tham khảo
79
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29810.doc