Luận văn Hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính với việc phân tích tình hình tài chính tại công ty Thiết bị và chuyển giao công nghệ

BCTC là tài liệu rất hữu ích đối với việc quản trị doanh nghiệp, đồng thời cũng là nguồn thông tin tài chính chủ yếu đối với những người ngoài doanh nghiệp. BCTC không những cho biết tình hình tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo mà còn cho thấy những kết quả hoạt động mà doanh nghiệp đạt được. Phân tích tài chính doanh nghiệp thông qua hệ thống BCTC là cách sử dụng BCTC hiệu quả nhất, vì qua đó giúp cho người sử dụng đánh giá chính xác được sức mạnh tài chính, khả năng sinh lãi và triển vọng của doanh nghiệp. Qúa trình thực tập tại công ty CETT đã giúp em có một cái nhìn sâu sắc hơn về tầm quan trọng của hệ thống BCTC cũng như việc phân tích tài chính. Để có hệ thống BCTC hữu ích và trung thựcđòi hỏi cả bộ máy kế toán phải hoạt động hiệu quả, mặt khác phân tích BCTC cũng phụ thuộc và chất lượng của BCTC, bởi vì nếu việc phân tích dựa trên các thông tin sai lệch thì không có ý nghĩa và cũng không có tác dụng. Do hạn chế về nguồn thông tin nên em mới thực hiện phân tích tài chính của công ty mà chưa so sánh với số liệu của các doanh nghiệp cùng nghành. Thông qua phân tích BCTC em cũng đề xuất một số biện pháp hoàn thiện hệ thống báo cáo cũng như tình hình tài chính của công ty. Tuy nhiên, do thiếu kinh nghiệm thực tế và hạn chế về trình độ nên chắc chắn luận văn này sẽ không tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự góp ý và chỉ dẫn của thầy cô và các cán bộ công ty CETT. Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn TS. Trần Thị Nam Thanh đã nhiệt tình hướng dẫn, và các cán bộ phòng kế toán công ty CETT đã cung cấp số liệu, chỉ dẫn thực tế và tạo điều kiện thuận lợi cho em thực hiện luận văn này.

doc97 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1433 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính với việc phân tích tình hình tài chính tại công ty Thiết bị và chuyển giao công nghệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đầu ta thấy tình hình tài chính của công ty có cả điểm mạnh lẫn điểm yếu. Công ty tuy bảo đảm được tài sản cố định (điều này là bình thường đối với một công ty thương mại) nhưng khả năng tự chủ về tài chính lại thấp; khả năng sinh lời của 1đ vốn chủ sở hữu thấp, tuy nhiên khả năng thanh toán lại khả quan. Để hiểu rõ hơn, ta tiếp tục phân tích sâu hơn tình hình tài chính của công ty: 3.2. Phân tích cấu trúc tài chính 3.2.1. Phân tích cơ cấu và tình hình biến động của tài sản Việc phân tích cơ cấu tài sản được tiến hành bằng cách tính ra và so sánh tình hình biến động giữa kỳ phân tích với kỳ gốc về tỷ trọng của từng bộ phận tài sản chiếm trong tổng số tài sản theo công thức: = x 100 Dựa vào Bảng cân đối kế toán 2005, ta lập được bảng phân tích cơ cấu tài sản như sau: Bảng 13: Phân tích cơ cấu tài sản của công ty BANG NGANG 3 Qua bảng trên, ta thấy quy mô tổng tài sản của công ty tăng 5.75% (*100 = 5.75%) do ảnh hưởng của các nguyên nhân sau: - “Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn”: chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng số tài sản, thời điểm đầu năm chỉ tiêu này là 22.908.759.969 đồng (chiếm 97.64% tổng tài sản), thời điểm cuối năm chỉ tiêu này là 24.144.209.745 đồng (chiếm 97.31% tổng tài sản) tăng 5.75% nhưng tỷ trọng so với tổng tài sản lại giảm 0.33% do những nguyên nhân sau: + Chỉ tiêu “Tiền” bao gồm tiền mặt và tiền gửi ngân hàng tăng 5.568.582.105 đồng, tương ứng 95.84% chủ yếu do tiền gửi ngân hàng đã tăng một lượng lớn làm cho các hệ số thanh toán nhanh và tức thời của công ty đều tăng khiến khả năng thanh toán của công ty tốt hơn. Tỷ trọng của chỉ tiêu này so với tổng tài sản thời điểm đầu năm là 24.77%, cuối năm là 45.86% (tăng 21.09%). Sở dĩ lượng tiền của công ty (bao gồm tiền mặt và tiền gửi ngân hàng) tăng nhiều như vậy vì giá trị hợp đồng của công ty năm 2005 so với năm 2004 đã tăng đáng kể (tổng giá trị hợp đồng năm 2004 là 58.576.406.024 đồng, năm 2005 đã là 88.640.425.703 đồng, tăng 30.064.019.679 đồng tương ứng với 33.92%) do đó số tiền khách hàng ứng trước cũng tăng lên. + Chỉ tiêu “Các khoản phải thu” giảm 3.320.335.410 đồng tương ứng 26.09%, chỉ tiêu này giảm chủ yếu do “các khoản phải thu khác” giảm mạnh nguyên nhân là ở thời điểm này, hầu hết các hợp đồng trong năm đã hoàn thành đã được khách hàng thanh toán. Tỷ trọng các khoản phải thu đầu năm là 54.25%, cuối năm là 37.92% (giảm 16.33%) + Chỉ tiêu “Hàng tồn kho” cuối năm là 2.188.632.188 đồng giảm 959.517.779 đồng tương ứng 30.48%. Tỷ trọng hàng tồn kho trong tổng tài sản cũng không nhiều, thời điểm đầu năm là 13.42%, cuối năm là 8.82% (giảm 4.6%). Thường các công ty hoạt động trong lĩnh vực thương mại có tỷ lệ dự trữ hàng tồn kho khá cao vì mua hàng về dự trữ chờ bán ra, tuy nhiên công ty CETT lại có tỷ lệ hàng tồn kho thấp do đặc điểm công ty chuyên kinh doanh những mặt hàng công nghệ cao nên sau khi nhận được các dự án hàng đơn đặt hàng mới tiến hành mua hàng ở nước ngoài. Số hàng hóa cung cấp theo đơn đặt hàng chiếm đến hơn 90% tổng hàng hóa bán ra, chỉ có một số rất ít hàng hoá bán lẻ nên hàng hoá sau khi chuyển về kho thường xuất ngay theo đơn đặt hàng. Tỷ lệ hàng tồn kho do đặc điểm kinh doanh của công ty đã thấp, lại giảm so với đầu năm nên điều này rất có lợi đối với tình hình tài chính của công ty. + Chỉ tiêu “Tài sản lưu động khác” lấy số liệu từ tài khoản 141 – Tạm ứng. Chỉ tiêu này đầu năm là 867.413.247 đồng chiếm 2.36%, cuối năm là 1.168.038.107 đồng chiếm 4.71% tổng tài sản, so với đầu năm tài sản lưu động khác tăng300.624.860 đồng, tương ứng với 34.66%. Tuy tỷ lệ tài sản lưu động khác tăng nhanh nhưng vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng tài sản của công ty, việc tăng của chỉ tiêu này là hợp lý tương ứng với sự mở rộng quy mô của công ty. - “Tài sản cố định và đầu tư dài hạn” của công ty CETT chỉ gồm 2 chỉ tiêu là tài sản cố định và chi phí trả trước dài hạn. Số đầu năm là 552.679.797 đồng (chiếm 2.36% tổng tài sản), cuối năm là 607.050.056 đồng (chiếm 2.69% tổng tài sản). So với đầu năm “tài sản cố định và đầu tư dài hạn tăng 114.370.259 đồng tương ứng với 20.69% do những nguyên nhân sau. + Chỉ tiêu tài sản cố định đầu năm là 210.771.457 đồng (chiếm 0.9% tổng tài sản), cuối năm là 355.025.797 đồng (chiếm 1.43%). Đối với bất kỳ một công ty thương mại nào, tỷ lệ tài sản cố định thường chiếm tỷ trọng thấp vì không có khâu sản xuất sản phẩm, tài sản cố định của công ty CETT chỉ là xe ô tô phục vụ cho việc đi lại, triển khai các dự án nên chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. + Chỉ tiêu chi phí trả trước dài hạn ( TK 242) đầu năm là 341.908.340 đồng (chiếm 1.46% tổng tài sản), cuối năm là 312.024.259 đồng (chiếm 1.26% tổng tài sản). Thông qua việc phân tích cơ cấu tài sản, ta thấy công ty CETT có cơ cấu tài sản khá hợp lý. Chỉ tiêu “Tiền” chiếm tỷ trọng lớn bảo đảm tình hình thanh toán cho công ty, chỉ tiêu “Các khoản phải thu” có xu hướng giảm, chỉ tiêu “Hàng tồn kho” chiếm tỷ trọng không lớn, chỉ tiêu “Tài sản cố định” chiếm tỷ lệ nhỏ phù hợp với đặc điểm và hoạt động kinh doanh đặc thù của công ty. 3.2.2. Phân tích cơ cấu và tình hình biến động nguồn vốn Phân tích cấu trúc nguồn vốn cũng tiến hành tương tự như phân tích cấu trúc tài sản cố định, tính tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn chiếm trong tổng số nguồn vốn theo công thức: = x100 Ta lập bảng phân tích cơ cấu nguồn vốn như sau: Bảng 14: Phân tích cơ cấu nguồn vốn của công ty BANG NGANG 4 - “Nợ phải trả” của công ty chỉ bao gồm nợ ngắn hạn, không có nợ dài hạn. + “Nợ ngắn hạn” của công ty đầu năm là 19.341.439.766 đồng (chiếm 82.44% tổng nguồn vốn), cuối năm là 20.620.183.258 đồng (chiếm 83.11% tổng nguồn vốn). So với đầu năm “Nợ ngắn hạn” của công ty tăng 1.278.743.492 đồng, tương ứng với 6.61%. Sở dĩ số nợ ngắn hạn của công ty tăng là do các nguyên nhân chủ yếu sau: Chỉ tiêu “Vay ngắn hạn” đầu năm là 5.197.419.934 đồng (tương ứng 22.15% tổng nguồn vốn), cuối năm là 3.640.462.512 đồng (tương ứng 14.67% tổng nguồn vốn) giảm 1.556.957.422 đồng tương ứng với 29.96%. Chỉ tiêu “Phải trả người bán” đầu năm là 13.944.316.977 đồng (chiếm 59.44% tổng nguồn vốn), cuối năm là 17.121.959.121 đồng (chiếm 69.01% tổng nguồn vốn) tăng 3.177.642.144 đồng tương ứng 22.79%. Ta thấy “Phải trả người bán” chiếm tỷ lệ rất lớn trong tổng nguồn vốn, bước đầu cho thấy nguồn tài trợ của công ty chủ yếu là do chiếm hữu vốn của các doanh nghiệp cung cấp hàng hoá. - “Nguồn vốn chủ sở hữu” Nguồn vốn chủ sở hữu đầu năm chiếm 17.56% tổng nguồn vốn, cuối năm chỉ chiếm 16.89% tổng nguồn vốn. Nguồn vốn chủ sở hữu có tăng nhưng với tỷ lệ thấp (1.73%) và có xu hướng giảm tỷ trọng. Lợi nhuận chưa phân phối đầu năm là 120,000,000đ chiếm 0.51%, cuối năm là 191,076,543đ chiếm 0.77% tổng nguồn vốn. Tuy cuối năm so với đầu năm đã tăng đến 59.23% nhưng lợi nhuận chưa phân phối vẫn chiếm tỷ lệ rất nhỏ, chưa đến 1% tổng nguồn vốn. 3.2.3. Phân tích mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn Khi phân tích mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn ta tính và so sánh các chỉ tiêu sau: - Hệ số nợ so với tài sản: = Đầu năm: = = 0.824 Cuối năm: = = 0.831 Chỉ tiêu này phản ánh mức độ tài trợ tài sản của doanh nghiệp bằng các khoản nợ. Ta thấy chỉ tiêu này ở cả thời điểm đầu năm và cuối năm đều rất cao, hơn nữa lại có xu hướng tăng chứng tỏ mức độ phụ thuộc của doanh nghiệp vào chủ nợ cao, mức độ độc lập về tài chính thấp. Điều này cũng gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận với các khoản vay của ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. - Hệ số tài sản so với vốn chủ sở hữu: = Đầu năm: = = 5.695 Cuối năm: = = 5.920 Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đầu tư tài sản của doanh nghiệp bằng vốn chủ sở hữu. Trị số này càng lớn hơn 1, chứng tỏ mức độ độc lập về tài chính của doanh nghiệp càng thấp, trong khi đó trị số này của công ty CETT cả thời điểm đầu năm và cuối năm đều rất cao và có xu hướng tăng chứng tỏ tài sản của công ty chỉ được tài trợ một phần bằng vốn chủ sở hữu, còn lại là tài trợ từ nguồn vốn vay và chiếm dụng. 3.2.4. Phân tích tình hình bảo đảm nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của công ty. Để phân tích tình hình bảo đảm nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh, trước hết, ta xem xét sự cân bằng tài chính của công ty CETT qua đẳng thức: Tài sản ngắn hạn + Tài sản dài hạn = Nguồn tài trợ thường xuyên + Nguồn tài trợ tạm thời Hay: Tài sản ngắn hạn - Nguồn tài trợ tạm thời = Nguồn tài trợ thường xuyên - Tài sản dài hạn Vế trái là và “Vốn hoạt động thuần”, phản ánh số vốn mà doanh nghiệp dùng để duy trì những hoạt động bình thường, thường xuyên của doanh nghiệp. Bảng 15: Phân tích vốn hoạt động thuần Chỉ tiêu Đầu năm Cuối năm A. Nguồn tài trợ thường xuyên 4,120,000,000 4,191,076,543 B. Tài sản dài hạn 552,679,797 667,050,056 C. Vốn hoạt động thuần 3,567,320,203 3,524,026,487 Ta thấy Vốn hoạt động thuần > 0, tức là nguồn tài trợ thường xuyên của Công ty không những được sử dụng để tài trợ cho tài sản dài hạn mà còn tài trợ một phần lớn của nó cho tài sản ngắn hạn. Từ đó, bước đầu có thể kết luận cân bằng tài chính của Công ty là “cân bằng tốt”. Tuy nhiên, ta thấy cân bằng này có được tài sản dài hạn của công ty chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng tài sản (đầu năm chiếm 2.36%, cuối năm chiếm 2.69%) nên để có nhận xét xác đáng về tình hình bảo đảm nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, ta tiến hành phân tích và so sánh các chỉ tiêu sau: - Hệ số tài trợ thường xuyên = Đầu năm: = = 0.176 Cuối năm: = = 0.169 - Hệ số tài trợ tạm thời = Đầu năm: = = 0.824 Cuối năm: = = 0.831 Ta thấy, hệ số tài trợ thường xuyên và tạm thời không có biến động nhiều ở 2 thời điểm cuối năm và đầu năm. Hệ số tài trợ thường xuyên thấp trong khi hệ số tài trợ tạm thời cao. Điều này không có lợi đối với tình hình tài chính của công ty vì tính ổn định và cân bằng tài chính không cao. - Hệ số vốn chủ sở hữu so với nguồn vốn thường xuyên = Đầu năm: = = 0.971 Cuối năm: = = 0.954 Chỉ tiêu này ở cả 2 thời điểm đều lớn đáng ra có thể kết luận tính tự chủ về tài chính của công ty là tốt. Nhưng ta lại thấy công ty không khai thác Nợ dài hạn nên nguồn tài trợ thường xuyên chỉ gồm vốn CSH và một phần rất nhỏ lợi nhuận chưa phân phối, nên về thực chất đây không phải là dấu hiệu khả quan và hệ số này như vậy là quá cao. - Hệ số giữa tài sản ngắn hạn so với nợ ngắn hạn = Đầu năm: = = 1.184 Cuối năm: = = 1.171 Trị số này lớn hơn 1 cho thấy công ty vẫn bảo đảm được sự bền vững về tài chính. Qua phân tích tình hình bảo đảm nguồn vốn kinh doanh của công ty , ta thấy nếu xét tính cân bằng theo vốn hoạt động thuần và hệ số tài sản ngắn hạn so với nợ ngắn hạn thì công ty có tình hình cân bằng tài chính tốt. Nhưng khi xem xét các hệ số bảo đảm nguồn vốn khác, ta lại thấy cân bằng này thực chất đo công ty không khai thác nợ dài hạn và do tỷ lệ tài sản dài hạn quá nhỏ. Điều này cho biết triển vọng phát triển và mở rộng của công ty chưa tốt. 3.3. Phân tích tình hình và khả năng thanh toán 3.3.1. Phân tích tình hình thanh toán Phân tích các khoản phải thu, phải trả gồm 3 phần: - Phân tích các khoản phải thu - Phân tích các khoản phải trả - Phân tích một số chỉ tiêu làm rõ hơn tình hình thanh toán của công ty Để nắm rõ hơn tình hình thanh toán và các khoản nợ phải thu và các khoản nợ phải trả trong kỳ của doanh nghiệp, ta tiến hành so sánh các khoản nợ phải thu, phải trả giữa cuối kỳ và đầu kỳ trên tổng số cũng như trên từng khoản nợ phải thu, nợ phải trả và dựa vào tình hình biến động của từng chỉ tiêu để đưa ra nhận xét. Bảng 16 : Phân tích các khoản phải thu Chỉ tiêu Đầu năm Cuối năm Cuối năm so với đầu năm Số tiền % 1. Phải thu khách hàng 7,547,338,378 4,709,329,694 -2,838,008,684 -37.60 2. Trả trước cho người bán 847,542,812 2,404,330,737 1,556,787,925 183.68 3. Thuế GTGT được khấu trừ 353,904,000 - - 4. Tam ứng 867,413,247 1,168,038,107 300,624,860 34.66 5. Các khoản phải thu khác 578,445,004 774,555,724 196,110,720 33.90 6.Các khoản cấm cố, ký quỹ 3,755,406,522 1,520,181,151 -2,235,225,371 -59.52 Tổng cộng 13,950,049,963 10,576,435,413 -3,019,710,550  21.65 Bảng 17: Phân tích các khoản phải trả Chỉ tiêu Đầu năm Cuối năm Cuối năm so với đầu năm Số tiền % 1. Phải trả người bán 7,495,837,988 2,627,543,740 -4,868,294,248 -64.95 2. Ngời mua trả trước 6,448,478,989 14,494,415,381 8,045,936,392 124.77 3. Thuế và các khoản phải nộp NS 207,103,677 -141,738,375 -348,842,052 -168.44 4. Phải trả công nhân viên - - - - 5. Các khoản phải trả, phải nộp khác -7,400,822 -500,000 6,900,822 -93.24 6. Vay ngắn hạn 5,197,419,934 3,640,462,512 -1,556,957,422 -29.96 7. Vay dài hạn - - - - Tổng cộng 19,341,439,766 20,620,183,258  1,278,743,492  6.61 Qua hai bảng trên ta thấy các khoản phải thu giảm 21.65% trong khi các khoản phải trả chỉ tăng 6.61% so với năm trước. Đây là dấu hiệu khả quan cho tình hình thanh toán của công ty. Cụ thể khoản phải thu khách hàng giảm 37.6% trong khi khoản khách hàng ứng trước lại tăng 183.68% cho thấy lượng hàng hóa công ty cung ứng đã nhiều hơn nhưng công ty lại không bị khách hàng thanh toán dây dưa. Khoản phải trả người bán giảm 64.95% trong khi khoản người mua trả trước tăng 124.77% khiến công ty có điều kiện thuận lợi cho quá trình thanh toán của mình. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng vốn vay ngắn hạn của công ty giảm 29.96% trong khi công ty lại không khai khác vốn vay dài hạn. Điều này tuy giảm gánh nợ của công ty và sự phụ thuộc của công ty vào các tổ chức tín dụng nhưng chưa hẳn là dấu hiệu tốt vì để hoạt động một doanh nghiệp phải huy động vốn từ nhiều nguồn, trong đó nguồn vốn vay khá quan trọng. Công ty không khai thác tốt nguồn vốn này sẽ thiếu vốn đầu tư và khó có thể phát triển và mở rộng quy mô. Ngoài ra, ta phân tích thêm một số chỉ tiêu khác như sau: - Tỷ lệ các khoản nợ phải thu so với các khoản nợ phải trả: = Đầu năm : = x 100 = 65.81% Cuối năm : = x 100 = 45.63% Thực tế cho thấy, số đi chiếm dụng lớn hơn hay nhỏ hơn số bị chiếm dụng đều phản ánh tình hình tài chính không lành mạnh. Trường hợp lý tưởng nhất là tỷ số này bằng 100%, nhưng điều này hiếm khi xảy ra trong thực tế, nên thường thì tỷ lệ này duy trì trong khoảng trên dưới gần với 100% là tốt nhất. Với công ty CETT, tỷ lệ các khoản nợ phải thu so với các khoản nợ phải trả ở cả đầu năm và cuối năm đều thấp hơn nhiều so với 100%, đặc biệt là tỷ số này cuối năm lại giảm mạnh chỉ còn 45.63% (giảm 20.18%). Như vậy, có thể thấy số vốn mà công ty bị chiếm dụng nhỏ hơn nhiều so với số vốn mà công ty đi chiếm dụng. - Tỷ lệ các khoản nợ phải trả so với các khoản nợ phải thu: = x 100 Chỉ tiêu này là nghịch đảo của chỉ tiêu “Tỷ lệ các khoản nợ phải thu so với các khoản nợ phải trả”, cho ta thấy rõ hơn các khoản doanh nghiệp di chiếm dụng so với các khoản bị chiếm dụng. Đầu năm: = x 100 = 151.95% Cuối năm: = x 100 = 219.17% Việc số vốn đi chiếm dụng nhiều hơn số vốn bị chiếm dụng có thể giúp công ty đầu tư, bổ sung thêm nguồn vốn để tăng quy mô hoạt động, tuy nhiên khi tỷ lệ này quá cao có thể tạo nên tình trạng tài chính không ổn định. - Số vòng quay các khoản phải thu: = Trong đó : = - Thời gian thu tiền: Thời gian thu tiền = Ở Việt Nam thực ra không nên sử dụng cách tính số vòng quay các khoản phải thu bằng cách lấy “doanh thu thuần” chia cho “số dư bình quân các khoản phải thu” mà nên thay “doanh thu thuần” bằng chỉ tiêu “tổng số tiền hàng bán chịu” vì ở nước ta hiện vẫn tồn tại một nền “kinh tế tiền mặt” và các nghiệp vụ mua bán chủ yếu gắn với việc thanh toán ngay nên việc sử dụng chỉ tiêu này chưa thật phù hợp. Nhưng với công ty CETT, cung cấp hàng hóa chủ yếu theo các dự án và đơn đặt hàng lớn, ít có trường hợp bán lẻ nên vẫn có thể sử dụng chỉ tiêu này. = = 9,429,637,271 (đ) = =11,068,565,011 (đ) = = 6.21 (lần) = = 5.56 (lần) = = 57.97 (ngày) = = 64.75 (ngày) Kết quả tính toán cho thấy số vòng quay các khoản phải thu năm 2005 giảm so với năm 2004 là 0.65 lần, số ngày trung bình để thu hồi các khoản phải thu tăng gần 7 ngày (64.75 – 57.97 = 6.78). Như vậy, có thể kết luận tình hình thu hồi công nợ của công ty năm 2005 không khả quan bằng năm 2004. Đây là xu hướng phát triển không tốt, sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. 3.3.2. Phân tích khả năng thanh toán Để phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp, ta tiến hành phân tích các hệ số như: hệ số thanh toán tổng quát, hệ số thanh toán hiện hành, hệ số thanh toán nợ ngắn hạn, hệ số thanh toán nhanh… - Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn Hệ số này được tính theo công thức: Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn= Tổng giá trị thuần TS ngắn hạn được phản ánh ở chỉ tiêu “Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn” mã số 100, chỉ tiêu Tổng số nợ ngắn hạn phản ánh ở chỉ tiêu “Nợ ngắn hạn” mã số 300 trên Bảng cân đối kế toán. Đầu năm: = = 1.18 Cuối năm: = =1.17 Tuy chỉ số này cuối năm giảm so với đầu năm, nhưng ở cả 2 thời điểm chỉ số này đều cao hơn 1 chứng tỏ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính của doanh nghiệp là khả quan. - Hệ số khả năng thanh toán nhanh Hệ số này được tính theo công thức: Hệ số khả năng thanh toán nhanh= “Tiền, các khoản tương đương tiền và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn được tính bằng cách cộng các chỉ tiêu 1 “Tiền mặt tại quỹ” mã số 110, 2 “Tiền gửi ngân hàng” mã số 111, 3 “Đầu tư tài chính ngắn hạn” mã số 112 và trừ đi chỉ tiêu 4 “Dự phòng giảm giá chứng khoán và đầu tư ngắn hạn” mã số 113 trên Bảng cân đối kê toán. Đầu năm: = = 0.3 Cuối năm: = = 0.55 Ta thấy so với đầu năm, hệ số thanh toán nhanh cuối năm đã tăng đáng kể, cụ thể là 0.25. Đáng lưu ý là đầu năm, hệ số thanh toán nhanh là 0.30.5 chứng tỏ tình hình thanh toán của doanh nghiệp tương đối khả quan. - Hệ số khả năng thanh toán của tài sản ngắn hạn Hệ số này được tính theo công thức: Hệ số thanh toán của tài sản ngắn hạn= Đầu năm: = = 0.25 Cuối năm: = = 0.47 Ở Việt Nam chưa có một ngiên cứu nào công bố trị số của chỉ tiêu “ Hệ số thanh toán của tài sản ngắn hạn”, nhưng theo tác giả Lâm Bỉnh Kiệt trong cuốn Kiểm tra kế toán (1991) thì hệ số này nằm trong khoảng 0.1 đến 0.5 là tốt nhất. Như vậy công ty có tình hình thanh toán bằng tài sản ngắn hạn là tương đối tốt, tuy nhiên số cuối năm tăng mạnh so với đầu năm (tăng 0.24) đạt mức gần với mốc 0.5 – tức là công ty đang có xu hướng tiến đến tình trạng lượng tiền và tương đương tiền quá nhiều, thừa khả năng thanh toán. - Hệ số khả năng thanh toán Bảng 18: Phân tích khả năng và nhu cầu thanh toán Nhu cầu thanh toán Đầu năm Cuối năm 1. Vay ngắn hạn 5,197,419,934 3,640,462,512 2. Phải trả cho người bán 13,944,316,977 17,121,959,121 3. Thuế và các khoản phải nộp Nhà Nước 207,103,677 -141,738,375 4. Phải trả người lao động - - 5.Các khoản phải trả khác -7,400,822 -500,000 6. Nợ dài hạn - - Tổng cộng 19,341,439,766 20,620,183,258 Khả năng thanh toán Đầu năm Cuối năm 1. Tiền mặt 391,201,570 1,324,522,407 2. Tiền gửi ngân hàng 5,419,358,469 10,054,619,737 3. Các khoản phải thu 12,728,732,716 9,408,397,306 4. Hàng tồn kho 3,148,149,967 2,188,632,188 Tổng cộng 21,687,442,722 22,976,171,638 Hệ số khả năng thanh toán 1.12 1.11 Trong đó, hệ số khả năng thanh toán được tính theo công thức: = Đầu năm: = = 1.12 Cuối năm: = = 1.11 Ta thấy, hệ số khả năng thanh toán được tính cho cả năm và thời điểm đầu năm (tính cho cả năm 2004) và cuối năm (tính cho cả năm 2005) đều có trị số cao hơn 1, chứng tỏ Công ty bảo đảm khả năng thanh toán. 3.4. Phân tích hiệu quả kinh doanh của Công ty CETT 3.4.1. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh Trước hết, ta xác định các chỉ tiêu vốn sản xuất bình quân Vốn sản xuất bình quân = Bảng 19: Các chỉ tiêu vốn bình quân Đơn vị : đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Đầu năm Cuối năm Đầu năm Cuối năm 1. Vốn lưu động 13,020,392,326 22,908,759,969 22,908,759,969 24,144,209,745 2. Vốn lưu động bình quân 17,964,576,148 23,526,484,857 3. Vốn cố định 294,214,846 552,679,797 552,679,797 667,050,056 4. Vốn cố định bình quân 423,447,322 609,864,927 5. Tổng tài sản (nguồn vốn) 13,314,607,172 23,461,439,766 23,461,439,766 24,811,259,801 6. Tổng tài sản bình quân 18,388,023,469 24,136,349,784 7. Vốn chủ sở hữu 4,059,858,854 4,120,000,000 4,120,000,000 4,191,076,543 8. Vốn chủ sở hữu bình quân 4,089,929,427 4,155,538,272 Bảng20: Phân tích hiệu quả vốn sản xuất kinh doanh Đơn vị: đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2005 so với năm 2004 Số tiền % 1. Doanh thu thuần 58,576,407,024 61,521,795,809 2,945,388,785 5.03 2. LN trước thuế 371,477,911 320,939,643 -50,538,268 -13.60 3. Vốn SXKD bình quân 18,388,023,469 24,136,349,784 5,748,326,315 31.26 4. HSSD vốn SXKD 3.186 2.549 -0.637 5. TSLN trên vốn sản xuất kinh doanh 0.020 0.013 -0.007 Trong đó: Hiệu suất sử dụng vốn SXKD = = Qua bảng tính toán ta thấy vốn sản xuất bình quân năm 2005 đã tăng lên so với năm 2004 là 5,748,326,315 đồng, tương ứng với 31.26%. Đồng thời doanh thu cũng tăng 2,945,388,785 đồng, tương ứng 5.03%. Tuy nhiên chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế năm 2005 lại giảm so với năm 2004 là 50,538,268 đồng hay giảm 13.6%. Điều này đã làm cho hiệu suất sử dụng vốn sản xuất bình quân và tỷ suất lợi nhuận trên vốn đều giảm. Hiệu suất sử dụng vốn sản xuất kinh doanh cho biết năm 2004 một đơn vị vốn dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh đem lại 3.186đ doanh thu thuần thì đến năm 2005 chỉ đem lại 2.459đ, giảm 0.637đ. Tỷ suất lợi nhuận vốn sản xuất kinh doanh cho biết năm 2004 cứ 1 đơn vị vốn dùng cho hoạt động sản xuất kinh thì đem lại 0.02đ lợi nhuận, năm 2005 đem lại 0.013đ đã giảm so với năm trước là 0.007đ. Như vậy hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của công ty đã giảm. Để thấy rõ hơn hiệu quả sử dụng vốn của công ty, ta tiếp tục tiến hành phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động và vốn cố định. Tuy nhiên do vốn cố định ở công ty CETT chiếm tỷ lệ rất nhỏ, không có ảnh hưởng lớn đến tình hình tài chính của công ty nên ta có thể không chú trọng đến chỉ tiêu này. - Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động, ta sử dụng hệ thống các chỉ tiêu sau: - Sức sản xuất của vốn lưu động = - Sức sinh lợi của vốn lưu động = - = - = - Hệ số đảm nhiệm của VLĐ = Ta lập bảng phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động sau: Bảng 21: Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động Đơn vị: đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Chênh lệch Giá trị % 1. Tổng doanh thu thuần 58,576,407,024 61,521,795,809 2,945,388,785 5.03 2. Lợi nhuận trước thuế 371,477,911 320,939,643 -50,538,268 -13.60 3. VLĐ bình quân 17,964,576,148 23,526,484,857 5,561,908,710 30.96 4. Sức sản xuất của VLĐ 3.261 2.615 -0.646 -19.80 5. Sức sinh lời của VLĐ 0.021 0.014 -0.007 -34.03 6. Số vòng quay của VLĐ 3.261 2.615 -0.646 -19.80 7. Thời gian một vòng quay của VLĐ 110.41 137.67 27.260 24.69 8. Hệ số đảm nhiệm của VLĐ 0.307 0.382 0.076 24.69 Qua bảng phân tích trên ta thấy: - Chỉ tiêu “Sức sản xuất của VLĐ” cho biết cứ 1 đồng vốn lưu động bình quân có khả năng tạo ra 3.261 đồng doanh thu thuần trong năm 2004, 2.625 đồng doanh thu thuần trong năm 2005 (giảm 0.646đ, tương ứng với 19.8%). Như vậy, hiệu quả sử dụng vốn lưu động năm 2005 đã giảm so với năm 2004 do tốc độ tăng của doanh thu thuần thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng của vốn lưu động bình quân. - Chỉ tiêu “Sức sinh lợi của VLĐ” cho thấy 1đ VLĐ bình quân tạo ra 0.021đ lợi nhuận trước thuế năm 2004, nhưng chỉ tạo ra được 0.014đ lợi nhuận trước thuế năm 2005 (giảm 0.007đ, tương ứng với 34.03%). Ta thấy lợi nhuận trước thuế giảm trong khi VLĐ lại tăng mạnh. Điều này chứng tỏ Công ty đã không sử dụng vốn lưu động có hiệu quả. - Chỉ tiêu “Số vòng quay của VLĐ” cho thấy năm 2004 VLĐ của Công ty quay được 3.261 vòng, đến năm 2005 đã giảm xuống còn 2.615 vòng. Như vậy số vòng quay của vốn lưu động chậm hơn khiến cho công việc kinh doanh đã giảm hiệu quả. Điều này được thể hiện rõ hơn qua chỉ tiêu “Thời gian 1 vòng quay của VLĐ”. Năm 2004 thời gian của 1 vòng luân chuyển là 110.41 ngày, năm 2005 thời gian của 1 vòng quay là 137.67 ngày, tức là tăng lên 27.26 ngày. Chỉ tiêu “Hệ số đảm nhiệm của VLĐ” là nghịch đảo của chỉ tiêu của vòng quay của VLĐ, cho biết mức độ lãng phí của VLĐ. Năm 2004 để có 1 đ doanh thu thuần chỉ cần đến 0.307đ VLĐ. Năm 2005, do tốc độ luân chuyển của VLĐ chậm hơn năm 2004 nên để có 1đ doanh thu thuần phải cần đến 0.382đ VLĐ, tức là tăng 0.076đ Như vậy, thông qua phân tích hiệu quả sử dụng VLĐ ta có thể kết luận rằng tình hình sử dụng vốn lưu động của công ty chưa tốt, các chỉ tiêu đều giảm so với năm trước. 3.4.2. Phân tích khả năng sinh lợi của vốn kinh doanh Phân tích khả năng sinh lời của vốn kinh doanh được thể hiện qua các chỉ tiêu sau: - = - = - = - = Ta lập bảng phân tích khả năng sinh lời của vốn như sau: Bảng 22: Phân tích khả năng sinh lời của vốn Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Chênh lệch Số tiền % 1. Doanh thu thuần 58,576,407,024 61,521,795,809 2,945,388,785 5.03 2. Vốn kinh doanh bình quân 18,388,023,469 24,136,349,784 5,748,326,315 31.26 3. Vốn chủ sở hữu bình quân 4,089,929,427 4,155,538,272 65,608,845 1.60 4. Lợi nhuận trước thuế 371,477,911 320,939,643 -50,538,268 -13.60 5. Tổng tài sản bình quân 18,388,023,469 24,136,349,784 5,748,326,315 31.26 6. Suất sinh lợi của vốn kinh doanh (của tài sản) (4/2) 0.020 0.013 -0.007 -34.18 7. Suất sinh lợi của VCSH (4/3) 0.091 0.077 -0.014 -14.97 8. Hệ số vòng quay của vốn CSH (1/3) 14.322 14.805 0.483 3.37 9. Suất sinh lợi của doanh thu thuần (4/1) 0.006 0.005 -0.001 -17.74 10. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản (4/5) 0.020 0.013 -0.007 -34.18 - Suất sinh lợi của doanh thu thuần cho biết trong năm 2004 1đ doanh thu thuần đem lại 0.006đ lợi nhuận trước thuế nhưng đến năm 2005 1đ doanh thu thuần chỉ đem lại 0.005đ lợi nhuận trước thuế. Điều này cho thấy suất sinh lợi của công ty có xu hướng phát triển không tốt. - Suất sinh lợi của vốn chủ sở hữu năm 2004 là 0.091, tức là 1đ vốn chủ sở hữu dùng cho sản xuất kinh doanh đem lại 0.091đ lợi nhuận. Năm 2005, chỉ số này đã giảm xuống còn 0.077. Như vậy, so với năm trước đó hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu không cao. - Tuy nhiên ta lại thấy, số vòng quay của vốn chủ sở hữu tăng lên, nguyên nhân là do tốc độ tăng của vốn chủ sở hữu chậm hơn so với tốc độ tăng của doanh thu thuần. Để hiểu rõ hơn nguyên nhân và mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng, ta xem xét phương trình sau: = x = x Năm 2004: = 14.322 x 0.006 = 0.091 Năm 2005: = 14.805 x 0.005 = 0.077 Khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu năm 2005 giảm so với năm 2004 là 0.014đ là do sự ảnh hưởng của các nhân tố sau: + Do hệ số vòng quay của vốn chủ sở hữu (14.805 – 14.322) x 0.006 = 0.003 (đ) + Do suất sinh lợi của doanh thu thuần 14.805 x ( 0.005-0.006) = -0.017 (đ) Như vậy do số vòng quay của vốn chủ sở hữu tăng nhanh hơn năm trước nên đã làm cho suất sinh lợi của vốn CSH tăng 0.003đ, nhưng do suất sinh lợi của doanh thu thuần giảm nên đã làm suất sinh lợi của vốn CSH giảm đi 0.017đ. - Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản năm 2005 là 0.013đ giảm so với năm 2004 (0.02đ), như vậy cứ 1đ tài sản đầu tư vào kinh doanh thì đem lại 0.013đ lợi nhuận trước thuế, giảm so với năm 2004 là 0.007đ. Chứng tỏ khả năng sinh lời của tài sản thấp đi. CHƯƠNG II: HOÀN THIỆN HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH, CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH VÀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở CÔNG TY CETT 1. Nhận xét, đánh giá về hệ thống báo cáo, công tác phân tích và tình hình tài chính của Công ty CETT. Về hệ thống Báo cáo tài chính của Công ty - Hệ thống BCTC chưa được lập đầy đủ, mới chỉ lập và sử dụng thường xuyên 5 báo cáo (BCĐKT, BCĐTK, BCKQHĐKD, Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước, Thuyết minh báo cáo tài chính). Báo cáo lưu chuyển tiền tệ chưa được lập nên gây ra một số khó khăn trong việc phân tích tài chính và kiểm tra báo cáo tài chính. Trong kiểm tra báo cáo tài chính, không kiểm tra được mối quan hệ giữa các báo cáo tài chính và báo các lưu chuyển tiển tệ. Trong phân tích tài chính không tính được một số chỉ tiêu, trong đó có chỉ tiêu Hệ số khả năng thanh toán của tiền và các khoản tương đương tiền Vì các chỉ tiêu “Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn”, “Hệ số khả năng thanh toán nhanh”, “Hệ số khả năng thanh toán của tài sản ngắn hạn” mang tính thời điểm, cơ sở tính toán chủ yếu dựa trên Bảng cân đối kế toán nên trong nhiều trường hợp các chỉ tiêu này không phản ánh đúng tình trạng tài chính thực tế của doanh nghiệp, nên để khắc phục tình trạng này phải tính thêm chỉ tiêu “ Hệ số khả năng thanh toán của tiền và các khoản tương đương tiền”. Hệ số này khắc phục được nhược điểm cả 3 hệ số trên vì nó được xác định cho cả kỳ kinh doanh. Chỉ tiêu này được tính theo công thức: = Tuy nhiên công ty CETT không lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ nên việc tính toán chỉ số này gặp khó khăn. Cụ thể một số báo cáo cần lưu ý như sau: * Bảng cân đối kế toán Mẫu BCĐKT được lập theo đúng mẫu B01-DNN theo QĐ số 144/2001/QĐ-BTC, các chỉ tiêu và mã số được giữ nguyên, không có điều chỉnh. Hầu hết các chỉ tiêu đưa vào BCĐKT lấy số liệu từ sổ cái theo đúng hướng dẫn, chỉ có một số điều chỉnh như sau: - Các khoản phải trả ngắn hạn khác (mã số 315) vẫn lấy số dư Nợ TK 338 và được ghi âm (Theo hướng dẫn, số liệu trên TK 338 nếu dư Có mới ghi vào chỉ tiêu này, còn dư Nợ thì đưa vào “Các khoản phải thu khác”). - Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước (mã số 313) vẫn lấy số dư Nợ TK 333 và ghi âm (Theo hướng dẫn, TK 333 chỉ ghi vào chỉ tiêu này khi dư Có, còn nếu dư Nợ thì được ghi vào mục “Các khoản phải thu khác”). * Thuyết minh báo cáo tài chính Thuyết minh báo cáo tài chính được lập theo đúng mẫu B09-DNN, tuy nhiên theo em giá trị thông tin trên báo cáo này do công ty lập không cao bởi vì báo cáo này được lập theo đúng mẫu của Bộ tài chính đề xuất dùng chung cho tất cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên không đáp ứng được đặc thù hoạt động của công ty. Chính vì thế, hầu như các chỉ tiêu, khoản mục đều để trống đã không thực hiện được mục đích của TMBCTC là giải trình, bổ sung, thuyết minh và thông tin về tình hình kinh doanh, tình hình tài chính của công ty. Một số mục được thông tin không rõ ràng, ví dụ: mục “chế độ kế toán đang áp dung” được ghi là: kế toán máy, hay “phương pháp khấu hao áp dụng” được ghi là: theo quy định của bộ tài chính (đáng lẽ phải chỉ rõ là đang sử dụng phương pháp khấu hao nào vì có rất nhiều phương pháp tính khấu hao khác nhau). Về công tác phân tích tài chính của Công ty Công tác phân tích tài chính của công ty tiến hành khá đơn giản, của công ty chưa được thực hiện theo quy trình, bỏ sót nhiều chỉ tiêu quan trọng nên chưa có được một báo cáo phân tích tài chính hiệu quả phục vụ cho người có nhu cầu sử dụng thông tin. Về tình hình tài chính của Công ty Thực trạng tài chính của công ty có một số điểm mạnh như sau: - Công ty bảo đảm được TSCĐ và có tỷ trọng TSCĐ so với tổng tài sản tuy nhỏ nhưng vẫn hợp lý, phù hợp với quy mô hoạt động của công ty. Đây cũng là đặc điểm chung của đa số các công ty thương mại khác vì nhu cầu sử dụng TSCĐ không lớn. - Cơ cấu tài sản của công ty nói chung là khá hợp lý, đặc biệt là ở các chỉ tiêu “Tiền” và “Hàng tồn kho”. Chỉ tiêu “tiền” của công ty chiếm tỷ trọng lớn do khách hàng ứng trước nên bảo đảm được cho tình hình thanh toán của công ty. Chỉ tiêu “Hàng tồn kho” chiếm tỷ lệ nhỏ, chưa đến 10% nên công ty hầu như không phải lo lắng về việc hàng tồn không bán được, đây cũng là một lợi thế của công ty, có được do đặc điểm kinh doanh riêng của mình. - Công ty có tình hình thanh toán và khả năng thanh toán rất tốt. Tất cả các chỉ tiêu về khả năng thanh toán như hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, hệ số khả năng thanh toán nhanh, hệ số khả năng thanh toán của tài sản ngắn hạn, hệ số khả năng thanh toán đều cao hơn mức an toàn cho từng chỉ tiêu. Bên cạnh đó, tình hình tài chính của công ty vẫn còn tồn tại một số vấn đề như sau: - Nguồn vốn của công ty tăng chậm, quy mô nguồn vốn nhỏ nhưng năm 2005 chỉ tăng 5.75% so với năm trước mà chủ yếu là do tăng nguồn vốn vay và chiếm dụng; vốn góp là 4 tỷ không đổi từ năm 2002 và vốn chủ sở hữu qua các năm đều tăng không đáng kể. - Khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính và mức độ độc lập về tài chính của công ty chưa tốt vì vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng nguồn vốn. - Cơ cấu nguồn vốn chưa thật hợp lý vì “Nợ phải trả” chiếm tới 83.11% tổng nguồn vốn – tỷ lệ này là quá cao sẽ ảnh hưởng đến tính ổn định tài chính cũng như khả năng huy động vốn từ ngân hàng, các tổ chức tín dụng cũng như các nhà đầu tư khi công ty muốn mở rộng quy mô. Ngoài ra, công ty còn không khai thác “Nợ dài hạn”, đây là chỉ tiêu để trống trên BCĐKT. Như vậy, công ty đã bỏ qua một nguồn tài trợ để mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. - Tỷ lệ các khoản nợ phải trả so với phải thu của công ty quá cao cho thấy vốn chiếm dụng của công ty nhiều hơn nhiều so với vốn bị chiếm dụng. Điều này giúp công ty chủ động hơn so với trường hợp bị chiếm dụng, tuy nhiên tỷ lệ này cuối năm lên tới 219.17% là quá cao. Công ty cần điều chỉnh cho hợp lý để tránh tình trạng bị phụ thuộc vào chủ nợ. - Hiệu quả kinh doanh của công ty nói chung là giảm so với năm trước đó. Các chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn sản xuất kinh doanh, hiệu suất sử dụng vốn lưu động, suất sinh lợi của doanh thu thuần, suất sinh lợi của vốn CSH đều giảm. 2. Giải pháp từ phía công ty CETT nhằm hoàn thiện hệ thống BCTC, công tác phân tích tài chính và tình hình tài chính. Hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính Để hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính của công ty, em xin đề xuất một số ý kiến như sau: - Các điều chỉnh trên BCĐKT của công ty là không cần thiết, TK 333: Thuế và các khoản phải nộp, TK 338: Phải trả, phải nộp khác nếu dư Nợ thì nên đưa vào chỉ tiêu “Các khoản phải thu khác” để thể hiện rõ tính chất phải thu của các khoản này. - Bảng cân đối tài khoản, các TK 131 : Phải thu khách hàng, TK 331: Phải trả người bán nên tách các khoản ứng trước ra (chi tiết dư Nợ và dư Có), không nên bù trừ để làm rõ hơn tình hình phải thu, phải trả. Như vậy khi phân tích tình hình thanh toán chỉ cần lấy số liệu trên BCĐKT và BCĐTK mà không cần xem sổ chi tiết của các tài khoản này. - Với Thuyết minh báo cáo tài chính, để tăng thêm lượng thông tin cung cấp, nên bổ sung các thông tin sau (việc bổ sung thông tin theo yêu cầu quản lý là hoàn toàn hợp pháp): + Thông tin về nguyên tắc và phương pháp chuyển đổi các đồng tiền khác ra tiền Việt vì công ty chuyên nhập khẩu hàng hóa, sử dụng nhiều loại tiền ( Euro, USD, đô la Sing … ). + Thông tin về chế độ kế toán áp dụng (theo QĐ nào), phương pháp xác định giá trị hàng tồn kho, phương pháp tính khấu hao tài sản cố định, nguyên tắc trích lập các khoản dự trữ, các quỹ lợi nhuận sau thuế. Hoàn thiện công tác phân tích tài chính CETT là công ty có quy mô nhỏ nên không cần tiến hành phân tích đầy đủ toàn bộ các chỉ tiêu về tình hình tài chính như các công ty lớn tuy nhiên do phân tích tài chính có ý nghĩa rất quan trọng, thông qua phân tích tài chính có thể đánh giá được tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như những rủi ro trong tương lai, nên theo em vẫn cần phải xây dựng công tác phân tích tài chính cũng như hệ thống các chỉ tiêu phân tích tài chính một các cơ bản và hiệu quả, phù hợp với quy mô hoạt động của công ty. Sau đây là đề xuất của em về tổ chức phân tích tài chính và nội dung phân tích tình hình tài chính của công ty, như sau: * Về tổ chức công tác phân tích tài chính Công tác phân tích tài chính của công ty nên được tổ chức thông qua 3 bước: - Bước 1: Lập kế hoạch phân tích Trong bước này, người phân tích tài chính phải xác định được mục tiêu phân tích và chương trình phân tích. - Bước 2: Thực hiện phân tích Đối với công ty CETT, kế toán trưởng đồng thời cũng là kế toán tổng hợp nên việc phân tích tài chính nên do kế toán trưởng thực hiện. Dựa và mục tiêu và chương trình phân tích (hệ thống các chỉ tiêu được chọn lựa để phân tích) kế toán cần thu thập thông tin (là hệ thống báo cáo tài chính và các thông tin kế toán liên quan khác), sau đó kế toán áp dụng các phương pháp phân tích phù hợp để phân tích, đánh giá tình hình kinh doanh để thấy rõ tiềm năng tài chính của công ty cũng như dự đoán tình hình tài chính trong tương lai để có các quyết định kinh doanh đúng đắn. - Bước 3: Hoàn thành phân tích Các báo cáo phân tích tình hình tài chính là kết quả của quá trình phân tích, là sự tổng kết quá trình hoạt động kinh doanh của công ty trong thời gian qua và xác định những nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả này. Các báo cáo này được cung cấp cho các nhà quản trị và những đối tượng khác quan tâm đến tình hình tài chính công ty. * Về nội dung phân tích tài chính Hệ thống các chỉ tiêu phân tích bao gồm: - Phân tích tình hình tài chính khái quát Sử dụng các chỉ tiêu: + Hệ số tài trợ = Chỉ tiêu này phản ánh khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính và mức độ độc lập về mặt tài chính của công ty. + = Trong đó: VCSH bình quân = Chỉ tiêu này phản ánh một cách khái quát hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Khi xem xét chỉ tiêu này các nhà quản trị thấy được 1 đơn vị vốn CSH đầu tư vào kinh doanh đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau thuế. - Phân tích tình hình bảo đảm vốn cho hoạt động kinh doanh Sử dụng các chỉ tiêu + Hệ số tài trợ thường xuyên = + Hệ số tài trợ tạm thời = Hai chỉ tiêu này sẽ cho thấy tính ổn định và cân bằng tài chính của doanh nghiệp. - Phân tích công nợ và khả năng thanh toán Công ty tiếp tục duy trì hệ thống các chỉ tiêu đang sử dụng, bổ sung thêm các chỉ tiêu sau: + = + = Hai chỉ tiêu này cho biết mức hợp lý của số dư các khoản phải thu, phải trả và hiệu quả trong việc thu hồi và thanh toán công nợ. Qua đó có thể tính thêm các chỉ tiêu: thời gian một vòng quay các khoản phải thu, phải trả. Ngoài ra còn nên tính chỉ tiêu hệ số khả năng thanh toán theo công thức: + Hệ số khả năng thanh toán = Chỉ tiêu này nên được tính cho cả thời kỳ, cho từng giai đoạn (khả năng thanh toán ngắn hạn, khả năng thanh toán dài hạn, khả năng thanh toán tháng tới, khả năng thanh toán quý tới … ). Vì công ty đã và đang sử dụng kế hoạch thu chi nội bộ nên việc lập bảng phân tích khả năng thanh toán này khá đơn giản, và mang lại hiệu quả cao trong việc quản lý tình hình và khả năng thanh toán của công ty. - Phân tích hiệu quả kinh doanh Vì vốn lưu động chiếm tỷ trọng lớn tổng cơ cấu nguồn vốn và có ảnh hưởng quyết định đến kết quả kinh doanh nên công ty cần chú trọng vào việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động, có thể tính toán các chỉ tiêu sức sản xuất của vốn lưu động, sức sinh lợi của vốn lưu động. Ngoài ra có thể tính toán thêm các chỉ tiêu thể hiện khả năng sinh lợi của vốn kinh doanh. Các giải pháp tăng cường tình hình tài chính của công ty Giải pháp về nhu cầu vốn Nhu cầu tăng vốn và các biện pháp tạo nguồn vốn là vấn đề quan trọng đối với bất cứ một doanh nghiệp nào vì điều này ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến quy mô hoạt động, quá trình hoạt động và hiệu quả kinh doanh. Phân tích tài chính cho thấy, năm 2005 cơ cấu vốn của công ty chưa hợp lý với hơn 80% số vốn là vốn đi vay và chiếm dụng. Tổng nguồn vốn năm 2005 so với các năm trước đã tăng lên, nhưng vốn chủ sở hữu không thay đổi nhiều. Nếu năm 2002 tổng nguồn vốn là 10,004,617,533đ, trong đó vốn CSH là 4,151,367,425đ (chiếm 41.49%) thì đến năm 2005 khi tổng nguồn vốn đã là 24,811,259,801đ thì vốn CSH vẫn chỉ là 4,191,076,543đ (chiếm 16.89%). Trong vốn chủ sở hữu thì vốn góp đã là 4,000,000,000đ cũng là số vốn điều lệ trong đăng ký kinh doanh và đã không đổi từ năm 2002. Điều này cho thấy công ty đã không có các biện pháp hữu hiệu để tăng lượng vốn CSH, mặt khác cho thấy qua 4 năm hoạt động (từ năm 2002), kết quả kinh doanh (lợi nhuận sau thuế) của công ty không chuyển biến nhiều, hoạt động của công ty chưa có hiệu quả và chưa có được sự phát triển cần có. Mặt khác, do không huy động tốt vốn vay ngắn hạn và chưa sử dụng vốn vay dài hạn nên công ty hoạt động chủ yếu bằng chiếm dụng vì vậy công ty khó có thể mở rộng được quy mô hoạt động cũng như tiến hành các hoạt động đầu tư khác. Một số phương án đề xuất để tăng cường nguồn vốn cho công ty: - Công ty nên huy động vốn từ các thành viên cũ cũng như có thể kết nạp thêm các thành viên mới (hiện nay công ty chỉ mới có 9 thành viên góp vốn). - Thu hút các nhà đầu tư bằng cách phát triển mọi mặt, đổi mới phương thức quản lý, giữ sự tín nhiệm của nhà cung cấp cũng như khách hàng, tạo uy tín cho công ty trên thị trường. - Tăng cường hợp tác, liên kết với các đối tác trong và ngoài nước để phát triển nguồn lực về mọi mặt, đồng thời để khai thác thị trường và các loại hàng hóa khác. - Khai thác và sử dụng tốt các nguồn vốn vay ngắn hạn và dài hạn - Ngoài ra, công ty vẫn nên tiếp tục sử dụng một cách hiệu quả vốn chiếm dụng hợp pháp từ khách hàng. Giải pháp để sử dụng hiệu quả các loại vốn Khi xem xét hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của công ty, ta thấy hiệu quả sử dụng vốn chưa tốt, các chỉ tiêu đều khá thấp và giảm so với năm trước. Để tăng số vòng quay của vốn, suất sinh lời của vốn, của doanh thu…, Ban giám đốc phải có các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ để số lượng hàng hóa bán ra tăng nhưng giá bán không giảm. Công ty cần tích cực tìm kiếm khách hàng, tổ chức nghiên cứu thị trường tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới và các chi nhánh, đại lý trên toàn quốc; tích cực tìm kiếm các nguồn hàng có thể thay thế có giá thành hạ nhưng vẫn đảm bảo chất lượng để tăng cường khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường. - Ngoài ra, công ty cần tích cực hơn trong công tác thu hồi các khoản phải thu để tiếp tục giảm khoản này, tránh tình trạng bị chiếm dụng vốn.. Đối với các khoản phải trả, công ty phải lập kế hoạch trả nợ các nhà cung cấp hàng năm và quản lý chặt chẽ việc thực hiện các khoản phải trả để tạo uy tín và xây dựng mối quan hệ làm ăn tốt đẹp, lâu dài. Để thực hiện các giải pháp này, bộ phận tài chính của công ty phải lập các kế hoạch sát với nhu cầu sản xuất. Mặt khác, phải đảm bảo tính đa dạng và linh hoạt trong lựa chọn nguồn vốn để đảm bảo sử dụng vốn có hiệu quả. Về hệ thống sổ sách, chứng từ kế toán, hạch toán kế toán phải được lập đầy đủ, chính xác, kịp thời, đúng quy định, thúc đẩy nhanh quá trình luân chuyển chứng từ, đặc biệt là từ các đơn vị phụ thuộc và các chi nhánh. Ngoài ra công ty cần tiến hành công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ để phát hiện và xử lý kịp thời các sai phạm, đảm bảo tính chính xác và trung thực cho các BCTC. Ngoài ra công ty cần quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý tài chính nói riêng và quản lý kinh doanh nói chung cho đội ngũ cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý. 3. Giải pháp từ phía nhà nước nhằm hoàn thiện hệ thống BCTC và công tác phân tích tài chính. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiếm khi thực hiện phân tích tài chính. Điều này một phần là do trình độ của kế toán viên chưa cao, chưa hiểu rõ cách thực hiện phân tích tài chính. Vì vậy Bộ Tài chính cần có những văn bản chính thức hướng dẫn phân tích tài chính cho doanh nghiệp, cụ thể là hướng dẫn các bước phân tích, hệ thống chỉ tiêu và phương pháp phân tích, người thực hiện phân tích, cách lập báo cáo phân tích… Với điều kiện và trình độ kế toán Việt Nam, Bộ Tài chính chủ trương dùng hệ thống kế toán thống nhất (hệ thống tài khoản thống nhất, hệ thống báo cáo thống nhất, phương pháp hạch toán thống nhất) là hoàn toàn hợp lý, tuy nhiên đối với công tác phân tích lại chưa thực hiện tốt chủ trương này, biểu hiện là tên gọi và cách tính một số chỉ tiêu chưa thống nhất và gây tranh cãi, tên gọi các chỉ tiêu gây nhầm lẫn hoặc không phản ánh đúng bản chất của chỉ tiêu ( ví dụ chỉ tiêu tính khả năng thanh toán tính theo công thức có nơi gọi là “hệ số khả năng thanh toán hiện hành”, có nơi gọi là “hệ số khả năng thanh toán tổng quát”; tử số của chỉ tiêu “hệ số thanh toán nhanh” được tính bằng nhiều cách khác nhau, có nơi tính là “tiền và các khoản tương đương tiền”, có nơi tính là “tiền, các khoản tương đương tiền và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn”…). Bộ Tài chính cần nghiên cứu để thống nhất hệ thống các chỉ tiêu phân tích nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phân tích tài chính doanh nghiệp cũng như cho việc so sánh giữa các doanh nghiệp, các ngành… với nhau. Hệ thống BCTC hiện nay có quy định 4 báo cáo cho doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp lớn, theo em nên bổ sung một báo cáo bắt buộc nữa là Báo cáo kiểm toán. Việc có báo cáo kiểm toán trong hệ thống BCTC đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất khó thực hiện và cũng không thực sự cần thiết, nhưng đối với các doanh nghiệp lớn là rất hữu ích trong việc duy trì nền kinh tế lành mạnh, quản lý nhà nước cũng như đảm bảo quyền lợi cho người sử dụng thông tin, xa hơn là thu hút đầu tư nước ngoài; đặc biệt trong xu thế cổ phần hóa và việc niêm yết trên thị trường chứng khoán diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Trong điều kiện ngành kiểm toán Việt Nam đang phát triển mạnh cùng với sự ra đời và hoạt động hiệu quả của hàng chục công ty kiểm toán trong và ngoài nước, việc tiến hành kiểm toán độc lập là hoàn toàn có thể thực hiện được đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ áp dụng chế độ báo cáo tài chính riêng, được quy định là lập 6 báo cáo tài chính bắt buộc, so với hệ thống BCTC chung có thêm 2 báo cáo là “Bảng cân đối tài khoản” và “Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước”. Hai báo cáo này tuy đã được quy định rõ là chỉ nộp cho cơ quan thuế, nhưng theo em vẫn không nên gọi là BCTC bắt buộc và liệt kê trong hệ thống BCTC doanh nghiệp vì phạm vi sử dụng quá hẹp. Đặc biệt, trong khi kế toán Việt Nam đang cố gắng vượt xa hơn mục đích kế toán thuế thì việc quy định thêm 2 báo cáo chỉ dùng cho việc theo dõi và giám sát của cơ quan thuế là BCTC bắt buộc, là hoàn toàn không cần thiết. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ từ lâu đã được yêu cầu phải lập đối với tất cả các loại hình và quy mô doanh nghiệp, tuy nhiên trên thực tế rất ít khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ lập báo cáo này. Điều này một phần do trình độ của kế toán viên, một phần do các đơn vị thấy không thực sự cần thiết (ví dụ như các công ty thương mại nhỏ thì hầu như không có hoạt động tài chính và hoạt động đầu tư). Mặt khác, sau khi đã có những thay đổi đáng kể nhằm đơn giản hóa hệ thống BCTC dùng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì BCTCTT vẫn được áp dụng chung theo mẫu dùng cho các doanh nghiệp lớn mặc dù đây có thể coi là BCTC khó lập nhất. Trong khi đó, trên thế giới, ở những nước có nền kế toán phát triển gấp nhiều lần Việt Nam như Đức, Hà Lan thì cũng không yêu cầu lập BCLCTT mà chỉ khuyến khích. Như vậy, tuy việc thiếu có BCLCTT có thể không tính toán được một số chỉ tiêu phân tích tài chính nhưng theo em vẫn không nên quy định BCLCTT là báo cáo bắt buộc đối với mọi doanh nghiệp, nên trừ ra các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thuyết minh BCTC tuy có tính chất hướng dẫn nhiều hơn so với các báo cáo khác vì Bộ Tài chính không yêu cầu trình bày những nội dung doanh nghiệp không có số liệu hoặc thông tin nhưng theo em báo cáo này quy định cho doanh nghiệp lớn thì quá cồng kềnh, còn quy định cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì lại rút gọn đến mức thiếu thông tin. Vì mục đích của báo cáo này là giải trình và bổ sung thông tin nên theo em Bộ Tài chính không nên quy định mẫu cứng nhắc mà chỉ nên quy định những thông tin tối thiểu cần trình bày. 4. Điều kiện thực hiện các giải pháp Hoàn thiện hệ thống BCTC nói riêng và chế độ kế toán nói chung, không phải là việc dễ dàng vì nó đòi hỏi sự kết hợp của nhiều yếu tố, nhiều nỗ lực không chỉ từ phía các cơ quan chức năng liên quan trực tiếp đến tài chính, kế toán. Để hệ thống BCTC hữu hiệu, đáp ứng được các nhu cầu sử dụng thông tin thì các nhà lập pháp, các nhà soạn thảo chế độ, chính sách nên bám sát tình hình thực tế doanh nghiệp hơn nữa. Có thể thực hiện điều này bằng cách cho doanh nghiệp tham gia quá trình soạn thảo hoặc tham khảo ý kiến doanh nghiệp một cách nghiêm túc trước khi ra quyết định. Để “các khoản đầu tư ngắn hạn” thực sự là khoản mục có tính thanh khoản cao, cần tạo lập một thị trường tài chính hoàn hảo để việc chuyển đổi, mua bán diễn ra dễ dàng. KẾT LUẬN BCTC là tài liệu rất hữu ích đối với việc quản trị doanh nghiệp, đồng thời cũng là nguồn thông tin tài chính chủ yếu đối với những người ngoài doanh nghiệp. BCTC không những cho biết tình hình tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo mà còn cho thấy những kết quả hoạt động mà doanh nghiệp đạt được. Phân tích tài chính doanh nghiệp thông qua hệ thống BCTC là cách sử dụng BCTC hiệu quả nhất, vì qua đó giúp cho người sử dụng đánh giá chính xác được sức mạnh tài chính, khả năng sinh lãi và triển vọng của doanh nghiệp. Qúa trình thực tập tại công ty CETT đã giúp em có một cái nhìn sâu sắc hơn về tầm quan trọng của hệ thống BCTC cũng như việc phân tích tài chính. Để có hệ thống BCTC hữu ích và trung thựcđòi hỏi cả bộ máy kế toán phải hoạt động hiệu quả, mặt khác phân tích BCTC cũng phụ thuộc và chất lượng của BCTC, bởi vì nếu việc phân tích dựa trên các thông tin sai lệch thì không có ý nghĩa và cũng không có tác dụng. Do hạn chế về nguồn thông tin nên em mới thực hiện phân tích tài chính của công ty mà chưa so sánh với số liệu của các doanh nghiệp cùng nghành. Thông qua phân tích BCTC em cũng đề xuất một số biện pháp hoàn thiện hệ thống báo cáo cũng như tình hình tài chính của công ty. Tuy nhiên, do thiếu kinh nghiệm thực tế và hạn chế về trình độ nên chắc chắn luận văn này sẽ không tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự góp ý và chỉ dẫn của thầy cô và các cán bộ công ty CETT. Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn TS. Trần Thị Nam Thanh đã nhiệt tình hướng dẫn, và các cán bộ phòng kế toán công ty CETT đã cung cấp số liệu, chỉ dẫn thực tế và tạo điều kiện thuận lợi cho em thực hiện luận văn này. Hà Nội, tháng 4 năm 2006 Sinh viên Trần Thị Thu Hiền

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36433.doc
Tài liệu liên quan