Luận văn Hoàn thiện hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch – Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

Lời mởđầu 1. Tính cấp bách của đề tài: Kể từ khi Pháp lệnh về Ngân hàng ra đời (năm 1990), hệ thống Ngân hàng thương mại Việt nam đãđổi mới một cách căn bản về mô hình tổ chức và hoạt động. Các nghiệp vụ và dịch vụ Ngân hàng thương mại hiện đại đãđược mở rộng và phát triển nhanh chóng, trong đó có nghiệp vụ Thanh toán quốc tế. Là một mắt xích không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, hoạt động thanh toán quốc tế của các Ngân hàng ngày càng chứng tỏ vị trí và vai trò quan trọng của mình. Hoạt động thanh toán quốc tế không chỉđơn giản là lựa chọn một phương thức thanh toán phù hợp hay sử dụng một phương tiện thanh toán thông dụng nào đó. Yêu cầu đặt ra là hoạt động thanh toán quốc tế phải được thực hiện nhanh chóng, an toàn, chính xác vàđạt hiệu quảđối với cả khách hàng và ngân hàng thương mại. Hoạt động thanh toán quốc tế trực tiếp tác động vào việc rút ngắn thời gian chu chuyển vốn, giảm thiểu rủi ro liên quan tới sự biến động tiền tệ, tới khả năng thanh toán của khách hàng, tạo điều kiện cho việc mở rộng và phát triển hoạt động ngoại thương của mỗi nước. Phương thức tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán quốc tế phổ biến nhất. Đó là phương thức giải quyết tốt nhất việc đảm bảo quyền lợi của cả hai bên người mua và người bán, nhưng đồng thời cũng lại là phương thức xảy ra nhiều sự tranh chấp nhất do mức độ phức tạp của nó. Tại Việt Nam, ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là ngân hàng đầu tiên thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng, nhưng tại Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam - một chi nhánh cấp 1 hàng đầu trong hệ thống Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng vẫn không tránh khỏi nhiều hạn chế về cả số lượng và chất lượng khi áp dụng phương thức này. Một mặt do tại bản thân ngân hàng chưa đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng phức tạp của thực tế giao dịch xuất nhập khẩu và sự phát triển của nghiệp vụ, mặt khác cũng do những nguyên nhân từ phía khách hàng và sự bất cập trong quản lý vĩ mô . Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài :“ Hoàn thiện hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch – Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam” làđiều cần thiết để tìm ra những nguyên nhân cũng như các giải pháp, kiến nghị khắc phục những hạn chế trên. 2. Mục đích nghiên cứu. Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ qua các năm với những khó khăn, tồn tại riêng của Sở Giao dịch, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam . 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng thương mại. Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam từ năm 2003 đến nay. 4. Phương pháp nghiên cứu. Luận văn dựa trên lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin, của phép biện chứng duy vật, đồng thời căn cứ vào đường lối chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích thông tin kinh tế theo chỉ tiêu, phương pháp so sánh, tổng hợp, . trên cơ sở các số liệu thống kê của Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam qua các năm 2003-2005 để nghiên cứu. 5. Kết cấu của luận văn. Ngoài Phần mởđầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Phương thức tín dụng chứng từ trong thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng áp dụng phương thức tín dụng chứng từ trong thanh toán quốc tế tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương. Chương 3: Hoàn thiện hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương.

docx97 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1547 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch – Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
âu á (không kể Nhật Bản), Ngân hàng Ngoại thương hiện xếp thứ 127 về vốn chủ sở hữu và thứ 119 tính theo tổng tài sản. Tốc độ tăng trưởng dự kiến của Ngân hàng Ngoại thương trong thời gian tới là 15%/năm. Tuy nhiên khoảng cách giữa Ngân hàng Ngoại thương và 50 ngân hàng lớn nhất châu lục còn khá xa, ngân hàng lớn nhất châu á có quy mô vốn lớn gấp 70 lần so với Ngân hàng Ngoại thương, ngân hàng xếp thứ 50 có quy mô vốn lớn hơn 4 lần. Điều này đòi hỏi Ngân hàng Ngoại thương phải có những giải pháp mạnh hơn nữa trong thời gian tới. Nhiệm vụ chiến lược Cụ thể hoá mục tiêu trên của toàn hệ thống, dựa trên kết quả đạt được trong những năm qua, kết hợp việc phân tích, đánh giá cũng như tìm hiểu dự báo tình hình kinh tế thị trường trong thời gian tới, Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương tập trung triển khai những nhiệm vụ chính sau: Một là, chú trọng công tác huy động vốn, thu hút tiền gửi từ khách hàng, đặc biệt quan tâm nhiều tới tiền gửi của các khách hàng truyền thống, làm ăn có hiệu quả. Quán triệt công tác marketing khách hàng tới từng phòng nghiệp vụ, từng cán bộ, mở rộng có lựa chọn việc cho vay khách hàng với lãi suất ưu đãi và thường xuyên thanh toán qua Sở Giao dịch. Hai là, tích cực thúc đẩy và nâng cao chất lượng công tác huy động tiền gửi tiết kiệm cả ngoại tệ và VND, tập trung thu hút tiền gửi có kỳ hạn và kỳ hạn dài (trên 6 tháng) nhằm ổn định nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh. Rà soát lại hoạt động của các Phòng Giao dịch, mở rộng có chọn lọc mạng lưới các Phòng giao dịch tại các khu vực dân cư đông đúc và giao dịch thuận tiện. Xem xét bổ sung chức năng, nhiệm vụ của từng phòng nghiệp vụ nhằm phục vụ có hiệu quả cao tất cả các đối tượng khách hàng. Chú trọng các giải pháp huy động vốn trung dài hạn nhằm cải thiện tính thanh khoản trong hoạt động kinh doanh. Ba là, tiếp tục mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn, hiệu quả, kết hợp giữ khách hàng truyền thống thuộc thành phần kinh tế quốc doanh và phát triển khách hàng thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tăng tỷ trọng nợ vay của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các khách hàng thể nhân bằng việc cho vay có tài sản đảm bảo. Tập trung cao và quan tâm thích đáng đến việc giải quyết nợ quá hạn, không để nợ quá hạn phát sinh từ các hợp đồng tín dụng mới, kết hợp giải quyết nợ tồn đọng theo để án giải quyết nợ tồn đọng của Ngân hàng Ngoại thương. Bốn là, triển khai thực hiện nghiêm túc các văn bản liên quan đến Quy trình, quy định về nghiệp vụ, đặc biệt quan tâm đến công tác quản trị rủi ro kết hợp hài hoà với quan hệ khách hàng. Chấn chỉnh và thực hiện tốt công tác ngân quỹ, chủ động việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ nghiệp vụ. Tăng cường công tác đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho nhân viên để nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng và khai thác được thế mạnh về công nghệ của Ngân hàng Ngoại thương. Năm là, sử dụng linh hoạt đòn bảy kinh tế như lãi suất, tỷ giá, phí dịch vụ, phí hoa hồng để thu hút khách hàng, kết hợp với việc cải thiện chất lượng dịch vụ và quảng bá rộng rãi sản phẩm của Ngân hàng Ngoại thương. Sáu là, tăng cường công tác quản trị điều hành của Ban Giám đốc Sở Giao dịch, giữ vững và nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong điều hành hoạt động, phát huy tích cực tính năng động sáng tạo trong công việc, tính độc lập tự chủ tại các phòng nghiệp vụ thuộc Sở giao dịch. Bảy là, ổn định tổ chức và lao động của các phòng ban tại Sở Giao dịch, xây dựng cơ cấu hợp lý phù hợp với tình hình hoạt động kinh doanh của Sở Giao dịch trong thời gian tới. Tám là, đổi mới và tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, tăng cường số lượng và chất lượng cán bộ kiểm tra đảm bảo tính hệ thống thống nhất trong kiểm tra. Chín là, trang bị các trang thiết bị cần thiết cho các phòng nghiệp vụ để thuận lợi trong tác nghiệp của các phòng. Định hướng phát triển hoạt động thanh toán quốc tế của Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Hoạt động thanh toán quốc tế ngày càng trở nên quan trọng, gắn bó mật thiết với các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng thương mại. Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam xác định mục tiêu phải giữ vững và tăng cường uy tín trong hoạt động đối ngoại của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế. Mở rộng quan hệ đại lý để tranh thủ vốn, kỹ thuật và đặc biệt là kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Sở Giao dịch cố gắng giữ vững vai trò là ngân hàng hàng đầu về thanh toán quốc tế trong cả nước, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế về thanh toán quốc tế, xác lập điều kiện và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng để hội nhập với cộng đồng tài chính quốc tế. Để cụ thể hoá mục tiêu trên, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã đề ra kế hoạch triển khai bao gồm các nội dung chính sau: (1) Cơ cấu lại các mảng hoạt động thanh toán quốc tế theo mô hình tiên tiến, hiện đại gồm các khối tài trợ thương mại quốc tế, khối trung tâm chuyển tiền, khối định chế tài chính, phù hợp với chiến lược và đề án tái cơ cấu của Ngân hàng Ngoại thương. (2) Từng bước mở rộng hoạt động ngân hàng kể cả hoạt động thanh toán quốc tế tại một số vùng biên giới có tiềm năng về hàng mậu dịch cũng như tại một số trung tâm tài chính quốc tế lớn. Hiện tại Ngân hàng Ngoại thương đã có chi nhánh tại Hồng Kông và đang chuẩn bị thành lập một trung tâm chuyển tiền tại Mỹ. Ngân hàng Ngoại thương cũng đạt ra mục tiêu thành lập chi nhánh tại châu Âu, các chi nhánh này sẽ góp phần mở rộng kinh doanh quốc tế, hỗ trợ kinh doanh xuất nhập khẩu, đầu tư ra nước ngoài cũng như cung cấp các thông tin quan trọng ở các thị trường này cho các doanh nghiệp trong nước. (3) Nâng cao trình độ về thanh toán quốc tế của Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam bắt kịp với các chuẩn mực quốc tế và tập quán ngân hàng quốc tế trong từng lĩnh vực. Định hướng cho việc tập trung phát triển một số nghiệp vụ của ngân hàng quốc tế mà Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã có thế mạnh. (4) Củng cố và không ngừng mở rộng quan hệ đối ngoại với các ngân hàng, tổ chức tín dụng quốc tế kể cả việc mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng khắp các địa lục và vùng lãnh thổ, đặc biệt quan tâm đến khu vực châu Phi và Nam Mỹ nhằm đáp ứng nhu cầu xúc tiến thương mại và đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá dịch vụ của nước ta sang các nước thuộc khu vực này cũng như đáp ứng nhu cầu mở rộng hoạt động đầu tư tài chính quốc tế của Ngân hàng Ngoại thương. Để thực hiện được những mục tiêu trên, Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần hoàn thiện hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng, đưa ra các giải pháp cụ thể, khả thi, đồng thời có những kiến nghị lên Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước cũng như với khách hàng. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM Hoàn thiện văn bản quy định cho việc thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ. Đây là cơ sở để thanh toán viên có thể thực hiện nghiệp vụ một cách thống nhất và chính xác. Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, Ngân hàng Ngoại thương cần bổ sung quy trình thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng theo phương thức chiết khấu miễn truy đòi. Ngoài ra cũng cần phải xem xét trường hợp chiết khấu truy đòi đối với thư tín dụng trả chậm cho khách hàng mà không cần chờ sự chấp nhận của ngân hàng phát hành miễn là bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều khoản và quy định trong thư tín dụng. Quy trình cũng cần bổ sung trường hợp chứng từ có sai sót và thanh toán, thanh toán viên gửi điện từ chối thanh toán cho ngân hàng phát hành, trong nội dung điện nên ghi rõ “Chúng tôi đang giữ bộ chứng từ chờ sự định đoạt và rủi ro thuộc về phía các ông. Chúng tôi sẽ thanh toán cho các ông ngay khi người mua đồng ý mà không cần chỉ thị thêm từ phía các ông”. Điều này để tránh trường hợp bộ chứng từ đã từ chối nhưng sau đó người mua lại chấp nhận thanh toán để nhận bộ chứng từ, trong khi bên người bán lại đã thu xếp để đưa lô hàng đi bán ở nơi khác, khi ấy sẽ xảy ra tranh chấp. Các quy định về điều kiện để xác nhận thư tín dụng cũng rất quan trọng, đó là cơ sở để thanh toán viên quyết định có nên cộng thêm sự cam kết chắc chắn của Sở Giao dịch vào cam kết chắc chắn của ngân hàng phát hành theo yêu cầu và để thực hiện thanh toán trước cho doanh nghiệp xuất khẩu khi họ xuất trình bộ chứng từ phù hợp với các quy định của thư tín dụng. Các điều kiện này bao gồm: ngân hàng phát hành là ngân hàng có quan hệ đại lý với Ngân hàng Ngoại thương, ngân hàng phát hành có uy tín cao, giao dịch thường xuyên với Ngân hàng Ngoại thương và luôn thực hiện tốt các khoản thanh toán, các điều kiện, điều khoản của thư tín dụng là rõ ràng, không có bất cứ điểm nào gây bất lợi cho việc lập và xuất trình chứng từ (tức là khả năng thực hiện thư tín dụng cao). Việc thực hiện nhiều loại thư tín dụng như thư tín dụng chuyển nhượng, thư tín dụng điều khoản đỏ, thư tín dụng tuần hoàn vẫn chưa được hướng dẫn, quy định cụ thể bằng văn bản của Ngân hàng Ngoại thương. Hiện nay nhu cầu của các doanh nghiệp về những loại thư tín dụng này đã phát sinh rất nhiều nhưng trong quy định của Ngân hàng Ngoại thương vẫn chưa có, gây khó khăn cho thanh toán viên khi thực hiện và họ chủ yếu phải dựa vào thông lệ quốc tế cũng như tự đưa ra những phương thức thực hiện, những biện pháp phòng ngừa rủi ro một cách chủ quan. Thực hiện tốt các biện pháp nghiệp vụ Thứ nhất: Đối với thư tín dụng xuất khẩu Đây là phương thức có tính an toàn cao đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, tuy nhiên việc thực hiện theo phương thức này tương đối phức tạp. Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam với vai trò là ngân hàng phục vụ người xuất khẩu cần thiết phải phát triển nghiệp vụ này một cách an toàn và thuận lợi cho khách hàng. Đối với các loại thư tín dụng đang thực hiện thanh toán qua Sở Giao dịch, trong khâu kiểm tra thư tín dụng nhận được, để tạo điều kiện cho việc theo dõi quản lý hoạt động thanh toán xuất cũng như tư vấn cho khách hàng khi cần thiết, ngoài những nội dung Sở Giao dịch bắt buộc phải kiểm tra theo quy định của thông lệ quốc tế, các thanh toán viên nên kiểm tra thêm một số vấn đề thuộc về nội dung của thư tín dụng như: số thư tín dụng, địa điểm mở thư tín dụng là nơi ngân hàng mở cam kết trả tiền cho nhà xuất khẩu, ngày mở thư tín dụng là ngày ngân hàng mở chính thức cam kết trả tiền cho nhà xuất khẩu đồng thời là ngày tính thời hạn hiệu lực của thư tín dụng, từ đó có thể lưu ý khách hàng về sự phù hợp giữa ngày mở thư tín dụng trên thư tín dụng và trên hợp đồng ngoại thương, giữa ngày mở thư tín dụng và ngày giao hàng. Sở Giao dịch cần đề cao vai trò tư vấn cho khách hàng về danh sách các ngân hàng nước ngoài có quan hệ đại lý với Ngân hàng Ngoại thương. Nếu ngân hàng mở không có quan hệ đại lý với Ngân hàng Ngoại thương thì lưu ý khách hàng về uy tín và khả năng thanh toán của ngân hàng đó. Trong trường hợp ngân hàng mở thư tín dụng chỉ định một ngân hàng khác trả tiền thư tín dụng, néu cần thiết Sở Giao dịch tư vấn cho khách hàng có nên đổi ngân hàng trả tiền hay không, hay yêu cầu xác nhận của ngân hàng có uy tín hơn nhất là khi thư tín dụng được phát hành từ ngân hàng ở một quốc gia có nhiểu rủi ro. Trong một vài năm trở lại đây, một số ngân hàng nước ngoài thường mở thư tín dụng trong đó họ dựa vào những điều khoản, mà những điều khoản này tạo cho họ khả năng trốn tránh một phần hoặc toàn bộ trách nhiệm của những lời cam kết mà đáng lý ra họ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Nếu những điều khoản của thư tín dụng để cập việc trả tiền phụ thuộc vào thiện chí cảu một số yếu tố can thiệp khác hay của bản thân người ra lệnh đều dẫn đến những cam kết thanh toán của ngân hàng phát hành thư tín dụng trở nên vô hiệu như phải có sự đồng ý của người ra lệnh, hoặc cảu chính quyền nước nhập khẩu, phải có sự đồng ý trước của Ngân hàng Trung ương về việc cấp ngoại tệ hay việc trả tiền được thực hiện sau khi nhận được tiền từ bên thứ ba nào đó. Thời gian hiệu lực và nơi hêt hạn hiệu lực của thư tín dụng là một trong các yếu tố quan trọng để lưu ý khách hàng xem có thể giao hàng và lập bộ chứng từ kịp thời hạn hay không hoặc để có cơ sở yêu cầu sửa đổi thư tín dụng. Thời gian hiệu lực của thư tín dụng phải đủ để thực hiện các công việc cần thiết liên quan đến quốc tế thanh toán như: thông báo thư tín dụng, giao hàng và lập chứng từ, xuất trình tại ngân hàng nơi hết hạn thư tín dụng. Thanh toán viên cũng cần kiểm tra các quy định về chứng từ cần xuất trình, kiểm tra xem có điều khoản nào gây khó khăn cho người xuất khẩu trong quá trình lập chứng từ hay không. Khi kiểm tra bộ chứng từ hàng xuất, thanh toán viên cần nghiên cứu kỹ các yêu cầu trong thư tín dụng để chỉ dẫn cho khách hàng cách sửa bộ chứng từ cho phù hợp, tránh những trường hợp bị ngân hàng trả tiền từ chối thanh toán với những lý do hoàn toàn có thể khắc phục được trước khi gửi đi ngân hàng nước ngoài. Thứ hai: đối với thư tín dụng nhập khẩu Khi phát hành thư tín dụng loại này, Sở Giao dịch cần đảm bảo các điều kiện, điều khoản chặt chẽ, tránh những điểu khoản gây bất lợi cho ngân hàng và khách hàng hoặc những điều khoản mơ hồ, khó hiểu, dễ gây ra những tranh chấp hoặc dễ bị đối tác nước ngoài lợi dụng. Nếu là thư tín dụng đòi tiền bằng điện thì phải xem xét kỹ lưỡng uy tín của ngân hàng người hưởng vì lúc này chỉ cần nhận được điện xác nhận của ngân hàng người hưởng rằng bộ chứng từ hoàn hảo là ngân hàng đã phải trả tiền trong vòng ba ngày làm việc. Trường hợp nhà nhập khẩu mua hàng theo giá FOB thì Sở Giao dịch nên yêu cầu nhà nhập khẩu cam kết mua bảo hiểm cho lô hàng trước khi tiến hành mở thư tín dụng, đặc biệt là những thư tín dụng mở bằng vốn vay ngân hàng. Một điều quan trọng nữa là Sở Giao dịch luôn phải tuân thủ đúng những quy định của UCP đã dẫn chiếu trong thư tín dụng. Trách nhiệm thanh toán của ngân hàng là rất lớn và rủi ro cao nên khi nhận được bộ chứng từ xuất trình thì nhất thiết Sở Giao dịch phải nhanh chóng kiểm tra chứng từ một cách cẩn thận. Ngoài ra, để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho cả nhà nhập khẩu và ngân hàng, Sở Giao dịch cũng phải luôn giữ mối liên hệ chặt chẽ với người yêu cầu mở thư tín dụng để hạn chế những tranh chấp thương mại. Đây là điều rất cần thiết đối với nghiệp vụ thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ. Ngân hàng có bảy ngày làm việc kể từ ngày nhận được chứng từ để xử lý cũng như xem xét chứng từ. Trong thời gian này ngân hàng phải kiểm tra chứng từ, nếu chứng từ phù hợp với các điều khoản, điều kiện trong thư tín dụng thì phải yêu cầu khách hàng thanh toán ngay. Nếu bộ chứng từ có sai sót, ngân hàng phải thông báo cho nhà nhập khẩu về tình trạng bộ chứng từ để từ đó có thể ra quyết định từ chối hay chấp nhận thanh toán. Trong trường hợp từ chối, ngân hàng phải làm điện từ chối gửi ngân hàng nước ngoài và thông báo một lần toàn bộ lỗi của bộ chứng từ. Điều này là vô cùng quan trọng vì nếu hàng hoá có vấn đề thì có thể trì hoãn thanh toán hoặc buộc người bán phải chịu một phần rủi ro mà không vi phạm UCP. Kết hợp hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu với hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ . Hoạt động ngoại thương ngày càng phát triển do nhu cầu hội nhập với khu vực và trên thế giới dẫn đến hình thức thanh toán quốc tế được mở rộng và đa dạng hơn. Môĩ một hình thức thanh toán đòi hỏi có một hình thức tài trợ về tài chính tương ứng, phục vụ và đảm bảo cho nó. Hoạt động tín dụng xuất nhập thuận lợi bao nhiêu thì quan hệ thương mại được mở rộng và phát triển bấy nhiêu. Chất lượng hoạt động tín dụng mà tốt đẹp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình lưu thông hàng hóa, tăng thêm sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời nâng cao uy tín và vị thế của ngân hàng trên trường trong nước và trường quốc tế. Ở các nước phát triển, tín dụng ngân hàng được thực hiện chủ yếu bởi các ngân hàng thương mại tư nhân lớn, dưới các hình thức như: cầm cố hàng hoá,cần cố chứng từ hàng hoá, hối phiếu và cho vay thấu chi..... và hầu hết tín dụng ngân hàng cấp cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu là tín dụng ngắn hạn. Tín dụng ngân hàng cấp cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu là tín dụng ngắn hạn. Tín dụng ngân hàng có tín ưu việt hơn tín dụng thương mại (là loại tín dụng giữa các doanh nghiệp cấp lẫn nhau cho vay, không có sự tham gia của ngân hàng) bởi vì không có quan hệ với hợp đồng mua bán và do đó, nó tạo khả năng cho người đi vay sử dụng tín dụng để mua bất cứ loại hàng hoá nào. Tín dụng ngân hàng cho hoạt động xuất khẩu gồm 2 loại: tín dụng ngân hàng cấp cho nhà xuất khẩu và tín dụng ngân hàng cấp cho nhà nhập khẩu. Đẩy mạnh hoạt động tín dụng ngân hàng cho xuất khẩu là một trong những giải pháp quan trọng nhằm phát triển hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và chủ yếu là đối với phương thức tín dụng chứng từ tại Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Thứ nhất là tài trợ cho nhà xuất khẩu Trong mấy năm qua, hoạt động xuất nhập của Việt nam mặc dù đã đổi mới và đạt được những thành tựu to lớn thể hiện là kim ngạch xuất khẩu của Việt nam qua các năm tăng nhanh, song mức độ nhập siêu ngày càng lớn, gây bất lợi cho nền kinh tế. Vì vậy, mục tiêu của Đảng và nhà nước trong chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2010 là phải mọi điều kiện thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Giải pháp này cũng góp phần gián tiếp giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, lại vừa tăng được nguồn ngoại tệ nhằm cải thiện cán cân thương mại. Do đó, hoạt động tín dụng ngân hàng cấp cho nhà xuất là giải pháp có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tình hình hiện nay. Sở Giao dịch nên mở rộng cho vay thu mua và cho vay để sản xuất các mặt hàng xuất khẩu. Dựa trên hợp đồng ngoại thương đã ký với khách hàng nước ngoài và căn cứ vào thư tín dụng sẽ được thông báo, Sở Giao dịch sẽ cấp tín dụng để giúp cho doanh nghiệp thuê mua hoặc sản xuất hàng xuất khẩu. Trường hợp mà doanh nghiệp xuất khẩu cam kết thông báo thông báo thư tín dụng xuất và gửi bộ chứng từ thanh toán qua ngân hàng thì sẽ được áp dụng mức lãi suất thấp hơn so với các doanh nghiệp khác. Sở Giao dịch cũng có thể nhận chiết khấu chứng từ với điều kiện là thư tín dụng trả ngay, bộ chứng từ phải hoàn toàn phù hợp với thư tín dụng, khách hàng hoạt động có uy tín, vay trả sòng phẳng, ngoài ra ngân hàng phát hành thư tín dụng cũng là ngân hàng có uy tín, hoạt động tốt, có vị trí nhất định trong giao dịch quốc tế thì ngân hàng có thể mua lại bộ chứng từ đó để giải phóng vốn cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có điều kiện quay vòng vốn nhanh. Thứ hai là tài trợ cho nhà nhập khẩu Trong điều kiện nền kinh tế của ta còn chậm phát triển, điều kiện về cơ sở trang thiết bị máy móc còn nghèo nàn, lạc hậu, để có thể tăng trưởng nhanh, việc vay vốn để nhập khẩu máy móc, thiết bị của nước ngoài là điều kiện cần thiết. Sở Giao dịch nên đẩy mạnh việc cấp tín dụng cho khách hàng mở thư tín dụng hàng nhập khẩu qua Sở Giao dịch. Bởi vì mọi thư tín dụng do ngân hàng mở đều theo đề nghị của nhà nhập khẩu. Tuy nhiên, nhà nhập khẩu không phải lúc nào cũng có đủ số dư trên tài khoản để đảm bảo cho thư tín dụng. Bên cạnh đó, khoảng cách giữa thời gian mở thư tín dụng và thời gian thanh toán là một khoảng thời gian khá dài, nếu ngân hàng phong toả số dư tài khoản của nhà nhập khẩu thì điều này sẽ ảnh hưởng đến khả năng kinh doanh của họ cũng như ảnh hưởng tới quá trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy, doanh nghiệp cần có sự đảm bảo thanh toán của ngân hàng khi mở thư tín dụng . Trong trường hợp này, ngân hàng mở thư tín dụng phải gánh chịu mọi rủi ro khi nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán hoặc không muốn thanh toán khi thư tín dụng đến hạn trả. Như vậy, để tránh những cản trở ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của nhà nhập khẩu, đảm bảo uy tín của Sở Giao dịch và tránh được rủi ro mà Sở Giao dịch phải gắng chịu thì giải pháp hữu hiệu nhất là Sở Giao dịch mở ra loại hình thức cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu theo hạn mức tín dụng. Do đó, trước khi mở thư tín dụng theo đề nghị của nhà nhập khẩu, Sở Giao dịch phải hiểu rõ được mục đích của việc nhập khẩu tức là tính đúng đắn của nó. Sở Giao dịch phải kiểm tra đối tượng nhập khẩu, tính hiệu quả, tính kinh tế của hợp đồng, xem xét khả năng hoạt động và cạnh tranh của nhà nhập khẩu hiện tại và trong tương lai.... Đây là cơ sở để đảm bảo cho việc doanh nghiệp có được vay vốn của ngân hàng hay không. Phát triển hệ thống các Ngân hàng đại lý Việc thiết lập và mở rộng quan hệ đại lý với ngân hàng các nước có ý nghĩa chiến lược trong phát triển nghiệp vụ thanh toán quốc tế ở bất cứ ngân hàng thương mại nào. Đối với những ngân hàng có quan hệ truyền thống với Ngân hàng Ngoại thương, Sở Giao dịch cần củng cố mối quan hệ chặt chẽ, phát triển cùng có lợi thông qua việc tăng cường các cuộc tiếp xúc, trao đổi kinh nghiệm, tổ chức hội thảo chuyên đề vừa để học hỏi các kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, vừa là tạo điều kiện để các ngân hàng đại lý hiểu và đẩy mạnh hợp tác với Ngân hàng Ngoại thương. Ngân hàng Ngoại thương cũng cần rà soát lại các ngân hàng đại lý thông qua việc xây dựng tiêu thức phân loại, đánh giá tín nhiệm ngân hàng đại lý để lựa chọn ra các ngân hàng có uy tín, phục vụ thanh toán an toàn và nhanh chóng, từ đó có chính sách đối ngoại phù hợp, đồng thời tạo cơ sở để tư vấn cho khách hàng. Ngân hàng cũng nên tổ chức mạng lưới thông tin về các ngân hàng đại lý nhanh nhạy thông suốt trong hệ thống Ngân hàng Ngoại thương, thường xuyên tổ chức đúc rút kinh nghiệm trong quan hệ đối ngoại để hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế. Ngoài ra, Ngân hàng Ngoại thương cũng cần mở rộng quan hệ song phương, đa phương với các ngân hàng, các tổ chức tài chính quốc tế, áp dụng các loại hình kinh doanh mới trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế, nâng cao vai trò hoạt động của các công ty tài chính và văn phòng đại diện, xúc tiến thành lập chi nhánh ở nước ngoài, phấn đấu đưa Ngân hàng Ngoại thương lên ngang tầm một ngân hàng tiên tiến trong khu vực, tiến tới hội nhập vào cộng đồng tài chính quốc tế. Khai thác tốt các nguồn ngoại tệ Để đảm bảo nguồn ngoại tệ để thanh toán, Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần đẩy mạnh huy động vốn ngoại tệ, khai thác tốt các nguồn tài trợ, nâng cao chất lượng tín dụng ngoại tệ. Để chủ động được nguồn ngoại tệ phục vụ cho thanh toán thư tín dụng trong điều kiện cung cầu ngoại tệ chưa ổn định, Sở Giao dịch cần đẩy mạnh hơn nữa các hình thức kinh doanh ngoại tệ với các ngân hàng thương mại khác kể cả mua bán giao ngay và mua bán kỳ hạn, tạo mối quan hệ để khi có nhu cầu cấp bách về nguồn thanh toán thư tín dụng thì có thể mua được từ những ngân hàng này. Sở Giao dịch cũng nên đẩy mạnh thu hút vốn ngoại tệ qua các kênh như kiều hối, đại lý thu đổi ngoại tệ, thực hiện tốt nghiệp vụ bảo lãnh quốc tế cho các nhà thầu xây dựng các công trình có vốn tài trợ hoặc có sự tham gia của các đối tác nước ngoài vì tiềm lực ngoại tệ của các đối tác này rất lớn, đây là nguồn lực để Sở Giao dịch đảm bảo cân đối ngoại tệ. Một nguồn ngoại tệ có tính ổn định và chủ động có thể khai thác là từ hoạt động thư tín dụng xuất khẩu. Để có thể phát triển nghiệp vụ này, giảm sự mất cân đối giữa nhập khẩu và xuất khẩu và tạo nguồn ngoại tệ, Sở Giao dịch cần chủ động mở rộng các hình thức cho vay thu mua và sản xuất hàng xuất khẩu. Đối với những đơn vị có thư tín dụng xuất khẩu thông báo qua Sở và cam kết xuất trình chứng từ qua Sở thì có thể xem xét áp dụng lãi suất ưu đãi. Sở cũng cần đẩy mạnh nghiệp vụ chiết khấu miễn truy đòi đối với những bộ chứng từ hoàn hảo và có ngân hàng phát hành là ngân hàng đáng tin cậy, có như vậy mới đảm bảo khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác về nghiệp vụ thanh toán thư tín dụng xuất khẩu. Tăng cường thu hút khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế. Ngân hàng chỉ có thể tồn tại nếu có khách hàng giao dịch và chỉ có thể phát triển các hoạt động của mình nếu có lực lượng khách hàng vững chắc. Lượng và loại hình doanh nghiệp thực hiện thanh toán qua Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương là một trong những mặt dùng để đánh giá quy mô hoạt động của ngân hàng. Vì vậy để tăng lượng và đa dạng hoá đối tượng khách hàng thực hiện thanh toán qua Sở Giao dịch, Sở cần phải thực hiện tốt chính sách khách hàng. Đối với khách hàng thường xuyên thực hiện thanh toán Thư tín dụng qua Sở Giao dịch, Sở phải thường xuyên tiếp xúc khách hàng để tìm hiểu các yêu cầu của họ đối với ngân hàng. Việc này được tiến hành thông qua tổ chức hội nghị khách hàng hàng năm, định kỳ hàng tháng, hàng quý để thu thập ý kiến của khách hàng. Hàng năm, Sở cũng cần thực hiện nghiêm túc việc đánh giá hoạt động giao dịch của khách hàng tại Sở, nội dung đánh giá bao gồm: kinh ngạch thanh toán Thư tín dụng qua Sở, mặt hàng, thị trường thanh toán, tình hình xin vay tài trợ và việc thực hiện các nghĩa vụ, các thiếu sót chủ yếu trong quá trình thanh toán. Bên cạnh đó Sở cũng có thể đánh giá thêm về tình hình sản xuất kinh doanh hiện tại và hướng phát triển trong tương lai để dự đoán nhu cầu của doanh nghiệp trong lĩnh vực thanh toán. Sở cũng nên phân loại khách hàng thành các đối tượng khác nhau. Với những khách hàng lớn là những doanh nghiệp thường xuyên thanh toán qua Sở Giao dịch với tổng kim ngạch cao cần có những ưu tiên trong việc thanh toán như coi họ là đối tượng đầu tiên để cung cấp các dịch vụ thanh toán mới (như ngân hàng điện tử, quản lý tài khoản qua mạng...), ưu tiên việc kiểm tra chứng từ, tư vấn thương mại miễn phí. Đối với những khách hàng thường xuyên thực hiện giao dịch qua Sở Giao dịch nhưng kim ngạch thấp hơn nhóm khách hàng lớn thì cần cũng có những ưu tiên nhất định trong thực hiện thanh toán. Còn với những doanh nghiệp không thường xuyên giao dịch qua Sở và kim ngạch cũng không lớn thì có thể áp dụng những chế độ ưu đãi một cách linh hoạt, phục vụ tốt nhất các yêu cầu của họ, đồng thời chỉ rõ lợi ích mà họ sẽ nhận được khi thực hiện thanh toán với Sở Giao dịch so với thực hiện ở các ngân hàng khác. Sở Giao dịch cũng có thể ban hành và đưa đến tận tay các doanh nghiệp các tài liệu hướng dẫn về nghiệp vụ cũng như các thủ tục cần thiết khi thực hiện giao dịch Thư tín dụng, giúp doanh nghiệp có được hiểu biết sâu hơn về hoạt động này, cung cấp cho họ thông tin về thị trường, vè ngân hàng nước ngoài và nếu có thể cả về khách hàng của họ, đặc biệt là các doanh nghiệp có quan hệ làm ăn với Việt Nam. Sở cũng cần chú trọng hơn việc giúp đỡ khách hàng nhập khẩu trong việc sửa đổi hợp đồng, soạn thảo thư tín dụng, giúp đỡ khách hàng xuất khẩu trong việc kiểm tra các điều khoản của Thư tín dụng nhận được, kiểm tra và lập bộ chứng từ hoàn chỉnh trước khi gửi đi nước ngoài để đòi thanh toán. Đối với những doanh nghiệp chưa thực hiện thanh toán hoặc đã thôi không thực hiện giao dịch với Sở Giao dịch, Sở cần áp dụng các hình thức quảng cáo thu hút các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thuộc mọi thành phần kinh tế thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc gặp trực tiếp để giới thiệu các dịch vụ thanh toán của ngân hàng hoặc mời họ đến dự hội nghị khách hàng hàng năm. Sở có thể tìm hiểu thông tin về ngân hàng mà khách hàng cũ của Sở Giao dịch hiện đang thực hiện thanh toán Thư tín dụng, tìm hiểu các loại hình dịch vụ thanh toán mà họ cung cấp, cách thức cung cấp chế độ phí, hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu, tiềm lực tài chính và uy tín..., để từ đó tìm ra những nguyên nhân dẫn đến việc doanh nghiệp ngừng giao dịch với Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương. Trong khi giao dịch với khách hàng, các thanh toán viên cần giữ thái độ cởi mở, nhiệt tình, tận tình hướng dẫn, có tinh thần trách nhiệm khi phục vụ và giao tiếp với khách hàng, từ đó nâng cao hình ảnh của Sở Giao dịch trong lòng khách hàng, tạo sự trung thành của doanh nghiệp với Sở Giao dịch. Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ thanh toán. Trình độ của đội ngũ cán bộ thanh toán quốc tế có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của công tác thanh toán quốc tế nói chung và theo hình thức tín dụng chứng từ nói riêng. Tuy nhiên trên thực tế trình độ của cán bộ thanh toán quốc tế của các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được đòi hỏi của hoạt động thương mại quốc tế trong điều kiện cạnh tranh gay gắt. Muốn thực hiện được nghiệp vụ thanh toán quốc tế, các ngân hàng phải có đội ngũ cán bộ được đào tạo tốt về nghiệp vụ, sử dụng thành thạo ngoại ngữ, am hiểu luật cũng như các tập quán quốc tế. Do vậy, trước hết Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần chú trọng công tác tuyển dụng những người có trình độ chuyên môn,, ngoại ngữ, vi tính, những người có khả năng, năng động, nhiệt tình. Tuy nhiên năng lực của đội ngũ cán bộ thanh toán sẽ không thể được phát huy nếu không gắn kết quả đào tạo và tuyển dụng với việc bố trí, sử dụng cán bộ đúng người, đúng việc, mạnh dạn phân công những vị trí lãnh đạo cho những người trẻ tuổi và có tài năng. Sở cũng cần thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo nghiệp vụ để bổ sung kiến thức về thương mại quốc tế như về rủi ro mà các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam thường gặp phải, tình hình thị trường thế giới và triển vọng của các doanh nghiệp Việt Nam, phổ biến các kỹ thuật thanh toán thư tín dụng mới áp dụng trên thế giới. Về lâu dài, Sở có thể phối hợp với các trường và các trung tâm đào tạo trong và ngoài nước để gửi cán bộ đi học về chuyên môn, ngoại ngữ và các nghiệp vụ chuyên sâu khác. Sở Giao dịch nên chú trọng đổi mới nhận thức của đội ngũ cán bộ thanh toán về chính sách khách hàng, khuyến khích họ tăng cường tìm hiểu các khách hàng mà họ phục vụ về tình hình tài chính, uy tín cũng như các nhu cầu của khách hàng khi giao dịch với Sở. Một điểm quan trọng nữa là Sở Giao dịch phải có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với những cán bộ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, hoàn thành tốt công việc được giao, có nhiều sáng tạo, tích cực xông xáo thu hút nhiều khách hàng mới về giao dịch, đồng thời có chế độ kỷ luật, chuyển công tác với những cán bộ ý thức kỷ luật kém, có hành vi vi phạm đạo đức, chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao, gây ra sai sót làm ảnh hưởng đến hoạt động của Sở. Những giải pháp đó sẽ góp phần động viên và phát huy hết khả năng làm việc của những cán bộ có năng lực. Hoàn thiện và đổi mới công nghệ thanh toán. Cải thiện và nâng cao trình độ tự động hoá trong quy trình công nghệ ngân hàng là một trong những điều kiện tốt để quản lý vốn tập trung, tăng cường hơn nữa sự hoà nhập của hệ thống ngân hàng Việt Nam vào thị trường tài chính tiền tệ thế giới. Để đáp ứng được yêu cầu công nghệ, trước hết Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương cần tận dụng tối đa công suất của hệ thống máy móc hiện có, tiến tới giảm bớt các công việc giấy tờ bằng cách chuyển toàn bộ việc nhận, lập, phân loại, chuyển và quản lý các loại điện, thư sử dụng trong quá trình thanh toán sang thực hiện trên hệ thống máy vi tính và thông qua mạng máy tính. Sở có thể chỉnh sửa và hoàn thiện các chương trình phần mềm phục vụ công tác thanh toán quốc tế nói chung và theo hình thức tín dụng chứng từ nói riêng bằng cách chuyển các chương trình thanh toán được viết bằng ngôn ngữ FOXPRO sang loại ngôn ngữ lập trình mạnh hơn như VISUAL BASIC hoặc sử dụng hệ quản trị cơ sở dữ liệu Access trong Microsoft Office. Các chương trình này tạo ra được các mẫu điện chuẩn phù hợp với mỗi phương thức thanh toán và với thông lệ quốc tế, phải có tính kết nối lẫn nhau và kết nối với các chi nhánh khác trong nước, với Hội sở chính và các ngân hàng đại lý trên thế giới, trên cơ sở đó cho phép xây dựng, chuẩn hoá và phát triển hệ thống thông tin khách hàng tập trung trong toàn hệ thống, hệ thống quản lý mối quan hệ ngân hàng – khách hàng, tạo khả năng giao diện kết nối với các thị trường tài chính trong và ngoài nước. Sở Giao dịch cũng nên đa dạng hoá các kênh phân phối dịch vụ như bổ sung các dịch vụ thanh toán trên trang Web của Ngân hàng Ngoại thương như: thông báo Thư tín dụng, báo có, gửi yêu cầu mở thư tín dụng, chấp nhận thanh toán, quản lý tài khoản của doanh nghiệp, tiến tới giao dịch với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong cả nước thông qua mạng Internet. Sở cần nâng cao khả năng quản lý rủi ro thanh toán quốc tế thông qua xây dựng các Modul quản lý rủi ro trên cơ sở phân loại các rủi ro theo thứ tự ưu tiên khác nhau như: rủi ro bất khả kháng, rủi ro quốc gia người phát hành Thư tín dụng, rủi ro về hoạt động lừa đảo, giả mạo chứng từ... Sở nên thường xuyên nâng cấp và mua mới các trang thiết bị phục vụ thực hiện công tác thanh toán (chủ yếu là máy vi tính hiện đại có tốc độ xử lý công việc nhanh), xây dựng hệ thống mạng diện rộng và mạng cục bộ, phát triển các hình thức và phương tiện an toàn bảo mật cơ sở dữ liệu, xây dựng kho dữ liệu đa chiều nhằm hỗ trợ cho ứng dụng quản lý thông tin và ra các quyết định điều hành kinh doanh một cách chính xác, nhanh chóng. Trên đây là những giải pháp mà Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương trong chiến lược tăng trưởng và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của mình phải hết sức quan tâm. Tuy nhiên, để hoàn thiện và phát triển hoạt động đó, Sở Giao dịch không thể chỉ thực hiện một số giải pháp nhất định mà phải thực hiện đồng bộ các giải pháp đó, có như vậy mới đưa ngân hàng đi lên và hội nhập cùng với sự phát triển của đất nước. Bên cạnh đó, Sở cũng cần có những đề xuất kiến nghị lên các cơ quan quản lý Nhà nước, lên Ngân hàng Nhà nước cũng như tới khách hàng để được tạo điều kiện, có được sự hỗ trợ kịp thời trong hoạt động của mình. ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ 3.3.1 Kiến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nước. Sự đổi mới hoạt động của ngân hàng nói chung và lĩnh vực thanh toán nói riêng không thể tách rời cơ chế, chính sách của Đảng và nhà nước. Trong thời gian qua, nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường như: luật thương mại, luật đầu tư nước ngoài, luật dân sự, luật các tổ chức tín dụng... Tuy nhiên, còn nhiều lĩnh vực chưa có văn bản hoặc đã ban hành từ lâu đến nay không còn phù hợp, nhiều văn bản được bổ xung và sửa đổi nhiều lần nên việc thực thi và áp dụng rất khó, đặc biệt là chưa có văn bản pháp luật nào liên quan đến hoạt động thanh toán quốc tế. Vì vậy, để tạo môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng, Nhà nước cần phải: Thứ nhất: tiếp tục bổ sung và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật: Chính sách ngoại hối là một công cụ đắc lực cho việc thực hiện chính sách tiền tệ. Bởi vì, thông qua các chính sách quản lý ngoại tệ, quản lý tiền bạc, tiền hối điều hành tỷ giá..... chính sách quản lý ngoại hối tác động đến chính sách huy động vốn trong nước và nước ngoài, đến hoạt động xuất nhập khẩu của nền kinh tế, vì vậy nó ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động thanh toán quốc tế. Năm 1998, Nhà nước đã ban hành điều lệ quản lý ngoại hối song đến nay còn có nhiều điểm chưa phù hợp mặc dù nó đã được sửa đổi và bổ sung nhiều lần. Đồng thời do nhiều cấp, nhiều ngành cùng quy định một lĩnh vực nên không tránh khỏi sự chồng chéo, mâu thuẫn và việc áp dụng nhiều khi phải dẫn chiếu từ nhiều nguồn. Vì vậy, việc ban hành luật ngoại hối là việc làm rất cần thiết, có như vậy mới tạo lập được môi trường pháp lý đầy đủ, làm cơ sở cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế. Hiện nay, các văn bản mang tính chất thông lệ quốc tế rất nhiều như: quy tắc và thực hành thống nhất về thư tín dụng do văn phòng thương mại quốc tế ban hành năm 1933, 1962, 1974, 1983...và văn bản mới nhất là bản sửa đổi ban hành năm 1993, gọi tắt là UCP500. Về lý thuyết, việc vận dụng UCP500 tại nước ta gần như tuyệt đối mà không bị bất cứ sự điều chỉnh nào, đây là nét đặc thù của Việt nam. Trong khi đó mọi quốc gia khác đều có những luật hoặc các văn bản dưới luật quy định về giao dịch tín dụng chứng từ trên cơ sở thông lệ quốc tế có tính đến đặc thù của sự phát triển kinh tế và tập quán của nước họ. Các văn bản như vậy là rất cần thiết không chỉ đối với ngành ngân hàng mà còn là cơ sở để toà án trọng tài áp dụng khi xét xử các vụ tranh chấp giữa các đối tác trong giao dịch tín dụng. Hơn nữa UCP500 còn có những hạn chế nhất định bởi vì nó không thể bao quát tất cả các giao dịch vô cùng phong phú của thực tiễn, không thể thay thế luật của một quốc gia. Chính vì thế, các ngân hàng tại Việt nam đã vận dụng tốt đẹp UCP500 và các thông lệ quốc tế khác vào giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu nhưng kết quả thực tế lại không như họ mong muốn. Vì vậy, để giải quyết những bất đồng giữa thông lệ quốc tế và tập quán quốc gia, tránh được những tranh chấp rủi ro phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế nhằm tạo hành lang pháp lý cho mọi hoạt động, nhà nước ta cần nghiên cứu và sớm ban hành các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng. Trong những văn bản này cần quy định rõ ràng quyền lợi và trách nhiệm giữa các chủ thể tham gia như quyền lợi và trách nhiệm giữa các chủ thể tham gia như quyền được nhận hàng của ngân hàng phát hành thư tín dụng khi người nhập khẩu vay vốn của ngân hàng để nhập lô hàng đó bị phá sản, quyền được miễn trừ trách nhiệm thanh toán của ngân hàng phát hành khi có dấu hiệu tranh chấp thương mại và đã được toà án hay trọng tài tuyên bố ngừng thanh toán. Điều này là cần thiết để bảo vệ ngân hàng và là điều mà các toà án nhiều nước trên thế giới thường làm. Về bản chất thư tín dụng là những giao dịch riêng biệt với hợp đồng thương mại và các hợp đồng khác, các hợp đồng này có thể làm cơ sở để hình thành thư tín dụng nhưng các ngân hàng bất luận trong trường hợp nào cũng không liên quan đến hoặc không hề bị ràng buộc bởi hợp đồng. Do vậy, Chính phủ cần sớm ban hành văn bản pháp lý cho giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ. Có thể là một Nghị định về thanh toán quốc tế đề cập đến mối quan hệ pháp lý giữa giao dịch hợp đồng ngoại thương giữa người mua, người bán với giao dịch chứng từ giữa các ngân hàng. Việt Nam đã có quy chế về chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu, tín phiếu… nhưng chưa có quy định về chiết khấu hối phiếu kèm chứng từ theo thư tín dụng. Do đó trong thời gian tới cần thiết phải có những văn bản pháp luật phân định rõ quyền lợi, nghĩa vụ của ngân hàng chiết khấu cũng như người hưởng lợi. Thứ hai: Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để thích ứng với thời cuộc. Để giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa các nước đang phát triển cần tạo ra lợi thế so sánh bằng một trường đầu tư hấp dẫn hơn các nước khác. Đây phải là công việc thường xuyên của hoạt động quản lý nhà nước, chứ không phải chỉ là một vài sửa đổi nhất thời. Do vậy, mặc dù luật đầu tư mới sửa đổi vào năm 1996, nhưng trên cơ sở tổng kết 10 năm hoạt động đầu tư nước ngoài ở nước ta, đồng thời tham khảo thêm những thay đổi luật của các nước xung quanh, ta nên tính đến việc sửa đổi và bổ sung luật đầu tư nước ngoài, đưa thêm các hình thức đầu tư mà ta chưa áp dụng như: cho lập công ty trước khi lập dự án, cho người nước ngoài mua cổ phần của các doanh nghiệp Việt nam với một mức độ giới hạn, cho xí nghiệp nước ngoài được phát hành cổ phiếu..... cũng như điều chỉnh một số sắc thuế và bổ sung một số ưu đãi để khuyến khích đầu tư. Bên cạnh việc ban hành pháp luật, cần phải nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật trong kinh tế và xã hội, đặc biệt là kiện toàn hệ thống cơ quan bảo vệ pháp luật, xử lý nghiêm minh các hành động vi phạm vi phạm pháp luật, tạo ra bước tiến rõ rệt trong xây dựng một nhà nước pháp quyền và một nền kinh tế thị trường hoạt động theo pháp luật. Thứ ba: Thực hiện cải cách các chính sách kinh tế đối ngoại nhằm mở cửa và hợp tác kinh tế với nước ngoài. Trong thời gian qua, cán cân thương mại quốc tế ở Việt nam luôn trong tình trạng thâm thụt, mức độ thâm thụt ngày càng lớn mặc dù một phần là do đầu tư nước ngoài. Để cải thiện cán cân thương mại quốc tế thì giải pháp là đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, quản lý chặt chẽ hoạt động nhập khẩu phục vụ cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, sản phẩm xuất khẩu của chúng ta còn nghèo nàn lại chủ yếu là sản phẩm chưa qua chế biến, muốn đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu ta phải đẩy mạnh hoạt động thương mại với những thị trường lớn như: Mỹ, Tây âu, Nhật bản, Trung quốc, ASEAN....từng bước tham gia vào tổ chức kinh tế thương mại Châu á Thái bình dương và tổ chức thương mại thế giới. Bên cạnh đó, nước ta cần khai thác có hiệu quả tiềm năng về tài nguyên, sức lao động để cải tiến cơ cấu hàng xuất khẩu cho phù hợp với nhu cầu thế giới, tăng số lượng các mặt hàng gia công chế biến, giảm tỷ trọng sản phẩm thô, mở rộng thêm nhiều mặt hàng, đầu tư thích đáng vào những mặt hàng ta có ưu thế như: gạo, cao su, cà phê, dầu mỏ... Ngoài ra, ta cần chú trọng công tác điều tra, nghiên cứu nhu cầu thị trường của các nước để có những cải tiến các mặt hàng xuất khẩu phù hợp với từng thị trường cụ thể, mở rộng các hình thức gia công sản phẩm cho nước ngoài bằng nguyên liệu của chính mình và có chính sách bảo hộ sản xuất trong nước thông qua việc cấp giấy phép hàng nhập khẩu, quản lý bằng hạn ngạch, bằng công cụ thuế quan, tăng cường biện pháp chống buôn lậu nhằm bảo hộ lợi ích cho các nhà buôn sản xuất thực hiện cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Bên cạnh cải cách chính sách chế độ về xuất nhập khẩu, nhà nước cần có biện pháp đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài và quản lý chặt chẽ vay nợ nước ngoài. Bởi vì, với điều kiện nền kinh tế nước ta còn nghèo, tích luỹ nội bộ trong nước thấp nên cần phải thúc đẩy thu hút vốn đầu tư nước ngoài mới thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Song song với việc đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài thì việc quản lý nợ vay cũng cần phải được quan tâm một cách thích hợp; Một là để nâng cao hiệu quả vốn vay; Hai là, giữ được nợ nước ngoài trong một tỷ lệ tương ứng với năng lực trả nợ của đất nước. Vì thế, cần phải có sự kết hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp trong việc thu hút vốn đầu tư và sử dụng nó một cách có hiệu quả nhất. 3.3.2 Đối với Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng nhà nước nên nghiên cứu việc định tỷ giá mua bán ngoại tệ cho phù hợp với thị trường, tránh tình trạng đồng Việt nam được đánh giá cao hơn giá trị của nó; loại trừ các yếu tố đầu cơ nâng giá, ép giá làm tỷ giá biến động sai với thực tế của nó; tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các tổ chức tín dụng và khuyến khích việc xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp xuất khẩu. Trong khi dự trữ ngoại tệ còn ít ỏi thì Ngân hàng nhà nước phải tăng cường dự trữ ngoại tệ, đảm bảo điều tiết được quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường, ổn định được đồng Việt nam, thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ. Ngân hàng Nhà nước nên mở rộng đối tượng tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng như Ngân hàng Trung ương, các ngân hàng thương mại, những người môi giới… nhằm tạo cho thị trường hoạt động với tỉ giá chuẩn hơn, sát thực tế hơn, đồng thời phát triển các nghiệp vụ trên thị trường như vay mượn qua đêm, mua bán ngoại tệ kỳ hạn, hoán đổi ngoại tệ, quyền mua, quyền bán. Chỉ khi thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường hối đoái phát triển mới đảm bảo có được một tỉ giá linh hoạt hợp lý, góp phần kích thích kinh tế thị trường phát triển, khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, góp phần mở rộng sản xuất trong nước. Để thực thi có hiệu quả quy chế hiện hành về quản lý ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước cần có những văn bản quy định trách nhiệm, kiểm tra tính pháp lý của các chứng từ trước khi chuyển tiền ra nước ngoài thanh toán cho bên xuất khẩu. Vì hiện nay trong thanh toán xuất nhập khẩu, các ngân hàng không được hướng dẫn cụ thể việc kiểm tra giấy tờ pháp lý như Quyết định thành lập doanh nghiệp, Đăng ký kinh doanh, Quyết định bố nhiệm giám đốc của khách hàng khi phát hành thư tín dụng dẫn tới việc chấp hành quy định này của các ngân hàng thương mại là khác nhau, vì vậy hậu quả tất yếu là sẽ bị khách hàng lợi dụng để sử dụng một giấy phép nhập khẩu hoặc một hợp đồng thương mại nhưng mang tới nhiều ngân hàng khác nhau mở thư tín dụng với những mục đích thiếu trung thực trong kinh doanh. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng cần rà soát lại các văn bản, xoá bỏ tình trạng văn bản chồng chéo, thiếu đồng bộ, không phù hợp với thực tế, nâng cao hoạt động thanh tra và công tác quản lý của ngân hàng nhà nước, kiên quyết sử lý những sai phạm, phối hợp với các ban ngành có liên quan và có giải pháp đồng bộ, đặc biệt khi luật ngân hàng ra đời rồi thì cần sớm ban hành đẩy đủ các văn bản hướng dẫn thi hành luật Ngân hàng. 3.3.3 Đối với khách hàng Các doanh nghiệp cần củng cố, nâng cao trình độ nghiệp vụ ngoại thương và thanh toán quốc tế. Doanh nghiệp nên bố trí đội ngũ cán bộ thông thạo nghiệp vụ ngoại thương, trình độ pháp lý trong thương mại quốc tế làm công tác xuất nhập khẩu. Cụ thể, phải nắm vững nội dung chủ yếu của UCP và các thông lệ quốc tế khác để hiểu rằng hợp đồng ngoại thương và Thư tín dụng, chứng từ và hàng hoá là độc lập với nhau. Việc nâng cao kỹ năng trong việc lập chứng từ và kiểm tra nội dung Thư tín dụng là hết sức quan trọng. Các doanh nghiệp nên chủ động nắm bắt thời cơ, thận trọng khi đàm phán ký kết hợp đồng sao cho hợp đồng phải cụ thể, chính xác, rõ ràng, đầy đủ các điều khoản, nêu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên, phạm vi và đối tượng xử lý khi có tranh chấp xảy ra, tránh những từ ngữ mập mờ, khó hiểu, gây bất lợi sau này. Để làm được điều này, các doanh nghiệp nên thường xuyên cử cán bộ tham gia các lớp huấn luyện về xuất nhập khẩu và thanh toán quốc tế do các trường Đại học, các ngân hàng thương mại tổ chức. Ngoài ra, mỗi doanh nghiệp nên có một bộ phận pháp chế hoặc sử dụng tư vấn pháp lý để tránh được các bất đồng hoặc tranh chấp có thể xảy ra trong kinh doanh và trong thanh toán. Nghiên cứu tìm hiểu kỹ thị trường để lựa chọn đúng bạn hàng. Trong xu thế mở rộng giao lưu, buôn bán với nước ngoài, doanh nghiệp không chỉ bó hẹp trong phạm vi mối quan hệ với những bạn hàng truyền thống mà phải mở rộng quan hệ ra bên ngoài. Tự bản thân doanh nghiệp không thể nắm vững được khả năng tài chính cũng như tình hình hoạt động kinh doanh của đối tác, thậm chí nhiều khi hợp đồng được ký kết thông qua các hoạt động quảng cáo hoặc do khách hàng khách giới thiệu nên dễ xảy ra rủi ro. Doanh nghiệp có thể thông qua Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Trung tâm thông tin tín dụng thuộc Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng phục vụ mình, các tổ chức của Việt Nam ở nước ngoài để nắm bắt thông tin, tìm hiểu đối tác. Các doanh nghiệp cũng cần trung thực trong các mối quan hệ làm ăn với bạn hàng và với ngân hàng, tranh thủ sự tư vấn của ngân hàng. Trong quan hệ với đối tác nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam cần tuân thủ theo đúng các thông lệ quốc tế, không nên vì mối quan hệ trước mắt mà đánh mất uy tín của bản thân doanh nghiệp và của các ngân hàng Việt Nam, luôn có thái độ hợp tác với ngân hàng trong việc tìm ra các biện pháp tháo gỡ khi có rủi ro xảy ra, không nên đặt hết trách nhiệm cho ngân hàng. Từ khi ký kết hợp đồng đến khi thanh toán cần tranh thủ sự tư vấn của ngân hàng để nắm bắt thông tin và có lựa chọn đúng đắn về thời gian thanh toán, tránh điều khoản bất lợi, qua đó còn tranh thủ được sự hỗ trợ về vốn của ngân hàng. Kết luận Trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự cạnh tranh diễn ra gay gắt giữa các ngân hàng thương mại Việt Nam, giữa ngân hàng Việt Nam và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương đã tìm ra cho mình một số giải pháp, hướng đi mới để thu hút khách hàng, mở rộng các loại hình hoạt động thanh toán quốc tế, khẳng định vị thế là một chi nhánh ngân hàng thương mại quốc doanh đứng hàng đầu trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, trên cơ sở đó, mở rộng các loại hình nghiệp vụ liên quan như tài trợ xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại tệ.... Trong khuôn khổ của một luận văn, tác giả đã tập trung vào một số vấn đề chủ yếu sau: Hệ thống hoá những lý luận cơ bản như: cơ sở hình thành, đặc điểm cơ bản của hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng của một ngân hàng thương mại. Đồng thời, luận văn cũng chú ý tới bối cảnh thực tiễn của nền kinh tế và những tác động tích cực, tiêu cực của nó tới hoạt động trên của ngân hàng. Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, trên cơ sở những đánh giá, phân tích, tác giả đã chỉ ra được những nguyên nhân khách quan, chủ quan giải thích cho những mặt tích cực hay những hạn chế còn tồn tại trong hoạt động này. Trên cơ sở những nguyên nhân hạn chế hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương , đồng thời có xem xét đến định hướng phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại chung của Việt Nam, định hướng phát triển hoạt động kinh doanh chung của Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương , tác giả đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp đối với hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ như các giải pháp về nghiệp vụ, đẩy mạnh hoạt động tài trợ thương mại, chú trọng công tác khách hàng, phát triển quan hệ ngân hàng đại lý... Ngoài ra, trên cơ sở nghiên cứu học tập và thực tiễn công tác, tác giả cũng mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị với các cơ quan quản lý Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước và với các khách hàng của Sở Giao dịch nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng. Một số những kiến nghị quan trọng nhất là hoàn thiện cơ chế chính sách đồng bộ về hoạt động ngân hàng, thường xuyên điều chỉnh kịp thời quy trình thanh toán quốc tế vì đây là nền tảng pháp lý cho hoạt động của ngân hàng. Hoàn thiện hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương đã trở thành một yêu cầu khách quan, đòi hỏi từng cán bộ giao dịch cũng như ban lãnh đạo ngân hàng phải thường xuyên tìm kiếm giải pháp, nghiên cứu. Tác giả mong rằng, trong khuôn khổ nhất định của luận văn, dù thời gian nghiên cứu bị hạn chế, những suy nghĩ, giải pháp của mình sẽ góp phần đưa Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương đạt được những thành tựu mới, hoạt động ngày một hiệu quả hơn, xây dựng được thương hiệu riêng trên địa bàn với những diễn biến kinh tế sôi động như thủ đô Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxNH126.docx
Tài liệu liên quan