Luận văn Hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay bằng tài sản đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Chi nhánhNgân hàng Công thương Ba Đình

Cho đến hiện nay, trình tự, thủ tục về đăng ký giao dịch bảo đảm đối với các tài sản là bất động sản, động sản vẫn chưa được hướng dẫn thống nhất vì vậy việc cầm cố, thế chấp vay vốn tại các Ngân hàng của khách hàng vẫn chưa thực hiện được. Để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng vay cũng như duy trì độ an toàn cho các khoản vay của Ngân hàng, Bộ Tư pháp nên nhanh chónh ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể những vấn đề liên quan đến giao dịch bảo đảm. Việc thành lập Cục quốc gia về giao dịch bảo đảm (ra đời theo quyết định số 104/2001/QĐ-TTg0 là nguồn thông tin chính xác về tài sản cầm cố, thế chấp đã được dùng để bảo đảm cho các nghĩa vụ nào hay chưa, cơ sở cho việc hạn chế, ngăn ngừa rủi ro khi nhân bảo đảm tiền vay băng các tài sản này.

doc100 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 700 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay bằng tài sản đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Chi nhánhNgân hàng Công thương Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ược ở trên không thể có nếu thiếu đi vai trò của bảo đảm tièn vay Những hạn chế vướng mắc phát sinh trong qúa trình thực hiện bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại Chi nhánh: Với tốc độ dư nợ tín dụng ngoài quốc doanh tăng mạnh hai năm 2001, 2002 là một kết quả rất đáng khích lệ, nhưng bên cạnh đó trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng còn những vướng mắc hạn chế làm cho kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng chưa xứng với tiềm năng của Ngân hàng cũng như chưa đáp ứng được đáng kể nhu cầu vốn của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn. Bao gồm: Sự rè rặt trong cho vay của cán bộ tín dụng Ngân hàng: Trong thời gian qua thế chấp gần như được coi là điều kiện hàng đầu để Ngân hàng xem xét, quyết định cho vay vốn đối với các doanh nghiệp. Tư duy thẩm định, cho vay theo dự án khoa học là và phù hợp với cơ chế thị trường, nhưng các Ngân hàng không giám mạo hiểm cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn vì việc hình sự hoá quan hệ tín dụng giữa các Ngân hàng và doanh nghiệp vẫn xảy ra như một vụ án hình sự. Trên thực tế cho thấy, nếu trong 100 dự án do cán bộ tín dụng Ngân hàng thẩm định mà có dến 99 dự án thẩm định đúng và thu hồi đủ vốn và lãi từ các dự án đó, còn một dự án thẩm định sai và không thể thu hồi vốn thì cán bộ tín dụng Ngân hàng liên quan đến một dự án thẩm định sai có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Lúc đó dù kết quả của 99 dự án được thẩm định đúng cũng không còn được coi là những điều kiện để cơ quan tiến tố tụng xem xét, miễn truy cứu tách nhiệm hình sự cho cán bộ thẩm định, cho dù lãi thu được 99 dự án được thẩm định đúng là rất lớn. Thực tế, đối với một con người dù có hoàn thiện và cẩn thận đến đâu thì trong suốt sự nghiệp thẩm định dự án tại Ngân hàng con người cũng không thể không có những sai sót nhất định. Sự thiếu sót này có thể gây ra thất thoát đối với Ngân hàng mà đáng lẽ ra phải được coi là những rủi ro trong kinh doanh tiền tệ và được xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro. Thêm vào đó theo quy định của bộluạt hình sự nước ta nếu cán bộ Ngân hàng gây thất thoát vốn từ 70 triêụ đồng trở nên đã bị coi là “gây hậu quả nghiêm trọng”. Chính vì vậy trách nhiệm của cán bộ Ngân hàng là rất lớn, điều này tạo cho cán bộ Ngân hàng tâm lý lo sợ, hoang mang và rè rặt trong xem xét, quyết định cho vay đối với doanh nghiệp. Các loại hình tài sản bảo đảm chưa đa dạng : Thông tư 06/TT-NHNN1 hướng dẫn thực hiện Nghị định 178/1999/NĐ-CP cho phép các Ngân hàng có một danh mục các tài sản có thể sử dụng để bảo đảm các khoản vay qua đó các Ngân hàng có thể mở rộng quy mô cho vay tới nhiều thành phần, nhiều đối tượng khác nhau. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, số lượng lớn doanh nghiệp ngoài quốc doanh với nhu cầu vốn rất lớn. Tuy nhiên qua xem xét danh mục tài sản bảo đảm của Chi nhánh có thể thấy rằng những tài sản được Chi nhánh nhận làm tài sản bảo đảm còn tất hạn chế, bao gồm: nhà ở, quyền sử dụng đất, sổ tiết kiệm, trái phiếu kho bạc. Một số khoản vay có thế chấp bằng máy móc thiết bị chủ yếu dành cho các công ty có quan hệ vay vốn truyền thống của Ngân hàng. Đây là một cản trở lớn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh muôn vay vốn Ngân hàng. 3. Công tác kiểm tra và kiểm tra tài sản bảo đảm còn mang tính chủ quan: Theo quy định của các NHTM, trước khi lập tờ trình, cán bộ tín dụngphải đi kiêm tra thực té tài sản bảo đảm đẻ đánh giá tài sản và xác minh những cam kết của khách hàng vay, của bên bảo lãnh. Sau đó cán bộ đưa ra những nhận xét trong phạm vi khả năng của mình về ưu và nhược điểm của tài sản và những cam kết của khách hàng vay để báo cáo. đề xuất với người có thẩm quyền xem xét cho vay. Nhưng trên thức tế, tại Chi nhánh, việc cán bộ tín dụng đi kiểm tra thực trạng tài sản bảo đảm chỉ được thực hiện theo quy định cảu Ngân hàng (văn bản hướng dẫn nội bộ trong Ngân hàng ) chứ không theo quy định của các văn bản quy phạm pháp luật. Do đó thủ tục kiểm ta thực tế tài sản bảo đảm không mang tính bắt buộc đối với các cán bộ tín dụng. Hơn nữa, văn bản hướng dẫn nội bộ của Ngân hàng chưa quy định trình tự kiểm tra thực trạng tài sản bảo đảm (có lập thành văn bản hay không? Kiểm tra cái gì? có sự chứng kiến của ai?). chính vì vậy cán bộ tín dụng hàng không có cơ sở rõ ràng để kiểm tra thực trạng tài sản bảo đảm. Điều này dẫn đến việc định giá tài sản bảo đảm còn mang tính chủ quan. Tại Chi nhánh, việc tiến hành định giá tài sản bảo đảm đều do hội đồng tín dụng của Chi nhánhtiến hành mà không có sự tham gia của các cơ quan chyên môn. sự thiếu vắng này là do hầu hết các các khoản cho vay của Chi nhánh đối với khu vực ngoài quốc doanh có giá trị thấp (một phần là do quy định hạn chế của Ngân hàng Công thương Việt Nam) và tài sản bảo đảm thường không quá khó để đánh giá. Tuy nhiên, trong yêu cầu phát triển ngày càng cao của kinh doanh thì an toàn lại càng được chú trọng hơn. Sự thiếu thiện chí của chính quyền Trong quá trình kiểm tra, đánh giá tài sản bảo đảm, chính quyền địa phương thiếu sự hỗ trợ, giúp đỡ cán bộ tín dụng hoàn thành nhiện vụ. Theo quy định pháp luật hiện hành, khách hàng vay, bên bảo lãnh phải cam kết bằng văn bản với tổ chức tín dụng về việc tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh không có tranh chấp tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật vè cam kết của mình. Nhưng khi cán bộ tín dụng của Chi nhánh đi xác minh cam kết của khách hàng vay, bên bảo lãnh theo quy định thì chính quyền địa bàn không tạo điều kiện, gây khó khăn, làm mất thời gian và ảnh hưởng đến công tác kiểm tra của Ngân hàng cũng như làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của đơn vị xin vay. Vấn đề công chứng hơp đồng bảo đảm: Trước đây việc cầm cố, thế chấp và bảo lãnh để thực hiện các hợp đồng kinh tế ngoài quốc doanh phải thực hiện việc công chứng theo quy định của điêù 2, Nghị định số 17-HĐBT ngày 16/1/1990. Đến nay theo điều 7 Nghị định số 178/1999/NĐ-CP thì việc hợp đồng phải có công chứng của cơ quan Nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhan dân cấp có thẩm quyền sẽ được thực hiện nếu có thoả thuận, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Tuy nhiên, trên thực tế, cán bộ tín dụng Ngân hàng thường không thể hiểu rõ những quy định của pháp luật về công chứng, chứng thực và để cán bộ Ngân hàng có thể xác định được trường hợp nào là trường hợp “pháp luật có quy định” hay “trừ trường hợp pháp luật có quy định” thì không hề đơn giản. Cho nên, để đảm bảo an toàn cho khoản vay và làm cơ sở để Chi nhánh có thể thu hồi vốn khi có rủi ro tín dụng phát sinh, các cán bộ tín dụng thường yêu càu khách hàng thực hiên thủ tục công chứng, chứng thực. Nhưng thủ tục công chứng, chứng thực rất rườm rà, làm mất thời gian cho cả Ngân hàng và khách hàng vay vốn. Hơn nữa, các nhân viên công chứng thường gây khó khăn, thiếu tôn trọng tính tự nguỵện, tính thoả thuận giữa Ngân hàng và khách hàng, thậm chí còn áp đặt mâu thuẫn họp đồng cho cả haibên, áp đặt thời gian vay vốn và thời gian thế chấp. Điều này hoàn toàn không phù hợp với quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và doanh nghiệp. 5. Về giá trị tài sản đảm bảo và điều kiện vay vốn: Trong cho vay có bảo đảm tài Chi nhánh thì thế chấp nhà ở là tài sản bảo đảm chủ yếu, và Chi nhánh cho vay từ 70-80% giá trị tài sản thế chấp. Tuy nhiên khi đánh giá tài sản lại chỉ bằng 40-50% giá trị thực. Cuối cùng số tiền được vay chỉ còn 20-30%giá trị của tài sản thực thế chấp. Hơn nữa, Ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp phải có 20% vốn tự có trong phương án vay vốn ngắn hạn và 30% khi vay vốn trung dài hạn. Chi nhánh đòi hỏi doanh nghiệp phải có NHNN năm sản xuất kinh doanh có lãi mới được Ngân hàng cho phép vay trong lúc doanh nghiệp mới được thành lập, đang cần có vốn để sản xuất kinh doanh. Trong thời gian qua Chi nhánh đã từ chối khá nhiều nhu cầu vay vốn từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Ký do chủ yếu là không phải là khách hàng không có mục đích sử dụng vốn vay hợp lý hay vì lý do tiềm lực tài chính của khách hàng mà chủ yếu là vì tài sản thế chấp không có đủ giấy tờ hợp pháp về quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất và bất động sản. 6. Về đăng ký quyền sở hữu tài sản bảo đảm: Việc đăng ký quyền sở hữu tài sản có liên quan đến quyết định ai sẽ là người giữ tài sản và giấy tờ của tài sản bảo đảm và việc tài sản có thể bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ. Nguyên nhân Nguyên nhân từ phía Ngân hàng : Trong quá trình thẩm định dự án vay vốn, thông tin thu thập được thường mang tính cá nhân. Mỗi cán bộ tín dụng nhận đơn xin vay nào thì thu thập thông tin về khoản vay đó. Việc tìm kiếm các thông tin mới chỉ dừng lại ở mức độ kiểm tra qua quan hệ cá nhân, tham khảo ý kiến của các cán bộ tín dụng khác và thông qua những gì mà khách hàng cung cấp. Với những nguồn thông tin như thế thì cán bộ tín dụng của Ngân hàng không thể đáp ứng được yêu cầu của quá trình thẩm định. Ngay cả khi trung tâm thông tin tín dụng của NHNN ra đời thì cũng không thể cung cấp cho Ngân hàng những thông tin có giá trị. Thêm vào đó, phòng tín dụng ngoài quốc doanh thường xuyên phải tiếp cận với một số lượng lớn các môí quan hệ với khách hàng. Như thế khả năng thu thập đầy đủ thông tin đến từng khách hàng là khó có thể thực hiện. Do đó, chất lượng của quá trình thẩm định không cao. Và đó cũng là lý do khiến Chi nhánh thận trọng trong quá trình cho vay, điều này khiến Chi nhánh bỏ qua nhiều cơ hội làm tăng lợi nhuận. Chính vì thận trọng cho nên doanh số cho vay của Chi nhánh chưa thực sự xứng với tiềm năng của mình. Bảo đảm tài sản là yêu cầu bắt buộc với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh muôn vay vốn tại các Ngân hàng, tuy nhiên việc nhạn tài sản nhiều cũng sẽ dẫn đến nguy cơ không thu hồi được nợ vì khi định giá tài sản bảo đảm các cán bộ tín dụng của Chi nhánh chỉ có kiến thức về Ngân hàng tài chính chứ chứ không có kiến thức về kỹ thuật công nghệ. Vì vậy việc định gía tài sản thường thiếu độ chính xác. Nguyên nhân từ phía khách hàng : Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là người có nhu cầu về vốn rất lớn, nên họ luôn muôn nhanh chónh nhận được vốn vay của Ngân hàng nhanh chóng. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy các cá nhân hay tổ chức ngoài quốc doanh không hiểu rõ về điều kiện vay vốn của Ngân hàng. Các đơn vị này luôn nghĩ họ chỉ cần một phương án sản xuất kinh doanh là đủ. Chính những suy nhgĩ như vậy thường dẫn đến những thất bại trong quan hệ vay vốn do tính khả thi mà khách hàng xây dựng trong hồ sơ và tính khả thi mà Ngân hàng xem xét trên những khía cạnh khác nhau. Ngân hàng không chỉ dựa trên khả năng mang lại lợi nhuận của dự án cũng như nguồn trả nợ ổn định của dự án mà còn phải xem xét mức độ rủi ro mà khách hàng chia sẻ với mình. Với những khách hàng thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, vốn tự có là quá nhỏ, vì vậy các doanh nghiệp này thường không trung thực trong hồ sơ xin vay và làm sổ sách không trung thực. Đến khi cán bộ tín dụng đi thực tế xem xét thấy hồ sơ không đáng tin cậy thì các doanh nghiệp này sẽ bị từ chối cho vay vốn. Hơn nũa, khách hàng trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thường không có trình độ về lập phương án sản xuất kinh doanh. Hồ sơ vay vốn thường có nhiều thiếu sót, việc tính toán các chỉ tiêu của dự án chưa phù hợp và không có tính thuyết phục, thông tin sơ sài, thiếu cơ sở thực tế. Do đó các doanh nghiệp này không thuyết phục Ngân hàng kể cả về mặt tài chính cũng như mặt kỹ thuật của dự án. Nguyên nhân từ khung pháp lý về thực hiện bảo đảm tiền vay bằng tài sản: Bên cạnh những nguyên nhân từ phía Ngân hàng, từ phía khách hàng thì cơ chế pháp luật của Chính phủ cũng là một nguyên nhân tác động lớn đến hoạt động cho vay có tài sản bảo đảm của các Ngân hàng. Đó là: các thủ tục, giấy tờ chồng chéo, thiếu nhất quán. Cái khó cho Ngân hàng chính là việc thiếu các hướng dẫn cụ thể việc thực thi các văn bản trên. Trong khi nội dung các văn bản pháp luật còn nhiều điều phải bàn như việc đăng ký giao dịch bảo đảm, công chứng giao dịch bảo đảm thì các Nghị định của Chính phủ đều có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày ký. Mặc dù các Nghị định ra đời nhằm nhanh chóng tháo gỡ những khó khăn vướng mắc về bảo đảm tiền vay, giúp các doanh nghiệp tiếp cận tốt hơn với nguồn vốn và giúp các Ngân hàng mở rộng hoạt động tín dụng, tăng thu nhập nhưng thực hiện giao dich bảo đảm vào thời điểm này còn phức tạp hơn Ví dụ như: Thông tư hướng 06/TT-NHNN1 hướng dẫn tài sản thế chấp có thể là quyền sử sụng đất nhưng tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lại diễn ra rất chậm. Việc cấp giấy tờ nhà ở, hoá giá nhà tập thể chưa làm được bao nhiêu. Hơn nữa, với biên động khó lường của giá bất động sản, giá đất theo khung gí của Nhà nước chênh lệch quá lớn so với thị trường tự do, điều này gây khó khăn cho Ngân hàng trong việc định giá tài sản chương III Một số giải pháp và kiến nghị nhăm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay BằNG TàI SảN đối với tín dụng Ngoài quốc doanh tại Chi nhánh NgâN hàng Công thương KHU VựC Ba Đình Định hướng phát triển hoạt động cho vay ngoài quốc doanh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình trong những năm tới: Chủ động tìm kiếm các dự án có hiệu quả để đầu tư, thực hiện đúng quy định và biện pháp cho vay để mở rộng tín dụng có hiệu quả, nâng cao chất lượng tín dụng, bảo đảm thu hồi được cả gốc và lãi đúng hạn. Tăng cường công tác tiếp thị, mở rộng và phát triển thị phần đầu tư tín dụng, trong đó coi trọng khách hàng truyền thống và các công ty có uy tín trên thị trường nhằm tăng trưởng dư nợ trong tầm kiểm soát. Tìm cách giải quyết bài toán lãi suất đẻ có thể đưa ra mức lãi suất thu hut các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Mở rộng và tìm kiếm các hình thức cho vay mới như cho vay quỹ hỗ trợ đặc biệt, cho vay từ nguồn vốn vay nước ngoài, từ nguồn vốn vay tài trợ uỷ thác, tăng cường cho vay các dự án thế chấp bằng vốn vay. Tăng dư nợ cho vay trung và dài hạn để các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất. Xây dựng cơ chế ưu đãi linh hoạt, phù hợp, mở rộng các hình thức cấp tín dụng, đa dạng hoá các nghiệp vụ cho vay, phối hợp chặt chẽ với phòng nghiệp vụ khác để tạo nên hệ thống các sản phẩm dịch vụ tốt phục vụ khách hàng, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh với các NHTM trên cùng địa bàn. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, đảm bảo kinh doanh an toàn hiệu quả. Thực hiện đầu tư kinh doanh đúng hướng, góp phần làm lành mạnh hệ thống tài chính tín dụng Ngân hàng . Tiếp tuc triển khai mở rộng mạng lưới hoạt động tại các khu vực dân cư có hoạt động thương mại dịch vụ phát triển, hướng mở rộng địa bàn ra các khu vực lân cận nơi có các khách hàng công nghiệp của thành phố. Xây dựng và triển khai thực hiện “văn minh giao tiếp” của cán bộ tín dụng Ngân hàng trong quá trình giao dịch với khách hàng. Chú trọng công tác đào tạo nâng cao chất lượng cán bộ Ngân hàng Với phương trâm phát triển an toàn và hiệu quả, phòng tín dụng ngoài quốc doanh cùng với các phòng ban khác thuộc Chi nhánhtiếp tục đổi mới và cơ cấu lại Ngân hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân hàng. Một số giải pháp hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay bằng tài sản đối với tín dụng ngoài quốc doanh Nâng cao trình độ của cán bộ tín dụng Con người ở đâu và bao giờ cũng luôn quan trọng và là yếu tố quyết định tới sự thành bại của công việc. Đối với ngành Ngân hàng, để công tác xử lý tài sản đảm bảo cho vay đạt được hiệu quả cao thì chất lượng cán bộ tín dụng là điều trước tiên phải tính đến. Đội ngũ cán bộ có trình độ, có kinh nghiệm và kiến thức thực tiễn sẽ giúp cho việc thẩm định dự án đầu tư có hiệu qủa, tránh việc thẩm định sai dẫn đến phải phát mãi tài sản đảm bảo để thu hồi nợ. Ngoài ra đội ngũ cán bộ có khả năng chuyên sâu trong từng lĩnh vực của nền kinh tế , phân tích được tình hình biến động của thị trường sẻ giúp cho việc định giá tài sản đảm bảo được đúng, hợp lý, tạo thuận lợi cho cả Ngân hàng và khách hàng. Đội ngũ cán bộ có đạo đức tốt, trong sáng, nhiệt tình làm việc sẽ tránh được tình trạng cấu kết với khách hàng để lừa đảo Ngân hàng thông qua nhận tài sản đảm bảo không có giá trị hoặc giá trị thấp khiến cho việc xử lý tài sản đảm bảo gặp nhiều khó khăn. Đôị ngũ cán bộ thực hiện tốt qui trình và các thủ tục cho vay có đảm bảo bằng tài sản sẽ làm giảm bớt những rủi ro cho Ngân hàng. Tập trung xây dựng và hoàn thiên hệ thống thông tin quản lý tín dụng và thông tin về tài sản bảo đảm : Rủi ro luôn tồn tại trong các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Có nhiều nguyên nhân gây tác động gây ra rủi ro nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là do Ngân hàng thiếu thông tin về khách hàng vay. Trong cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, vấn đề thông tin về khách hàng là khó khăn rất lớn của Ngân hàng, đặc biệt các thông tin về tình hình tài chính, thông tin về tiềm năng phát triển của dự án và thông tin về giá trị tài sản bảo đảm. Nguồn thông tin mà Ngân hàng nhân được chủ yếu là từ khách hàng. Từ các mối quan hệ quen biết và thông qua trung tâm tông tin tín dụng của NHNN, nhưng những thông tin này chưa thực sự đầy đủ và độ chính xác chưa cao. Để giải quyết vấn đề này, Ngân hàng nên chủ động xây dựng một mạng lưới thông tin liên quan đến khách hàng và giá trị của tài sản bảo đảm. Trước hết là các thông tin về phân tích, xếp loại doanh nghiệp , những thông tin này rất có ý nghĩa đối với hoạt động của Ngân hàng. Một mặt, giúp Ngân hàng lựa chọn những khách hàng tốt, có khả năng trả nợ trong tương lai để đầu tư đúng. Mục đích của phân tích, xếp loại doanh nghiệp là đưa ra nhận xét đánh giá tình hình hoạt động, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán tại thời điểm hiện tại và trong tương lai của doanh nghiệp nhằm xác định khả năng thu hồi vốn của Ngân hàng, lường trước được những rủi ro có khả năng có thể xảy ra để từ đó có những biện pháp xử lý kịp thời. Mặt khác, thông qua xếp loại các khách hàng hiện có của mình để có những chính sách tín dụng hợp lý. Đồng thời, thiết lập mạng lưới thông tin tập trung vào việc theo dõi những biến động về giá trị bất động sản trên thị trường. Ngoài ra, Chi nhánh có thể kết hợp với trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro của Ngân hàng Công thương Việt Nam, cơ quan tài chính và các Ngân hàng khác đế đánh giá tài sản bảo đảm nhanh và chính xác. Nâng cao khả năng thẩm định khách hàng và phương án sản xuất kinh doanh của các cán bộ tín dụng: Thẩm định dự án là công cụ cạnh tranh hữu hiệu giúp Ngân hàng thu hút những khách hàng vay “chất lượng cao”. Thẩm định không chỉ là công cụ giúp bảo đảm hiệu quả hoạt động cho vay, thu được gốc và lãi khi đến hạn, hạn chế rủi ro đến mức tháp nhất mà nó còn là cơ sở để xác định số tiền cho vay, mức thu nợ, thời hạn hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có trách nhiệm với khoản vay của mình, từ đó hoạt động kinh doanh thực sự nghiêm túc có hiệu quả. Vì vậy việc nâng cao chất lượng của quá trình thẩm định không những giúp Ngân hàng có thể đưa ra được những quyết định đúng tránh những tổn thất do rủi ro tín dụng, mà còn thoả mãn được nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Đối với những dự án cầm cố, thế chấp ngắn hạn Chi nhánh nên chú ý đến doanh thu bán hàng của khách hàng, xác định khả năng và thời điểm thu tiền hàng vì đây là nguồn thu nợ chính. Khả năng thanh toán của khách hàng cũng là yếu tố cần xem xét kỹ trong quá trình thẩm định. Đối với những dự án cầm cố, thế chấp trung, dài hạn, Chi nhánh cần phân tích tình hình tài chính của khách hàng để biêt được cơ cấu tài sản (tài sản cố định có được đầu tư vững chắc hay không?), năng lực hoạt động của khách hàng . Về việc thẩm định hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh. Đây là khâu chủ chốt và quan trọng bậc nhất đối với Ngân hàng nhầm đạt hiệu quả mông muốn cũng như phòng tránh rủi ro. Trong khi vấn đề tài sản thế chấp hiện nay tại hầu hết các Ngân hàng còn gặp nhiều vướng mắc thì việc căn cứ vào hiệu quả tính hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh để đưa ra quyết định cuối cùng là điều cần thiết. Đồng thời Ngân hàng cũng cần thành lập riêng ra một bộ phận thẩm định độc lập. Các cán bộ tín dụng ngoài quốc doanh hiện nay vừa phải đảm nhiệm chức năn tìm kiếm, thu hút khách hàng vay, vừa là người hướng dẫn khách hàng xây dựng hồ sơ vay vốn, chịu trách nhiệm thẩm định phương án sử dụng vốn vay, đồng thời theo rõi tình hình sử dụng vốn của khách hàng sau khi vay. Mặc dù với những dự án lớn, phòng tín dụng cũng thành lập một hội đồng thẩm định, nhưng số lượng những dựa án như thế trong cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh là không nhiều. Trong khi đó, các cán bộ tín dụng một mạt phải hoàn thành tất cả các giai đoạn của một món vay, mặt khác không ngừng mở rộng phạm vi hoạt động của mình. Do vậy, việc thành lập một bộ phận thẩm định độc lập sẽ giảm bớt công việc mà một cán bộ tín dụng phải thực hiện. Hơn nữa, các nhân viên trong bộ phận thẩm định được đào tạo chuyên môn sẽ góp phần nâng cao chất lượng dự án. Thành lập một tổ có nhiệm vụ nghiên cứu về thi trường bất động sản: Tổ này có nhiệm vụ phân tích, đánh giá “cầu” của thị trường bất động; thực hiện thống kê và thành lập ra một bảng biểu về giá của các loại tài sản. Từ đây tạo cơ sở cho việc lựa chọn những tài sản đảm bảo diễn ra nhanh chóng vừa đảm bảo lợi ích cho Ngân hàng vừa đảm bảo quyền lợi cho khách hàng. Thực hiện tốt công tác định giá tài sản bảo đảm: Định giá tài sản bảo đảm là một khâu rát quan trọng, là một trong những điều kiện để khách hàng có thể được vay vốn và mức vay mà khách hàng có thể được vay. Khi xác định mức vốn vay, nếu cán bộ tín dụng xác định giá trị tài sản bảo đảm thấp hơn giá trị thực tế của tài sản trên thị trường, do đó mức vốn mà doanh nghiệp có thể được vay thấp hơn nhu cầu vốn. điều đó dẫn đến các trường hợp sau: Khách hàng vì không đủ vốn thực hiện theo phương án kinh doanh ban đầu nên đã sử dụng tiền vay vào mục đích khác. Đây là một nguy cơ gây nỗi lo rất lớn cho Ngân hàng. Khách hàng sẽ tìm cách vay thêm vốn từ bên ngoài Ngân hàng với lãi suất cao để tiếp tục thực hiện phương án kinh doanh ban đầu. Như vậy, khách hàng sẽ phải bỏ ra một khoản chi phí cao hơn nhiều so với vay ở Ngân hàng. Lúc đó khoản vay này và khoản vay tại Ngân hàng sẽ là gánh nặng cho khách hàng mà có khi không đem lại lưọi nhuận từ dự ans. Do đó, Ngân hàng cũng gánh chịu rủi ro dù chỉ cho vay một phần vốn của dự án. Khách hàng vẫn vay vốn Ngân hàng nhưng sẽ điều chỉnh qui mô của dự án để phù hợp với số tiền có được. Điều này cũng dẫn đến kết quả kinh doanh thay đổi , và rủi ro mát vốn tại Ngân hàng là điều có thể xảy ra. Đa dạng hoá và danh mục tài sản bảo đảm: Các quy chế hiện nay cho phép các Ngân hàng có một danh mục tài sản bảo đảm tương đối đa dạng. Tuy nhiên trên thực tế tại Chi nhánh Ngân hàng công thương Ba Đình các tài sản bảo đảm để vay vốn Ngân hàng còn rất ít, những tài sản nay đa phần là những tài sản thông dụng và có độ an toàn cao như: nhà ở, đất đai, ô tô, xe máy, sổ tiết kiệm, trái phiếu kho bạcđiều này đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến việc mở rộng hoạt động tín dụng của Chi nhánh đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và cũng làm ảnh hưởng đến việc thu hút khách hàng của Chi nhánh. Vì vậy, trong thời gian tới Chi nhánh có thể mở rộng danh mục tài sản bảo đảm của mình. Đối với tài sản thế chấp là bất động sản (nhà ở, công xưởng) có chứng từ sở hữu gốc đầy đủ nằm ngoài địa giới hành chính của Ngân hàng thì Ngân hàng cũng nên taọ điều kiện cho doanh nghiệp được vay vốn. Đối với những trường hợp phục vụ nhu cầu tiêu dùng như xây dựng nhà ở, mua sắm thiết bị thông dụng thì Ngân hàng có thể xem xét cho vay theo hình thức thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay. Hay Ngân hàng có thể cho phép khách hàng sử dụng hợp đồng bán hàng như một tài sản bảo đảm. Các doanh nghiệp bán hàng nhưng chưa thu được tiền do khách hàng mua chịu làm cho các doanh nghiệp này bị thiếu vốn lưu động. Ngân hàng có thể giúp cho các doanh nghiệp vay một khoản tín dụng ngắn hạn dựa theo phần trăm so với các khoản thu và sử dụng hợp đồng bán hàng như một tài sản bảo đảm. Những hợp đồng này có thể là những hợp đồng bán cho những người mua có độ tin cậy cao, tình hình tài chính ổn định , sản phẩm của các doanh nghiệp đó được chấp nhận rộng rãi trên thị trường. Hoặc cho phép cầm cố chứng khoán, đây là một vấn đề hoàn toàn mới đối với Chi nhánh. Để thực hiện được điều này đòi cán bộ có trình độ nghiệp vụ và hiểu rõ thị trường chứng khoán. Mặc dù thị trường chứng khoán Việt Nam chưa phát triển và sôi động nhưng với xu hướng tiến tới việc cổ phần hoá thì lúc đó chứng khoán sẽ được sử dụng như một công cụ thông thạo trên thi trường.Chi nhánh cũng nên áp dụng hình thức cầm cố hàng hoá luân chuyển trong khả năng có thể quản lý. Trong trường hợp này, Chi nhánh cần có sự giúp đỡ của cơ quan quản lý chất lượng hàng hoá qua đó bảo đảm an toàn cho Chi nhánh. Thành lập tổ bảo hiểm tài sản bảo đảm Hiện nay tại một số Ngân hàng đã thành lập tổ bảo hiểm tài sản bảo đảm. Khi nhận tài sản bảo đảm của khách hàng vay, cán bộ tín dụng sẽ chuyển qua tổ bảo hiểm này. Tổ bảo hiểm sẽ tiến hành tái bảo hiểm tài sản bảo đảm đó tại một công ty bảo hiểm khác. Như vậy, tài sản bảo đảm đã được thẩm định hai lần ( lần thứ nhất là do cán bộ của Ngân hàng thẩm đinh, và lần thứ hai là do công ty bảo hiểm thảm định) điều này làm tăng độ tin cậy của tài sản bảo đảm . Một số kiến nghị: Kiến nghị với Chính phủ 1.1. Kiến nghị với chính phủ để hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay tại các NHTM Cơ chế bảo đảm tiền vay tho Nghị định số 178 của Chính phủ đi vào hoạt động từ tháng 1/2000 đến nay đã gặp một số khó khăn vướng mắc chưa phù hợp với điều kiện thực tế nên không thực sự đạt được mục tiêu mở rộng tín dụng và phòng ngừa rủi ro tín dụng. Cần có một cơ chế đảm bảo tiền vay theo hướng không qui định thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh là điều kiện vay vốn mà khách hàng vay bắt buộc phải thực hiện hoặc được “ưu đãi” miễn thực hiện, mà chỉ nên qui định có tính khuôn khổ pháp luật tách bạch rõ ràng tín dụng theo hướng thương mại và theo chính sách. Đối với tín dụng thương mại thì đưa ra nhiều biện pháp đảm bảo tiền vay một cách phong phú, đa dạng, trên cơ sở đó các tổ chức tín dụng lựa chọn khách hàng, lựa chọn các dự án để tự quyết định cho vay cần có đảm bảo hoặc không cần có đảm bảo bằng tài sản. Việc thực hiện được tiến hành đối với khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế , không phân biệt đối xử. Đối với tín dụng theo chính sách tức tín dụng ưu đãi của Nhà nước đối với một số đối tượng khách hàng và dự án cần thiết thì do Chính phủ chỉ định cho vay và không cần biện pháp đảm bảo bằng tài sản, khi bị tổn thất do các nguyên nhân khách quan về các khoản vay thì được Chính phủ xử lý. Cơ chế đảm bảo tiền vay như vậy sẽ khắc phục được một số vướng mắc: - Nâng cao quyền tự quyết, tự chịu trách nhiệm của Ngân hàng và khách hàng trong việc quyết định cho vay và nghĩa vụ trả nợ; Nhà nước không can thiệp quá sâu vào quá trình quyết định cho vay và đi vay của Ngân hàng và khách hàng. -Ngân hàng sẽ lựa chọn khách hàng có uy tín, hiệu quả, có khả năng trả nợ để cho vay, lựa chọn biện pháp đảm bảo tiền vay phù hợp cho cả hai bên, như vậy sẽ giảm bớt việc cho vay bị động phụ thuộc vào Ngân hàng, giảm bớt việc nhận bất cứ tài sản thế chấp, cầm cố để cho vay nên sẽ bớt tồn động nhiều tài sản cần xử lý. Do vậy , cần phải có những chỉnh sửa, bổ xung đồng bộ, phù hợp giữa qui định của pháp luật với thực tế, cụ thể: Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật về bảo đảm tiền vay Trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng, các chế định giao dịch bảo đảm được cụ thể hoá bằng các chế định bảo đảm tiền vay. Do đó nếu chế định bảo đảm tiền vay được quy định trong các văn bản pháp luật liên quan thống nhât vơí nhau và phù hợp với tực tế thì nó tạo cơ sở pháp lý thuận tiện cho Ngân hàng hoạt động tín dụng và bảo toàn được nguồn vốn cho vay, qua đó góp phần thúc đẩy nền kinh tế ngoài quốc doanh phát triển. Chính vì vậy việc bảo đảm tính nhất quán và sự phù hợp với thực tiễn của những qui định về giao dịch bảo đảm trong hệ thông pháp luật hiện nay là rất cần thiết . Thứ nhất, là về một tài sản được sử dụng để thực hiện nhiều nghĩa vụ tại các Ngân hàng khác nhau. Theo quy định tại khoản 2-điều 329 và khoản 3-điều 346 Bộ luật Dân sự, thì một tài sản có quyền đăng ký sở hữu theo quy định của pháp luật , có thể được cầm cố, thế chấp để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ được bảo đảm trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy đinh khác. Điều 6 của Nghị đính số 165/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ cũng quy định một tài sản được dùng để đảm bảo cho một nghĩa vụ trong trường hợp tài sản đã được đăng ký quyền sở hữu. Cả Bộ luật dân sự và Nghị định số 165 đều quy định giá trị của tài sản bảo đảm phải lón hơn tổng giá trị của các tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, theo điều 11 của Nghị định số 178/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ quy định một tài sản chỉ được dùng để bảo đảm cho một nghĩa vụ trả nợ tại một tổ chức tín dụng; trường hợp tài sản có đăng ký quyền sở hữu theo quy định của pháp luật thì một tài sản có thể thực hiện nhiều nghĩa vụ trả nợ tại một TCTD với điều kiện giá trị của tài sản bảo đảm phải lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm. Trên thực tế, một tài sản có giá trị lớn thì pháp luật không nên qui định khách hàng chỉ được dùng tài sản đó để bảo đảm cho một khoản vay có giá trị nhỏ (chẳng hạn chỉ bằng 1/10 giá trị của tài sản bảo đảm) trong khi khách hàng đang có nhu cầu vau vốn để phát triển sản xuất kinh doanh và Ngân hàng đã nhận tài sản bảo đảm không còn đủ khả năng cấp thêm vốn tín dụng cho khách hàng đó nữa. Hiện nay các Ngân hàng trong nước chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý vốn cho vay khi cùng nhận một tài sản để bảo đảm cho nhiều khoản vay. Do đó, nếu cùng nhận một tài sản bảo đảm cho nhiều khoản vay khác nhau thì các Ngân hàng khó mà kiểm tra, giám sát được quá trình của bên bảo đảm quản lý, khai thác tài sản. Chính vì vậy khi vận dụng các văn bản pháp luật vào giao dich bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ , các Ngân hàng đã lựa chọn áp dụng văn bản chuyên nghành (Nghị định số 178) để tiến hành các thủ tục nhận tài sản bảo đảm chứ không vào Bộ luật Dân và Nghị định số 165. Điều đó có nghĩa là Ngân hàng chỉ nhận một tài sản cho một khoản vay tại một Ngân hàng. Chính vì vậy, Bộ luật Dân sự cần quy định cụ thể hơn nữa hoặc ban hành kịp, đồng bộ, nhất quán các văn bản hướng dẫn để tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia giao dịch bảo đảm phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế và cơ chế mới. Thứ hai, bên bảo đảm định đoạt tài sản được sử dụng dể bảo đảm tiền vay Theo khoản 2- Điều 332 và điểm 2- khoản 4- Điều 351 của Bộ luật Dân sự thì bên thế chấp, cầm cố tài sản không được bán, trao đổi, tặng cho, cho thuê, cho mượn tài sản đã được dùng để bảo đảm thực hiện nghiã vụ dân sự. Nhưng điểm d-khoản 2-điều 17 của Nghị định số 178 lại quy định khách hàng vay vốn (hoặc bên bảo lãnh) không được bán, chuyển nhượng, tặng cho, góp vốn liên doanh hoặc dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác khi chưa trả hết nợ cho tổ chức tín dụng , trừ trường hợp tổ chức tín dụng đồng ý cho bán để trả nợ cho chính khoản vay được bảo đảm. Như vậy có thể thấy Nghị định 178 linh hoạt hơn và phù hợp với thực tế hơn quy định của Bộ luật Dân sự. Thực tế cho thấy nhiều khách hàng chỉ có khả năng dùng tài sản bảo đảm chủ yếu là sản phẩm, hàng hoá cuả mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Do đó, nếu Ngân hàng đồng ý nhận tài sản bảo đảm là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh để bảo đảm tiền vay thì giá trị tài sản bảo đảm của khách hàng mới đủ bảo đảm cho số tiền định vay Ngân hàng. Vì vậy, bộ luật Dân sự cần được sửa đổi bổ sung theo hướng quy định của Nghị định 178 nhằm tạo diều kiện thuận lợi hơn cho cả Ngân hàng và khách hàng vay vốn. Thứ ba, tài sản hình thành từ vốn vay Theo Điều 2 của Nghị định số 165, thì tài sản hình thành trong tương lai là động sản, bất động sản hình thành sau thưòi điểm ký kết giao dịch bảo đảm và sẽ thuộc quyền của bên sở hữu của bên bảo đảm như hoa lợi, lợi tức, tài sản hình thành từ vốn vay, công trình đang xây dựng, các tài sản bảo đảm khác mà bên bảo đảm có quyền nhận. Đièu 2 của Nghị định 178 cũng quy định tài sản hình thành từ vốn vay là tài sản của khách hàng vay mà giá trị của tài sản được tạo nên bởi một phần hoặc toàn bộ khoản vay của tổ chức tín dụng. Song cả Nghị định số 165 vầ Nghị đinh số 178 đều chưa quy định phạm vi bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hình thành trong tương lai. Trên thực tế, nhiều chủ đầu tư muốn dùng bất động sản hình thành từ vốn vay để đảm bảo thực hiện nghĩa vị trả nợ cho chính khoản vay được đầu tư vào tài sản đó. Do vậy Ngân hàng rất khó định giá tài sản hình thành từ vốn vay để xác định số tiền vay cho phù hợp vói quy định số tiền vay phải nhỏ hơn tài sản bảo đảm. nguyên nhân là do tài sản chưa được hình thành tại thời điểm cho vay nên Ngân hàng chỉ có thể đưa ra mức cho vay căn cứ trên hồ sơ và các giấy tờ do bên vay cung cấp. Đến khi tài sản được hình thành và đưa vào sử dụng, theo Nghị định 178 thì bên nhận tài sản phải xác định rõ giá trị của tài sản bảo đảm. Lúc đó, giá trị của tài sản bảo đảm có thể cao hơn hoặc thấp hơn số tiền đã cho vay. Mặt khác những thủ tục như công chứng, chứng thực hợp đồng vẫn chưa được pháp luật cụ thể. Do đó khi nhận tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ Ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc về cơ sở pháp lý. Vì vậy, Bộ luật Dân sự cần bổ sung một chương quy định về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bằng tài sản hình thành từ vốn vay để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành hướng dẫn các Ngân hàng thủ tục, trình tự nhận tài sản hình thành từ vốn vay. Theo nghị định 178, có quy định điều kiện khách hàng vay phải có tín nhiệm đối với Ngân hàng là không cần thiết vì điều này có nghĩa là Ngân hàng và khách hàng đã có quan hệ tín dụng, như thế sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận khách hàng mới của Ngân hàng. Hơn nữa, quy định khách hàng phải có vốn tự có tham gia vào dự án hoặc phải có tài sản cầm cố, thế chấp tối thiểu bằng 50% giá trị khoản vay. Quy định này tỷ lệ tối thiểu là hợp lý nhưng đê tỷ lệ như vậy là quá cao, thực tế rất khó thực hiện đặc biệt là đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vì vốn tự có của khu vực này rất thấp. Thứ tư, việc giữ tài sản cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ Theo điều 329 của Bộ luật Dân sự và theo điều 12-Nghị định 178/1999/NĐ-CP thì khi cầm cố tài sản nếu tài sản cầm cố có đăng ký quyền sở hữu thì các bên có thể thoả thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản cầm cố hoặc giao cho người thứ ba giữ. Trong khi đó, tại điều 15, Nghị định số 165/1999/NĐ-CP lại cho phép bên cầm cố có thể được giữ tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu (nhưng phải được đăng ký tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm). Tuy nhiên, trên thự tế nhiều doanh nghiệp chỉ có thể dùng động sản không phải đăng ký quyền sở hữu như: máy móc, thiết bị, dây truyềnđể thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với Ngân hàng. Trong trường hợp đó nếu doanh nghiệp phải giao lại tài sản bảo đảm cho Ngân hàng giữ theo quy định của Bộ luật Dân sự thì doanh nghiệp không những không sử dụng được vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả mà còn không thể tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh được nữa. Qua đó đòi hỏi các nhà làm luật cần nhận thức rõ những nhân tố mới, những điều kiện mới đang phát triển để sửa đổi điều 329 của Bộ luật Dân sự hiện hành cho phù hợp với thực tế và tránh sự chông chéo, mâu thuẫn giữa các quy định. Thứ năm, vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự Theo điều 327 của Bộ luật Dân sự thì tuền VNĐ, trái phiếu,cổ phiếu, kỳ phiếu và các giấy tờ có giá khác trị giá được bằng tiền được phép giao dịch và được dùng như một tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Nghị định 178 và Nghị định 165 đã cụ thể hoá điều 327 của Bộ luật dân sự theo hướng mở rộng các loaị hình cầm cố. Thực tế gần đây cho thấy một số tài sản mưói được hình thành nhưng Bộ luật Dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn chưa được cập nhật để quy định chi tiết hoặc bổ xung. Do đó dẫn đến tình trạng cùng một lọai tài sản Ngân hàng này nhận nó làm tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vủ trả nợ nhưng Ngân hàng khác lại không chấp nhận loại giấy tờ đó làm bảo đảm vì họ cho rằng đó không phải là giấy tờ có giá. Chính vì thiếu quy định chi tiết của pháp luật về loại giấy tờ có giá mà trong những trường hợp cụ thể, các Ngân hàng đã vận dụng và áp dụng các quy định khác nhau để chấp nhận hay từ chối cùng một loại giấy tờ. Do đó, Bộ luật Dân sự cần bổ xung các loại giấy tờ có giá mới phát sinh để là cơ sở pháp lý cho các tổ chức, cá nhân thực hiện thống nhất trong phạm vi cả nước, góp phần làm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy Nghị định số 178/1999/NĐ-CP không ghi căn cứ ban hành Bộ luật dân sự, nhưng Chính phủ cần hoàn thiện hơn nữa hệ thống văn bản pháp luật để Ngân hàng có cơ sở vững chắc cho hoạt động của mình. Quy định rõ hơn về việc công chứng các giao dịch bảo đảm: Theo quy định của Nghị định 165/1999/ NĐ-CP phải đăng ký giao dịch bảo đảm đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu và những tài sản không đăng ký quyền sở hữu trong trường hợp dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ trả nợ. Nhưng hiện nay chưa có một cơ quan nào đăng lý giao dịch bảo đảm đối với những tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu. Chỉ có cơ quan đăng ký việc cầm cố, thế chấp về tàu bay, tàu biển, quyền sử dụng đất. Còn nhiều loại tài sản khác mà pháp luật từ lâu thuộc loại phải đăng ký giao dịch bảo đảm. nhưng trên thực tế không biết đăng ký ở đâu, ví dụ như: nhà ở, một số phương tiện vận tải. Từ thực tế trên, Chính phủ cần sớm thành lập cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm nhằm giải quyết những bức xúc trên. Việc đăng ký giao dịc bảo đảm là điều bắt buộc theo quy định tại điều 2- nghị định 08/2000/NĐ-CP. Trong khi đó một số quy dịnh trong Nghị định 165/1999/NĐ-CP lại yêu cầu phải công chứng giao dich bảo đảm. Việc thực hiện cả hai công việc công chứng và đăng ký giao dich bảo đảm là không cần thiết. Thực chất việc đăng ký cầm cố, thế chấp và bảo lãnh cũng có nghĩa như một chứng thực, một sự công thức về mặt pháp lý. Hơn nữa việc thực hiện cả hai việc công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm thì khách hàng phải chịu cả hai loại lệ phí. Hai loại lệ phí này hiện nay là khá cao. Do đó, việc quy định cụ thể công chứng và đăng ký giao dịch cho từng loại tài sản là việc cần làm ngay. Cần quy định rõ ràng hơn về điều kiện tài sản bảo đảm: Theo quy định tài sản thế chấp phải có chứng từ sở hữu gốc để giao nộp cho Ngân hàng nhưng trên thực tế hơn 80% tài sản của các pháp nhân khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và 100% kinh tế quốc doanh không có giấy chứng nhận sở hữu Điều kiện về tài sản thế chấp đặc biệt phức tạp với thế chấp băng quyền sử dụng đất. Luật Đất đai hiện nay không công nhận quyền sở hữu đất của các cá nhân, hộ gia đình và các tổ chức kinh tế nhưng nhà nước bảo hộ quyền hợp pháp của người sử dụng đất, các cá nhân, tổ chức kinh tế được nhà nước giao đất có quyền chuyển nhượng, thế chấp quyền sử dụng. Các Ngân hàng luôn đòi hỏi các chứng thư xác nhận quyền sử dụng đất nhưng khách hàng khó đáp ứng. Nguyên nhân là do hệ thống pháp luật, sự quản lý đất dai còn lỏng lẻo. Thể hiện: Giấy tờ và hồ sơ nhà đất hiện nay có rất nhiều loại. Có mhiều trường hợp có đủ quyền hợp pháp nhưng không có đủ iáy tờ hợp lệ, không xác định được giấy tờ có hợp lệ hay không. Vì vậy Nhà nước cần thông nhất hoá giấy tờ này. Với loại tài sản do nhà nước quản lý, giao quyền sử dụng cho doanh nghiệp và hộ tư nhân thì Nhà nước có thể hoá giá chuyển từ sử dụng sang sở hữu hoàn thiện về mặt giấy tờ, giúp các thành phần kinh tế đảm bảo thủ tục vay vốn. Đơn giản hoá thủ tục đăng ký sở hữu tài sản thế chấp: Đối với tài sản đăng ký sở hữu thì phải thực hiện tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ( theo quy định của luật Dân sự) nhưng thực tế chưa có một văn bản nào nói rõ cơ quan nào và thủ tục ra sao. Trong khi giao kết hợp đồng tài sản thế chấp, các Ngân hàng gửi thông báo đến cơ quan hành chính và cơ quan này tiếp nhận có tính chất cập nhập và lưu giữ. Vì vậy biện pháp này thiếu cơ sở pháp ý để truy cứu trách nhiệm nếu phát sinh tranh chấp gây thiệt hại. Với tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước so Tổng cục quản lý vốn, thế chấp cần có sự đồng ý của cơ quan này. Đây là thủ tục rườm rà và khó thực hiện được vì doanh nghiệp vay trong khi Ngân hàng có thể kiểm tra những thông tin này trong sổ sách hoặ chính tài sản đó. Thêm vào đó tổng cục quản lý vốn khó đưa ra về nguồn gốc và giá trị tài sản. Nếu tài sản thuộc đồng sở hữu, thì Ngân hàng đòi hỏi phải có mặt tất cả những chủ sở hữu để đăng lý hợp đồng thế chấp. Điều này cũng gây khó khăn cho Ngân hàng và khách hàng. Nên để cán bộ tín dụng chịu trách nhiệm về sự trung thực của chữ ký. Đưa ra các giải pháp về định giá tài sản bảo đảm sao cho hợp lý cho cả Ngân hàng và người vay vốn Thực tế cho thấy, sau khi phân loại tài sản. nếu Ngân hàng dựa vào khung giá của Chính phủ thì giá trị của tài sản sẽ bị đánh giá thấp hơn so với giá thị trường. Chính phủ nên đưa ra một khung giá “mỡ”, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng linh hoạt hơn trong việc định giá tài sản không đi quá xa so với giá qui định của Nhà nước, nhưng cũng không bị cố định vào khung giá đó, tránh được tình trạng giá theo khung giá của Nhà nước thấp hơn rất nhiều so với giá thị trường, đặc biệt là đối với thị trường bất động sản. Việc định giá tài sản theo sổ sách là công việc mạo hiểm vì con số thường khác xa so với thực tế. Vì vậy Nhà nước cần qui định chặt chẽ công tác hạch toán của doanh nghiệp để tránh cho việc đánh giá tài sản theo sổ sách kế toán không đúng, các con số thường khác xa so với thực tế. Hiện tượng cùng một loại tài sản được đánh giá khác nhau ở các Ngân hàng thường xuyên diễn ra vì không có một chuẩn mực giá trị tài sản nào. Giá trị thực của tài sản phụ thuộc vào thoả thuận của Ngân hàng và khách hàng. Nhà nước cần đưa ra những chỉ tiêu chung đồng thơi thông báo rộng rãi trên phương tiên thông tin đaị chúng. Từng bước để thành lập một tổ chức chuyên môn về định giá tài sản thế chấp, cầm cố. Kiến nghị với Chính phủ các giải pháp về tài chính tiền tệ để thúc đẩyphát triển kinh tế ngoài quốc doanh Luật doanh nghiệp đã có hiệu lực thihành từngày 1/1/2000,vì vậy Chính phủ cần khẩn trương yêu cầu các Bộ, nghành có liên quan xây dựng các dự thảo Nghị dịnh triển khai Luật này, tạo điều kiện cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển đúng pháp luật, ổn định, vững chăc. Đặc biệt là cần cải cách hành chính, bãi bỏ các quy định cấp phép rường rà, trái pháp luật. Các cơ quan Nhà nước cần tăng cường kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đảm bảo các doanh nghiệp này hoạt động dúng pháp luật. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường chống tham nhũng trong bộ máy Nhà nước, không gây khó khăn cho sự phát triển ngoài quốc doanh. Không hình sự hoá các quan hệ kinh tế – dân sự trong quan hệ vay vốn giữa các Ngân hàng với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khi xảy ra tranh chấp trong những trường hợp doanh nghiệp không trả được nợ cho ngân hàng. Điều này sẽ tạo ra một tâm lý thoải mái cho cán bộ tín dụng của Ngân hàng khi thẩm định cũng như khi đưa ra quyết định cho vay. Chính phủ cho phép các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động có hiệu quả, vay vốn Ngân hàng đến mức 100 triệu hoặc 200 triệu đồng mà không phải thế chấp tài sản miễn là đảm bảo ba điều kiện: dự án có hiệu quả, doanh nghiệp hoạt động 3 năm liền có lãi, tình hình tài chính lành mạnh và có uy tín trong quan hệ vay vốn với Ngân hàng Nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tính dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước: Thu thập và sắp xếp lại những văn bản liên quan đến bảo đảm tiền vay Hiện nay có khoảng 61 văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bảo đảm tiền vay. Số lượng các văn bản khá nhiều nhưng thiếu tính thông nhất trong nội bộ hệ thống. Một văn bản Chính phủ ban hành thường đi kèm với số lượng lớn các văn bản hướng dẫn của các cơ quan hữu quan khác nhau, nên không tránh được những quy định chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn nhau. Hơn nữa, các Nghị định của Chính phủ thường đi kèm theo “trừ trường hợp pháp luật có quyđịnh khác”. chính điều này gây khó khăn cho cán bộ tín dụng khi áp dụng các quy định này trong thực tế, đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước nên có một bộ phận chuyên thu thập các văn bản có liên quan để hỗ trợ cho các NHTM khi cần thiết. Nâng cao hiệu quả hoạt động cung cấp thông tin tín dụng Thông tin phải được cập nhập kịp thời và chính xác. Trung tâm này phải trở thành chỗ dựa vững chắc cho các NHTM. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của trung tâm này, đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước phải: Từng bước hoàn thiện mô hình hoạt động cuả trung tâm tín dụng, có quy chế hoạt động phù hợp. Thống nhất, đảm bảo thực hiện hiệu quả vai trò, chức năng của trung tâm. Cho phép mở rộng thành viên của Trung tâm, bao gồm các doanh nghiệp, các tập đoàn kế toán từ đó có thể đa dạng hoá các thông tin trên các kĩnh vực của nền kinh tế. Tăng cường sử dụng đòn bẩy kinh tế trong việc trao đổi thông tin, đánh giá đúng mức vai trò của thông tin trong thời đại hiện nay. Xây dựng một công ty định giá tài sản Việc thành lập một Chi nhánh bộ phận định giá tài sản sẽ giúp cán bộ tín dụng giảm bớt được gánh nặng, đồng thời nâng cao độ tịn cậy và tính chính xác của tài sản bảo đảm. Tuy nhiên số lượng của các khoản vay lớn nhưng giá trị của các khoản vay lại nhỏ ( đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ) điều này đòi hỏi Chi nhánh phải đầu tư một số vốn lớn. Đây là điều mà Ngân hàng Nhà nứơc có thể làm được. Yêu cầu định giá tài sản bảo đảm đòi hỏi các nhân viên có trình độ chuyên môn trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy Ngân hàng Nhà nước thiết lập một bộ phận đảm nhiệm chức năng này, thông qua đó NHNN có thể quản lý sát sao hơn các khoản vay về mật chất lượng, do vạy ngay từ đầu các khoản vay đã được đánh giá độ an toàn. Đưa ra một mẫu hợp đồng tài sản thế chấp chung cho tất cả các tài chính tín dụng để tránh tình trạng không đồng nhất giữa các tổ chức và sự không công nhận của công chứng Nhà nước Kiến nghị đối với các bộ nghành liên quan Hoạt động của Ngân hàng trong cơ chế thị trường liên quan đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, rất cần thiết phải có sự hỗ trợ của các cấp, các ngành hữu quan, đặc biệt là các cơ quan hành pháp. Với Tổng cục địa chính Trong định giá tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất hoặc nhà ở hiện nay, Chi nhánh đang sử dụng khung giá nhà đất của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội, nhưng khung giá này đã được xây dựng từ khá lâu không còn phù hợp với tình hình biến động lớn của giá nhà đất hiện nay, nên dẫn đến tình trạng tài sản bảo đảm bị đánh giá thấp hơn so với giá trị thực tế. Việc thu thập thông tin liên quan đến giá cả thị trường thường mất rất nhiều thời gian và công sức, cho nên dù cán bộ tín dụng rất linh hoạt trong việc kết hợp giữa giá được quy đinh, giá thị trường và biên độ giao động cũng không thể đánh giá đúng được giá trị của tài sản. Vì vậy, nên chăng Tổng cục địa chính và Ban vật giá chính phủ phối hợp đưa ra một khung giá nhà đất thị trường trên từng vùng để việc cho vay có căn cứ phù hợp với cơ chế thị trường, qua đó Ngân hàng có thể đưa ra một mức giá vừa đảm bảo an toàn cho Ngân hàng, vừa thoả mãn được nhu cầu vay của khách hàng. Khi cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh bằng tài sản để vay vốn tại Ngân hàng, Ngân hàng yêu cầu khách hàng phải chứng minh được quyền sở hữu của mình đối với tài sản bảo đảm đó. Tuy nhiên, trong thời gian qua tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Sở địa chính và Uỷ ban nhân dân các cấp có thẩm quyền rất chậm, thậm chí còn gây khó khăn, điều này đã gây ảnh hưởng và làm hạn chế đến khả năng cung ứng vốn của Ngân hàng. Vì vậy, Tổng cục địa chính nên sớm có các biện pháp thúc đẩy tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở những khu đất đủ tiêu chuẩn.S Với Bộ tư pháp Cho đến hiện nay, trình tự, thủ tục về đăng ký giao dịch bảo đảm đối với các tài sản là bất động sản, động sản vẫn chưa được hướng dẫn thống nhất vì vậy việc cầm cố, thế chấp vay vốn tại các Ngân hàng của khách hàng vẫn chưa thực hiện được. Để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng vay cũng như duy trì độ an toàn cho các khoản vay của Ngân hàng, Bộ Tư pháp nên nhanh chónh ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể những vấn đề liên quan đến giao dịch bảo đảm. Việc thành lập Cục quốc gia về giao dịch bảo đảm (ra đời theo quyết định số 104/2001/QĐ-TTg0 là nguồn thông tin chính xác về tài sản cầm cố, thế chấp đã được dùng để bảo đảm cho các nghĩa vụ nào hay chưa, cơ sở cho việc hạn chế, ngăn ngừa rủi ro khi nhân bảo đảm tiền vay băng các tài sản này. Mục lục Chương II: Thực trạng về thực hiện công tác bảo đảm tiền vay bằng tài sản đối với tín dụng ngoài quốc doanh tại Chi nhánh NHCT Ba Đình I. Thực trạng bảo đảm tiền vay tại Việt Nam 38 II. Thực trạng về vốn hiện nay của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay ở Việt Nam 40 III. Khái quát chung về tình hình hoạt động kinh doanh của NHCT Ba Đình 43 1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng 43 2. Cơ cấu tổ chức của ngân hàng 45 3. Những hoạt động chủ yếu của ngân hàng 45 4. Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng 47 IV. Thực trạng hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại CN NHCT Ba Đình 55 1. Kết quả hoạt động cho vay ngoài quốc doanh tại chi nhánh 55 1.1. Cho vay ngắn hạn 55 1.2. Cho vay trung, dài hạn 57 2. Thực trạng bảo đảm tiền vay đối với tín dụng ngoài quốc doanh 58 2.1. Các hình thức bảo đảm tiền vay bằng tài sản được áp dụng tại chi nhánh 58 2.2. Hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp của khách hàng 60 2.3. Hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản cầm cố của khách hàng 63 2.4. Hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba 66 2.5. Hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay 67 3. Những kết quả mà chi nhánh đạt được trong việc thực hiện bảo đảm tiền vay đối với khu vực KT NQD 68 V. Những hạn chế và vướng mắc phát sinh trong quá trình bảo đảm tiền vay tại chi nhánh 70 VI. Nguyên nhân 74 Chương III: Một số giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay bằng tài sản đối với tín dụng KTNQD tại Chi nhánh NHCT Ba Đình 77 I. Định hướng phát triển trong thời gian tới của Chi nhánh 77 II. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay tại chi nhánh 78 III. Một số kiến nghị 84 1. Kiến nghị với Chính phủ 84 2. Kiến nghị với NHNN 94 3. Kiến nghị với các bộ ngành liên quan 95

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNH358.doc
Tài liệu liên quan